Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

NHỮNG NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG CƠ QUAN ĐIỀU TRA LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (440.57 KB, 108 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HÀ THỊ PHƯƠNG NHI

NHỮNG NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG
TRONG CƠ QUAN ĐIỀU TRA

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HÀ THỊ PHƯƠNG NHI

NHỮNG NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG
TRONG CƠ QUAN ĐIỀU TRA

Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số

: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. ĐƯỜNG MINH GIỚI

HÀ NỘI – 2015




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ luận văn.
Trân trọng cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Hà Thị Phương Nhi


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
ANĐT
BLTTHS
CSĐT
CQĐT

ĐTV
KSV
TP
TA
TCĐTHS
TTHS
VKS

Chữ viết đầy đủ
An ninh điều tra
Bộ luật tố tụng hình sự
Cảnh sát điều tra
Cơ quan điều tra
Điều tra viên
Kiểm sát viên
Thẩm phán
Toà án
Tổ chức điều tra hình sự
Tố tụng hình sự
Viện kiểm sát


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Đấu tranh phòng chống tội phạm nhằm bảo vệ quyền và lợi ích Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, công dân, bảo vệ chế độ
XHCN, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, phục vụ sự nghiệp
đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ quan trọng đặt ra trước
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Trong việc thực hiện nhiệm vụ đó, công tác
điều tra tội phạm có vị trí đặc biệt quan trọng. Các kết quả đạt được trong giai

đoạn điều tra là cơ sở cho việc ra quyết định truy tố của Viện kiểm sát (VKS)
và hoạt động xét xử của Tòa án. Mặc dù Cơ quan điều tra (CQĐT) không có
quyền quyết định một người có phải là tội phạm và phải chịu hình phạt hay
không, nhưng để có chứng cứ chứng minh tội phạm và người phạm tội, làm
cơ sở cho hoạt động truy tố, xét xử thì phải có hoạt động thu thập chứng cứ
của CQĐT. Vì vậy có thể coi hoạt động điều tra của CQĐT giữ vai trò đặc
biệt quan trọng đối với cả tiến trình tố tụng hình sự.
Trong những năm qua, tình hình vi phạm pháp luật và tội phạm xảy ra
nghiêm trọng, diễn biến phức tạp. Công tác đấu tranh phòng chống tội phạm
của các cơ quan tư pháp nói chung, CQĐT nói riêng đã đạt được nhiều kết
quả, góp phần quan trọng trong việc giữ vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn
xã hội, phục vụ tích cực cho công cuộc đổi mới đất nước.
Tuy nhiên đứng trước “tình hình phạm tội diễn biến phức tạp, với tính
chất và hậu quả ngày càng nghiêm trọng” (trích dẫn Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách Tư pháp
đến năm 2020) mà chất lượng của công tác Tư pháp nói chung, công tác điều
tra tội phạm nói riêng còn “chưa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi của nhân
dân, còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm các

1


quyền tự do, dân chủ của công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối
với Đảng, Nhà nước và các Cơ quan Tư pháp”
Do đó mà việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Cơ quan Tư pháp nói
chung, Cơ quan điều tra nói riêng luôn là vấn đề cấp thiết được Đảng và Nhà
nước quan tâm nhằm đáp ứng những yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước.
Một trong những vấn đề quan trọng của CQĐT là Chế định pháp lý về
những người tiến hành tố tụng trong CQĐT: Điều tra viên (ĐTV), Thủ trưởng
(TT), Phó thủ trưởng (PTT) CQĐT vì thực chất hoạt động của CQĐT được
thông qua hoạt động của ĐTV và TT, PTT CQĐT. Khác với các chức danh tư

pháp khác như Kiểm sát viên, Thẩm phán...được hình thành từ lâu thì chức
danh ĐTV, TT và PTT CQĐ T mới được hình thành lần đầu tiên trong Bộ
luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 1988 và Pháp lệnh tổ chức điều tra hình
sự năm (TCĐTHS) 1989, Pháp lệnh TCĐT 2004.
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào cụ
thể hóa những quy định của pháp luật về chức danh của những người tiến hành
tố tụng trong CQĐT mà cụ thể là Điều tra viên (ĐTV) và TT, PTT CQĐT. Do
đó trên thực tế việc xác định vị trí, vai trò tố TTHS của những người tiến hành tố
tụng (NTHT) trong CQĐT trong hoạt động tố tụng hình sự (TTHS), cũng như
trong mối quan hệ với các chức danh Tư pháp khác tồn tại những vướng mắc
khó khăn làm giảm hiệu quả hoạt động của người tiến hành tố tụng là ĐTV, TT,
PTT CQĐT. Để có cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xác định vị trí, vai trò,
quyền hạn và nghĩa vụ của những NTHTT trong CQĐT là ĐTV, TT, PTT trong
TTHS cũng như việc đảm bảo cơ chế đào tạo, bổ nhiệm, chế độ đãi ngộ đối với
những người này, tôi chọn đề tài: “Những người tiến hành tố tụng trong Cơ
quan điều tra” làm đề tài Luận văn Thạc sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghị quyết số 08 - NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về "Một
số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới" và Nghị quyết số
2


49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020". Kết luận 79/KL - TW về "Đề án đổi mới tổ chức và hoạt
động của Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra" được ban hành, đã có một
số công trình nghiên cứu khoa học ở cấp độ khác nhau về vấn đề đổi mới tổ
chức và hoạt động của Cơ quan điều tra và người tiến hành tố tụng trong Cơ
quan điều tra, trong đó phải kể tới các đề tài: "Thẩm quyền điều tra của các
Cơ quan điều tra trong Quân đội" - tác giả Nguyễn Văn Khoa, Luận văn thạc
sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 1999; "Mối quan hệ giữa Cơ quan

điều tra hình sự Quân đội với Viện kiểm sát quân sự và Tòa án Quân sự trong
tố tụng hình sự Việt Nam" của tác giả Nguyễn Tuấn Anh, luận văn thạc sĩ luật
học, 2002; "Người tiến hành tố tụng trong cơ quan điều tra. Những vấn đề lý
luận và thực tiễn" của tác giả Nguyễn Trọng Hải, luận văn thạc sĩ Luật học,
Khoa Luật - trường Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009; "Địa vị pháp lý của Điều
tra viên trong tố tụng hình sự ở nước ta" của tác giả Phùng Như Thịnh, luận
văn thạc sĩ luật học, trường Đại học Luật Hà Nội, 2000; bài viết "Cơ quan
tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là Thủ trưởng, Phó thủ trưởng
Cơ quan điều tra và Điều tra viên trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003"
của thạc sĩ Đinh Văn Quế, tạp chí Kiểm sát số 5/2004.
Các công trình nghiên cứu và bài viết nêu trên đã nghiên cứu về mặt lý
luận, thực tiễn và đề xuất những giải pháp khoa học ở những cấp độ khác
nhau nhằm đảm bảo nâng cao chất lượng điều tra các vụ án hình sự của những
người tiến hành tố tụng trong giai đoạn điều tra, giải pháp nhằm kiện toàn bộ
máy cơ quan điều tra.....
Kế thừa các kết quả nghiên cứu nêu trên tác giả mạnh dạn tiếp cận và
nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về "Những người tiến hành tố
tụng trong Cơ quan điều tra". Tác giả tập trung nghiên cứu vị trí, vai trò,
quyền hạn và nghĩa vụ của ĐTV và TT, PTT CQĐT theo Pháp luật TTHS hiện
3


hành. Từ đó tìm ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ tiến
hành tố tụng trong CQĐT.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu đề ra là luận giải một cách khoa học các quy định của Pháp
luật về địa vị pháp lý, vị trí, vai trò, quyền hạn và nghĩa vụ của những người
tiến hành tố tụng trong CQĐT: ĐTV và TT, PTT CQĐT trong hoạt động
TTHS. Trên cơ sở đó đề xuất đổi mới, bổ sung các quy định của pháp luật về

quyền hạn, nghĩa vụ của họ để nâng cao hiệu quả hoạt động của ĐTV và TT,
PTT CQĐT trong thực tiễn điều tra tội phạm.
3.2. Mục tiêu cụ thể
Phân tích dưới góc độ lý luận, thực tiễn về vị trí, nhiệm vụ của giai
đoạn điều tra vụ án hình sự trong tố tụng hình sự;
Luận giải, phân tích các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về địa
vị pháp lý của những người tiến hành tố tụng (NTHTT) trong CQĐT: ĐTV và
TT, PTT CQĐTcũng như thực tiễn hoạt động của ĐTV và TT, PTT CQĐT
trong TTHS;
Đề xuất, kiến nghị những giải pháp nhằm hoàn thiện chế định pháp lý cũng
như tăng cường hiệu quả hoạt động điều tra của những NTHTT trong CQĐT.
3.3. Nhiệm vụ
- Phân tích dưới góc độ lý luận, thực tiễn về nhận thức về NTHTT
trong CQĐT. Trong đó tập trung nghiên cứu về lịch sử hình thành, phát triển
của CQĐT trong pháp luật hình sự Việt Nam; khái niệm, nhiệm vụ, quyền
hạn của người tiến hành tố tụng; những quy định của pháp luật hình sự về
NTHTT trong CQĐT và địa vị pháp lý của họ.
- Đề xuất, kiến nghị những giải pháp nhằm hoàn thiện chế định pháp lý
cũng như tăng cường hiệu quả hoạt động điều tra của ĐTV và TT, PTT CQĐT
4


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh vị trí, vai
trò, quyền và nghĩa vụ của những NTHTT trong CQĐT, cụ thể là: ĐTV và
TT, PTT CQĐT theo Pháp luật tố tụng hình sự hiện hành.
Tập trung nghiên cứu, khảo sát về số lượng, chất lượng, trình độ đội
ngũ những NTHTT trong ĐTV và TT, PTT CQĐT trong Quân đội nhân dân,
Công an nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân Tối cao.
5. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, cơ sở lý luận về khoa học
luật tố tụng hình sự, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được
thể hiện trong các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số
49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của
Bộ Chính trị.
Khi thực hiện đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp cụ
thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp phân tích và tổng
hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; hệ thống hóa; phương pháp quy nạp...để
tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tương
ứng được nghiên cứu trong luận văn.
6. Dự kiến đóng góp mới của luận văn
Trong khuôn khổ của một Luận văn Thạc sỹ luật học làm sáng tỏ
những vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn về địa vị pháp lý của những NTHTT
trong CQĐT: ĐTV và TT, PTT CQĐT một cách toàn diện, đầy đủ.
Phân tích có hệ thống những quy định của pháp luật về địa vị pháp lý
của ĐTV và TT, PTT CQĐT, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra vụ án hình sự.
5


7. Bố cục của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của Luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Nhận thức về người tiến hành tố tụng trong Cơ quan điều tra
Chương 2: Thực trạng tổ chức bộ máy Cơ quan điều tra và người tiến
hành tố tụng trong Cơ quan điều tra.
Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện đội ngũ người tiến hành tố tụng
trong Cơ quan điều tra.


6


Chương 1
NHẬN THỨC VỀ NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG
TRONG CƠ QUAN ĐIỀU TRA
1.1. Vài nét về lịch sử hình thành, phát triển Cơ quan điều tra
trong Pháp luật hình sự Việt Nam
1.1.1. Giai đoạn trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự
Cùng với sự ra đời của hệ thống Tòa án cách mạng, ngày 21/02/1946
Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa ký Sắc lệnh số
23/SL hợp nhất các Sở Liên phóng và Sở cảnh sát toàn quốc thành một cơ đặt
tên là "Việt nam Công an vụ" với một trong những nhiệm vụ là điều tra những
hành động trái phép có thể làm ảnh hưởng tới trị an và mất trật tự trong nước,
truy tìm can phạm để giúp Tòa án trong sự trừng trị. Tiếp đó ngày 20/7/1946,
Chủ tịch Chính phủ Việt nam Dân chủ Cộng hòa ra sắc lệnh số 131/SL thành
lập tổ chức Tư pháp Công an - tiền thân của CQĐT tố tụng hình sự. Theo sắc
lệnh này thì "Tư pháp công an có nhiệm vụ truy tìm tất cả các sự phạm pháp
(đại hình, tiểu hình và vi cảnh); sưu tập các tang chứng, bắt giao người phạm
pháp cho các Tòa án xét xử trong phạm vi luật pháp ấn định".
Để thực hiện nhiệm vụ trên, luật pháp giao cho một số chức danh Công
an với tư pháp là Ủy viên Tư pháp công an có toàn quyền điều tra các vụ
phạm pháp. Đó là các chức danh Trưởng ty, Trưởng phòng, Trưởng ban chính
trị tư pháp hoặc các trưởng ban khác được Bộ Nội vụ chỉ định. Việc chỉ đạo,
kiểm sát "tổ chức và hoạt động tư pháp Công an" thuộc thẩm quyền của các
Chưởng lý, Biện lý (sau này là Công tố, Kiểm sát) thuộc ngành Tòa án. Như
vậy, trong hoạt động điều tra tố tụng, các Ủy viên Tư pháp Công an không
được độc lập mà phải tuân thủ sự chỉ đạo của các viên chức có thẩm quyền ở
ngành Tòa án.

7


Không chỉ trong lực lượng Công an nhân dân, mà ở các ngành Kiểm
lâm, Hỏa xa (đường sắt), Thượng Chính (Hải quan, Thương mại) cũng có các
viên chức được thừa nhận là Ủy viên Tư pháp Công an và cũng được tiến
hành điều tra các vụ phạm pháp trong lĩnh vực của mình.
Trong nội bộ ngành Công an, các hoạt động điều tra bí mật (trinh sát)
nếu không chuyển qua trình tự "Tư pháp Công an" đều không có giá trị pháp
lý để ra tòa. Thời kỳ này (từ năm 1945 - 1953) số cán bộ điều tra thực tế chỉ là
người giúp việc cho ủy viên kiêm luôn vai trò chấp pháp, xét hỏi bị can.
Đánh giá về bộ máy và cách thức điều tra TTHS giai đoạn 1945 - 1953
cho thấy: chưa có CQĐT như hiện nay, mà chỉ có Phụ trách tư pháp Công an
và Ủy viên tư pháp Công an với tư cách là những cá nhân được pháp luật ấn
định cụ thể. Bộ máy điều tra TTHS tuy với nội dung và bản chất mới, song về
hình thức vẫn còn ảnh hưởng cơ cấu điều tra cũ, đó là: Tư pháp Công an chỉ
là lực lượng phục vụ cho hoạt động tố tụng của Tòa án, bị chi phối bởi các
chức danh có thẩm quyền (Chưởng lý, Biện lý) thuộc ngành Tòa án. Nét đặc
biệt ở đây là pháp luật đã giao thẩm quyền điều tra tố tụng cho từng chức
danh như: Ủy viên Tư pháp Công an chứ không phải là cơ quan chung chung.
Ngày 16/02/1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 141/SL đổi
Nha Công an Việt Nam thành Thứ Bộ Công an. Sắc lệnh này quy định tổ
chức bộ máy của Thứ Bộ Công an gồm có: Văn phòng, Vụ Bảo vệ chính trị,
Vụ trị an hành chính, Vụ chấp pháp, Cục Cảnh vệ, Phòng Nhân sự, Trưởng
Công an.
Vụ Chấp pháp ở Thứ Bộ Công an có nhiệm vụ điều tra, lập hồ sơ đề
nghị truy tố các vụ phạm tội phản cách mạng và hình sự khác, quản lý các
Trại giam. Ở ty Công an tỉnh có Ban Chấp pháp, ở Công an Liên khu có
Phòng chấp pháp.


8


Việc thành lập cơ quan chấp pháp ở ngành Công an là một bước
chuyển đổi cơ bản về tổ chức và hoạt động điều tra TTHS ở nước ta. Điều này
được thể hiện:
Một là, trong lực lượng Công an nhân dân có một loại cơ quan chuyên
trách điều tra TTHS: Cơ quan Chấp pháp. Còn các lực lượng khác chỉ chuyên
làm công tác phòng ngừa, phát hiện tội phạm bằng biện pháp trinh sát và quản
lý hành chính.
Hai là, thay vào chỗ quy định các chức danh tư pháp làm nhiệm vụ
điều tra, luật đã quy định các CQĐT (Vụ chấp pháp ở Thứ Bộ Công an,
Phòng Chấp pháp ở Công an Liên khu, Ban Chấp pháp ở Ty Công an). Như
vậy, trách nhiệm và quyền hạn điều tra tố tụng ở đây thực chất thuộc về người
đại diện cho CQĐT như: Vụ trưởng, Vụ phó, Trưởng phòng, Phó phòng,
Trưởng ban, Phó ban Chấp pháp.
Ba là, người có thẩm quyền điều tra tố tụng ở mức rất giới hạn và do
luật định. Trước đây, ngài Trưởng ty, Trưởng phòng, Trưởng ban Chính trị,
Tư pháp ra, Bộ trưởng Bộ Nội vụ còn có nhiều quyền chỉ định các Trưởng
ban khác là Ủy viên tư pháp Công an. Cuối cùng, việc chuyên môn hóa điều
tra tố tụng (chấp pháp) dẫn đến hình thành hệ CQĐT công khai và điều tra bí
mật độc lập với nhau. Chính việc tổ chức tách rời này đã làm nảy sinh nhiều
vấn đề cần phải khắc phục cho đến ngày nay.
Nét thay đổi lớn lao về tổ chức Công an thời gian này không phải là tổ
chức điều tra hình sự mà là thành lập "Ban Công an tiền phương" ở Trung
ương và ở một số tỉnh thuộc Tây bắc Việt Nam để thực hiện nhiệm vụ đặc
biệt quan trọng là bảo vệ chiến dịch Điện Biên Phủ.
Cuối những năm 50 và đầu những năm 1960 là thời kỳ có những thay
đổi lớn trong hệ thống tư pháp ở nước ta. Cùng với sự ra đời của Viện kiểm
sát nhân dân (VKSND) và việc ban hành một số Luật, Sắc luật bảo đảm

9


quyền tự do thân thể của công dân, hoạt động điều tra công khai, bị mất trong
lực lượng Công an nhân dân được phân công lại. Chẳng hạn, theo Thông tư
liên ngành số 427 ngày 28/6/1963 của VKSND tối cao và Bộ Công an thì các
Ban trinh sát ở Ty công an, Cục trinh sát ở Bộ Công an đều có quyền khởi tố
vụ án, bắt khẩn cấp. Thực tế, bên cạnh các vụ án phản cách mạng do cơ quan
chấp pháp thụ lý điều tra thì nhiều đơn vị trinh sát hình sự, trinh sát bảo vệ
kinh tế đều khởi tố và tiến hành các biện pháp điều tra, hỏi cung bị can từ đầu
đến khi kết thúc mới chuyển sang cơ quan chấp pháp làm cáo trạng đề nghị
truy tố hoặc để chấp pháp làm cáo trạng đề nghị truy tố hoặc để chấp pháp
tiếp tục điều tra nếu xét thấy còn thiếu chứng cứ quan trọng. Đặc biệt, cùng
với việc Hội đồng Chính phủ ra Nghị định số 32/CP sửa đổi tổ chức bộ máy
Công an, Bộ Nội vụ đã quyết định giao các loại án hình sự (về chính trị xã
hội) cho lực lượng Cảnh sát hình sự và án kinh tế đơn giản, ít nghiêm trọng
cho lực lượng trinh sát kinh tế đảm nhiệm việc điều tra, hỏi cung, lập hồ sơ
truy tố. Cơ quan Chấp pháp chỉ thụ lý, điều tra theo thủ tục tố tụng hình sự
các vụ án phản cách mạng và tội phạm xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, tội
phạm kinh tế phức tạp, nghiêm trọng.
Cơ chế điều tra trên đây tồn tại đến năm 1981, khi Hội đồng Chính phủ
ra Nghị định số 250/HĐCP ngày 12/6/1981 quy định lại nhiệm vụ, quyền hạn
và tổ chức của Bộ Nội vụ.
Theo Nghị định này, Cục chấp pháp ở Bộ được chia làm hai loại: Cục
an ninh điều tra xét hỏi; thụ lý điều tra xét hỏi các vụ án xâm phạm an ninh
quốc gia; Cục cảnh sát điều tra xét hỏi: thụ lý điều tra xét hỏi các vụ án hình
sự khác.
Phòng chấp pháp ở Công an các tỉnh, thành phố cũng được chia làm hai
loại giống mô hình của Cục chấp pháp: Phòng An ninh điều tra xét hỏi; Phòng
Cảnh sát điều tra xét hỏi.

10


Các đơn vị trinh sát hình sự, kinh tế giờ đây không làm công tác điều
tra công khai, tố tụng (điều tra xét hỏi) nữa mà chỉ tập trung vào công tác
trinh sát bí mật phục vụ phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.
Từ thực tiễn tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra tố tụng giai
đoạn này (từ năm 1953 đến trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự) có thể rút ra
một số nhận xét sau:
Đây là thời kỳ hình thành và tồn tại CQĐT tố tụng công khai độc lập
bên cạnh các cơ quan điều tra trinh sát. Các CQĐT tố tụng công khai chủ yếu
chỉ tiến hành những biện pháp điều tra công khai nhằm bổ sung và củng cố
chứng cứ thu thập được từ hoạt động trinh sát, hợp pháp hóa kết quả điều tra
trinh sát. Ngay cả tên gọi CQĐT: Chấp pháp, xét hỏi phần nào cũng đã nói lên
biện pháp điều tra chủ yếu của cơ quan này.
Pháp luật chỉ thừa nhận thẩm quyền và nghĩa vụ điều tra tố tụng thuộc
về CQĐT với tư cách là một tổ chức. Pháp luật không quan tâm đến ai là
người thực tế điều tra, mà chỉ quan tâm đến cơ quan nào chủ trì việc điều tra
theo tố tụng. Cơ chế này có phần không phù hợp với nguyên tắc hoạt động tư
pháp là phải xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm cụ thể của từng chức danh
tư pháp. Đây cũng chính là lý do giải thích tại sao trong một giai đoạn dài, tư
cách THTT của người điều tra không được phân biệt và quy định rõ ràng. Đặc
biệt là khái niệm về nhân viên điều tra hay ĐTV hầu như không được biết đến
trong pháp luật và thực tiễn tố tụng [23, tr 35 - 37].
1.1.2. Giai đoạn từ khi có Bộ luật tố tụng hình sự
Ngày 28/6/1988, Quốc hội khóa VIII kỳ hợp thứ 3 thông qua BL
TTHS. Như vậy, sau 43 năm tồn tại, lần đầu tiên Nhà nước ta có BLTTHS:
"Quy định trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
hình sự, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan
tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng và

11


của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và công dân, nhằm phát hiện chính
xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không
để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội..".
Dựa trên những quy định mang tính nguyên tắc do BLTTHS đưa ra,
ngày 04/4/1989, Hội đồng Nhà nước đã thông qua Pháp lệnh TCĐTHS. Theo
Pháp lệnh này thì CQĐT tố tụng hình sự được tổ chức trong lực lượng Cảnh
sát nhân dân, trong lực lượng An ninh nhân dân, trong Quân đội nhân dân và
trong hệ thống Viện kiểm sát nhân dân. Mô hình tổ chức của CQĐT là: cấp
Cục ở Trung ương; cấp Phòng ở tỉnh, thành phố (Tổng cục, Bộ tư lệnh, Quân
khu thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam). Ở cấp huyện (Quân đoàn, Sư đoàn,
Bộ chỉ huy quân sự tỉnh) có Đội điều tra (Ban điều tra thuộc Quân đội). Đứng
đầu CQĐT các cấp là Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT, nhân viên trong
CQĐT được phong ĐTV (cao cấp, trung cấp, sơ cấp).
Bên cạnh hệ thống CQĐT chuyên trách, pháp luật tố tụng hình sự nước
ta thừa nhận nhận quyền điều tra hạn chế của một số cơ quan khác của Nhà
nước. Đó là các Cục (Phòng) Cảnh sát trực tiếp đấu tranh chống tội phạm
kinh tế và các tội xâm phạm trật tự, an toàn xã hội, Ban giám thị Trại tạm
giam và Trại giam; các Cục (Phòng) An ninh nhân dân trực tiếp đấu tranh
chống các tội xâm phạm an ninh quốc gia; Thủ trưởng đơn vị độc lập cấp
Trung đoàn, Lữ đoàn trong Quân đội, Cục trưởng, Phó Cục trưởng Cục trinh
sát biên phòng, Chỉ huy trưởng, Phó chỉ huy trưởng Đồn biên phòng, Cục
trưởng, Phó Cục trưởng Cục kiểm soát, Cục giám quản của Tổng Cục Hải
quan; Giám đốc, Phó Giám đốc Hải quan cấp tỉnh, Trưởng Hải quan cửa khẩu
được Tổng cục trưởng cục Hải quan chỉ định; Cục trưởng, Phó Cục trưởng
Cục Kiểm lâm, Chi cục trưởng, Phó Chi cục trưởng kiểm lâm cấp tỉnh, Hạt
trưởng Hạt kiểm lâm. Những cơ quan và cá nhân nêu trên trong "lĩnh vực
quản lý" và trong phạm vi trách nhiệm, quyền hạn của mình có quyền thực

12


hiện một số hành vi điều tra mà luật TTHS đã quy định như: khởi tố vụ án,
khởi tố bị can, tạm giữ ngay người có dấu hiệu phạm tội, khám xét...Tuy
nhiên, dẫu rằng cùng chung hệ thống "các cơ quan khác được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra", song thẩm quyền và phạm vi trách
nhiệm tố tụng hình sự của các cơ quan này không giống nhau. Thông thường,
nhà làm luật căn cứ vào vị trí, khả năng và yêu cầu của cuộc đấu tranh chống
tội phạm để "giao nhiệm vụ điều tra" cho từng loại cơ quan. Chỉ riêng vấn đề
này đã gây nhiều tranh luận, yêu cầu, kiến nghị từ phía các cơ quan được giao
và cơ quan không được giao quyền điều tra theo luật TTHS.
Qua hơn 15 năm thi hành, BLTTHS năm 1988 và Pháp lệnh TCĐTHS
năm 1989 là một trong những công cụ pháp lý có hiệu quả trong đấu tranh
phòng, chống tội phạm, góp phần quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ thành quả
của cách mạng, góp phần quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ thành quả của cách
mạng, bảo vệ Pháp chế xã hội hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
tổ chức, công dân.
Tuy nhiên, trước yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện, mọi mặt đời
sống xã hội của đất nước ta, trong đó có đổi mới tổ chức và hoạt động của các
cơ quan trong bộ máy nhà nước, cải cách hành chính, cải cách tư pháp theo
đường lối của Đảng, BLTTHS năm 1988 và Pháp lệnh TCĐTHS năm 1989
đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của cuộc đấu
tranh phòng và chống tội phạm trong tình hình mới như: một số quy định về
trình tự, thủ tục tố tụng chưa chặt chẽ, cụ thể dẫn đến việc áp dụng luật không
thống nhất; tổ chức bộ máy CQĐT còn phân tán, chưa bảo đảm tính chuyên
sâu trong việc điều tra các loại án, thiếu sự phối hợp đồng bộ, hiệu quả giữa
điều tra TTHS và điều tra trinh sát, tình trạng bỏ lọt tội phạm, làm oan người
vô tội, vi phạm các quyền tự do dân chủ của công dân còn xảy ra; trong

13


CQĐT, việc phân định trách nhiệm giữa Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT
và ĐTV chưa hợp lý...Bên cạnh đó nhiều văn bản quy phạm pháp luật mới
được Quốc hội ban hành như: Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1999; Luật tổ
chức Viện kiểm sát năm 2002, 2014, Luật tổ chức tòa án năm 2002, 2014...Vì
vậy, việc ban hành Bộ luật TTHS năm 2003 và Pháp lệnh TCĐTHS năm
2004 là một đòi hỏi khách quan và cấp thiết.
Tháng 11/2003, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XI đã thông qua toàn
văn Bộ luật TTHS theo Nghị quyết số 24/2003/QH11 thì Bộ luật này có hiệu
lực kể từ ngày 1/7/2004 [23, tr. 38 – 40].
1.2. Khái niệm, nhiệm vụ, phân loại người tiến hành tố tụng
1.2.1. Khái niệm về người tiến hành tố tụng
Nếu như Cơ quan tiến hành TTHS là các pháp nhân công quyền trong
lĩnh vực tư pháp đại diện cho Nhà nước tiến hành các chức năng buộc tội và
chức năng xét xử trong quá trình giải quyết vụ án hình sự thì NTHTHS trong
các cơ quan có trách nhiệm thực thi các quyền hạn, trách nhiệm để thực hiện
chức năng của các cơ quan tiến hành tố tụng (THTT). Theo quy định của
BLTTHS năm 2003, NTHTT là một trong các chủ thể của TTHS, có vai trò
quan trọng mang tính quyết định trong quá trình chứng minh, giải quyết vụ án
hình sự, cũng như trong việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Tương ứng
với các cơ quan THTT, người THTT trong CQĐT gồm có nhiều loại với nhiệm
vụ, quyền hạn khác nhau trong TTHS, đó là: ĐTV và TT, PTT CQĐT Kiểm
sát viên (KSV), Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát (VKS); Thẩm
phán (TP), Hội thẩm, Chánh án, Phó chánh án Tòa án, Thư ký Tòa án (TA)
Người tiến hành tố tụng có đặc điểm riêng so với các loại chủ thể
TTHS khác:
Thứ nhất, NTHTT trực tiếp thực hiện chức năng của các cơ quan
THTT. Quá trình giải quyết vụ án hình sự có nhiều giai đoạn khác nhau gắn

14


liền với chức năng của từng cơ quan THTT. CQĐT có trách nhiệm áp dụng
mọi biện pháp điều tra theo quy định của pháp luật TTHS để tiến hành điều
tra, thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm, người phạm tội. Nói cách khác,
CQĐT có chức năng điều tra trong TTHS làm rõ mọi tình tiết liên quan đến
tội phạm và người phạm tội làm cơ sở cho VKS thực hiện quyền truy tố người
phạm tội ra trước TA. Trên cơ sở kết luận điều tra đề nghị truy tố của CQĐT,
VKS thay mặt Nhà nước thực hành quyền công tố của mình, truy tố người
phạm tội ra trước TA. Việc xét xử vụ án hình sự thuộc trách nhiệm của TA
căn cứ vào quyết định truy tố của VKS. Dựa trên bản án đã có hiệu lực pháp
luật và các quyết định liên quan đến việc thi hành bản án đó thì cơ quan thi
hành án có trách nhiệm thực thi. Do vậy, mỗi cơ quan THTT có chức năng
riêng ở những giai đoạn tố tụng nhất định và đều hướng tới mục đích không
để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, bảo đảm dân chủ, công bằng khi
THTT và đảm bảo quyền con người.
Thực hiện các chức năng này, Cơ quan THTT phải thông qua những
con người cụ thể, đó là người đứng đầu các cơ quan THTT và những NTHTT
khác. Vì vậy, có thể khẳng định NTHTT trong Cơ quan THTT trực tiếp thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của Cơ quan THTT góp phần chứng minh, làm rõ
và xử lý tội phạm, bảo vệ quyền con người, cũng như thực hiện các biện pháp
phòng ngừa tội phạm.
Thứ hai, NTHTT độc lập khi THTT giải quyết vụ án. Tư pháp độc lập
là một trong những biểu hiện rõ nét nhất của nhà nước pháp quyền và của nền
tư pháp dân chủ. Sự độc lập, khách quan, vô tư của cơ quan THTT, NTHTT
là điều kiện quan trọng để đảm bảo công lý. Tuy nhiên, như đã đề cập ở trên,
các cơ quan THTT là những pháp nhân, nên chỉ có thể đánh giá tính độc lập,
khách quan trong hoạt động của những cơ quan này thông qua thành viên của
nó. Do đó Luật TTHS xác định rõ vai trò và trách nhiệm của NTHTT với các

15


chức danh cụ thể có địa vị pháp lý độc lập như: TP, Hội thẩm nhân dân, Thư
ký phiên tòa, KSV, ĐTV...Đồng thời Luật TTHS cũng có những quy định
khác để ràng buộc, bảo đảm tính độc lập, vô tư, khách quan của những
NTHTT. Trên cơ sở này pháp luật quy định NTHTT phải chịu trách nhiệm cá
nhân về hành vi, quyết định theo thẩm quyền của mình trong quá trình giải
quyết vụ án. Như vậy, chính yêu cầu về tính độc lập, khách quan, vô tư của
quá trình giải quyết vụ án đã đặt ra đòi hỏi về sự hiện diện của NTHTT trong
các cơ quan THTT với địa vị, trách nhiệm pháp lý rõ ràng và độc lập.
Thứ ba, hoạt động của NTHTT hướng tới mục đích phát hiện kịp thời,
xử lý nhanh chóng, chính xác, đúng người, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm,
không làm oan người vô tội và tôn trọng bảo vệ quyền con người
Là một trong những chủ thể của TTHS nên hoạt động của NTHTT góp
phần quan trọng vào việc thực hiện mục đích của TTHS. Đồng thời, mọi hoạt
động của NTHTT phải dựa trên cơ sở mục đích đó, bất kỳ hoạt động nào
không hướng tới mục đích của TTHS đều phải bị loại trừ trong quá trình giải
quyết vụ án [9, tr. 142 – 143]
Từ những đặc điểm này có thể đưa ra khái niệm về người THTT
như sau:
NTHTT là người được Nhà nước bổ nhiệm để thực hiện chức năng của
các Cơ quan THTT với các quyền hạn, nhiệm vụ nhất định trong quá trình
giải quyết vụ án, hướng tới mục đích phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng,
chính xác, công bằng, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, tôn
trọng và bảo vệ quyền con người [9, tr. 143].
NTHTT là một trong các chủ thể của TTHS, có vai trò quan trọng mang
tính quyết định trong quá trình chứng minh, giải quyết vụ án hình sự. NTHT là
một trong các chủ thể của TTHS, có vài trò quan trọng mang tính quyết định
trong quá trình chứng minh, giải quyết vụ án hình sự. NTHTT là một trong ba

16


nhóm chủ thể của TTHS và trên cơ sở phân loại theo các các cơ quan THTT thì
có: NTHTT trong CQĐT, NTHTT trong VKS, NTHTT trong TA.
NTHTT trong CQĐT gồm có: ĐTV và TT, PTT CQĐT. Luật TTHS
hiện hành quy định quyền hạn, trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ đối với
NTHTT nói chung và NTHTT trong CQĐT nói riêng là cơ sở cho các hoạt
động của họ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
1.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của người tiến hành tố tụng
a) Nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT,
Điều tra viên
TT CQĐT là người đứng đầu lãnh đạo CQĐT. Theo khoản 2 Điều 34
BLTTHS 2003quy định: Khi thực hiện việc điều tra vụ án hình sự, TT CQĐT
có nhiệm vụ và quyền hạn sau:
- Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, quyết định không khởi tố vụ
án; quyết định nhập hoặc tách vụ án;
- Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn;
- Quyết định truy nã bị can, khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản,
xử lý vật chứng;
- Quyết định trưng cầu giám định, quyết định khai quật tử thi;
- Kết luận điều tra vụ án;
- Quyết định tạm đình chỉ điều tra, quyết định đình chỉ điều tra, quyết
định phục hổi điều tra;
- Trực tiếp tiến hành các biện pháp điều tra; cấp, thu hồi giấy chứng
nhận người bào chữa, ra quyết định và tiến hành các hoạt động tố tụng khác
thuộc thẩm quyền của CQĐT.
PTT CQĐT là người trực tiếp giúp việc và khi cần thiết có thể thay mặt
cho TT CQĐT. Khi được phân công điều tra vụ án hình sự, PTT CQĐT có


17


những nhiệm vụ và quyền hạn như TT CQĐT. TT, PTT CQĐT phải chịu
trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi và quyết định của mình.
ĐTV là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm
nhiệm vụ điều tra vụ án hình sự (Điều 29 Pháp lệnh TCĐTHS năm 2004).
ĐTV được phân công điều tra vụ án hình sự có những nhiệm vụ và
quyền hạn sau:
- Lập hồ sơ vụ án hình sự;
- Triệu tập và hỏi cung bị can; triệu tập và lấy lời khai của người làm
chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án;
- Quyết định áp giải bị can, quyết định dẫn giải người làm chứng;
- Thi hành lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam, khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê
biên tài sản;
- Tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, đối chất,
nhận dạng, thực nghiệm điều tra;
- Tiến hành các hoạt động điều tra khác thuộc thẩm quyền của CQĐT
theo sự phân công TT CQĐT.
ĐTV phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước TT CQĐT về
những hành vi và quyết định của mình.
Đối với các biện pháp điều tra thuộc thẩm quyền của TT CQĐT thì
ĐTV có quyền kiến nghị với TT CQĐT. Trong trường hợp không nhất trí thì
ĐTV phải chấp hành quyết định của TT CQĐT nhưng có quyền khiếu nại lên
cơ quan điều tra cấp trên. Trong thời hạn 10 ngày, TTCQĐT cấp trên phải trả
lời khiếu nại của ĐTV.
Trong khi tiến hành hoạt động điều tra, ĐTV được ưu tiên đi lại bằng
các phương tiện giao thông công cộng, được miễn cước phí giao thông trong
thành phố, thị xã. Trong trường hợp cần thiết để ngăn chặn hành động phạm

18


tội, đuổi bắt người phạm tội chạy trốn, cấp cứu người bị nạn, ĐTV được sử
dụng phương tiện giao thông liên lạc của cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội,
tư nhân và cả những người điều khiển phương tiện đó trừ trường hợp là
phương tiện của các cơ quan cơ quan ngoại giao và trả ngay khi tình huống
cấp thiết không còn. Nếu phương tiện bị hư hỏng hoặc mất cơ quan hữu quan
có trách nhiệm bồi thường
b) Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện
kiểm sát, Kiểm sát viên
Viện trưởng VKS là người đứng đầu lãnh đạo VKS. Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC) do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi
nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước, chịu sự giám sát của Quốc hội, chịu
trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội, trong thời gian Quốc hội
không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Ủy ban thường vụ
Quốc hội và Chủ tịch nước; trả lời chất vấn, kiến nghị, yêu cầu của Đại biểu
Quốc Hội (Điều 9 Luật tổ chức VKSND 2014). Viện trưởng VKS Quân sự
Trung ương do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức. Viện
trưởng VKSND cấp tỉnh, Viện trưởng VKSND cấp huyện, Viện trưởng VKS
quân sự cấp quân khu, Viện trưởng VKS quân sự cấp khu vực do Viện trưởng
VKSNDTC bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức.
Theo quy định tại Điều 36 BLTTHS hiện hành, Viện trưởng VKS có
những nhiệm vụ và quyền hạn sau:
- Tổ chức và chỉ đạo các hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự;
- Quyết định phân công Phó Viện trưởng VKS, KSV thực hành quyền
công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động TTHS;

19



- Kiểm tra các hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trọng hoạt động TTHS của Phó Viện trưởng VKS và
KSV;
-

Quyết định thay đổi hoặc huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và

trái pháp luật của Phó Viện trưởng VKS và KSV;
- Quyết định rút, đình chỉ hoặc huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ
và trái pháp luật của VKS cấp dưới;
- Quyết định thay đổi KSV;
- Giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của VKS.
Khi Viện trưởng VKS vắng mặt, một Phó Viện trưởng được Viện
trưởng uỷ nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng. Phó Viện
trưởng chịu trách nhiệm trước Viện trưởng về nhiệm vụ được giao.
Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự, Viện trưởng VKS có những nhiệm vụ
và quyền hạn sau đây:
- Quyết định khởi tố vụ án, quyết định không khởi tố vụ án, quyết định
khởi tố bị can; yêu cầu CQĐT khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án
hình sự, khởi tố bị can theo quy định của Bộ luật này;
- Yêu cầu Thủ trưởng CQĐT thay đổi ĐTV;
- Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn; quyết định
gia hạn điều tra, quyết định gia hạn tạm giam; yêu cầu CQĐT truy nã bị can;
- Quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn các quyết định
của CQĐT;
- Quyết định hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật
của CQĐT;

- Quyết định chuyển vụ án;

20


×