Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

CD_ Nâng cao chất lượng cho vay đối với DNXL tại NHTMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (744.12 KB, 87 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN NGÂN HÀNG – TÀI CHÍNH
------------

CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Đề tài:
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP XÂY LẮP TẠI NGÂN HÀNG TMCP ĐẦU TƯ VÀ
PHÁT TRIỂN VIỆT NAM CHI NHÁNH HÀ NỘI

Giáo viên hướng dẫn
Sinh viên thực hiện
Mã sinh viên
Lớp

: TS. LÊ THANH TÂM
: LÊ THỊ VIỆT HÀ
: CQ520938
: TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 52C

HÀ NỘI, 12/2013


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm

MỤC LỤC
PHỤ LỤC




Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm

DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BIDV Hà Nội

Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Hà Nội

DPRRTD

Dự phòng rủi ro tín dụng

DNXL

Doanh nghiệp xây lắp

GD

Giao dịch

KHDN


Khách hàng doanh nghiệp

KHCN

Khách hàng cá nhân

KHTH

Kế hoạch tổng hợp

NV Thẻ

Nghiệp vụ Thẻ

NHTM

Ngân hàng thương mại

NHNN

Ngân hàng Nhà nước

P

Phòng

PGD

Phòng giao dịch


QHKH

Quan hệ khách hàng

QLRR

Quản lý rủi ro

QTTD

Quản trị tín dụng

QLKQ

Quản lý kho quỹ

Quỹ TK

Quỹ tiết kiệm

TCKT

Tài chính kế toán

TCNS

Tổ chức nhân sự

TMCP


Thương mại cổ phần

TCTD

Tổ chức tín dụng

XDCB

Xây dựng cơ bản


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bước vào năm 2013, nền kinh tế Việt Nam vẫn đang ở trong giai đoạn khủng
hoảng với lượng hàng tồn kho lớn dẫn đến tình trạng vỡ nợ và phá sản hàng loạt của
các doanh nghiệp1. Điều này gây ra những trở ngại rất lớn cho kinh tế - xã hội nói
chung và sự phát triển của hệ thống ngân hàng nói riêng. Có thể nói trong giai đoạn
hiện nay, đa số các ngân hàng đang ở trong tình trạng “trường” vốn, áp lực kinh
doanh đang đặt nặng vào đầu ra, chính là hoạt động cho vay. Thu nhập của các
Ngân hàng thương mại đến chủ yếu từ cho vay nên trong bối cảnh khó khăn của nền
kinh tế thì để đảm bảo mức doanh lợi kì vọng, các ngân hàng phải tiếp tục nâng cao
chất lượng cho vay.
BIDV Hà Nội là chi nhánh lâu đời nhất của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam. Qua chặng đường 55 năm xây dựng và trưởng thành, BIDV Hà Nội luôn
là một trong những chi nhánh hàng đầu của hệ thống, hoạt động an toàn hiệu quả và
đóng góp những đóng góp không nhỏ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.

Doanh nghiệp xây lắp từ lâu đã là khách hàng truyền thống của BIDV Hà
Nội, dư nợ đối với loại hình doanh nghiệp này luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
dư nợ của Ngân hàng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy hoạt động cho vay đối với Doanh
nghiệp xây lắp còn tồn tại nhiều hạn chế làm ảnh hưởng đến chất lượng cho vay và
thu nhập của ngân hàng. Một trong những biểu hiện của tình trạng trên là tỷ lệ nợ
quá hạn cao, tiềm ẩn nguy cơ nợ xấu cao…Chính vì vậy, việc chỉ ra những hạn chế,
nguyên nhân dẫn đến hạn chế trên, từ đó đề ra giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
cho vay đối với doanh nghiệp xây lắp là việc cần thiết. Xuất phát từ mong muốn
trên, tôi đã quyết định chọn đề tài “Nâng cao chất lượng cho vay đối với doanh
nghiệp xây lắp tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam-Chi
nhánh Hà Nội” để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hoá những vấn đề cơ bản về chất lượng cho vay đối với Doanh
nghiệp xây lắp của Ngân hàng thương mại.
1

Theo www.tapchitaichinh.vn ngày 14/10/2013

1


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm
- Từ lý thuyết nghiên cứu kết hợp với thực trạng hoạt động cho vay đối với
Doanh nghiệp xây lắp tại BIDV Hà Nội để đánh giá những ưu điểm, hạn chế và
nguyên nhân.
- Đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng cho vay đối với Doanh nghiệp xây
lắp tại BIDV Hà Nội
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp xây lắp tại

BIDV Hà Nội
- Phạm vi nghiên cứu: Đứng trên giác độ ngân hàng để tập trung nghiên cứu
chất lượng cho vay đối với các doanh nghiệp xây lắp tại BIDV Hà Nội trong giai
đoạn 2010-2012
4. Phương pháp nghiên cứu
Chuyên đề sử dụng phương pháp thống kê kinh tế, tổng hợp so sánh một
cách logic để làm sáng tỏ các vấn đề đặt ra nhằm tìm ra các giải pháp nâng cao chất
lượng cho vay đối với các doanh nghiệp xây lắp.
5. Kết cấu của Chuyên đề
Ngoài lời mở đầu và kết luận, Chuyên đề được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp xây lắp của ngân hàng
thương mại.
Chương 2: Thực trạng chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp xây lắp tại
BIDV Hà Nội
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay doanh nghiệp xây lắp tại
BIDV Hà Nội

2


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm

CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP XÂY LẮP
1.1. Hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp xây lắp của Ngân hàng thương
mại
1.1.1. Doanh nghiệp xây lắp
1.1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp xây lắp

* Khái niệm doanh nghiệp xây lắp
Doanh nghiệp xây lắp là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của
pháp luật, có đăng ký kinh doanh về xây dựng hay là doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực xây dựng cơ bản để tạo ra các công trình xây dựng.
* Trách nhiệm của các doanh nghiệp xây lắp:
- Đăng ký hoạt động xây dựng tại các cơ quan có thẩm quyền theo quy định
của pháp luật.
- Chịu trách nhiệm trước pháp luật về các nội dung đã cam kết trong hợp
đồng bao gồm cả số lượng, chất lượng, tính chính xác của sản phẩm theo thời gian
thực hiện hợp đồng, các quy định và hướng dẫn sử dụng công trình trước khi bàn
giao công trình xây dựng, thực hiện bảo hành chất lượng sản phẩm xây dựng và
công trình theo quy định.
-Thực hiện chế độ bảo hiểm công trình xây dựng, bảo đảm an toàn lao động,
bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình xây dựng. Thông tin rộng rãi về năng
lực hoạt động của doanh nghiệp để chủ đầu tư biết và lựa chọn đối tác.
1.1.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp xây lắp
Ngành xây dựng cơ bản có những đặc điểm về kinh tế - kỹ thuật riêng biệt
khác với các ngành sản xuất còn lại , thể hiện rất rõ nét ở sản phẩm xây lắp và quá
trình tạo ra sản phẩm của ngành. Những đặc điểm riêng của ngành cũng như đặc
điểm sản phẩm xây lắp sẽ chi phối công tác tổ chức quản lý cũng như chu chuyển
vốn kinh doanh. Việc nghiên cứu để nắm rõ các đặc điểm này sẽ giúp cho ngân
hàng có thể đưa ra đươc những quyết định chính xác, nắm rõ được những hạn chế
từ đó đề ra những phương án khắc phục nhằm nâng cao chất lượng cho vay, nâng
cao hiệu quả kinh doanh.

3


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm

* Về các hoạt động cơ bản của doanh nghiệp xây lắp
- Xây dựng
+ Xây dưng các công trình công nghiệp, công cộng và dân dụng: các nhà
máy ( cơ khí, điện, điện tử viễn thông, hóa chất, hóa dầu….), văn phòng, các khu
nhà ở, khách sạn, chung cư, văn phòng, trường học, bệnh viện, trung tâm văn hóa,
trung tâm thương mại…
+ Xây dựng các công trình hạ tầng kĩ thuật: Các công trình giao thông, sân
bay, đê đập, các khu công nghiệp, khu chế xuất, hệ thống cấp thoát nước, xử lí nước
thải, san lấp mặt bằng
+ Xây dựng các công trình điện, hệ thống kiểm tra đo đếm, viễn thông như
nhà máy phát điện, đường dây, trạm biến áp, các hệ thống truyền tải và phân phối,
các hệ thống thiết bị kiểm tra, các công trình và hệ thống thông tin, viễn thông.
- Lắp đặt:
+ Lắp đặt các thiết bị công nghệ, khung nhà công nghiệp, xưởng sản xuất.
+ Lắp đặt các thiết bị tự động, thiết bị điện,…
- Chế tạo
+ Thiết bị phục vụ cho các ngày công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ như:
Dệt may, nhiệt điện, thủy điện, xi măng, dầu khí,...
+ Thiết bị xây dựng, thiết bị bê tông, thiết bị gạch, thiết bị băng tải, gầu tải,..
+ Kết cấu thép, khu nhà công nghiệp, đầm chịu lực, giàn không gian,..
- Tư vấn thiết kế: tư vấn, lập báo cáo nghiên cứu tiền thi, quản lí dự án, khảo
sát địa chất, thiết kế kĩ thuật, thiết kế chi tiết, lập dự toán, giám sát kĩ thuật công
trình, kiểm tra chất lượng các công trình công nghiệp và dân dụng, thiết kế công
trình điện.
* Về sản phẩm
- Sản phẩm xây lắp có quy mô lớn, kết cấu phức tạp nên việc tổ chức sản
xuất, hạch toán, vận hành và quản lí sản phẩm đòi hỏi phải rất chi tiết, cụ thể, tuân
thủ theo quy trình nhất định.
- Sản phẩm xây lắp có thời gian thi công dài, phụ thuộc vào quy mô và tính
kỹ thuật của từng công trình.

- Sản phẩm xây lắp mang tính chất ổn định, nơi sản xuất ra sản phẩm cũng

4


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm
đồng thời là nơi tiêu thụ sản phẩm đó. Thông thường sản phẩm được đặt tại đâu thì
máy móc, thiết bị, lao động phải di chuyển tới đó để thực hiện quá trình sản xuất.
Đồng thời phải bố trí các công trình tạm phục vụ thi công (lán trại, kho tàng,…)
phối hợp với các phương tiện, máy móc thiết bị trong quá trình thi công làm nảy
sinh nhiều vấn đề phức tạp và tốn kém. Đặc điểm này đòi hỏi các doanh nghiệp phải
linh hoạt, gọn nhẹ trong trang thiết bị, tài sản cố định sản xuất, hạn chế tối đa chi
phí và sự phức tạp trong di chuyển.
- Các sản phẩm xây lắp chủ yếu đặt ngoài trời nên chịu tác động lớn của điều
kiện tự nhiên. Rủi ro xảy từ những khó khăn do điều kiện khí hậu có thể làm ảnh
hưởng đến tiến độ thi công công trình và cả chất lượng công trình, đặc biệt là vào
mùa mưa.
- Giá của sản phẩm xây lắp được thỏa thuận trước, sản phẩm sẽ được tiêu thụ
theo giá thầu, thông qua hợp đồng giao nhận thầu mà người mua và người bán đã
được xác định trước.
- Quá trình thi công và sử dụng sản phẩm có liên quan đến nhiều ngành khác
nhau, tài sản cố định của các ngành khác nhau là sản phẩm của ngành xây lắp.
Chính vì vậy nó mang tính chất tổng hợp về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc
phòng. Có thể thấy rằng chất lượng sản phẩm xây lắp có mối quan hệ chặt chẽ với
chất lượng đầu tư của các ngành và hiệu quả đầu tư của nền kinh tế.
* Về chu chuyển vốn và nhu cầu vay vốn cho hoạt đông sản xuất kinh doanh
- Tốc độ chu chuyển vốn trong các doanh nghiệp xây lắp thường không cao:
Do đặc điểm xây dựng một đơn vị sản phẩm đòi hỏi phải bỏ nhiều chi phí,
thời gian thi công lại kéo dài dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn sản xuất ở các hạng

mục công trình thi công dở dang. Ngoài ra, khi công trình hoàn thành, công tác
nghiệm thu, quyết toán và thanh toán còn phải phụ thuộc vào chủ đầu tư. Vì vậy,
các doanh nghiệp xây lắp thường xuyên bị chiếm dụng vốn trong thời gian dài nên
tốc độ quay vòng vốn lưu động thường rất thấp, nhu cầu vốn lưu động cho thi công
lớn. Trong khi đó vốn chủ hữu chiếm tỷ lệ nhỏ trên tổng nguồn vốn nên để đủ vốn
hoạt động, các doanh nghiệp xây lắp phải huy động vốn bên ngoài mà chủ yếu là
vốn vay ngân hàng.
- Nhu cầu vốn lưu động thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nhu cầu vốn
cho hoạt động sản xuất kinh doanh:

5


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm
Do tính chất hoạt động của doanh nghiệp xây lắp nên cơ cấu vốn có đặc thù
riêng khác với các ngành khác, đó là nhu cầu vốn lưu động cho hoạt động sản xuất
kinh doanh chiếm tỷ trọng lớn nhất. Ngân hàng thường cho vay các doanh nghiệp
xây lắp chủ yếu để tài trợ vốn lưu động phục vụ thi công các công trình. Đối với
nhu cầu đầu tư mới, thay thế và cải tiến máy móc thiết bị, nâng cao năng lực sản
xuất, ngân hàng chỉ tham gia tài trợ một phần, phần còn lại các doanh nghiệp phải
bỏ vốn tự có của mình.
- Khả năng tự chủ về tài chính thấp:
Thực tế hiện nay, vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp xây lắp thường chỉ
chiếm khoảng 5-15% trong tổng nguồn vốn, chủ yếu là máy móc thiết bị đã qua sử
dụng và khối lượng hao mòn khá lớn, còn lại là vốn vay ngân hàng và vốn chiếm
dụng khác. Gánh nặng về chi phí lãi vay lớn gây áp lực đến hiệu quả kinh doanh và
tình hình tài chính của doanh nghiệp. Lợi nhuận đạt được không cao nên khả năng
bổ sung vốn chủ sở hữu và đầu tư nâng cao năng lực sản xuất thi công thường bị
hạn chế. Trong khi đó, sản lượng thi công tăng lên cùng với yêu cầu cao về chất

lượng công trình đòi hỏi phải có những thiết bị hiện đại nên nhu cầu vốn (cả vốn
lưu động và vốn đầu tư trung dài hạn) ngày càng tăng. Vì vậy, để tài trợ cho nhu
cầu vốn của mình các doanh nghiệp xây lắp ngày càng phải vay nhiều vốn từ ngân
hàng.
- Bên cạnh đó, để phát triển hoạt động hoạt động sản xuất, tăng cường năng
lực tài chính cũng như hiệu quả kinh doanh, nhiều doanh nghiệp xây lắp không chỉ
hoạt động dưới hình thức nhà thầu thi công mà còn tiến hành đầu tư các dự án đầu
tư bất động sản, thủy điện, kinh doanh nhà hàng khách sạn… Do đó, nhu cầu vốn
vay của các doanh nghiệp này ngày càng tăng cả về vốn ngắn hạn và trung dài hạn.
Các ngân hàng khi thẩm định, tài trợ vốn cho doanh nghiệp xây lắp cũng phải chú
trọng đến tính chất hoạt động đa ngành, đa nghề của doanh ghiệp xây lắp để quyết
định mức cho vay, điều kiện cho vay phù hợp.
1.1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp xây lắp đối với nền kinh tế
Lịch sử đã cho thấy rằng: Một quốc gia có nền kinh tế phát triển là quốc gia
có cơ sở hạ tầng hiện đại, đa năng. Cơ sở hạ tầng vững chắc, hiện đại là nền tảng
thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tăng trưởng kinh tế bền vững.
Chúng ta có thể thấy rằng, doanh nghiệp xây lắp góp phần to lớn trong công cuộc
xây dựng cơ sở hạ tầng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế qua những vai trò sau:

6


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm
Thứ nhất, sự phát triển của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây
lắp là nền tảng thúc đẩy sự phát triển của các ngành sản xuất kinh doanh khác, tạo
điều kiện khai thác tối đa các nguồn lực của đất nước.
Hoạt động của doanh nghiệp xây lắp liên quan đến nhiều ngành sản xuất,
kinh doanh khác nhau, mang tính chất tổng hợp về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội, quốc phòng. Mạng lưới giao thông ngày càng được nâng cấp, nhà cửa kiến trúc,

cơ sở hạ tầng ngày càng hiện đại hơn tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành sản xuất
kinh doanh khác phát triển. Bên cạnh đó, sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư,
nguồn nhân lực dồi dào,nguồn nguyên nhiên liệu trong nước, thị trường tiêu thụ
tiềm năng sẽ tạo điều kiện khai thác tối đa nguồn lực đất nước.
Thứ hai, doanh nghiệp xây lắp thu hút lao động, giảm tỉ lệ thất nghiệp trong
xã hội
Các doanh nghiệp xây lắp có sự đa dạng về ngành nghề hoạt động, có phạm
vi ảnh hưởng lớn về cả không gian và thời gian, có công trình trải rộng, cả ở thành
thị lẫn nông thôn. Do đó, việc sử dụng kỹ thuật sản xuất cần tương đối nhiều lao
động. Mỗi bộ phận sản xuất, kinh doanh yêu cầu trình độ lao động khác nhau nên
doanh nghiệp xây lắp là nơi tạo việc làm nhanh và dễ dàng hơn so với các ngành
nghề khác. Hiện nay, các doanh nghiệp xây lắp đang tạo được việc làm cho một bộ
phận lớn lao động, góp phần giải quyết các vấn đề kinh tế-xã hội.
Thứ ba, doanh nghiệp xây lắp đóng góp nguồn thu quan trọng cho Ngân sách
Nhà nước
Hoạt động của doanh nghiệp xây lắp sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp hoạt động
trong các lĩnh vực khác phát triển, làm tăng hiệu quả đầu tư của nền kinh tế, thúc
đẩy quá trình tái sản xuất mở rộng, tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển,
sản phẩm hàng hóa sản xuất ra ngày càng đa đang dạng, phong phú đáp ứng nhu
cầu của người dân, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nhờ đó làm tăng đáng kể
nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước từ thuế và các dịch vụ xã hội.
1.1.2. Cho vay đối với doanh nghiệp xây lắp của ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Khái niệm về cho vay của ngân hàng thương mại
Theo Điều 4 khoản 16 Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 của nước ta:
“ Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết
giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một

7



Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm
thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.”
Theo định nghĩa này, hoạt động cho vay NHTM chỉ xét đến các khoản vay bằng
tiền, diễn ra theo nguyên tắc hoàn trả, giá trị hoàn trả thông thường sẽ lớn hơn giá
trị lúc cho vay hay khách hàng ngoài việc hoàn trả vốn gốc thì cần phải trả thêm
một khoản tiền lãi cho ngân hàng.
- Hoạt động cho vay gồm các yếu tố cấu thành cơ bản sau:
+ Về chủ thể, gồm hai bên tham gia là bên vay và bên cho vay.
+ Hình thức pháp lý của việc cho vay là hợp đồng dân sự. Sự kiện cho vay
phát sinh bởi hai hành vi cơ bản là hành vi ứng trước và hành vi hoàn trả tài sản khi
đến hạn, có thể phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật quy định.
Theo Điều 417, Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005: “Hợp đồng vay tài sản là sự
thoả thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn
trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng,
chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định.”.
+ Việc cho vay dựa trên sự tín nhiệm giữa người cho vay đối với người đi
vay về khả năng hoàn trả tài sản.
Hoạt dộng cho vay của ngân hàng đóng góp tỷ trọng lớn trong tổng nguồn
thu của ngân hàng. Đối với đa số các ngân hàng thương mại, hoạt động cho vay
đem lại từ 40%-70% tổng nguồn thu của ngân hàng.
Cho vay đối với DNXL là một bộ phận của trong hoạt động cho vay của
NHTM, có đầy đủ tính chất và đặc điểm của hoạt động cho vay nhưng có những nét
đặc thù riêng.
1.1.2.2. Những nét đặc thù trong hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp xây lắp
của ngân hàng thương mại
Xuất phát từ đặc trưng hoạt động của doanh nghiệp xây lắp, nghiệp vụ cho
vay phục vụ thi công xây lắp cũng có những đặc điểm riêng:
Thứ nhất, khi dòng tiền chủ đầu tư thanh toán cho các nhà thầu và dòng tiền
nhà thầu phải thanh toán cho các nhà cung cấp là không trùng khớp nhau thì doanh

nghiệp xây lắp với vai trò nhà thầu thi công cần vay vốn lưu động để thanh toán các
chi phí phát sinh cho nhà cung cấp đầu vào.
Thứ hai, việc cho vay phải căn cứ trên cơ sở Hợp đồng giao nhận thầu xây
lắp đã được ký kết giữa Bên nhận thầu và Bên giao thầu. Bên giao thầu có thể chính
là chủ đầu tư hoặc là người được chủ đầu tư ủy quyền. Bên cạnh đó, để xác định

8


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm
doanh số cho vay đối với mỗi công trình cần dựa vào các yếu tố: Giá trị hợp đồng
xây lắp công trình, vốn tự có và huy động khác tham gia vào công trình là bao
nhiêu? Số tiền ứng chủ đầu tư trước tiền là bao nhiêu? Lợi nhuận định mức của
công trình là bao nhiêu?... từ đó xác định doanh số cho vay đối với mỗi công trình.
Xuất phát từ đặc điểm này, để đảm bảo chất lượng khoản vay và quản lý
được rủi ro trong cho vay thì các ngân hàng thường phải thực hiện cho vay theo
từng công trình, đánh giá hiệu quả kinh doanh, khả năng trả nợ của từng công trình
để đưa ra quyết định cho vay hay không.
Thứ ba, thời gian cho vay vốn lưu động đối với DNXL thường kéo dài hơn
so với thời gian cho vay các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khác như doanh
nghiệp thương mại, sản xuất kinh doanh hàng hóa tiêu dùng. Vì đặc điểm của ngành
xây lắp là thời gian thi công, nghiệm thu, thanh toán và quyết toán của công trình
thường kéo dài, vòng quay vốn lưu động của các doanh nghiệp xây lắp thường lớn
hơn vòng quay vốn lưu động của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khác.
Thứ tư, nguồn trả nợ vay ngân hàng của DNXL là nguồn vốn thanh toán giá
trị khối lượng hoàn thành công trình nên trước khi cho vay ngân hàng phải xác định
rõ nguồn vốn thanh toán của từng công trình về điều kiện thanh toán, thời gian
thanh toán cũng như cơ cấu nguồn vốn thanh toán. Sau khi cho vay phải liên tục
theo dõi chặt chẽ tiến độ thi công, kiểm soát dòng tiền thanh toán để thu hồi nợ vay.

Vì vậy, ngoài khách hàng là doanh nghiệp xây lắp, ngân hàng phải tăng cường mối
liên hệ đối với chủ đầu tư, thường xuyên tiến hành đối chiếu công nợ giữa chủ đầu
tư và nhà thầu để biết được nguồn thu của công trình. Cùng với đó, để bám sát
nguồn tiền thanh toán công trình, ngân hàng cho vay có thể yêu cầu chủ đầu tư thực
hiện chuyển tiền thanh toán cho nhà thầu thi công về tài khoản tiền gửi của nhà thầu
tại ngân hàng cho vay.
Thứ năm, khi cho vay phải thường xuyên kiểm tra tình hình thi công công
trình, tiến độ thi công, thanh toán có đúng theo quy định trong Hợp đồng giao nhận
thầu hay không để từ đó phát hiện ra những khó khăn vướng mắc và có biện pháp
ứng xử kịp thời. Chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp xây lắp sẽ phụ thuộc rất
lớn vào nguồn vốn xây dựng của chủ đầu tư thanh toán cho nhà thầu thi công và
chất lượng công trình, phương thức nghiệm thu thanh toán của chủ đầu tư, tiến độ
xây dựng...

9


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm
1.1.2.3. Các hình thức cho vay đối với doanh nghiệp xây lắp
Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp xây lắp
có rất nhiều hình thức đa dạng và phong phú, việc phân loại chỉ có tính tương đối.
Tùy thuộc vào tiêu thức phân loại mà có thể phân chia thành các hình thức cho vay
khác nhau:
* Căn cứ vào thời hạn cho vay
- Cho vay ngắn hạn: là các khoản vay có thời hạn đến 12 tháng. Mục đích
cho vay là để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động phát sinh trong quá trình sản xuất kinh
doanh của DNXL như mua nguyên vật liệu, chi phí máy móc, chi phí nhân công,
thanh toán lương.
- Cho vay trung hạn: là các khoản vay có thời hạn từ trên 1 năm đến 5 năm.

Mục đích cho vay vốn là để DNXL sửa chữa, khôi phục, mua sắm tài sản cố định,
xây dựng trụ sở, kho tàng loại nhỏ với thời gian thu hồi vốn nhanh.
- Cho vay dài hạn: là các khoản vay có thời hạn trên 5 năm. Mục đích của
cho vay dài hạn là sử dụng vốn vay để đầu tư những công trình có quy mô lớn, mua
sắm tài sản cố định lớn với thời gian thu hồi vốn lâu hơn.
* Căn cứ vào phương thức cho vay
- Cho vay theo hạn mức: Cho vay theo hạn mức tín dụng là hình thức cho
vay thường áp dụng đối với khách hàng có quan hệ lâu năm và có uy tín cao với
ngân hàng. Hạn mức tín dụng được khách hàng và ngân hàng thỏa thuận trên cơ sở
nhận định như phân tích tình hình tài chính, nhu cầu vốn của khách hàng đối với
ngân hàng... Thông thường khách hàng sử dụng hình thức cho vay theo hạn mức tín
dụng sẽ chủ động hơn trong thanh toán. Khi cần vốn khách hàng chỉ cần trình bày
phương án sản xuất kinh doanh cùng các chứng từ chứng minh hợp lệ thì ngân hàng
sẽ cho vay trong hạn mức đã cấp.
- Cho vay theo món: Đây là hình thức phổ biến đối với khách hàng không có
nhu cầu vay vốn thường xuyên hoặc không có đủ điều kiện để được cấp hạn mức tín
dụng. Mỗi lần vay thì khách hàng phải làm thủ tục và hồ sơ xin vay riêng. Ngân
hàng cũng xem xét từng món vay riêng, tiến hành thẩm định và cho vay riêng biệt.
Với hình thức cho vay này, ngân hàng có thể kiểm soát dễ dàng từng món vay riêng
biệt, dễ phát hiện ra sai phạm hơn so với cho vay theo hạn mức.
- Cho vay thấu chi : Ngân hàng cho phép người vay được chi trội trên số dư

10


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm
tiền gửi thanh toán của mình một giới hạn nhất đinh (hạn mức thấu chi) trong
khoảng thời gian xác định.
Để được thấu chi khách hàng phải làm đơn xin ngân hàng cấp hạn mức thấu

chi và thời gian thấu chi (có thể phải trả phí cam kết cho ngân hàng). Khách hàng có
thể sử dụng số tiền vượt quá số dư tiền gửi để chi trả cho các hoạt động của mình.
Khi khách hàng có tiền nhập về tài khoản tiền gửi ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi.
Số lãi mà khách hàng phải trả = Lãi suất thấu chi× Thời gian thấu chi×Số tiền thấu chi

Các khoản chi quá hạn mức thấu chi sẽ chịu lãi suất phạt và bị đình chỉ sử
dụng hình thức này. Thấu chi là hình thức tín dụng linh hoạt, thủ tục đơn giản và áp
dụng cho đối tượng khách hàng có độ tin cậy cao.
* Căn cứ vào đảm bảo tiền vay
- Cho vay có đảm bảo: là hình thức cho vay có tài sản hoặc người bảo lãnh
đứng ra làm đảm bảo cho các khoản vay. Ngân hàng phải kiểm tra, đánh giá tình
trạng của tài sản đảm bảo như quyền sở hữu, giá trị, khả năng thanh khoản, khả
năng tài chính của người thứ ba,… có khả năng giám sát việc sử dụng, bảo quản tài
sản đảm bảo.
- Cho vay không đảm bảo: là hình thức cho vay không có tài sản hoặc người
bảo lãnh cho khoản vay. Đây là các khoản cho vay dùng để cấp cho các khách hàng
có uy tín, thường là khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính
vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa, hoặc món vay tương đối nhỏ so với
vốn người vay. Ngoài ra, hình thức này còn áp dụng đối với các khoản vay theo chỉ
thị của Chính phủ hoặc các khoản vay đối với các tổ chức tài chính lớn, các công ty
lớn hoặc những khoản cho vay trong thời gian ngắn mà ngân hàng có khả năng
giám sát việc bán hàng có thể cũng không cần tài sản đảm bảo.
* Căn cứ theo đối tượng cho vay
- Cho vay vốn lưu động: Là các khoản cho vay được sử dụng để hình thành
vốn lưu động của khách hàng hay chính là cho vay để bù đắp vốn lưu động thiếu
hụt tạm thời bao gồm: cho vay dự trữ hàng hóa, cho vay chi phí sản xuất, ….
- Cho vay vốn cố định: là các khoản cho vay được sử dụng để tài trợ cho tài
sản cố định, có nghĩa là đầu tư để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kĩ
thuật, mở rộng sản xuất, xây dựng các xí nghiệp và công trình mới.


11


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm
1.2. Chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp xây lắp của NHTM
1.2.1. Khái niệm chất lượng cho vay đối với doanh nghiêp xây lắp
Trước khi tìm hiểu về chất lượng cho vay thì chúng ta phải tiếp cận khái niệm
thế nào là chất lượng.
Theo điều 3.1.1 của tiêu chuẩn ISO 9000:2005 định nghĩa chất lượng là: “Mức
độ đáp ứng các yêu cầu của một tập hợp có đặc tính vốn có” . Hay nói cách khác
chất lượng là khái niệm đặc trưng cho khả năng thoả mãn nhu cầu. Vì vậy, sản
phẩm hay dịch vụ nào không đáp ứng được nhu cầu của khách hàng thì bị coi là
kém chất lượng cho dù trình độ công nghệ sản xuất ra có hiện đại đến đâu đi nữa.
Đánh giá chất lượng cao hay thấp phải đứng trên quan điểm người tiêu dùng. Cùng
một mục đích sử dụng như nhau, sản phẩm nào thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cao hơn
thì có chất lượng cao hơn.
Chất lượng cho vay là phạm trù khó lượng hóa và khá phức tạp, vì vậy có nhiều
quan niệm về chất lượng cho vay như sau:
Quan niệm thứ nhất, theo Giáo trình Quản trị NHTM-GS.TS Nguyễn Văn Tiến
2012 thì chất lượng cho vay là một phạm trù phản ánh mức độ rủi ro và sinh lời
trong bảng tổng hợp cho vay của một tổ chức tín dụng.
Quan niệm thứ hai, theo Quản trị ngân hàng thương mại - GS.TS Lê Văn Tư
2005 thì chất lượng cho vay là một thuật ngữ phản ánh mức độ an toàn của khoản
vay đồng thời đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng trong từng thời kì.
Quan niệm thứ ba, theo quan điểm của vi.wikipedia.org thì có thể hiểu đơn

giản chất lượng tín dụng là một phạm trù được dùng để phản ánh mức độ rủi ro
trong bảng tổng hợp cho vay của một tổ chức tín dụng.
Từ ba quan niệm về chất lượng cho vay như trên ta có thể khái quát và suy rộng

về chất lượng cho vay đối với DNXL của NHTM như sau:
Chất lượng cho vay đối với DNXL của ngân hàng thương mại là một thuật
ngữ phản ánh khả năng sinh lời và mức độ an toàn của hoạt động cho vay đối với
hoạt động cho vay doanh nghiệp xây lắp của ngân hàng thương mại. Đồng thời
phản ánh khả năng đáp ứng yêu cầu của khách hàng là doanh nghiệp xây lắp về nhu
cầu vốn, tiện ích… nhằm hỗ trợ và thúc đẩy các DNXL phát triển. Khái niệm trên
sẽ được áp dụng để nghiên cứu xuyên suốt chuyên đề này.
Để đánh giá được chất lượng cho vay DNXL của NHTM thì ta phải đánh giá
dựa trên 3 tiêu chí sau:
Thứ nhất là Mức độ an toàn của khoản vay
Mức độ an toàn của khoản vay được đánh giá thông qua khả năng trả nợ cả

12


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm
gốc lẫn lãi của khách hàng đầy đủ và đúng hạn.
Thứ hai là Khả năng sinh lời của khoản vay
Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh tế hoạt động vì mục tiêu lợi
nhuận. Vì vậy, nếu khả năng sinh lời từ khoản vay quá thấp, không bù đắp được các
chi phí hoặc không tạo ra được mức lợi nhuận để ngân hàng mở rộng và phát triển
thì có nghĩa là chất lượng của khoản vay còn chưa tốt.
Thứ ba là Mức độ đáp ứng nhu cầu vay vốn của DNXL.
Mức độ đáp ứng nhu cầu của khách hành được xem như là chỉ tiêu quan
trọng nhất đối với việc đánh giá chất lượng của một sản phẩm, dịch vụ bất kì trong
nền kinh tế. Bản thân cho vay cũng là một dịch vụ nên không thể bỏ qua chỉ tiêu
này.
Để thỏa mãn nhu cầu vay vốn của khách hàng , cụ thể ở đây là DNXL thì
NHTM phải cung cấp được những khoản vay có chất lượng. Khoản vay có chất

lượng là khoản vay đáp ứng được về quy mô, kì hạn vay, phù hợp với yêu cầu của
khách hàng đồng thời có chi phí vốn (lãi suất cho vay) là thấp hơn so với những
nguồn khác mà doanh nghiệp có thể huy động được từ thị trường. Ngoài ra, đối với
những doanh nghiệp đã đặt mối quan hệ lâu dài với ngân hàng, họ còn mong muốn
được hưởng mức lãi suất ưu đã khi trở thành khách hàng thân thiết của ngân hàng.
Bên cạnh đó, một khoản vay được coi là chất lượng không chỉ mang lại lợi nhuận
tức thời mà còn phải mang lại lợi nhuận trong dài hạn cho ngân hàng. Chính vì vậy,
mức độ hài lòng của DNXL về các khoản vay cũng như tác động của vốn vay đến
việc thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp sẽ đánh giá một phần chất lượng cho
vay.
Trong nhiều trường hợp, khả năng sinh lời cao và mức độ an toàn của khoản vay
không biến động cùng chiều. Vì vậy, để đảm bảo chất lượng cho vay ngân hàng cần
phải cân bằng lợi nhuận thu được và rủi ro dự kiến sẽ xảy ra.
1.2.2. Sự cần thiết của việc nâng cao chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp
xây lắp của NHTM
Nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ làm tăng tính cạnh tranh trên thi
trường để giúp doanh nghiệp có thể đứng vững, mở rộng quy mô là điều hết sức cần
thiết.
Ngân hàng thương mại-một loại hình doanh nghiệp đặc biệt chuyên kinh

13


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm
doanh tiền tệ, là đầu mối cung cấp vốn chủ yếu cho các DNXL thì nâng cao chất
lượng cho vay nói chung và nâng cao chất lượng cho vay đối với DNXL nói riêng
có ý nghĩa quan trọng với Ngân hàng, doanh nghiệp và cả với nền kinh tế.
- Đối với ngân hàng:
Nâng cao chất lượng cho vay trước hết ngân hàng phải nâng cao chất lượng

quản lí, chất lượng nguồn lực cả về con người lẫn công nghệ. Từ đó, tạo được sự
phát triển đồng bộ, nâng cao uy tín của ngân hàng, mở rộng thị phần nhằm gia tăng
lợi nhuận.
Ngoài ra, DNXL là khách hàng tiềm ẩn nhiều rủi ro, đặc biệt là trong giai
đoạn thị trường bất động sản đóng băng, lượng hàng tồn kho lớn như hiện nay. Để
đảm bảo khả năng thanh toán, sự ổn định tài chính của mình, tránh rủi ro dây
chuyền gây ảnh hưởng đến nền kinh tế, ngân hàng cần thiết phải nâng cao chất
lượng cho vay đối với DNXL.
- Đối với DNXL
Nâng cao chất lượng cho vay của ngân hàng mang lại những thuận lợi nhất
định cho các DNXL khi vay vốn , từ đó phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh.
Ngoài ra, nâng cao chất lượng cho vay cũng đồng nghĩa với việc khách hàng là
DNXL phải sử dụng vốn đúng cam kết, có hiệu quả và hoàn trả vốn lẫn lãi đúng
hạn. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải có chế độ hạch toán kế toán theo đúng quy
định, có kế hoạch sản xuất kinh doanh cụ thể để đạt mức lợi nhuận kì vọng. Vì vậy,
nâng cao chất lượng cho vay sẽ tăng cường mối quan hệ giữa khách hàng với ngân
hàng, tạo điều kiện cho doanh nghiệp sử dụng vốn đạt hiệu qủa cao nhất, tăng tính
cạnh tranh trên thị trường.
- Đối với nền kinh tế:
Ngân hàng thương mại là một tổ chức tài chính trung gian, hoạt động của
ngân hàng có tác động to lớn đến nền kinh tế. Ngân hàng hoạt động hiệu quả góp
phần làm cho thị trường tài chính được phát triển lành mạnh, mọi hoạt động kinh
tế diễn ra suôn sẻ, tăng trưởng tín dụng của ngân hàng thúc đầy tăng trưởng kinh
tế. Vì vậy, nâng cao chất lượng cho vay là yêu cầu đặt ra để nền kinh tế hoạt động
có hiệu quả, các thành phần của nền kinh tế thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ
của mình.
1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng cho vay đối với DNXL của NHTM

14



Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm
2.2.3.1. Dựa trên các chỉ tiêu phản ánh quy mô, tốc độ tăng trưởng và cơ cấu dư nợ
cho vay đối với DNXL
• Về quy mô và tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay đối với DNXL
Chỉ tiêu tổng dư nợ cho vay DNXL: phản ánh quy mô cho vay đối với
DNXL, là con số tuyệt đối nói lên quy mô của hoạt động này tại ngân hàng.
Trong khi đó, tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay DNXL lại thể hiện khả
năng mở rộng quy mô và các hình thức cho vay qua các thời kỳ. Tốc độ tăng trưởng
dư nợ cho vay DNXL được tính theo công thức:
Tốc độ tăng trưởng
dư nợ cho vay DNXL

=

Dư nợ kỳ n – Dư nợ kỳ (n-1)
Dư nợ kỳ (n-1)

x 100%

Nếu tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay DNXL cao cho thấy ngân hàng đã
tạo được uy tín đối với các DNXL, đã và đang mở rộng thị phần trong ngành
XDCB và có khả năng tiếp thị khách hàng DNXL tốt hơn. Tuy nhiên tăng trưởng
cho vay đối với DNXL phải phù hợp với khả năng về vốn, quản lý rủi ro cũng như
các nguồn lực về con người, công nghệ của ngân hàng. Việc tăng trưởng dư nợ cho
vay đối với DNXL vượt quá khả năng của ngân hàng sẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro và việc
ngân hàng không đủ điều kiện nguồn lực để kiểm soát chặt chẽ các khoản vay sẽ
ảnh hưởng xấu đến chất lượng hoạt động cho vay.
• Về cơ cấu dư nợ cho vay đối với doanh nghiệp xây lắp

Cơ cấu dư nợ cho vay có thể chia làm nhiều loại nhưng trong bài viết này
sẽ phân tích cơ cấu dư nợ cho vay đối với DNXL theo kì hạn.
Tỷ trọng cho vay ngắn
hạn đối với DNXL

=

Tỷ trọng cho vay trung và
dài hạn đối với DNXL

Dư nợ cho vay ngắn hạn đối với DNXL
Tổng dư nợ cho vay đối với DNXL
=1-

tỷ trọng dư nợ cho vay
ngăn hạn đối với DNXL

Đánh giá cơ cấu dư nợ cho vay theo kì hạn cho ta thấy được mức độ tương
quan giữa cho vay ngắn hạn và cho vay trung dài hạn của ngân hàng, từ đó thấy
được nhu cầu vốn của doanh nghiệp xây lắp theo kì hạn.
Ngoài ra ta có thể hiểu sâu hơn về chính sách cho vay của ngân hàng trong
từng giai đoạn khi có nhiều sự biến động trên lãi suất cũng như mức độ rủi ro của
các khoản vay trung và dài hạn.

15


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm
2.2.3.2. Dựa trên các chỉ tiêu phản ánh mức độ rủi ro của khoản vay

• Nợ quá hạn và nợ xấu của DNXL
+Nợ quá hạn
Theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 và Quyết định số
18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/4/2007 : “Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc
toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn”. Một khoản vay không trả đầy đủ, đúng hạn
như thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng thì trở thành nợ quá hạn.
Tỷ lệ nợ quá hạn là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả
cho vay của ngân hàng, phản ánh những rủi ro trong hoạt động cho vay mà ngân
hàng phải đối mặt. Tỷ lệ này được xác định qua công thức sau :
Tỷ lệ nợ quá hạn cho vay
DNXL

=

Dư nợ quá hạn cho vay DNXL
Tổng dư nợ cho vay DNXL

Chỉ tiêu nợ quá hạn cho biết trong tổng dư nợ cho vay doanh nghiệp xây lắp
của ngân hàng có bao nhiêu % là nợ quá hạn.
Các khoản nợ quá hạn phát sinh có thể do những nguyên nhân như trình độ
quản lý của khách hàng yếu kém, công nghệ sản xuất lạc hậu hay do sự thay đổi
trong chính sách của Nhà nước, sự thay đổi nguồn nguyên vật liệu đầu vào …
Nguyên nhân các khoản nợ quá hạn cũng khác nhau, có khoản nợ do khách hàng
gặp khó khăn tạm thời, chậm thanh toán nhưng cũng có khách hàng đình trệ sản
suất, thua lỗ nặng nề, không có khả năng trả nợ hay có khách hàng cố tình chây ỳ
không có ý thức trả nợ cho ngân hàng.
Nếu ngân hàng có nhiều khoản nợ, tỷ lệ nợ quá hạn cao, ngân hàng sẽ gặp
nhiều khó khăn, tình trạng kéo dài sẽ ảnh hưởng đến sự tồn tại của ngân hàng. Tỷ lệ
nợ quá hạn cao, tính an toàn của khoản vay thấp, ngân hàng đứng trước nguy cơ
mất vốn và có thể dẫn đến mất khả năng thanh toán. Tỷ lệ nợ quá hạn thấp cho thấy

hiệu quả cho vay của ngân hàng cao. Tuy nhiên, việc chuyển nợ quá hạn cần tuân
thủ đúng nguyên tắc, tránh việc gia hạn nợ tràn lan để giảm tỷ lệ nợ quá hạn.
Thực tế cho thấy hoạt động cho vay của ngân hàng nói chung và đặc biệt là
cho vay các doanh nghiệp xây lắp không thể không có nợ quá hạn. Ngân hàng phải
chấp nhận nợ quá hạn, cố gắng kiểm soát tỷ lệ này ở mức độ hợp lý.
Tỷ lệ nợ quá hạn được xem là cao hay thấp cần so sánh với tỷ lệ chung của
ngành và tỷ lệ chấp nhận của chính ngân hàng cho vay.

16


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm
Qua chỉ tiêu này, ngân hàng có thể xem xét đánh giá khả năng trả nợ của các
doanh nghiệp xây lắp, trên cơ sở đó có những chính sách cho vay thích hợp đối với
ngành nghề này.
Nhìn chung, hoạt động cho vay nói chung và cho vay xây lắp nói riêng của
NHTM tiềm ẩn rất nhiều rủi ro mà rủi ro lớn nhất là nguy cơ không thu hồi được
nợ. Có rất nhiều nguyên nhân khiến cho ngân hàng không thu được nợ bao gồm cả
những nguyên nhân khách quan và chủ quan. Vấn đề là ngân hàng phải làm thế nào
để giảm tới mức thấp nhất khả năng mất vốn, không thu được nợ. Để làm được điều
đó, ngân hàng phải có những biện pháp tích cực nhằm phòng ngừa, hạn chế rủi ro.
Nếu tình hình thu nợ tốt, doanh số thu nợ cao, các khoản cho vay thu được đủ gốc
và lãi đúng thời hạn quy định trong hợp đồng cho vay, chất lượng cho vay doanh
nghiệp xây lắp của ngân hàng được đánh giá là tốt. Ngược lại, nếu ngân hàng gặp
nhiều khó khăn trong vấn đề thu hồi nợ như khách hàng không có khả năng trả nợ
trở thành nợ xấu, nhiều khoản cho vay không thu hồi được nợ gốc và lãi,… có thể
khẳng định chất lượng cho vay doanh nghiệp xây lắp của ngân hàng chưa cao. Một
ngân hàng có khả năng thu hồi nợ tốt, đúng thời hạn chứng tỏ ngân hàng đã áp dụng
tốt các biện pháp để giảm thiểu rủi ro cho vay DNXL. Ngược lại, chứng tỏ ngân

hàng chưa chú trọng đúng mức tới các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng cho
vay.
-Nợ xấu
Theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 : “Nợ xấu (NPL)
là nợ thuộc các nhóm 3, 4 và 5”và “ Tỷ lệ nợ xấu là tỷ lệ giữa nợ xấu so với tổng
nợ từ nhóm 1 đến nhóm 5”.
Đồng thời theo Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/4/2007 sửa đổi,
bổ sung Điều 6 Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN về phân loại nợ vào các nhóm
như sau:
1. Tổ chức tín dụng thực hiện phân loại nợ theo năm (05) nhóm như sau:
a) Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm:
- Các khoản nợ trong hạn và tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi
đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn;
- Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày và tổ chức tín dụng đánh giá là có khả
năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi bị quá hạn và thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng thời hạn

17


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm
còn lại;
- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 1 theo quy định tại Khoản 2 Điều
này.
b) Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày;
- Các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu (đối với khách hàng là
doanh nghiệp, tổ chức thì tổ chức tín dụng phải có hồ sơ đánh giá khách hàng về
khả năng trả nợ đầy đủ nợ gốc và lãi đúng kỳ hạn được điều chỉnh lần đầu);
- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại Khoản 3 Điều

này.
c) Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều
chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại Điểm b Khoản
này;
- Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng
trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng;
- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại Khoản 3 Điều
này.
d) Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo
thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai;
- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại Khoản 3 Điều
này.
đ) Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên
theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn

18


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm
trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá

hạn hoặc đã quá hạn;
- Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý;
- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại Khoản 3 Điều
này.
2. Tổ chức tín dụng có thể phân loại lại các khoản nợ vào nhóm nợ có rủi ro
thấp hơn trong các trường hợp sau đây:
a) Đối với các khoản nợ quá hạn, tổ chức tín dụng phân loại lại vào nhóm nợ
có rủi ro thấp hơn (kể cả nhóm 1) khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây:
- Khách hàng trả đầy đủ phần nợ gốc và lãi bị quá hạn (kể cả lãi áp dụng đối
với nợ gốc quá hạn) và nợ gốc và lãi của các kỳ hạn trả nợ tiếp theo trong thời gian
tối thiểu sáu (06) tháng đối với khoản nợ trung và dài hạn, ba (03) tháng đối với các
khoản nợ ngắn hạn, kể từ ngày bắt đầu trả đầy đủ nợ gốc và lãi bị quá hạn;
- Có tài liệu, hồ sơ chứng minh các nguyên nhân làm khoản nợ bị quá hạn đã
được xử lý, khắc phục;
- Tổ chức tín dụng có đủ cơ sở (thông tin, tài liệu kèm theo) đánh giá là
khách hàng có khả năng trả đầy đủ nợ gốc và lãi đúng thời hạn còn lại.
b) Đối với các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ, tổ chức tín dụng phân loại
lại vào nhóm nợ có rủi ro thấp hơn (kể cả nhóm 1) khi đáp ứng đầy đủ các điều
kiện sau đây:
- Khách hàng trả đầy đủ nợ gốc và lãi theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại
trong thời gian tối thiểu sáu (06) tháng đối với các khoản nợ trung và dài hạn, ba
(03) tháng đối với các khoản nợ ngắn hạn, kể từ ngày bắt đầu trả đầy đủ nợ gốc và
lãi theo thời hạn được cơ cấu lại;
- Có tài liệu, hồ sơ chứng minh các nguyên nhân làm khoản nợ phải cơ cấu
lại thời hạn trả nợ đã được xử lý, khắc phục;
- Tổ chức tín dụng có đủ cơ sở (thông tin, tài liệu kèm theo) để đánh giá là
khách hàng có khả năng trả đầy đủ nợ gốc và lãi đúng thời hạn đã được cơ cấu lại
còn lại.
3. Tổ chức tín dụng phải chuyển khoản nợ vào nhóm có rủi ro cao hơn trong
các trường hợp sau đây:


19


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm
a) Toàn bộ dư nợ của một khách hàng tại một tổ chức tín dụng phải được
phân loại vào cùng một nhóm nợ. Đối với khách hàng có từ hai (02) khoản nợ trở
lên tại tổ chức tín dụng mà có bất cứ một khoản nợ nào bị phân loại theo quy định
tại Khoản 1 Điều này vào nhóm có rủi ro cao hơn các khoản nợ khác, tổ chức tín
dụng phải phân loại lại các khoản nợ còn lại của khách hàng vào nhóm có rủi ro cao
nhất đó.
b) Đối với khoản cho vay hợp vốn, tổ chức tín dụng làm đầu mối phải thực
hiện phân loại nợ đối với khoản cho vay hợp vốn theo các quy định tại Điều này và
phải thông báo kết quả phân loại nợ cho các tổ chức tín dụng tham gia cho vay hợp
vốn. Trường hợp khách hàng vay hợp vốn có một hoặc một số các khoản nợ khác
tại tổ chức tín dụng tham gia cho vay hợp vốn đã phân loại vào nhóm nợ không
cùng nhóm nợ của khoản nợ vay hợp vốn do tổ chức tín dụng làm đầu mối phân
loại, tổ chức tín dụng tham cho vay hợp vốn phân loại lại toàn bộ dư nợ (kể cả
phần dư nợ cho vay hợp vốn) của khách hàng vay hợp vốn vào nhóm nợ do tổ chức
tín dụng đầu mối phân loại hoặc do tổ chức tín dụng tham gia cho vay hợp vốn phân
loại tuỳ theo nhóm nợ nào có rủi ro cao hơn.
c) Tổ chức tín dụng phải chủ động phân loại các khoản nợ được phân loại
vào các nhóm theo quy định tại Khoản 1 Điều này vào nhóm nợ có rủi ro cao hơn
theo đánh giá của tổ chức tín dụng khi xảy ra một trong các trường hợp sau đây:
- Có những diễn biến bất lợi tác động tiêu cực đến môi trường, lĩnh vực kinh
doanh của khách hàng;
- Các khoản nợ của khách hàng bị các tổ chức tín dụng khác phân loại vào
nhóm nợ có mức độ rủi ro cao hơn (nếu có thông tin);
- Các chỉ tiêu tài chính của khách hàng (về khả năng sinh lời, khả năng thanh

toán, tỷ lệ nợ trên vốn và dòng tiền) hoặc khả năng trả nợ của khách hàng bị suy
giảm liên tục hoặc có biến động lớn theo chiều hướng suy giảm;
- Khách hàng không cung cấp đầy đủ, kịp thời và trung thực các thông tin tài
chính theo yêu cầu của tổ chức tín dụng để đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng.
Tỷ lệ nợ xấu cho biết cụ thể về chất lượng cho vay dựa trên cơ sở khả năng
thu hồi của các khoản nợ. Một ngân hàng có dư nợ xấu cao thì chất lượng cho vay
được đánh giá là thấp bởi điều này đồng nghĩa với khả năng mất vốn cao của ngân
hàng. Chất lượng cho vay DNXL cao phải đồng nghĩa với nợ xấu thấp và nợ nhóm
2 ở mức độ chấp nhận được vì nợ nhóm 2 tuy chưa được coi là nợ xấu nhưng luôn

20


Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: TS. Lê Thanh Tâm
có nguy có phát sinh thêm nợ xấu . Các ngân hàng luôn tìm mọi biện pháp để giảm
bớt tỷ lệ nợ nhóm 2.
• Tỷ lệ dư nợ cho vay đối với DNXL có tài sản bảo đảm
Tỷ lệ dư nợ cho vay
DNXL có tài sản bảo đảm

=

Dư nợ cho vay DNXL có tài sản bảo đảm
Tổng dư nợ DNXL

Tỷ lệ này càng cao càng tốt. Tài sản bảo đảm của các DNXL chủ yếu là máy
móc thiết bị thi công, phương tiện vận tải, giá trị nhà xưởng, khối lượng xây dựng
cơ bản hoàn thành… Tài sản bảo đảm không phải là căn cứ duy nhất để ngân hàng
xem xét cho vay. Tuy nhiên , đây là một trong những công cụ để nâng cao trách nhiệm

đối với nghĩa vụ trả nợ của người vay và giảm bớt tổn thất cho ngân hàng khi rủi ro xảy
ra. Do vậy, ngân hàng cần xây dựng quy trình định giá, kiểm tra tài sản bảo đảm dành
riêng cho tài sản bảo đảm đối với DNXL nhằm đảm bảo an toàn vốn vay.
• Trích lập dự phòng rủi ro
- Tỷ lệ dự phòng: Là tỷ số giữa phân bổ dự phòng tổn thất tín dụng hàng năm
của DNXL so với tổng dư nợ cho vay các DNXL:
Tỷ lệ trích lập dự phòng
RRTD hàng năm đối với
cho vay DNXL(%)

Dự phòng RRTD hàng năm của DNXL
=

Tổng dư nợ DNXL

×100%

Hàng năm các Ngân hàng đều phải trích dự phòng rủi ro tín dụng đối với các
khoản nợ để đề phòng trường hợp rủi ro tín dụng xảy ra.
Tùy vào các nhóm nợ, giá trị tài sản đảm bảo mà tỷ lệ trích dự phòng rủi ro
là khác nhau. Theo QĐ 493, Các tổ chức tín dụng phải tiến hành trích dự phòng rủi
ro bao gồm dự phòng chung và dự phòng cụ thể.
Dự phòng chung được trích lập và duy trì bằng 0,75% tổng giá trị các khoản
nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4 theo phân loại nợ tại Điều 6 hoặc Điều 7 QĐ 493.
Dự phòng cụ thể được trích như sau: tỷ lệ dự phòng được trích lập theo các
nhóm nợ như sau:
Nhóm 1: 0%
Nhóm 2: 5%
Nhóm 3: 20%
Nhóm 4: 50%

Nhóm 5: 100%

21


×