Tải bản đầy đủ (.doc) (124 trang)

nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp xây lắp tại ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển việt nam – chi nhánh hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (948.13 KB, 124 trang )

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG

NGUYỄN THỊ DIỆU LINH
N¢NG CAO CHÊT L¦îNG CHO VAY NG¾N H¹N §èI VíI
DOANH NGHIÖP X¢Y L¾P T¹I NG¢N HµNG THƯƠNG M IẠ
C PH N §ÇU T¦ Vµ PH¸T TRIÓN VIÖT NAMỔ Ầ
CHI NH¸NH Hµ NéI
Chuyên ngành : Kinh tế tài chính - Ngân hàng
Mã số : 60.31.12
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ KIM NHUNG
HÀ NỘI - 2012
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn là công trình nghiên cứu khoa học,
độc lập của tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có
nguồn gốc rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Thị Diệu Linh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1 4
TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT ĐỘNG CHO
VAY NGẮN HẠN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI DOANH
NGHIỆP XÂY LẮP 4
1.1. NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT ĐỘNG, NGUYÊN TẮC CHO
VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 4
1.1.1. Tổng quan về ngân hàng thương mại 4
1.1.2. Hoạt động và nguyên tắc cho vay của Ngân hàng thương mại 6
1.2. DOANH NGHIỆP XÂY LẮP VÀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY NGẮN HẠN


CỦA NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP XÂY LẮP 9
1.2.1. Tổng quan về doanh nghiệp xây lắp 9
1.2.2. Hoạt động cho vay ngắn hạn của ngân hàng đối với doanh nghiệp xây lắp
21
1.3. NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CỦA HOẠT ĐỘNG CHO VAY NGẮN
HẠN ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP XÂY LẮP 27
1.3.1. Quan niệm về chất lượng trong cho vay ngắn hạn 27
1.3.2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng hoạt động cho vay ngắn hạn của ngân
hàng đối với doanh nghiệp xây lắp 29
1.4. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG
CHO VAY NGẮN HẠN CỦA NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
XÂY LẮP 35
1.4.1. Nhóm nhân tố khách quan 36
1.4.2. Nhóm nhân tố chủ quan 38
CHƯƠNG 2 45
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI VỚI 45
CÁC DOANH NGHIỆP XÂY LẮP TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ
PHẦN ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM – CHI NHÁNH HÀ NỘI
45
2.1. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN ĐẦU TƯ
VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM – CHI NHÁNH HÀ NỘI 45
2.1.1. Sự ra đời và phát triển của Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát
triển Việt Nam – Chi nhánh Hà Nội 45
2.1.2. Cơ cấu tổ chức tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển
Việt Nam – Chi nhánh Hà Nội 48
2.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu
tư và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Hà Nội 49
2.2. THỰC TRẠNG CHO VAY NGẮN HẠN VÀ CHẤT LƯỢNG CHO VAY
NGẮN HẠN ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP XÂY LẮP TẠI BIDV HÀ NỘI 56
2.2.1. Những vấn đề cơ bản trong hoạt động cho vay ngắn hạn tại BIDV Hà Nội

56
2.2.2. Thực trạng cho vay ngắn hạn đối với các doanh nghiệp xây lắp tại BIDV
Hà Nội 63
2.2.3. Phân tích chất lượng cho vay ngắn hạn đối với các DNXL tại BIDV Hà
Nội 68
2.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CHO VAY NGẮN HẠN ĐỐI
VỚI DOANH NGHIỆP XÂY LẮP TẠI BIDV HÀ NỘI 76
2.3.1. Những kết quả đạt được 77
2.3.2. Những hạn chế tồn tại và nguyên nhân 78
CHƯƠNG 3 86
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO VAY NGẮN HẠN 86
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP XÂY LẮP TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
86
CỔ PHẦN ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM – CHI NHÁNH HÀ
NỘI 86
3.1. ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG BIDV HÀ NỘI
TRONG THỜI GIAN TỚI 86
3.1.1. Định hướng chung của Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát
triển Việt Nam giai đoạn 2011-2015 86
3.1.2. Định hướng hoạt động năm 2012 tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu
tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Hà Nội 88
3.2. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO VAY NGẮN HẠN
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP XÂY LẮP 89
3.2.1. Hoàn thiện chiến lược nâng cao chất lượng cho vay nói chung và cho vay
ngắn hạn đối với doanh nghiệp xây lắp nói riêng 89
3.2.2. Xây dựng chiến lược Marketing 93
3.2.3. Hoàn thiện quy trình, chính sách cho vay đối với doanh nghiệp xây lắp. .95
3.2.4. Hoàn thiện hệ thống định hạng tín dụng đối với khách hàng vay vốn 96
3.2.5. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong
hoạt động cho vay ngắn hạn 100

3.2.6. Phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro chính xác, phù hợp với quy định101
3.2.7. Áp dụng các biện pháp xử lý linh hoạt các khoản tín dụng đã cấp 102
3.2.8. Đẩy mạnh đào nhằm nâng cao chất lượng cán bộ 103
3.2.9. Khai thác hiệu quả những ứng dụng công nghệ thông tin 104
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 105
3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ và các Bộ, ngành liên quan 105
3.3.3. Kiến nghị với Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt
Nam 108
3.3.4. Kiến nghị với các chủ thể tham gia hoạt động xây lắp 109
KẾT LUẬN 113
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt Nguyên nghĩa
BIDV Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam
BIDV Hà Nội Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Hà
Nội
CNTT Công nghệ thông tin
DNXL Doanh nghiệp xây lắp
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần
TA2 Đề án chuyển đổi mô hình tổ chức BIDV giai đoạn 2007-
2010
TCTD Tổ chức tín dụng
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
TSĐB Tài sản đảm bảo
QHKH Quan hệ khách hàng
QLRR Quản lý rủi ro
QTTD Quản trị tín dụng
SIBS Hệ thống quản lý dữ liệu Ngân hàng
SXKD Sản xuất kinh doanh

VLXD Vật liệu xây dựng
DNNN Doanh nghiệp nhà nước
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ VÀ SƠ ĐỒ
Sơ đồ, bảng biểu:
LỜI CAM ĐOAN 3
Sơ đồ 2.1: Mô hình hoạt động tại BIDV Hà Nội 48
Bảng 2.1: Kết quả kinh doanh của BIDV Hà Nội giai đoạn 2009 - 2011 50
2.1.3.1. Về lợi nhuận trước thuế 50
Bảng 2.2: Tình hình huy động vốn của BIDV Hà Nội giai đoạn 2009 - 2011
52
2.1.3.1. Tình hình sử dụng vốn 54
Bảng 2.3: Tình hình sử dụng vốn của BIDV Hà Nội giai đoạn 2009 - 2011. 55
Bảng 2.4: Tình hình dư nợ cho vay đối với DNXL tại BIDV Hà Nội 64
giai đoạn 2009 - 2011 64
Bảng 2.5: Cơ cấu dư nợ cho vay ngắn hạn phục vụ thi công xây lắp 65
Bảng 2.6: Doanh số cho vay ngắn hạn đối với DNXL 66
giai đoạn 2009 - 2011 66
Bảng 2.7: Doanh số thu nợ ngắn hạn đối với DNXL giai đoạn 2009 - 2011. 67
Bảng 2.8: Tỷ lệ dư nợ cho vay ngắn hạn đối với DNXL có TSĐB 69
giai đoạn 2009 - 2011 69
Bảng 2.9: Tỷ lệ nợ ngắn hạn quá hạn của DNXL giai đoạn 2009-2011 71
Bảng 2.10: Tỷ lệ TLDP cụ thể đối với từng nhóm nợ 74
Bảng 2.11: Tỷ trọng thu nhập từ hoạt động cho vay đối với DNXL 76
giai đoạn 2009-2011 76
Bảng 3.1: Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ 97
Biểu đồ:
Biểu đồ 2.1: Lợi nhuận trước thuế tại BIDV Hà Nội giai đoạn 2009 - 2011.51
Biểu đồ 2.2: Cơ cấu huy động vốn của BIDV Hà Nội theo khách hàng 53
giai đoạn 2009 - 2011 53
Biểu đồ 2.3: Cơ cấu sử dụng vốn tại BIDV Hà Nội theo kỳ hạn 55

giai đoạn 2009 - 2011 55
Biểu đồ 2.4: Cơ cấu dư nợ DNXL theo đối tượng khách hàng 66
giai đoạn 2009 - 2011 66
Biểu đồ 2.5: Tỷ trọng doanh số cho vay ngắn hạn đối với DNXL 67
từ năm 2009 đến 2011 67
Biểu đồ 2.6: Tỷ trọng doanh số thu nợ ngắn hạn đối với DNXL 68
từ năm 2009 đến 2011 68
Biểu đồ 2.7: Tỷ lệ dư nợ cho vay ngắn hạn đối với DNXL có TSĐB 70
giai đoạn 2009 - 2011 70
Biểu đồ 2.8: Dư nợ ngắn hạn quá hạn của DNXL giai đoạn 2009 – 2011 71
Biểu đồ 2.9: Tỷ lệ Nợ quá hạn của DNXL giai đoạn 2009 – 2011 72
Biểu đồ 2.10: Tỷ trọng cho vay và thu nhập từ các DNXL 76
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) nói chung và
Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Hà Nội (BIDV Hà
Nội) nói riêng đã không ngừng nỗ lực trong hoạt động: Một mặt vừa là NHTM
tiên phong trong việc thực thi các chính sách tiền tệ của Chính phủ và NHNN để
ổn định kinh tế vĩ mô: Đi đầu trong việc hạ lãi suất cho vay, thực hiện tốt chủ
trương hỗ trợ lãi suất của Chính phủ nhằm giúp các doanh nghiệp vượt qua khó
khăn trong suy thoái kinh tế, tham gia vào nhiều chương trình an sinh xã hội
đồng thời vẫn đảm bảo hoạt động kinh doanh hiệu quả cao và an toàn hệ thống.
BIDV Hà Nội là một trong những Chi nhánh được thành lập sớm nhất của
hệ thống BIDV (chỉ thành lập sau Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt
Nam một tháng). Với 55 năm xây dựng và phát triển, BIDV Hà Nội đã góp phần
không nhỏ đóng góp cho việc xây dựng, phát triển kinh tế đất nước và kinh tế
Thủ đô. Từ năm 1995 trở về trước, với thế mạnh là một Ngân hàng chuyên cấp
phát vốn đầu tư xây dựng cơ bản và cho vay các nhà thầu thi công, đến nay khi
chính thức chuyển sang hoạt động kinh doanh của NHTM, BIDV nói chung và
BIDV Hà Nội nói riêng vẫn là Ngân hàng có uy tín và kinh nghiệm hàng đầu của

Việt Nam trong lĩnh vực cho vay đầu tư xây dựng cơ bản, xây lắp các công trình
phục vụ kiến thiết đất nước. Bằng nguồn vốn cho vay, BIDV Hà Nội đã giúp cho
các doanh nghiệp là các Chủ đầu tư và các Nhà thầu thi công xây dựng nhiều
công trình trọng điểm quốc gia góp phần phát triển kinh tế đất nước đồng thời
phân loại, lựa chọn các doanh nghiệp có năng lực thi công, khả năng thích nghi
và đáp ứng tốt những điều kiện phát triển trong nền kinh tế hội nhập, cạnh tranh
để hỗ trợ, song hành cùng với các doanh nghiệp tồn tại và phát triển vững chắc.
Hiện nay, theo định hướng của hệ thống, BIDV Hà Nội đã và đang hướng
tới là một Chi nhánh Ngân hàng kinh doanh đa năng, tổng hợp, đa dạng các loại
hình cung cấp dịch vụ đồng thời không ngừng mở rộng thị phần, mở rộng đối
tượng khách hàng. Tuy nhiên, với hơn nửa thế kỷ lịch sử hình thành và phát
triển, nhóm khách hàng truyền thống chủ yếu hiện nay của BIDV Hà Nội vẫn là
1
các khách hàng hoạt động trong lĩnh vực thi công xây lắp. Các loại hình dịch vụ
chủ yếu mà BIDV Hà Nội cung cấp cho nhóm đối tượng khách hàng này là: Cho
vay bổ sung vốn lưu động ngắn hạn, cho vay đầu tư tài sản, cấp bảo lãnh, các
dịch vụ thanh toán trong và ngoài nước… trong đó sản phẩm dịch vụ chiếm tỷ
trọng lớn và mang lại thu nhập cao cho BIDV Hà Nội là cho vay bổ sung vốn
lưu động ngắn hạn. Mặt khác, trong giai đoạn hiện nay, các doanh nghiệp xây
lắp đang đứng trước những khó khăn, thử thách, đặc biệt là thiếu vốn, thiếu thiết
bị thi công… nên ảnh hưởng lớn đến khả năng thi công và đảm bảo tiến độ công
trình đúng theo yêu cầu đặt ra, do vậy làm ảnh hưởng lớn đến khả năng trả nợ
cho Ngân hàng, dẫn đến ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Xuất phát từ thực tiễn trên, học viên đã lựa chọn đề tài: “Nâng cao chất
lượng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp xây lắp tại Ngân hàng thương
mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Hà Nội” để làm đề
tài cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu những lý luận chủ yếu liên quan đến hoạt động của các ngân
hàng thương mại (NHTM) nói chung và hoạt động cho vay ngắn hạn đối với các

doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp nói riêng trong điều kiện các
ngân hàng hướng tới hoạt động cho vay an toàn, hiệu quả.
- Phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng cho vay ngắn hạn đối với doanh
nghiệp xây lắp tại BIDV Hà Nội trong thời gian gần đây, nêu bật các kết quả đạt
được và những mặt còn tồn tại hạn chế đồng thời chỉ ra các căn nguyên của
những tồn tại đó.
- Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng trong cho
vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp xây lắp tại BIDV Hà Nội.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Chất lượng cho vay ngắn hạn đối với các doanh
nghiệp xây lắp tại BIDV Hà Nội.
- Phạm vi nghiên cứu: Các số liệu về tình hình hoạt động cho vay xây lắp
tại BIDV Hà Nội.
2
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử đồng
thời kết hợp với phương pháp thống kê kinh tế, phân tích kinh tế và tổng hợp, hệ
thống hóa lý luận để làm sang tỏ các vấn đề đặt ra nhằm tìm ra các giải pháp nâng
cao chất lượng cho vay ngắn hạn đối với các DNXL tại BIDV Hà Nội.
5. Kết cấu luận văn
Ngoài mở đầu và kết luận, nội dung luận văn gồm ba chương, đó là:
- Chương 1: Tổng quan về Ngân hàng thương mại và hoạt động cho vay ngắn
hạn của Ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp xây lắp.
- Chương 2: Thực trạng chất lượng cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp xây lắp
tại Ngân hàng TMCP ĐT&PT Việt Nam – Chi nhánh Hà Nội.
- Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn đối với doanh
nghiệp xây lắp tại Ngân hàng TMCP ĐT&PT Việt Nam– Chi
nhánh Hà Nội.
3
CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT ĐỘNG CHO
VAY NGẮN HẠN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI DOANH
NGHIỆP XÂY LẮP
1.1. NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT ĐỘNG, NGUYÊN TẮC
CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Tổng quan về ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại (NHTM) là một trong các tổ chức tài chính quan trọng
nhất của nền kinh tế, là công cụ thực hiện các chính sách kinh tế, chính sách tiền tệ
của Chính phủ nhằm ổn định và phát triển kinh tế vĩ mô của mỗi quốc gia.
Ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết nền kinh tế.
Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội
đều gửi tiền tại ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò là người thủ quỹ cho toàn xã
hội. Ngân hàng là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá nhân, hộ
gia đình và một phần đối với Nhà nước. Khi doanh nghiệp và người tiêu dùng
phải thanh toán cho các khoản mua hàng hoá và dịch vụ, họ thường sử dụng séc,
uỷ nhiệm chi, thẻ tín dụng hay tài khoản điện tử… Và khi họ cần thông tin tài
chính hay lập kế hoạch tài chính, họ thường đến các ngân hàng để được tư vấn.
Các khoản tín dụng của ngân hàng cho Chính phủ là nguồn tài chính quan trọng
để đầu tư phát triển.
Theo Luật Các tổ chức tín dụng được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 16 tháng 6 năm
2010: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các
hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng 2010. Theo
tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng
thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã”.
1.1.1.2. Chức năng và hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
Là trung gian tài chính: Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với
4
hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai

loại cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế. (1) các cá nhân và tổ chức tạm thời
thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì
thế họ là những người cần bổ sung vốn; và (2) cá nhân và tổ chức thặng dư trong
chi tiêu, tức là thu nhập hiên tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hoá,
dịch vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm.
Tạo phương tiện thanh toán: Khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản
tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua
hàng hoá, dịch vụ. Do đó, bằng việc cho vay (hay tạo tín dụng) các ngân hàng đã
tạo ra phương tiện thanh toán.
Trung gian thanh toán: Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh
toán giá trị hàng hoá và dịch vụ. Để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và
tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán
như thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ… cung cấp mạng
lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng
cần. Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân
hàng trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán.
Để thực hiện các chức năng của mình, các NHTM có các hoạt động chủ
yếu sau:
Hoạt động huy động vốn: là hoạt động cơ bản đầu tiên của một NHTM.
Một trong các nguồn vốn huy động quan trọng nhất là các khoản tiền gửi. Ngân
hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền với cam kết hoàn
trả đúng hạn cả gốc và lãi cho khách hàng đúng hạn.
Hoạt động cho vay và đầu tư: Trên cơ sở nguồn vốn tự có và nguồn vốn
huy động được, cho vay và đầu tư là hoạt động kinh doanh chính, chiếm tỷ trọng
lớn nhất ở phần lớn các NHTM, phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng.
Trong đó nghiệp vụ cho vay được ngân hàng thỏa thuận với khách hàng để
khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp
vụ cho vay, chiết khấu, bảo lãnh và các nghiệp vụ khác.
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ: Thực hiện nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ
5

là việc NHTM tham gia kinh doanh ngoại tệ trên thị trường hối đoái với tư cách
kinh doanh cho khách hàng (ngân hàng hưởng phí dịch vụ) và kinh doanh cho
chính bản thân ngân hàng. NHTM tiến hành mua bán ngoại tệ trên thị trường
giao ngay hay thực hiện các giao dịch mua bán kỳ hạn các loại ngoại tệ và hưởng
phí dịch vụ.
Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán:Ngân hàng
thực hiện việc cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán theo yêu
cầu của cá nhân và doanh nghiệp.
Ngoài ra, ngân hàng còn thực hiện cung cấp dịch vụ ủy thác và tư vấn,
cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán, cung cấp dịch vụ bảo hiểm, dịch
vụ đại lý
1.1.2. Hoạt động và nguyên tắc cho vay của Ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Khái niệm hoạt động cho vay, nguyên tắc cho vay của NHTM
• Khái niệm
Theo Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc
NHNN về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng,
hoạt động cho vay được hiểu là một hình thức cấp tín dụng, theo đó, tổ chức tín dụng
giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian
nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
• Nguyên tắc
Hoạt động cho vay trước tiên phải được đặt trên quan hệ tín nhiệm, do đó
doanh nghiệp muốn vay vốn được từ ngân hàng thì phải tạo được uy tín, niềm tin
đối với ngân hàng trên cơ sở đáp ứng đầy đủ các điều kiện vay vốn của ngân
hàng. Ngân hàng cho doanh nghiệp vay cần đảm bảo 3 nguyên tắc:
- Doanh nghiệp phải sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thỏa thuận trong
hợp đồng vay vốn:
Việc sử dụng vốn vay vào mục đích gì được ngân hàng và doanh nghiệp
thỏa thuận và ghi trong hợp đồng vay vốn. Doanh nghiệp phải cam kết sử dụng vốn
vay đúng mục đích thỏa thuận nhằm đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn vay và khả
năng thu hồi nợ sau này. Do vậy, về phía ngân hàng, trước khi cho vay cần tìm hiểu

6
rõ mục đích vay vốn của doanh nghiệp đồng thời phải kiểm tra xem doanh nghiệp
có sử dụng vốn vay đúng mục đích hay không. Về phía các doanh nghiệp, việc sử
dụng vốn vay đúng mục đích góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay đồng
thời giúp doanh nghiệp đảm bảo khả năng trả nợ cho ngân hàng.
- Doanh nghiệp phải hoàn trả nợ gốc và lãi vay đúng thời hạn đã thỏa
thuận trong hợp đồng cho vay:
Hoàn trả nợ gốc và lãi là một nguyên tắc không thể thiếu trong hoạt động
cho vay. Điều này xuất phát từ tính chất tạm thời nhàn rỗi của nguồn vốn mà
ngân hàng sử dụng để cho vay. Đại đa số nguồn vốn mà ngân hàng sử dụng để
cho vay là vốn huy động từ khách hàng gửi tiền, do đó, sau khi cho vay trong
một thời gian nhất định ngân hàng cần thu hồi vốn gốc và lãi cho vay để có
nguồn thu để trả gốc và lãi tiền gửi. Đây là điều kiện để ngân hàng tồn tại và
phát triển.
- Ngân hàng tài trợ dựa trên những phương án có hiệu quả:
Thực hiện nguyên tắc này là điều kiện để thực hiện nguyên tắc thứ hai.
Phương án hoạt động có hiệu quả đảm bảo cho khả năng thu hồi được vốn đầu tư
và có lãi để trả nợ ngân hàng. Các khoản tài trợ của ngân hàng phải gắn liền với
việc hình thành tài sản của doanh nghiệp. Trong trường hợp không thấy an toàn,
ngân hàng sẽ đòi hỏi doanh nghiệp phải có Tài sản đảm bảo (TSĐB) khi cho vay.
1.1.2.2. Phân loại hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
Hoạt động cho vay của các NHTM hiện nay rất đa dạng và phong phú với
nhiều hình thức khác nhau. Việc phân loại tín dụng có ý nghĩa quan trọng trong thực
hiện cân đối nguồn vốn huy động và sử dụng vốn của ngân hàng. Phân loại hoạt động
cho vay có cơ sở khoa học là tiền đề để thiết lập các quy trình thích hợp và nâng cao
hiệu quả QLRR. Có thể phân hoạt động cho vay dựa trên các tiêu thức sau:
• Căn cứ theo thời gian:
Cho vay ngắn hạn: là các khoản vay có thời gian vay đến 12 tháng.
Cho vay trung hạn: là các khoản vay có thời gian vay từ trên 1 năm đến
5 năm.

Cho vay dài hạn: là các khoản vay có thời hạn từ trên 5 năm.
7
• Căn cứ theo hình thức tài trợ vốn vay: Có cho vay Thấu chi, Cho
vay trực tiếp từng lần, Cho vay theo hạn mức, Cho vay luân chuyển, Cho vay trả
góp, Cho vay gián tiếp.
• Căn cứ theo TSĐB vốn vay: gồm có Cho vay có TSĐB, Cho vay
không có TSĐB
1.1.2.3. Hoạt động cho vay ngắn hạn của NHTM
Hoạt động cho vay ngắn hạn của các NHTM nhằm tài trợ cho tài sản lưu
động hoặc nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của Nhà nước, doanh nghiệp, hộ sản
xuất và nguồn vốn này tham gia vào hầu hết các khâu trong hoạt động tạo ra sản
phẩm phục vụ nhu cầu của con người từ khâu sản suất đến khâu lưu thông, tiêu
thụ sản phẩm.
Đối tượng, mục đích cho vay ngắn hạn của các NHTM cũng rất đa dạng,
phong phú:
- Cho Nhà nước vay để tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.
- Cho vay đối với các tổ chức tài chính khác như các ngân hàng, các công ty
tài chính, quỹ tín dụng… nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản.
- Cho vay đối với doanh nghiệp nhằm tài trợ, bổ sung nhu cầu vốn lưu động
cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Các NHTM căn cứ quy định của Luật Các tổ chức tín dụng, quy chế cho
vay của NHNN để xây dựng chính sách cấp tín dụng phù hợp với định hướng
kinh doanh của hệ thống trong từng thời kỳ. Tuy nhiên hiên nay, để được vay
vốn, trừ trường hợp Nhà nước hoặc cơ quan Nhà nước, các tổ chức tài chính có
uy tín, còn lại các doanh nghiệp, các công ty và hộ sản xuất đều phải có phương
án sản xuất kinh doanh khả thi và TSĐB nợ vay theo quy định của Ngân hàng.
Ngân hàng thực hiện phân tích toàn diện về khách hàng vay vốn, xác định hiệu
quả sử dụng vốn vay, rủi ro, khả năng và nguồn trả nợ Ngân hàng và các vấn đề
liên quan khác.
Một số trường hợp ngân hàng không phân tích được phương án vay (do

thông tin không đầy đủ hoặc không chính xác, hoặc rủi ro lớn) ngân hàng quyết
định số tiền cho vay dựa vào giá trị của tài sản sản đảm bảo.
8
Số tiền có thể cho vay = Giá trị TSĐB x Tỷ lệ cho vay
Nếu nhu cầu vay lớn hơn số tiền có thể cho vay, ngân hàng sẽ cho vay theo số
tiền có thể cho vay; nếu nhu cầu vay nhỏ hơn, ngân hàng sẽ cho vay theo nhu cầu.
1.2. DOANH NGHIỆP XÂY LẮP VÀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY NGẮN
HẠN CỦA NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP XÂY LẮP
1.2.1. Tổng quan về doanh nghiệp xây lắp
1.2.1.1. Khái niệm về doanh nghiệp xây lắp
Xây lắp được hiểu một cách cơ bản là những công việc thuộc quá trình
xây dựng và lắp đặt thiết bị các công trình, hạng mục công trình.
Doanh nghiệp xây lắp (DNXL) là loại hình doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực thi công xây dựng công trình, bao gồm xây dựng và lắp đặt thiết bị công
trình mới, sửa chữa, cải tạo, di dời, tu bổ, phục hồi, phá vỡ công trình, bảo hành,
bảo hành công trình…
Trách nhiệm của doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp:
- Đăng ký hoạt động xây dựng tại các cơ quan có thẩm quyền theo quy định
của pháp luật.
- Chịu trách nhiệm trước pháp luật và Chủ đầu tư về các nội dung đã cam
kết trong hợp đồng, bao gồm cả số lượng, chất lượng, tính chính xác của sản
phẩm, thời gian thực hiện hợp đồng, có quy định và hướng dẫn sử dụng công
trình trước khi bàn giao công trình xây dựng, thực hiện bảo hành chất lượng sản
phẩm xây dựng và công trình theo quy định.
- Thực hiện chế độ bảo hiểm công trình xây dựng, thực hiện an toàn lao
ðộng, bảo vệ môi trýờng sinh thái trong quá trình xây dựng. Thông tin rộng rãi
về năng lực hoạt động của Doanh nghiệp để Chủ đầu tư biết và lựa chọn.
1.2.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp xây lắp
Ngành xây lắp là ngành sản xuất vật chất đặc biệt có những đặc điểm riêng
khác so với những ngành sản xuất vật chất khác. Xuất phát từ những đặc thù riêng

đó, sản phẩm xây lắp cũng có đặc điểm riêng, khác với sản phẩm hàng hóa của
ngành sản xuất vật chất khác ở chỗ mỗi sản phẩm đều có yêu cầu riêng về công
nghệ, về quy phạm, về tiện nghi, về mỹ quan và sự an toàn. Những đặc điểm riêng
9
của ngành và đặc điểm của sản phẩm xây lắp sẽ chi phối công tác tổ chức quản lý,
điều hành. Việc nghiên cứu nắm rõ các đặc điểm này, giúp ngân hàng đưa ra
những quyết định chính xác, nắm rõ được những rủi ro và đề ra những phương án
khắc phục rủi ro, nhằm tiến hành cho vay, bảo lãnh có hiệu quả.
Trong xây dựng người ta thường phân biệt giữa một bên là Chủ đầu tư
(bên A) và Doanh nghiệp thi công xây lắp - thường được gọi là các Nhà thầu
(bên B). Các doanh nghiệp thi công xây lắp là các đơn vị ký hợp đồng thi công
xây lắp trực tiếp với Chủ đầu tư hoặc nhận lại một phần việc thi công xây lắp
công trình từ các Nhà thầu chính (còn gọi các doanh nghiệp này là các Nhà thầu
phụ), chịu trách nhiệm trong vấn đề xây dựng các công trình theo thiết kế của
Chủ đầu tư. Hiện nay, hầu hết các công trình, hạng mục công trình sử dụng
nguồn vốn ngân sách, Chủ đầu tư là các doanh nghiệp Nhà nước đều được thực
hiện tổ chức đấu thầu hoặc chỉ định thầu theo quy chế đấu thầu của Chính phủ
nhằm chọn được các nhà thầu có đầy đủ tư cách pháp nhân, năng lực thi công
thực sự với chất lượng đảm bảo và giá cả hợp lý.
• Đặc điểm về sản xuất kinh doanh:
Các hoạt động sản xuất chính của Doanh nghiệp xây lắp (DNXL) là:

Chế tạo các sản phẩm thuộc các loại hình:
- Các loại thiết bị phục vụ cho các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp
nhẹ như: Dệt may, nhiệt điện, thuỷ điện, xi măng, dầu khí……
- Thiết bị xây dựng, thiết bị bê tông, thiết bị gạch, thiết bị băng tải, gầu tải,
vít tải, thiết bị lọc bụi tĩnh điện, lọc bụi túi…
- Kết cấu thép, khung nhà công nghiệp, đầm chịu lực, giàn không gian.
- Thiết bị phi tiêu chuẩn, đường ống công nghiệp.
- Các loại bình bể, silo chứa.


Xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình nhà ở dân dụng, công nghiệp,
các công trình thuỷ lợi, giao thông:
- Xây dựng cơ sở hạ tầng các khu đô thị, khu công nghiệp.
- Xây dựng nhà công nghiệp, dân dụng, trường học, bệnh viện.
- Xây dựng trạm bơm, đê, kè, hồ chứa nước., cảng sông, cảng biển
10
- Thi công các công trình giao thông.
- Xây dựng các công trình

Thực hiện lắp đặt:
- Lắp đặt thiết bị công nghệ cho các công trình, dự án xây dựng.
- Lắp khung nhà công nghiệp, xưởng sản xuất.
- Lắp thiết bị tự động, thiết bị điện, thiết bị đo, hiệu chỉnh điện.
- Lắp đặt hệ thống điều hòa.
- Các công tác lắp đặt khác liên quan trong ngành xây dựng.

Thực hiện các dịch vụ khác:
- Cung cấp thiết bị cho công trình công nghiệp, công trình nhiệt điện, thủy
điện, các trạm bơm biến áp, đường dây…
- Đào tạo công nhân kỹ thuật.
- Xuất nhập khẩu thiết bị, vật tư.
- Xuất khẩu lao động.
- Tư vấn đầu tư lao động.
- Thiết kế.
• Đặc điểm về cơ cấu tổ chức, quản lý trong các DNXL:
Các DNXL do đặc thù sản xuất kinh doanh trên diện rộng, sản phẩm sản
xuất ra nằm trên nhiều địa bàn khác nhau đòi hỏi cơ cấu tổ chức, quản lý phù
hợp, đảm bảo hiệu quả kinh doanh. Hiện nay, tuỳ vào quy mô hoạt động kinh
doanh và hình thức sở hữu mà các doanh nghiệp xây dựng có cơ cấu tổ chức,

quản lý phù hợp với đặc điểm của đơn vị mình.
- Đối với các doanh nghiệp là các tập đoàn, các Tổng công ty: Cơ cấu tổ chức
được xây dựng theo mô hình Công ty mẹ- Công ty con, công ty liên doanh, liên kết…
hoạt động kinh doanh theo định hướng, kế hoạch của Công ty mẹ.
- Đối với các Công ty cổ phần, các công ty cổ phần có quy mô vốn, tài sản
tương đối lớn: Thực hiện cơ cấu tổ chức theo mô hình Công ty mẹ- Công ty con
kết hợp với việc thành lập các Chi nhánh, văn phòng đại diện, các xí nghiệp hạch
toán phụ thuộc, các nhà máy, trung tâm… Số lượng, quy mô và loại hình tổ chức
được hình thành, sắp xếp phù hợp với quy mô hoạt động, sản xuất kinh doanh
11
của từng doanh nghiệp.
- Đối với các DNXL có quy mô vừa và nhỏ: Mô hình tổ chức quản lý sẽ
được bố trí xắp xếp gọn nhẹ, đảm bảo hiệu quả sản xuất kinh doanh.
• Đặc điểm của sản phẩm xây lắp:
Thứ nhất, sản phẩm xây lắp có tính đơn chiếc, riêng lẻ.
Mỗi một sản phẩm xây lắp đều được thiết kế riêng theo mục đích sử dụng
riêng. Mỗi công trình đều có yêu cầu riêng về kỹ thuật, về quy phạm, về tiện
nghi, về mỹ quan, về an toàn… Do đó, khối lượng, chất lượng và chi phí xây
dựng của mỗi công trình đều khác nhau.
Từ đặc điểm này cho thấy sản phẩm xây lắp có thể giống nhau về hình
thức, song về kết cấu, chất lượng thì không giống nhau hoàn toàn nếu xây dựng
ở những địa điểm khác nhau. Nên mặc dù có thể sản xuất hàng loạt theo mẫu
thiết kế thống nhất nhưng chi phí xây dựng không thống nhất. Mỗi công trình, dự
án đầu tư đều bị chi phối bởi các điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, hoàn cảnh
khách quan… nên chi phí xây dựng cũng khác nhau. Do đó, trong xây dựng luôn
đòi hỏi phải có dự toán cụ thể cho từng công trình, từng hạng mục công trình và
dự toán chi tiết theo thiết kế tổ chức thi công, dự án gắn liền với việc chấp hành
nghiêm chỉnh quy trình, quy phạm kỹ thuật. Quá trình sản xuất xây lắp phải so
sánh với dự toán, lấy dự toán làm thước đo, đồng thời để giảm bớt rủi ro phải
mua bảo hiểm cho công trình xây lắp.

Thứ hai, sản phẩm xây lắp có tính chất cố định, nơi sản xuất gắn liền với
nơi tiêu thụ sản phẩm, phụ thuộc trực tiếp vào điều kiện, khí hậu, địa chất, thủy
văn, khí hậu.
Đặc điểm này cho thấy:
- Nơi tiêu thụ sản phẩm xây lắp gắn liền với nơi sản xuất và có tính chất
cố định lâu dài.
- Nơi sản xuất biến động nên lực lượng sản xuất thi công (lao động, thiết
bị thi công, vật tư kỹ thuật…) luôn luôn di động.Đặc điểm này là một trở ngại lớn
cho công tác tổ chức sản xuất chung, khiến cho việc bố trí các công trình tạm thời
để phục vụ thi công như lán trại, kho tàng… phối hợp với phương tiện, máy móc,
12
thiết bị nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp và chi phí tốn kém.
- Chất lượng và giá cả (chi phí xây dựng) sản phẩm chịu ảnh hưởng trực
tiếp của các điều kiện tự nhiên. Do vậy, để giảm thiểu lãng phí, thất thoát do nguyên
nhân khách quan bởi các tác động trên đòi hỏi trước khi khởi công xây dựng công
trình phải làm thật tốt công tác chuẩn bị ðầu tý và chuẩn bị xây dựng.
Điều này đòi hỏi cần có giải pháp tài chính để kiểm tra việc sử dụng và quản
lý vốn đầu tư ngay từ khâu đầu tiên là xác định chủ trương đầu tư, lựa chọn địa
điểm, điều tra khảo sát, thăm dò… để dự án đầu tư bảo đảm tính khả thi cao. Đặc
điểm này cũng cho thấy trình độ tổ chức quản lý có ý nghĩa quyết định đối với kết
quả hoạt động sản xuất của đơn vị xây lắp.
Thứ ba, sản phẩm xây lắp có quy mô lớn, kết cấu phức tạp:
Sản phẩm xây dựng với tư cách là công trình xây dựng khi đã hoàn thành
đưa vào sử dụng, đưa vào trao đổi mua bán trên thị trường bất động sản là tài sản
cố định nên không thể là những sản phẩm bé nhỏ như sản xuất hàng loạt trong sản
xuất công nghiệp. Do vậy, trong quản lý kinh tế, quản lý hoạt động đầu tư xây
dựng đòi hỏi Chủ đầu tư cũng như Nhà Thầu xây dựng cần có kế hoạch, bố trí vốn
phù hợp để sản phẩm được sản xuất, đưa vào sử dụng đáp ứng các yêu cầu về tiến
độ, chất lượng, kỹ thuật đảm bảo các tiêu chuẩn đề ra.
Với đặc điểm quy mô lớn và phức tạp của sản phẩm xây lắp dẫn đến chu kỳ

sản xuất dài. Do đó, vốn đầu tư bỏ vào để xây dựng dễ bị ứ đọng, gây lãng phí,
hoặc ngược lại nếu thiếu vốn sẽ làm công tác thi công bị gián đoạn, kéo dài thời
gian xây dựng. Từ đặc điểm này yêu cầu trong công tác quản lý phải có kế hoạch
thi công rõ ràng, hợp lý, có biện pháp kỹ thuật thi công tốt để rút ngắn thời gian
xây dựng, tiết kiệm chi phí, hạ thành sản phẩm. Trên góc độ tài chính đòi hỏi phải
có giải pháp quản lý chi phí và quản lý công tác thanh toán vốn đầu tư giữa Chủ
đầu tư với Nhà thầu, giữa Chủ đầu tư với cơ quan cấp vốn đầu tư xây dựng …
Thứ tư, sản phẩm xây lắp có thời gian sử dụng lâu dài, chất lượng của sản
phẩm có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả hoạt động của các ngành khác.
Sản phẩm của các ngành sản xuất vật chất khác thường có thời gian sử
dụng ngắn. Sản phẩm của ngành xây lắp là các công trình xây dựng mang tính
13
chất là tài sản cố định nên có thời gian sử dụng rất lâu dài và tham gia vào nhiều
chu kỳ sản xuất, sử dụng nhưng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu. Từ
đặc điểm này đòi hỏi chất lượng công trình phải tốt. Muốn vậy phải chú trọng
nâng cao chất lượng công tác quản lý kinh tế và chất lượng xây dựng ở tất cả các
khâu công tác: điều tra, khảo sát, lập dự án đầu tư, nghiệm thu, quyết toán vốn
đầu tư dự án hoàn thành và chế độ bảo hành công trình.
Do đặc điểm thời gian sử dụng dài, tuổi thọ cao, nên sai lầm trong xây dựng
sẽ gây tổn thất lớn cả về giá trị và chất lượng công trình, từ đó gây ra những hậu
quả trong ngắn hạn và dài hạn. Do đó, trong quá trình thực hiện phải giám sát chặt
chẽ mọi hoạt động và các chi phí phát sinh ở từng giai đoạn xây dựng và giám sát
chất lượng công trình. Đó là công việc thường xuyên, hàng ngày để đảm bảo nguồn
vốn được sử dụng đúng mục đích và chất lượng công trình được đảm bảo.
Thứ năm, đối tượng hạch toán chi phí cụ thể của DNXL là các hạng mục
công trình, các giai đọn của hạng mục hay nhóm hạng mục. Điều này khiến cho
việc lập dự toán chi phí và tính giá thành phải tiến hành thường xuyên và chia theo
từng hạng mục công trình hay theo giai đoạn của từng hạng mục công trình. Trong
khi đó, một đặc điểm cốt yếu của các sản phẩm xây lắp là phải bỏ nhiều chi phí
trong thời gian kéo dài khiến chu kỳ sản xuất có độ dài lớn hơn hẳn so với các chu

kỳ sản xuất công nghiệp thông thường, từ đó làm cho công tác dự toán chi phí và
tính giá thành trở nên khó khăn hơn, đòi hỏi nhiều thời gian, công sức hơn. Sản
phẩm xây lắp từ khi khởi công đến khi hoàn thành công trình bàn giao đưa vào sử
dụng thường kéo dài. Nó phụ thuộc vào quy mô, tính phức tạp về kỹ thuật của từng
công trình. Quá trình thi công chia thành nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn lại chia
thành nhiều công việc khác nhau. Đặc điểm này đòi hỏi việc tổ chức quản lý và
giám sát chặt chẽ sao cho bảo đảm chất lượng công trình đúng như thiết kế, dự toán.
Đặc điểm đặc trưng của sản phẩm xây lắp này còn là nguyên nhân gây nên
tình trạng ứ đọng vốn sản xuất trong khi nhu cầu vốn của các đơn vị xây lắp lại rất
lớn, chưa kể đến những nguyên nhân khác tới từ phia thủ tục, quy định về hoạt
động xây dựng cơ bản của Chính phủ cũng như các yêu cầu riêng của Chủ đầu tư
càng làm cho tình trạng chậm trễ trong thanh toán trở nên phổ biến hơn trong các
14
DNXL.
Thứ sáu, sản phẩm xây lắp được tiêu thụ theo giá dự toán hoặc giá thỏa
thuận với chủ đầu tư (giá đấu thầu). Do vậy, tính chất hàng hóa của sản phẩm xây
lắp không thể hiện rõ như sản phẩm thông thường. Sản phẩm thông thường không
biết người tiêu dùng là ai, còn sản phẩm xây lắp đã được quy định trước giá cả,
người mua, người bán thông qua hợp đồng giao nhận thầu.
Đặc điểm này khiến cho các đơn vị xây lắp có thể chủ động trong việc ký
kết hợp đồng kinh tế, tuy nhiên, nó cũng đòi hỏi các doanh nghiệp này phải có
được trình độ chuyên môn nhất định, cần am hiểu rõ về nghiệp vụ cũng như năng
động trong kinh doanh thì mới có thể đảm bảo được những yêu cầu về kỹ thuật
công trình và khả năng thực hiện công trình đúng như thỏa thuận trong hợp đồng
xây dựng đã ký kết. Đây là điều kiện cần để sản phẩm xây lắp có thể tiêu thụ
được, từ đó DNXL mới có thể thanh lý hợp đồng, thanh toán nợ vay cho ngân
hàng và có được lợi nhuận.
Thứ bảy, sản phẩm xây lắp có liên quan đến nhiều ngành, vùng, địa phương:
Sản phẩm xây lắp là các công trình được sử dụng cho các ngành khác. Ví
dụ như cầu, đường giao thông xây dựng xong để phục vụ các phương tiện vận tải

đi lại. Nhà máy được xây dựng xong phục vụ cho việc sản xuất kinh doanh của
các ngành sản xuất khác. Do vậy, sản phẩm của ngành xây lắp có liên quan trực
tiếp và gián tiếp tới hoạt động của nhiều ngành khác, có liên quan tới nhiều vùng,
nhiều địa phương. Từ đó, đòi hỏi cần phải chú ý cân nhắc kỹ các dự án đầu tư
trước khi triển kha như: Cần có sự đánh giá kỹ lưỡng trên các giác độ về quy
hoạch tổng thể, kỹ thuật, kinh tế, thị trường, các tác động kinh tế - xã hội của sản
phẩm tới kinh tế vĩ mô và tới các ngành, lĩnh vực khác.
Thứ tám, sản phẩm xây lắp mang tính tổng hợp về mặt kỹ thuật, kinh tế,
xã hội, văn hóa, nghệ thuật và quốc phòng.
Đặc điểm này có thể dẫn đến phát sinh các mâu thuẫn, mất cân đối trong
mối quan hệ tổng hợp giữa các mục tiêu, tiêu chí mà sản phẩm cần đạt được
trong sự phối hợp giữa các khâu từ quá trình chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị xây dựng
cho đến quá trình thi công. Để khắc phục tình trạng này đòi hỏi phải có trình độ
15
tổ chức, phối hợp các khâu từ công tác thẩm định dự án, chuẩn bị đấu thầu, giám
sát thi công…
• Đặc điểm về tình hình tài chính của các DNXL:
Thứ nhất, vốn tự có của DNXL thấp, chủ yếu tồn tại dưới dạng máy móc
thiết bị đã qua sử dụng, trụ sở doanh nghiệp. Thực tế hiện nay, vốn chủ sở hữu
của DNXL chỉ chiếm khoảng 5 -15% trong tổng số nguồn vốn của doanh nghiệp,
còn lại là vốn vay ngân hàng và các nguồn vốn chiếm dụng khác. Do đó, gánh
nặng về chi phí lãi vay lớn gây áp lực đến hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp. Trong khi đó, do sản lượng thi công tăng lên cùng với yêu cầu cao về
chất lượng công trình đòi hỏi doanh nghiệp phải có vốn lưu động lớn cũng như
trang bị những thiết bị thi công hiện đại. Vì vậy, nhu cầu vốn (cả vốn ngắn hạn
và vốn đầu tư trung, dài hạn) ngày càng tăng. Do đó, trong hoạt động của các
đơn vị này, nhu cầu vay vốn ngân hàng để hoạt động là thường xuyên và rất lớn.
Thứ hai, nhu cầu vốn lưu động của DNXL thường chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Các ngân hàng thường cho vay các DNXL để bổ sung vốn lưu động, phục vụ thi

công công trình. Đối với nhu cầu đầu tư mới, Ngân hàng thường chỉ tham gia tài
trợ một phần, phần còn lại các DNXL tự bỏ vốn tự có của mình.
Thứ ba, tốc độ chu chuyển vốn trong các DNXL thường không cao. Do
quy mô lớn, thời gian sản xuất kéo dài nên vốn bỏ vào xây dựng các công trình
dễ bị ứ đọng, ảnh hưởng xấu đến tình hình tài chính của các DNXL. Nếu công
trình thiếu vốn hoạt động thì quá trình thi công sẽ bị gián đoạn, thời gian xây
dựng bị kéo dài. Khi công trình hoàn thành, công tác nghiệm thu, quyết toán và
thanh toán phụ thuộc nhiều vào Chủ đầu tư, do vậy, các DNXL thường bị chiếm
dụng vốn trong thời gian dài, tốc độ quay vòng vốn lưu động thấp. Nhu cầu vốn
lưu động cần thiết cho thi công lớn trong khi vốn chủ sở hữu chiếm tỷ lệ nhỏ
trong tổng nguồn vốn nên các DNXL phải huy động vốn bên ngoài, chủ yếu là
vốn vay ngân hàng.
Thứ tư, tình hình tài chính và chu chuyển vốn của các DNXL phụ thuộc
rất lớn vào tình hình tài chính, nguồn vốn thanh toán của Chủ đầu tư (Bên A).
16

×