Tải bản đầy đủ (.pdf) (220 trang)

Văn học siêu hư cấu và cảm quan hậu hiện đại trong văn xuôi việt nam thời đầu đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.14 MB, 220 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
__________________________

PHẠM NGỌC LAN

VĂN HỌC SIÊU HƯ CẤU

CẢM QUAN HẬU HIỆN ĐẠI
TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM
THỜI ĐẦU ĐỔI MỚI
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2015

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA TPHCM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
__________________________

PHẠM NGỌC LAN

VĂN HỌC SIÊU HƯ CẤU
VÀ CẢM QUAN HẬU HIỆN ĐẠI
TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM
THỜI ĐẦU ĐỔI MỚI
Chuyên ngành :

Lý luận văn học



Mã số :

62223201
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học : PGS. TS. Trần Hữu Tá
Phản biện:

1. PGS. TS. Vũ Tuấn Anh
2. TS. Lâm Quang Vinh
3. PGS. TS. Nguyễn Hữu Hiếu

Phản biện độc lập:

1. PGS. TS. Vũ Tuấn Anh
2. PGS. TS. La Khắc Hoà

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2015

2


MỤC LỤC
DẪN LUẬN .......................................................................................................... 5
 
0.1.
 Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................. 5
 
0.2.

 Lịch sử nghiên cứu vấn đề.......................................................................... 6
 
0.2.1. Tình hình nghiên cứu lý thuyết siêu hư cấu và hậu hiện đại ở Việt
Nam .................................................................................................. 7
 
0.2.2. Tình hình nghiên cứu văn học Việt Nam từ góc nhìn lý thuyết hậu
hiện đại ........................................................................................... 11
 
0.3.
 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................ 18
 
0.3.1.
 Đối tượng nghiên cứu ..................................................................... 18
 
0.3.2.
 Phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 18
 
0.4.
 Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ............................................... 19
 
0.5.
 Đóng góp khoa học và thực tiễn của đề tài .............................................. 22
 
Chương 1: SIÊU HƯ CẤU VÀ SỰ PHỤC HƯNG TRUYỀN THỐNG TIỂU
THUYẾT TỰ Ý THỨC TRONG THỜI HẬU HIỆN ĐẠI ............................ 24
 
1.1.
 Siêu hư cấu là gì? ..................................................................................... 28
 
1.2.

 Những thủ pháp chính của siêu hư cấu .................................................... 39
 
1.3.
 Siêu hư cấu với truyền thống tiểu thuyết.................................................. 53
 
1.4.
 Siêu hư cấu với tinh thần tự ý thức hậu hiện đại ...................................... 57
 
Chương 2: VĂN XUÔI SIÊU HƯ CẤU TRONG BỐI CẢNH VĂN HOÁ
HẬU HIỆN ĐẠI SƠ KHỞI Ở VIỆT NAM NHỮNG NĂM ĐẦU ĐỔI MỚI
............................................................................................................................. 68
 
2.1.
 Vấn đề định vị một số nhà văn tiên phong trong bối cảnh văn hoá Việt
Nam đầu Đổi mới ............................................................................................ 68
 
2.2.
 Từ bối cảnh văn hoá hậu hiện đại sơ khởi đến hình thức siêu hư cấu trong
văn xuôi thời đầu Đổi mới ............................................................................... 74
 
2.2.1.
 Tính chất hậu thuộc địa và hình thức siêu hư cấu biên sử .............. 75
 
2.2.2.
 Tính chất hậu chiến và sự rạn nứt vai trò “người phát hiện và bảo
vệ chân lý” của nhà văn .................................................................. 82
 

3



2.2.3.
 Tính chất hậu bao cấp và nhận thức về bản chất hư cấu của tác
phẩm hư cấu .................................................................................. 106
 
Chương 3: SIÊU HƯ CẤU BIÊN SỬ: LỊCH SỬ NHƯ LÀ NHỮNG BỨC
PHỐI HOẠ ĐA SẮC DIỆN ............................................................................ 132
 
3.1.
 Vài nét về lý thuyết siêu hư cấu biên sử (historiographic metafiction).. 132
 
3.1.1.
 Tương đối luận lịch sử: Lịch sử như là những cấu trúc ................ 134
 
3.1.2.
 Siêu hư cấu biên sử: Và lịch sử như là những giải cấu trúc/ tái cấu
trúc ................................................................................................ 138
 
3.1.3.
 Quá khứ trong một hiện tại đang biến đổi không ngừng: Những
chiến lược cơ bản của siêu hư cấu biên sử trong việc biểu đạt quá
khứ lịch sử .................................................................................... 147
 
3.2.
 Lịch sử – những bức phối họa đa sắc diện trong truyện ngắn siêu hư cấu
biên sử của Nguyễn Huy Thiệp ..................................................................... 152
 
3.2.1.
 Lịch sử qua đôi mắt phương Tây (Vàng lửa) ............................... 153
 

3.2.2.
 Lịch sử qua những đôi mắt nữ tính (Phẩm tiết, Chút thoáng Xuân
Hương, Nguyễn Thị Lộ…) ............................................................ 163
 
Kết luận: VĨ THANH VỀ MỐI QUAN HỆ TÁC GIẢ – VĂN BẢN – ĐỘC
GIẢ TRONG SIÊU HƯ CẤU HẬU HIỆN ĐẠI ........................................... 179
 
Phụ lục ............................................................................................................... 183
 
Cấu trúc, ký hiệu và cuộc chơi trong diễn ngôn của các khoa học nhân văn
(Jacques Derrida) ........................................................................................... 186
 
Tài liệu tham khảo ............................................................................................. 209
 
Tiếng Việt ...................................................................................................... 209
 
Tiếng Anh ...................................................................................................... 214
 

4


DẪN LUẬN

0.1.

Tính cấp thiết của đề tài
Thực trạng nghiên cứu và phê bình văn học ở Việt Nam hiện nay đặt ra

một số vấn đề cho người nghiên cứu, và chính những vấn đề này đã đưa chúng

tôi đến với việc thực hiện luận án này.
Thứ nhất là sự thiếu cập nhật của hệ thống lý thuyết văn học trong nước.
Trên diễn đàn lý luận văn học thế giới, các lý thuyết mới không bao giờ ngừng
hình thành, phát triển, nhưng tình hình các diễn đàn lý luận ở Việt Nam nhìn
chung chưa cho thấy sự cập nhật đầy đủ.
Thứ hai, do sự ứng dụng của các lý thuyết cũ đã trở nên bất cập, nên rất dễ
xảy ra tình trạng nhà phê bình áp đặt chủ quan ý kiến của mình đối với tác phẩm,
tác giả, mà thiếu một nền tảng lý luận vững chắc để làm điểm tựa. Điều này đặc
biệt rõ nét đối với hiện tượng mà chúng tôi lựa chọn làm một nghiên cứu ứng
dụng cho hệ hình lý thuyết mà luận án nêu ra – một số tác phẩm văn xuôi siêu
hư cấu Việt Nam thời kỳ đầu Đổi mới. Thú vị và đáng nghiên cứu là ở chỗ, chưa
bao giờ trong lịch sử phê bình văn học của chúng ta lại xuất hiện nhiều bài phê
bình lệch nhau – thậm chí trái ngược nhau hoàn toàn – không chỉ về ý kiến đánh
giá mà, quan trọng hơn hết, là tiêu chí đánh giá và những khái niệm lý thuyết
làm nền tảng cho việc đánh giá. Sự phức tạp “kép” đó (sự phức tạp của bản thân
hiện tượng văn học và của những luồng ý kiến đánh giá hiện tượng văn học) vẫn
đang là cánh cửa mở ngỏ cho người nghiên cứu.
Như thế, theo chúng tôi, để định vị và sơ bộ giải quyết vấn đề cải tiến hệ
thống lý thuyết, thì trước mắt ta cần tiến hành những công việc sau: thứ nhất,
dịch thuật và giới thiệu những lý thuyết phê bình hiện đại một cách có hệ thống,
và thứ hai, bước đầu ứng dụng những lý thuyết đó để giải quyết một số hiện
tượng văn học chưa được giải quyết thấu đáo ở Việt Nam. Trong phạm vi tương
đối giới hạn của một đề tài nghiên cứu cá nhân, chúng tôi kết hợp hai định

5


hướng này nhằm góp phần khắc phục những tồn tại trên trong mức độ hạn chế
nhất định: chúng tôi nhắm đến khảo sát một hiện tượng cụ thể (hiện tượng văn
xuôi siêu hư cấu thời đầu Đổi mới) thông qua một lăng kính lý thuyết cũng khá

cụ thể (lý thuyết siêu hư cấu). Chúng tôi sẽ giới thiệu sơ lược về lý thuyết này,
và ứng dụng một số thành quả lý luận mà các học giả phương Tây đã đạt được
để đề xuất một số nhận xét, đánh giá các tác phẩm này.

0.2.

Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Chọn đề tài “Văn học siêu hư cấu và cảm quan hậu hiện đại trong văn xuôi

Việt Nam thời đầu Đổi mới”, chúng tôi ý thức rằng mình đang đi vào một con
đường rất rộng nhưng cũng nhiều khó khăn. Rộng bởi vì hầu như chưa có một đề
tài nghiên cứu lớn nào trước chúng tôi giới thiệu một cách toàn diện lý thuyết
siêu hư cấu ở Việt Nam (mặc dù một vài nhà lý luận có nhắc qua về khái niệm
này), hay ứng dụng lý thuyết siêu hư cấu để nghiên cứu một hiện tượng văn học
Việt Nam nào cụ thể. Khó khăn bởi vì các hiện tượng văn học ở Việt Nam có
liên quan đến khái niệm lý thuyết này đều đã được bàn luận, đào xới khá nhiều
trong lịch sử nghiên cứu phê bình văn học (như Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh,
Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Bình Phương, Tạ Duy Anh, Nguyễn Xuân Khánh…),
và tuy chưa hẳn là đã cũ, nhưng hẳn là hầu hết các tác giả này đều không còn
được xem là những hiện tượng mới mẻ nữa, nhất là so với những biến động gần
đây trong đời sống văn học. Vì vậy chúng tôi chọn một góc nhìn hẹp hơn – thời
đầu Đổi mới – ngõ hầu có cái nhìn chi tiết hơn về sự hình thành dòng văn học
này trong một thời điểm có tính chất chuyển giao của lịch sử văn học. Và như
chúng tôi đã nói đến ở trên, chính vì các hiện tượng này đã được đưa ra bàn luận
khá nhiều, nên đối tượng nghiên cứu của chúng tôi có thể sẽ còn rộng hơn nữa:
không chỉ là tác phẩm của họ, mà chính sự đối nghịch, trái chiều của những ý
kiến đánh giá về họ sẽ giúp chúng tôi có nhận định chính xác hơn và diễn giải
thấu đáo hơn về cái “bối cảnh hậu hiện đại” đã sinh ra và bồi đắp nên những tác
giả như chúng ta đang có.


6


0.2.1. Tình hình nghiên cứu lý thuyết siêu hư cấu và hậu hiện đại ở Việt Nam
Cho đến nay, khái niệm siêu hư cấu (metafiction) vẫn chỉ thỉnh thoảng xuất
hiện trong một số bài viết giới thiệu các lý thuyết văn học hậu hiện đại thế giới
của một số nhà nghiên cứu hải ngoại, và cũng chỉ được nhắc đến như một khái
niệm tham chiếu chứ chưa phải như một hệ thống lý thuyết hoàn chỉnh. Khái
niệm siêu hư cấu như một vấn đề lý thuyết mới, có thể áp dụng để nghiên cứu
một hiện tượng văn học Việt Nam cụ thể, có lẽ chỉ xuất hiện một lần trong bài
Siêu tiểu thuyết của thời hậu hiện đại của Trịnh Thanh Thuỷ. Bà trình bày ngắn
gọn về bản chất của loại hình hư cấu này:
“Siêu hư cấu hay siêu tiểu thuyết (metafiction) là một loại tiểu thuyết về
tiểu thuyết, hư cấu giữa hư cấu1. Từ ngữ này thường dùng để ám chỉ loại tiểu
thuyết có những yếu tố tự tham chiếu. Siêu tiểu thuyết không những nghiên cứu
cấu trúc căn bản của nghệ thuật kể chuyện truyền thống, nó còn khám phá thêm
tính hư cấu của thế giới bên ngoài văn bản văn chương tiểu thuyết. Nó cũng
cống hiến cho chúng ta một hình thái khác lạ, chính nó phê bình cấu trúc riêng
của nó. Trong lối viết này, nhà văn bàn về kỹ thuật viết và tiến trình xây dựng
tác phẩm ngay trong tác phẩm của mình.
Tác phẩm siêu tiểu thuyết giống như một trò chơi tự trình bày cách chơi
của nó. Sự tương tác giữa người đọc và người viết được thể hiện qua sự mời gọi
tham gia vào một cuộc chơi. Cảm nhận của độc giả sẽ bị lầm lẫn vì những sự
kiện có thực được kể bị nhiễu loạn. Người viết đôi khi còn tự bước vào truyện
như một nhân vật, nói chuyện trực tiếp với độc giả. Người đọc sẽ tìm thấy một
đặc điểm nổi bật của siêu tiểu thuyết cũng như văn chương hậu hiện đại mà họ
1

Siêu hư cấu không chỉ giới hạn trong tiểu thuyết, mà toàn bộ tự sự có tính hư cấu nói chung.
Tuy ở Việt Nam có một số người dịch khái niệm fiction là tiểu thuyết, nhưng ở đây chúng tôi

hiểu theo định nghĩa của The Concise Oxford Dictionary of Literary Terms: “fiction, thuật ngữ
bao quát chỉ truyện hư cấu (invented), hiện nay thường được áp dụng cho tiểu thuyết, truyện
ngắn, tiểu thuyết ngắn, truyện phiêu lưu-tình cảm (romance), ngụ ngôn, và các tác phẩm tự sự
khác bằng văn xuôi, thậm chí hầu hết kịch và thơ tự sự đều có tính chất fiction” (Baldick, Chris
2001: 96).

7


không thể thấy ở lối kể chuyện truyền thống, đó là phương thức đa kết, phương
thức chống lại sự kết thúc bằng cách ban cho một cốt chuyện rất nhiều hệ quả có
thể có được.”
Áp dụng khái niệm siêu hư cấu (siêu tiểu thuyết) để bàn về bộ tiểu thuyết
Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác trong thế đối sánh với Linh Sơn của
Cao Hành Kiện, Trịnh Thanh Thuỷ viết:
“Tác phẩm trường thiên tiểu thuyết Sông Côn mùa lũ của nhà văn Nguyễn
Mộng Giác có nhiều đặc điểm của một tác phẩm Siêu tiểu thuyết lịch sử.
Sông Côn mùa lũ là một kết hợp nhịp nhàng giữa nghệ thuật và đời sống.
Nguyễn Mộng Giác đã dùng ngòi bút giải thích lịch sử, kéo nó gần hơn với sự
thật.” ( />Như vậy Trịnh Thanh Thuỷ có thể coi là người đầu tiên giới thiệu lý thuyết
siêu hư cấu và áp dụng nghiên cứu một tác phẩm văn học viết bằng ngôn ngữ
Việt, tuy rằng mới dừng ở mức phác thảo một cách khá sơ sài, thậm chí có lúc
hơi nhầm lẫn (chẳng hạn, về mặt lý thuyết, tác giả siêu hư cấu biên sử – hay siêu
tiểu thuyết lịch sử theo cách gọi của Trịnh Thanh Thuỷ – không bao giờ có ý
định “dùng ngòi bút giải thích lịch sử, kéo nó gần hơn với sự thật”, mà hoàn toàn
ngược lại, họ chứng minh sự bất khả của chính cái ý định giải thích lịch sử và sự
tồn tại của cái mà người ta gọi là sự thật khách quan của lịch sử). Cho đến nay,
vẫn chưa có ai tiếp tục con đường này.
Riêng lý thuyết hậu hiện đại thì đã được giới thiệu tương đối nhiều ở Việt
Nam tuy chưa thật sự có hệ thống và chưa hoàn toàn đầy đủ, thậm chí đôi khi có

hơi thiếu chính xác và có phần thành kiến. Cũng như các lý thuyết phê bình hiện
đại phương Tây khác, con đường đến với Việt Nam của lý thuyết hậu hiện đại có
những khó khăn trắc trở riêng của nó. Là con đẻ của chủ nghĩa tư bản hậu kỳ,
nảy sinh trực tiếp trong điều kiện khoa học thông tin phát triển ở giai đoạn cao
nhất, chủ nghĩa hậu hiện đại dần lan toả và tác động đến hầu hết các nền văn hoá
trên thế giới. Riêng ở những đất nước mà điều kiện khoa học kỹ thuật cũng như
điều kiện xã hội lịch sử chưa chín muồi, chủ nghĩa hậu hiện đại mang một dáng

8


dấp đặc thù, vừa như kết quả những tác động bên ngoài vừa do những điều kiện
nội sinh. Từ ngoài vào là những nỗ lực giới thiệu và liên hệ, từ trong ra là những
nỗ lực giải thích lại một hệ hình văn hoá vốn không còn nằm yên trong những
quy chuẩn cũ.
Không phải là một điều bất ngờ khi ta thấy quá trình giới thiệu lý thuyết
hậu hiện đại ở Việt Nam bắt đầu từ một tác giả người nước ngoài. Thuật ngữ
“hậu hiện đại” xuất hiện trên báo chí nước ta lần đầu tiên vào năm 1989 trong
bài viết Tại sao tôi dịch truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp sang tiếng Anh của Greg
Lockhart đăng trên Tạp chí Văn học số 4/1989. Nhà phê bình người Úc này đã
lưu ý đến một điểm gặp gỡ đặc biệt giữa Nguyễn Huy Thiệp với một số tác giả
nổi tiếng ở phương Tây:
“Cuối thế kỷ này thế giới có nhiều thay đổi về chính trị, kinh tế, văn hoá rất
phức tạp. Những thay đổi, phủ nhận ký ức của quá khứ, và vì thế ta tìm thấy sự
xuất hiện của nhiều xu hướng văn học, sử học mới. Phương Tây có ảnh hưởng
phổ biến của huyền thoại với tiểu thuyết và truyện ngắn của nhà văn châu Mỹ
Latin như Gabriel Garcia Marquez. Ta có cách viết lịch sử của nhà sử học nói
tiếng Anh, Jonathan Spence, mà giống cách viết tiểu thuyết. Với nhà văn Ba
Lan, Ryzard Kapuschinsky, ta có phóng sự rất kỳ lạ, dị dạng mà có chất thơ. Ở
Pháp ta có bút ký của Marguerite Duras. Nhà phê bình phương Tây cũng có thể

coi bút ký của bà ấy là tiểu thuyết. Và ở Việt Nam ta có truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp. Đây là những phương pháp biểu hiện cuộc sống trên thế giới cuối
thế kỷ này. Tức là, đây là hiện tượng văn học chúng ta gọi hậu hiện đại chủ
nghĩa (postmodernism)” (Lockhart, 1989: 113-114)
Lockart mới chỉ dừng lại ở việc giới thiệu khái niệm và gợi mở hướng tiếp
cận truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp từ một số nét mà ông cho là tương đồng
giữa tác giả Việt Nam này với một số tác giả nước ngoài. Tuy nhiên hướng
nghiên cứu mà ông gợi ý đã không được chú ý nhiều và tiếp tục đào sâu ở thời
điểm đó. Vài năm sau đó, trong những năm đầu của thập kỷ 90, một số bài dịch
về lý thuyết hậu hiện đại xuất hiện trên báo chí: Vài suy nghĩ về cái gọi là tiểu

9


thuyết Hậu hiện đại của Antonio Blach (tạp chí Văn học, số 5/1991), Sự suy tàn
của phong trào tiên phong: nghệ thuật Hậu hiện đại của Luc Ferry (tạp chí
Thông tin khoa học xã hội, số 2, 1995) và Về Chủ nghĩa Hậu hiện đại của John
Verhaar (tạp chí Văn học, số 5, 1997). Về cơ bản, những bài viết này có dung
lượng ngắn và nội dung giới thiệu một cách khá sơ lược một số quan niệm của
về chủ nghĩa hậu hiện đại với tư cách là một trào lưu văn hoá nghệ thuật đương
đại phương Tây.
Sang đến đầu thế kỷ XXI, các bài tổng thuật, giới thiệu về lý thuyết hậu
hiện đại bắt đầu xuất hiện khá nhiều trên báo chí, góp phần giới thiệu một cách
khá hoàn chỉnh trào lưu này. Đó là “Chủ nghĩa Hậu hiện đại” hay là hiện tượng
chồng chéo khái niệm của Nguyễn Văn Dân (tạp chí Văn học, số 9/2001), Hậu
hiện đại của Diễm Cơ (tạp chí Nghiên cứu văn học số 8/2004 và số 9/2004),
Quan niệm thực tại và con người trong văn học hậu hiện đại của Đào Tuấn Ảnh
(tạp chí Nghiên cứu văn học số 8, 2005)… Nhà nghiên cứu Phương Lựu có thể
coi là người xông xáo nhất trong việc giới thiệu lý thuyết này ở Việt Nam trong
những năm đầu thế kỷ XXI, với những bài viết Tìm hiểu Chủ nghĩa Hậu hiện đại

(tạp chí Nhà văn, số 8/2000), Những bậc tiên phong của tư duy hậu hiện đại (tạp
chí Nghiên cứu văn học số 5/2004), Chủ nghĩa lịch sử mới, một chuyển biến
trong lòng chủ nghĩa hậu hiện đại (tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 12/2007),
Bước đầu tìm hiểu thi pháp hậu hiện đại (tạp chí Nhà văn số 5/2010), Khái quát
và tranh luận trực tiếp về văn hoá hậu hiện đại (tạp chí Nghiên cứu văn học số
8/2010). Đa phần các bài viết này thừa nhận sự tồn tại khách quan của chủ nghĩa
hậu hiện đại trong văn học, trừ Nguyễn Văn Dân. Tác giả này không đồng ý với
cách sử dụng khái niệm hậu hiện đại trong văn học và một số lĩnh vực khác, cho
rằng đây chỉ là một khái niệm ảo: “Riêng tôi, tôi cho rằng chỉ nên dùng khái
niệm “hậu hiện đại” cho kiến trúc và hội hoạ, còn trong các lĩnh vực khác, đặc
biệt là trong văn học, thì không nên dùng nó, mà chỉ nên dùng khái niệm “[chủ
nghĩa] hiện đại” hoặc cùng lắm thì dùng khái niệm “[chủ nghĩa] tối [hoặc siêu]
hiện đại”. Như thế là rất chính xác và thoả đáng” (Nguyễn Văn Dân, 2001: 146).

10


Một số công trình dịch thuật, tổng thuật dày dặn tiếp tục được công bố như
Truyện ngắn hậu hiện đại thế giới (Hà Nội: Hội nhà văn, 2003), Văn học hậu
hiện đại thế giới, những vấn đề lí thuyết (Hà Nội: Hội nhà văn, 2003), Nhập môn
chủ nghĩa hậu hiện đại (Trần Tiễn Cao Đăng dịch, TPHCM: Trẻ, 2006), Hoàn
cảnh hậu hiện đại (Ngân Xuyên dịch, Hà Nội: Tri thức, 2007). Các công trình
này bàn tới nhiều vấn đề cơ bản của chủ nghĩa hậu hiện đại như: thời điểm ra đời
của chủ nghĩa hậu hiện đại với tư cách là một trào lưu; độ chính xác của thuật
ngữ hậu hiện đại; mối quan hệ giữa chủ nghĩa hậu hiện đại với các trào lưu nghệ
thuật khác đặc biệt là chủ nghĩa hiện đại; sự tác động của chủ nghĩa hậu hiện đại
tới nền nghệ thuật đương đại; diễn trình văn hoá hậu hiện đại ở các nước Nga,
Mỹ, Trung Quốc…
Năm 2012, cuốn sách Văn học hậu hiện đại: Lý thuyết và tiếp nhận của Lê
Huy Bắc ra đời, cung cấp một cái nhìn toàn cảnh và tương đối chi tiết về lý

thuyết hậu hiện đại. Tuy nhiên, có lẽ một số kiến giải cần làm rõ lại, nhất là
trường hợp của Franz Kafka và các lý thuyết siêu thực, tượng trưng trong quan
hệ với chủ nghĩa hậu hiện đại.
0.2.2. Tình hình nghiên cứu văn học Việt Nam từ góc nhìn lý thuyết hậu
hiện đại
Mở đầu với Greg Lockhart rồi tạm bị gián cách một thời gian do những
điều kiện không thuận lợi của tư liệu cũng như hoàn cảnh nghiên cứu, gần đây
cách tiếp cận từ lý thuyết hậu hiện đại được tiếp nối với nhiều bài nghiên cứu cả
ở cấp độ toàn cảnh lẫn ở cấp độ tác phẩm.
Sau một số tranh luận gay gắt giữa các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước
về bản chất của khái niệm hậu hiện đại về mặt lý thuyết và tương lai của chủ
nghĩa hậu hiện đại ở Việt Nam, đến năm 2006, giới nghiên cứu trong nước bắt
đầu quan tâm đến hậu hiện đại như một hiện tượng văn học thực tiễn chứ không
đơn thuần chỉ là một khái niệm lý thuyết ngoại lai. Trong bài Chủ nghĩa hậu
hiện đại và ảnh hưởng ở nước ta đăng trên Vietnamnet ngày 17/8/2006, Đông La
nêu lên một số ảnh hưởng của chủ nghĩa hậu hiện đại đối với văn học nghệ thuật

11


Việt Nam. Tuy cái nhìn có phần cực đoan và giọng điệu gay gắt, kết án, ít tính
khoa học, nhưng điều đáng quan tâm là Đông La có ít nhiều thừa nhận khả năng
và triển vọng tồn tại khách quan của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học Việt
Nam. Ông chỉ lên án cái mà ông cho là nhân danh “hậu hiện đại” nhưng thực
chất chỉ là “quậy” một cách “thô bỉ”, “bẩn thỉu” và “lưu manh”:
“Có điều sự chống đối đó không phải là phẩm chất cao quý để vượt qua
chủ nghĩa hiện đại mà chỉ đơn giản là “quậy”, cái thái độ không cần đến nghệ sĩ
mà những kẻ bất hảo vô học còn làm tốt hơn. Có quá nhiều sự thô bỉ, bẩn thỉu,
nhầy nhụa và hằn học, thậm chí lưu manh, trong văn chương “hậu hiện đại” này.
Trong văn chương có hỗn loạn, thô tục, bẩn thỉu, bởi cuộc sống có phần như thế,

nhưng coi chúng là “đặc trưng”, là “thi pháp” thì đã phi lý, phi mỹ, phi luân và
cuối cùng là phi nhân hóa những đặc tính của văn chương.
Bởi đã là con người bình thường ai cũng biết phân biệt tốt với xấu, sạch sẽ
với bẩn thỉu, lịch sự với thô tục… người ta chỉ để thùng rác chỗ khuất lấp chứ có
ai lại trưng ra trong phòng khách, mà văn chương như phòng khách của tinh
thần, không thể quăng bừa rác, uế tạp và thô bỉ lên đó được. Đã có những nhà
phê bình, những trang web mang danh ở xã hội hậu hiện đại văn minh đề cao
loại văn chương đó, cố công độc đáo hóa cái lập dị, nghiêm túc hóa cái bông
phèng, sâu sắc hóa cái vô nghĩa, cao siêu hóa cái tầm thường, và cuối cùng là
nhân bản hóa cái phi nhân tính, bởi đã kỳ công đi phân tích mùi thơm của thối
rữa, tô vẽ màu sắc cho rác rưởi; cả hai, cả sự sáng tạo và thẩm định, hoàn toàn có
thể nói thực chất chỉ là sự xả rác trí tuệ mà thôi.”
Nhưng cũng trong năm 2006, một hội thảo lớn do Viện Văn học tổ chức
vào tháng 11/2006, Văn học Việt Nam trong bối cảnh giao lưu văn hoá khu vực
và quốc tế, đã mang đến cho giới nghiên cứu văn học không ít bài viết bàn về
những đặc điểm khách quan của cảm thức hậu hiện đại trong văn học Việt Nam,
như các bài của Lã Nguyên, Đào Tuấn Ảnh, Cao Kim Lan… Chúng tôi sẽ bàn
riêng về các bài viết này ở phần tiếp theo.

12


Đến năm 2008, tại hội thảo Lý luận văn học Việt Nam thế kỷ XX, Hoàng
Ngọc Hiến công bố bài viết Tiếp nhận những cách tân của chủ nghĩa hiện đại và
chủ nghĩa hậu hiện đại. Ông đề cập đến sự xâm nhập của văn hoá pop vào văn
hoá hạng sang, thậm chí khẳng định tính hậu hiện đại theo nghĩa sự xâm thực
của văn hoá đại chúng (pop culture) đã xuất hiện từ Trần Dần.
Sau đây là một số bài viết đáng chú ý, có liên quan trực tiếp đến việc ứng
dụng lý thuyết chủ nghĩa hậu hiện đại vào nghiên cứu văn xuôi Việt Nam những
năm sau Đổi mới:

- Một cách nhìn về “tiểu thuyết hậu hiện đại ở Việt Nam” của Hoàng Cẩm
Giang – Lý Hoài Thu (tạp chí Nghiên cứu văn học số 6/2011)
Bài viết này đưa ra một quan sát thực tiễn về sự vận động của tiểu thuyết
Việt Nam về mặt cấu trúc thể loại, từ hình thức thể loại truyền thống trước 1986
đến ba xu hướng tiểu thuyết sau 1986 (duy trì hình thức thể loại truyền thống,
vừa duy trì vừa cách tân, và cách tân mạnh hình thức tiểu thuyết). Các tác giả
cho rằng “từ quan niệm về thể loại, chủ thể thể loại đến khung hình thể loại, tất
cả đều có những vận động, cách tân, những bước tiến nhất định hướng tới cái gọi
là “hậu hiện đại” nói trên (mặc dù có thể là “vô ý thức”)”.
Ngoài ra, bài viết cũng cho rằng quá trình “hậu hiện đại hoá thể loại” chỉ
trở nên mạnh mẽ và toàn diện kể từ “làn sóng thứ ba” bao gồm các nhà văn đầu
thế kỉ XXI (Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Việt Hà, Hồ Anh Thái,
Thuận…). Về cơ bản, chúng tôi tán đồng với nhận định của các tác giả, song
chúng tôi muốn dành một phần trong luận án này để đi sâu vào quá trình chuyển
tiếp nhọc nhằn trong một bối cảnh văn hoá loang lổ giữa mới và cũ, quá trình
chuyển tiếp từ những hình thức thể loại tạm gọi là truyền thống đến những thể
nghiệm hình thức hậu hiện đại mạnh mẽ quyết liệt như trên – đó là các nhà văn
thuộc “làn sóng thứ hai” thời Đổi mới, theo cách gọi của các tác giả bài viết.
- Lịch sử trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và dấu vết của hệ hình thi
pháp hậu hiện đại của Cao Kim Lan (tạp chí Nghiên cứu Văn học số 12/2007)

13


Thông qua phân tích các đặc điểm: Sự phá vỡ trật tự thời gian trong tâm
thế chối bỏ “đại tự sự”, Phương thức đa kết phá vỡ kết cấu trung tâm của văn
bản tác phẩm, Người kể chuyện không đáng tin vậy và việc giải mã các yếu tố
nhục thể, Cao Kim Lan phát hiện trong truyện ngắn giả lịch sử của Nguyễn Huy
Thiệp có sự dịch chuyển sang hệ hình thi pháp hậu hiện đại (hiểu theo nghĩa tính
chất hoài nghi và lật lại vấn đề tính khách quan lịch sử):

“Không phải chúng ta nghi ngờ sự trung thực của những tư liệu được công
bố mà là nghi ngờ cái “sự thực” được tái hiện trong mỗi tư liệu. Nó không phải
là chân lý mà cũng chưa chắc đã là một mặt, một khía cạnh nào đó của sự thực,
bởi thực chất nó chỉ là suy nghĩ đầy chủ quan của một con người. […] Cảm giác
bất khả tín buộc độc giả phải tiếp cận với văn bản một cách tỉnh táo bằng tri thức
tích cực thay vì cảm xúc thụ động. Là một tiểu thuyết lịch sử, nó buộc chúng ta
phải nghi ngờ: Lịch sử - đó là lịch sử của sự đa nghi hoang tưởng. Thực ra điều
này dẫn chúng ta đến những suy đoán khốn khổ hơn: Nếu tất cả những biến cố
lớn trong lịch sử chẳng qua chỉ là những màn phụ thực sự được tổ chức bởi
những người điều khiển “gánh xiếc vô hình” vì những mục đích nào đó (đen tối
hoặc không đen tối) thì sao? Thực ra câu trả lời luôn tiềm ẩn trong nhận thức của
mỗi người và thủ pháp tạo sự “bất tín” của tiểu thuyết gia sẽ cho độc giả cơ hội
đến gần hơn với “sự thật”, cái sự thật luôn tương đối từ khi có nhà sử học. Tất cả
những dấu vết của quá khứ: những hiện vật, những biểu tượng, văn tự, và cả
những cái xác, những lăng mộ, cung điện, giai thoại, v.v. sẽ cho chúng ta nhìn
quá khứ rõ hơn nhưng không bao giờ chính xác tuyệt đối.”
Chúng tôi sẽ tiếp tục con đường mà Cao Kim Lan đã mở ra bằng cách giới
thiệu lại một cách sơ lược mô hình lý thuyết siêu hư cấu biên sử (historiographic
metafiction) và soi chiếu lại một trường hợp cụ thể là Nguyễn Huy Thiệp, từ đó
đánh giá tính chất bất khả tín của truyện ngắn giả lịch sử Nguyễn Huy Thiệp một
cách sát sao và chi tiết hơn.

14


- “Những dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học Việt Nam qua
sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài” của Lã Nguyên (tạp chí
Nghiên cứu Văn học, số 12/2007)
Lã Nguyên nêu ra phạm trù hậu hiện đại như một định tính thẩm mỹ cho
một khuynh hướng văn học ở nước ta từ sau 1975. Sau khi phân tích những tiền

đề lịch sử - văn hoá tác động trực tiếp đến tiến trình văn học Việt Nam sau 1975,
ông xác định một số dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại trong tác phẩm của
Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài. Chủ yếu ông tập trung vào các hình thức
thế giới quan: Câu chuyện về một thế giới vô nghĩa vô hồn; Cuộc chia tay với
những vị ngữ bất biến của nguyên tắc dụ ngôn; Nguyên tắc đồng dao hay là thế
ưu thắng của văn bản ngôn từ, sự bơ vơ của lời và vật, chữ và nghĩa. Ông phát
hiện những “kịch tính” được tạo bởi thủ pháp “giễu nhại”, những hình thức nhại
thể loại cổ tích, truyện lịch sử, huyền thoại, gia phả, thư tín, thơ ca trong sáng tác
Nguyễn Huy Thiệp.
Đáng lưu ý nhất ở bài viết này là Lã Nguyên cho rằng các tác giả Nguyễn
Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài đã vượt qua khái niệm hậu hiện đại như một kỹ thuật
viết được học tập, vay mượn từ các tác giả Âu Mỹ để tiếp cận với hậu hiện đại
như một hình thức thế giới quan đặc thù của thời đại mới. Ông khẳng định:
“Vượt lên trên sự vay mượn, bắt chước các thao tác, thủ pháp kĩ thuật học
được từ các nguồn văn học Âu - Mĩ, Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài đã
sáng tạo cho tác phẩm của mình một hình thức biểu hiện phản ánh loại hình tư
duy nghệ thuật của thời đại mới. Tôi gọi đó là hình thức thế giới quan, tức là
hình thức thể hiện cảm quan của thời đại và quan niệm nghệ thuật của nghệ sĩ.
Ta nhận ra nghệ thuật hậu hiện đại chủ yếu qua các kiểu kết cấu văn bản. Thế
giới nghệ thuật trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài là thế
giới phân mảnh, đứt gẫy mạch lạc, hình tượng được kiến tạo theo nguyên tắc lạ
hoá, văn bản ngôn từ nổi trên bình diện thứ nhất của văn bản văn học, “lời” và
“nghĩa” xô đẩy, giễu nhại nhau đưa nghệ thuật ngôn từ đến với các hình thức
ngoài thể loại. Đây chính là kiểu kết cấu thể hiện loại hình tư duy của nghệ thuật

15


hiện đại. Loại hình tư duy ấy không phải từ trên trời rơi xuống, mà gắn với
những nguyên tắc kiến tạo hình tượng, tổ chức văn bản của đồng dao, câu đố có

nguồn cội từ thời tiền văn học, trong sáng tác dân gian. […] sự xuất hiện của chủ
nghĩa hậu hiện đại trong văn học Việt Nam nói chung, trong sáng tác của Phạm
Thị Hoài và Nguyễn Huy Thiệp nói riêng, chắc chắn không phải là hiện tượng
vay mượn, ngoại nhập. Sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài cung
cấp đủ tư liệu cho phép rút ra kết luận: những điều kiện lịch sử, xã hội trong
vòng 30 năm nay đã làm nẩy sinh tâm trạng, cảm quan và loại hình văn hoá hậu
hiện đại trong văn học Việt Nam” (chúng tôi nhấn mạnh).
Chúng tôi sẽ tiếp thu những nhận định cơ bản này và trên nền tảng đó, xây
dựng lại một mô hình văn hoá hậu hiện đại Việt Nam đặc thù để định vị những
trường hợp có thể gọi là “tiên phong” của thời đầu Đổi mới: Nguyễn Huy Thiệp,
Bảo Ninh và Nguyễn Việt Hà.
- “Những yếu tố hậu hiện đại trong văn xuôi Việt Nam qua so sánh với văn
xuôi Nga” của Đào Tuấn Ảnh (Tạp chí Nghiên cứu văn học số 12, 2007)
Bài viết này đặt song song hai xu hướng văn học hậu hiện thực xã hội chủ
nghĩa ở Nga và Việt Nam, phân tích một số đặc trưng mà hai nền văn học này
chia sẻ, tạm định danh đó là sự “tương đồng loại hình văn học hậu hiện thực xã
hội chủ nghĩa” và khẳng định “văn học hậu hiện thực xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam là một hệ hình văn học mới bao gồm những khuynh hướng sáng tác khác
nhau đặc trưng cho nền văn học phát triển tăng tốc” (41)
- “Dấu ấn hậu hiện đại trong văn học Việt Nam sau 1986” của Phùng Gia
Thế (Văn nghệ ngày 8/12/2007)
Bài viết này đi tìm nguồn gốc của các biểu hiện kỹ thuật hậu hiện đại trong
văn học Việt Nam từ góc độ đời sống văn hoá. Phùng Gia Thế chỉ ra các tiền đề
lịch sử, xã hội và ý thức (tinh thần hoài nghi đối với cái quan phương, chính
thống, sự phì đại của vật chất và tinh thần), tiền đề về giao lưu văn hóa quốc tế
và toàn cầu hóa (sự mở rộng quan hệ ngoại giao, sự phát triển của thông tin),
tiền đề về văn học (tính hỗn dung của nghệ thuật và sự khủng hoảng của văn học

16



trong sân chơi văn hoá thời đổi mới). Từ đó ông khẳng định: “Nếu những ảnh
hưởng từ bên ngoài vào hậu hiện đại ở nước ta chủ yếu biểu hiện ở các vấn đề
thủ pháp kĩ thuật, thì tâm thức hậu hiện đại cơ bản lại được sinh thành từ các
nhân tố bên trong (tất nhiên cũng không loại trừ tính chất lây lan của tâm thức
bắt nguồn từ bên ngoài).”
Đề tài mà chúng tôi đang tiến hành sẽ mở rộng nhận định này, và tiếp tục
con đường mà tác giả chưa bàn tới, đó là diện mạo đặc thù của văn hoá hậu hiện
đại Việt Nam khi nó sinh thành và phát triển trên một mảnh đất lạ với những
điều kiện khác biệt.
Tuy số lượng bài viết liên quan đến đề tài của chúng tôi không phải là quá
ít, nhưng có thể thấy hầu hết đều không liên quan trực tiếp. Chủ yếu các nhà
nghiên cứu trên bàn về hệ thống hình tượng và kết cấu văn bản mang dấu vết của
hệ hình thi pháp hậu hiện đại, còn đề tài của chúng tôi là bàn về ý thức hậu hiện
đại thông quan một biểu hiện hẹp của nó – kỹ thuật siêu hư cấu. Hơn nữa, do
quy mô của một luận án rộng hơn nhiều so với quy mô của những bài viết ngắn,
nên chúng tôi có điều kiện để không chỉ lướt qua những biểu hiện rời rạc của hệ
hình hậu hiện đại trong các tác phẩm văn học cụ thể, mà còn đi sâu lý giải nguồn
gốc của một ý thức hậu hiện đại Việt Nam trong thế tương quan với ý thức hậu
hiện đại của thế giới đương đại. Hay nói cách khác, với chúng tôi, ý thức hậu
hiện đại nơi sáng tác của các tác giả thời đầu Đổi mới không phải là sự tiếp thu,
sao phỏng một chiều đối với những trào lưu văn học nghệ thuật trên thế giới, mà
là kết quả của quá trình phát triển tất yếu của sự tự ý thức trong văn hoá Việt
Nam qua một thời kỳ dài nhiều biến động, cho nên, diện mạo của nó rất khác
biệt. Chúng tôi sẽ định vị lại các nhà văn có tính chất chuyển tiếp này trong bối
cảnh văn hoá phức tạp những năm đầu Đổi mới để chứng minh tính chất nội sinh
tất yếu của cảm quan và ý thức hậu hiện đại Việt Nam từ sau 1986.

17



0.3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

0.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Về mặt lý thuyết, chúng tôi tập trung vào đối tượng chính là tính chất siêu
hư cấu trong văn học nói riêng và nghệ thuật tự sự nói chung, cũng như mối
quan hệ giữa tính chất ấy với tinh thần tự ý thức đặc thù của kỷ nguyên hậu hiện
đại. Ngoài ra, chúng tôi cũng bàn kỹ về một hiện tượng đặc thù của siêu hư cấu
hậu hiện đại – hiện tượng siêu hư cấu biên sử – cùng với những lý thuyết liên
quan. Những vấn đề về thuật ngữ và các triết thuyết liên quan sẽ được bàn luận
và làm rõ dưới ánh sáng của các hiện tượng văn học nghệ thuật cụ thể.
Về mặt thực tiễn văn học, chúng tôi ứng dụng những lý thuyết đã làm rõ đó
để nghiên cứu tính chất đặc thù của văn hoá Việt Nam những năm đầu Đổi mới,
từ đó, nghiên cứu sâu một số tác phẩm văn xuôi có yếu tố siêu hư cấu của
Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh và Nguyễn Việt Hà.
0.3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về mặt lý thuyết, để làm rõ các vấn đề lý thuyết, chúng tôi sẽ mở rộng
phạm vi ra khá rộng, chủ yếu là các tác phẩm tự sự siêu hư cấu gây tiếng vang
trên thế giới, bao gồm cả tiểu thuyết, truyện ngắn và phim, ra đời vào nhiều thời
điểm khác nhau trong lịch sử văn học nghệ thuật, từ Phục hưng, Cổ điển, đến
Hiện đại và Hậu hiện đại. Chủ ý lựa chọn tác phẩm thuộc một phạm vi rộng như
thế, là bởi chúng tôi muốn làm rõ tính chất siêu hư cấu như là một thuộc tính,
một đặc trưng của tự sự nói chung chứ không phải một thể loại đặc thù của riêng
kỷ nguyên hậu hiện đại.
Về mặt thực tiễn, phạm vi nghiên cứu của chúng tôi trong luận án này bao
gồm các tác phẩm có yếu tố siêu hư cấu xuất hiện ở giai đoạn đầu Đổi mới (từ
1986 đến 2000): những truyện ngắn có sử dụng kỹ thuật siêu hư cấu của Nguyễn
Huy Thiệp: Tướng về hưu, Cún, Chảy đi sông ơi, Không có vua, Con gái thuỷ

thần, Những bài học nông thôn, Thương nhớ đồng quê, Mưa Nhã Nam, Những
ngọn gió Hua Tát, Giọt máu, Mưa, Trương Chi, Không khóc ở California (xuất

18


bản rải rác từ 1986 đến 2000); tiểu thuyết siêu hư cấu điển hình Nỗi buồn chiến
tranh của Bảo Ninh (xuất bản lần đầu năm 1991); và tiểu thuyết mang một số
nhân tố siêu hư cấu đặc thù Cơ hội của Chúa của Nguyễn Việt Hà (xuất bản lần
đầu năm 1999). Ngoài ra chúng tôi cũng tập trung vào các truyện ngắn viết về đề
tài lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp để làm rõ các vấn đề về lý thuyết siêu hư cấu
biên sử: Vàng lửa, Kiếm sắc, Phẩm tiết, Chút thoáng Xuân Hương, Nguyễn Thị
Lộ, Hạc vừa bay vừa kêu thảng thốt…
Tự giới hạn ở phạm vi các tác phẩm ra đời ở thời kỳ đầu Đổi mới (15 năm
cuối cùng của thế kỷ XX) là bởi chúng tôi muốn tập trung vào một chuyển biến
có tính chất bước ngoặt trong văn học Việt Nam hiện đại, từ những hình thức
truyền thống ở giai đoạn trước đến những hình thức đặc trưng hậu hiện đại ở giai
đoạn sau. Chúng tôi tạm giới hạn những nghiên cứu ứng dụng của mình ở quá
trình thể nghiệm và hình thành của các hình thức siêu hư cấu hậu hiện đại trong
văn học Việt Nam ở một thời kỳ tương đối phức tạp, chứ chưa có điều kiện mở
rộng và đi sâu vào những thành tựu hoàn chỉnh của các hình thức nghệ thuật đó
khi đã chín muồi.

0.4.

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý thuyết của đề tài chủ yếu là các lý thuyết hậu hiện đại và lý thuyết

tự sự học. Chúng tôi đứng trên góc độ lý thuyết Jacques Derrida và JeanFrançois Lyotard để nhận định về điều kiện sản sinh ra ý thức hậu hiện đại và
bản chất của ý thức đó, và đứng trên góc độ tự sự học để xác định hình thức siêu

hư cấu trong các tác phẩm cụ thể. Dĩ nhiên, không một lý thuyết nào là chìa
khoá vạn năng giúp ta mở cửa toàn bộ những hiện tượng phức tạp của thực tiễn
văn học, mà trái lại, chính sự phong phú của thực tiễn văn học sẽ giúp ta làm
giàu thêm lý thuyết, thậm chí cải tạo lại lý thuyết. Tránh trường hợp vận dụng
máy móc những biểu hiện của kỹ thuật siêu hư cấu và ý thức hậu hiện đại theo
quan điểm của các nhà nghiên cứu phương Tây vào văn học Việt Nam, chúng tôi
dự định xây dựng lại một khung quy chiếu văn hoá phù hợp với thực tiễn khá

19


đặc biệt của văn học Việt Nam thời đầu Đổi mới, bởi thực tiễn này có những nét
hoàn toàn khác biệt so với các bối cảnh hậu hiện đại hay hậu thực dân phổ biến
trên thế giới, hay nói cách khác, “điều kiện hậu hiện đại” của Việt Nam rất khác
với “điều kiện hậu hiện đại” mà Lyotard từng phân tích, nên khung lý thuyết hậu
hiện đại cũng như siêu hư cấu của phương Tây khó có thể phù hợp hoàn toàn với
thực tiễn văn học Việt Nam, mà buộc phải có sự “cân chỉnh” cần thiết.
Chủ yếu, chúng tôi sử dụng phương pháp phân tích - tổng hợp. Phương
pháp này giúp khái quát những vấn đề triết lý lớn làm nền tảng cho siêu hư cấu
cũng như soi chiếu các tác phẩm cụ thể.
Thứ hai, phương pháp so sánh - đối chiếu được sử dụng ở những điểm cần
làm rõ sự tương đồng và khác biệt giữa các thể loại, hình thức và tiểu loại, giữa
các tác giả kể trên với các nhà văn khác cùng thời, và giữa các tác phẩm của họ
với nhau.
Thứ ba, phương pháp văn hóa - lịch sử được sử dụng để khái quát những
đặc trưng văn hóa xã hội đã dẫn đến sự hình thành của tự sự siêu hư cấu cũng
như trào lưu hậu hiện đại, từ đó khái quát những đặc trưng văn hóa xã hội đã dẫn
đến sự hình thành của tính chất hậu hiện đại sơ kỳ trong văn hoá Việt Nam
những năm đầu Đổi mới, và mối quan hệ của nó đối với cảm quan hậu hiện đại
và kỹ thuật siêu hư cấu trong các tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh và

Nguyễn Việt Hà.

0.5. Cấu trúc của đề tài
Đầu tiên, công trình của chúng tôi sẽ giới thiệu một cách tương đối trọn
vẹn về một dạng thức tự sự, một khuynh hướng sáng tác đang trở nên phổ biến
trong kỷ nguyên hậu hiện đại – siêu hư cấu. Chúng tôi sẽ làm rõ những đặc trưng
cơ bản của siêu hư cấu trong mối quan hệ với bản chất thẩm mỹ của nó, những
thủ pháp thường gặp trong siêu hư cấu và cơ chế tự sự của nó.

20


Một điểm quan trọng trong công trình là chúng tôi sẽ chỉ ra mối quan hệ
giữa siêu hư cấu với bản thân truyền thống tiểu thuyết, nhằm bác bỏ quan niệm
cho rằng siêu hư cấu chỉ là một hình thức bộc phát của tiểu thuyết trong thời hậu
hiện đại, xa rời với bản chất thẩm mỹ đích thực của thể loại tiểu thuyết. Chúng
tôi khẳng định dòng tiểu thuyết “mô phỏng” chính nó – tiền thân của siêu hư cấu
hậu hiện đại – ngay từ thời bình minh của thể loại tiểu thuyết, đã luôn tồn tại
song song với dòng tiểu thuyết “mô phỏng” hiện thực. Ngoài ra, chính bản thân
thể loại tiểu thuyết vẫn luôn là một thể loại “động”, hàm chứa tiềm năng đối
thoại lớn, trong đó có cả tiềm năng đối thoại giữa tác giả và độc giả – cái làm
nên bản chất của siêu hư cấu. Và như thế, siêu hư cấu không phải là một sản
phẩm riêng biệt của thời kỳ hậu hiện đại, mà là một dòng chảy ngầm ngay trong
truyền thống tiểu thuyết, một con đường để phục hưng thể loại tiểu thuyết trong
thời kỳ hậu hiện đại bằng cách phát huy tối đa một yếu tố sẵn có trong thể loại
tiểu thuyết từ thời khởi thủy. Kỷ nguyên hậu hiện đại chỉ đánh dấu một bước
phát triển đáng chú ý của hình thức siêu hư cấu – bước tự ý thức của tiểu thuyết
về bản chất thể loại của nó.
Thứ hai, chúng tôi phân tích những điều kiện đặc trưng của văn hóa thời
đổi mới có tác động lớn đến sự hình thành của bối cảnh hậu hiện đại Việt Nam,

từ đó chỉ ra mối quan hệ của nó đối với quá trình tự ý thức của văn học nói
chung và các tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Nguyễn Việt Hà nói
riêng. Từ đó chúng tôi khẳng định cảm quan hậu hiện đại (chứ chưa hẳn là chủ
nghĩa hậu hiện đại theo kiểu phương Tây) trong văn học Việt Nam là một hiện
tượng nội sinh hơn là ngoại nhập, và nó mang màu sắc đặc thù của không gian
văn hoá Việt Nam hậu Đổi mới, mà các tác giả kể trên chính là những người mở
đường.
Ở góc độ này, chúng tôi chỉ ra một trong những điều đáng chú ý nhất của
bối cảnh xã hội thời đầu đổi mới, cũng là điểm đặc biệt của “bối cảnh hậu hiện
đại Việt Nam” là sự bất lực của những nhận thức trong vòng vây của hệ quy
chiếu cũ đối với thực tại mới đang dần hình thành. Nguyễn Huy Thiệp, Bảo
Ninh và Nguyễn Việt Hà xuất hiện ở một giao điểm đặc biệt trong lịch sử văn

21


hóa dân tộc: sự rạn nứt của một loạt những hệ quy chiếu văn hoá và khoảng
trống mà những hệ quy chiếu ấy để lại, sự rối nhiễu bản sắc dân tộc và bản sắc
cá nhân trong một khoảng chân không của nhận thức, điểm giao thoa của ba
thuộc tính văn hoá: hậu thuộc địa - hậu chiến - hậu bao cấp. Cả ba tính chất này
– hiểu theo nghĩa là sự rạn nứt của ba đại tự sự trong ý thức con người nói chung
và người cầm bút nói riêng – đều có tác động rất lớn đến sự hình thành cảm quan
hậu hiện đại trong văn học thời kỳ này.
Cuối cùng, chúng tôi đi sâu vào một bộ phận sáng tác thuộc loại quan trọng
nhất và gây tranh cãi nhiều nhất của Nguyễn Huy Thiệp – truyện ngắn giả lịch
sử – từ góc nhìn lý thuyết siêu hư cấu biên sử hậu hiện đại. Chúng tôi sẽ giới
thiệu sơ lược về tương đối luận lịch sử (nền tảng hình thành nên lý thuyết siêu
hư cấu biên sử), lý thuyết về tính tự sự của lịch sử của Hayden White cũng như
những chiến lược cơ bản của siêu hư cấu biên sử trong việc biểu đạt quá khứ lịch
sử. Từ đó, đề xuất rằng có thể đọc truyện ngắn giả lịch sử của Nguyễn Huy

Thiệp như những dụ ngôn về quyền diễn giải lịch sử. Chúng tôi nhận thấy trong
những tác phẩm này khả năng hình thành một dòng chảy văn hóa mới từ những
tiếng nói ngoại biên, vẫn tồn tại im lặng bên cạnh những tiếng nói chiếm vị thế
trung tâm, nhằm đọc và diễn giải lịch sử từ góc độ cá nhân. Từ đó, có thể khẳng
định, vấn đề mà truyện ngắn giả lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp nêu ra là sự bổ
sung của những quan điểm cá nhân đối với những trung tâm tạo nghĩa đang chi
phối lịch sử, và hé mở một cánh cửa của sự đa nghĩa và giải tâm vốn là lực đẩy
cho sự hình thành tiềm lực phát triển văn hóa cho bất cứ nền văn hóa hậu thuộc
địa nào.

0.6.

Đóng góp khoa học và thực tiễn của đề tài
Đề tài này sẽ góp phần nhất định vào việc giới thiệu một khuynh hướng nổi

bật của văn học hậu hiện đại thế giới dưới góc nhìn lý thuyết: văn học tự ý thức
về tính hư cấu của văn học, hay còn gọi là siêu hư cấu. Như thế dù ít dù nhiều đề
tài sẽ góp một cái nhìn tương đối mới mẻ, khác với nhiều quan điểm lý luận vẫn

22


đang tồn tại trong môi trường nghiên cứu văn học hiện nay. Bên cạnh đó khi đưa
ra một cái nhìn khác về các hiện tượng văn học kể trên, chúng tôi hy vọng sẽ lý
giải được một cách tương đối khách quan một số nét chính yếu trong khuynh
hướng nghệ thuật của họ, góp thêm một cách nhìn về những hiện tượng tương
đối phức tạp này.
Đề tài có thể được phát triển để trở thành một chuyên luận lý luận văn học,
từ đó giới thiệu toàn diện về lý thuyết siêu hư cấu cũng như lý thuyết hậu hiện
đại, giúp nhìn lại toàn cảnh dòng văn học siêu hư cấu từ thời đầu Đổi mới cho

đến nay, với những nhà văn có ý thức cách tân triệt để ở giai đoạn văn học
đương đại như Nguyễn Bình Phương, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Lê Anh Hoài,
Đặng Thân, Đoàn Minh Phượng, Thuận…

23


CHƯƠNG 1

SIÊU HƯ CẤU VÀ SỰ PHỤC HƯNG
TRUYỀN THỐNG TIỂU THUYẾT TỰ Ý THỨC
TRONG THỜI HẬU HIỆN ĐẠI

Triết gia Michel Foucault đã dành trọn chương đầu tiên trong quyển Les
mots et les choses: Une archéologie des sciences humaines – một trong những
tác phẩm có ảnh hưởng rất lớn đối với triết học - mỹ học hậu hiện đại, xuất bản
năm 1966 và được dịch qua tiếng Anh năm 1970 dưới nhan đề The Order of
Things: An Archaeology of the Human Sciences – để bàn về một kiệt tác hội họa
Baroque đã từng gây
rất nhiều tranh cãi qua
ba

thế

kỷ:

Las

Meninas (Quần thần 1656)


của

họa



người Tây Ban Nha
Diego Velazquez.
Bức

tranh

vẽ

chính Velazquez đang
làm việc trước một
giá vẽ lớn, mà ta chỉ
có thể nhìn thấy mặt
sau của nó. Ở trung
tâm bức tranh là công
chúa Margarita 5 tuổi
và quần thần. Trong

Hình 1.1. Las Meninas (Quần thần, 1656) – tranh sơn dầu
của Diego Velazquez

24


tấm gương treo phía cuối phòng vẽ, ta thấy hiện lên gương mặt của vua Philip

IV và hoàng hậu Marianna – họ đang nhìn thẳng vào hình ảnh phản chiếu của
mình trong gương, nhưng thực ra hình ảnh phản chiếu ấy lại nhìn thẳng vào
chính chúng ta, người xem tranh. Ngoài hình ảnh phản chiếu ấy, vua và hoàng
hậu không hề hiển hiện trước mắt chúng ta. Cuối phòng, bóng dáng một người
đàn ông bí ẩn đứng trước cửa phòng vẽ, hướng mắt nhìn toàn bộ cảnh tượng –
tương tự như bản thân người xem tranh đang ngắm nhìn toàn bộ cảnh tượng từ
phía ngược lại.
Suốt hơn ba thế kỷ, cấu trúc phức tạp và bí ẩn của bức tranh không ngừng
nêu lên những nghi vấn về mối quan hệ giữa thực tại và ảo tượng, giữa người
xem, tác giả và những nhân vật trong tranh. Họa sĩ Luca Giordano cho rằng bức
tranh này biểu đạt “thần học của hội họa” và Sir Thomas Lawrence đã gọi bức
tranh này là “triết học chân chính về nghệ thuật” (dẫn theo Gower, 1900: 83)
một biểu hiện thuần túy của tư duy phê phán trong nghệ thuật.
Khác với những nhà phê bình đi trước, theo Foucault, giá trị của kiệt tác
Las Meninas nằm ở chỗ nó đưa ra sự bất an trong những biểu đạt thị giác, ngay
từ một thời điểm rất sớm trong lịch sử nghệ thuật, khi mà hình ảnh và tranh vẽ
nói chung được coi là “cửa sổ nhìn ra thế giới”. Khi tranh vẽ còn được coi đơn
giản là hình ảnh biểu đạt chủ quan của một thực tại khách quan, Las Meninas đã
trở thành một phép phê phán mạnh mẽ đối với sức mạnh biểu đạt trong việc xác
định một trật tự khách quan bằng thị giác. Với Foucault, kiệt tác của Velazquez
thể hiện sự bất an có tính triết học về mối quan hệ giữa thực tại và biểu đạt.
Foucault viết:
“Người xem tức chúng ta đây, là một nhân tố nữa của bức tranh. Mặc dù
được cái nhìn đó chào đón, nhưng chúng ta cũng bị chính cái nhìn ấy khước từ,
bị thay thế bởi cái mà vẫn đứng ở vị trí đó trước ta: chính là người mẫu. Nhưng
ngược lại, cái nhìn của hoạ sĩ, chiếu vào khoảng không trước mặt ông bên ngoài
bức tranh, lại tiếp nhận số lượng người mẫu ngang với số lượng người xem
tranh; ở cái vị trí chính xác nhưng trung tính này, người quan sát và người được

25



×