Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của việt nam những điều chỉnh khi gia nhập WTO và giải pháp hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (423.92 KB, 34 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-----o0o-----

BÀI THẢO LUẬN
MÔN CHÍNH SÁCH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
ĐỀ TÀI
CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG HÓA CỦA VIỆT NAM:
NHỮNG ĐIỀU CHỈNH KHI GIA NHẬP WTO VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN

Giảng viên:

TS. Đỗ Thị Hương

Thực hiện:

Nhóm 10, Lớp Kinh tế đối ngoại
Hệ Cao học, Khóa 18
- Vũ Diệu Hương
- Nguyễn Thị Hương Lan
- Phạm Song Hiền
- Trần Bảo Ngọc
- Trần Thị Phương Hoa
- Đỗ Thanh Liêm

Hà Nội, tháng 11/2010


Thời gian qua, chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa đã đóng vai trò quan
trọng vào việc điều hành hoạt động xuất khẩu của nhà nước trong từng thời kỳ
khác nhau, tạo môi trường cho hoạt động kinh doanh xuất khẩu của các doanh


nghiệp, khuyến khích mạnh mẽ xuất khẩu, phát triển và nâng cao hiệu quả sản xuất
trong nước, mở rộng hợp tác kinh tế với nước ngoài, góp phần thực hiện mục tiêu
kinh tế - xã hội của đất nước.
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, đặc biệt là sau
khi gia nhập WTO, Việt Nam đã thực hiện cải cách và điều chỉnh hệ thống chính
sách thương mại nói chung và chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa nói riêng
theo hướng tự do hoá và tương thích với các chuẩn mực quốc tế. Nhờ đó, hoạt
động xuất khẩu thời gian qua đã đạt được những thành tựu đáng kể, các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đã phát triển nhanh chóng. Tuy nhiên, khả
năng cạnh tranh trên các cấp độ của chúng ta còn thấp, khả năng điều chỉnh của
nền kinh tế chưa cao, chưa theo kịp với sự thay đổi của môi trường kinh tế quốc tế.
Vì vậy, để tối đa hoá những lợi ích kinh tế và thương mại từ hội nhập kinh tế quốc
tế, giảm thiểu những mặt tiêu cực, chúng ta cần phải có một hệ thống chính sách
đẩy mạnh xuất khẩu hoàn chỉnh và đồng bộ trong hệ thống các chính sách kinh tế,
xã hội khác.
Là thành viên của WTO, Việt Nam phải tuân thủ các cam kết trong khuôn
khổ của tổ chức này. Trong khi đó hệ thống các quy định về quản lý xuất khẩu của
Việt Nam hiện tại vẫn còn có những điểm chưa hoàn toàn phù hợp cũng như có thể
khai thác được lợi ích kinh tế và thương mại từ các cam kết trong khuôn khổ WTO
cũng như các cam kết song phương, đa phương và khu vực mà Việt Nam đã ký
kết. Mặt khác, điều kiện và môi trường kinh doanh quốc tế đã và đang có những
thay đổi đáng kể, việc sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện chính sách quản lý xuất
khẩu đã và đang đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với Việt Nam.
Vì những lý do trên, Nhóm 10 đã lựa chọn nghiên cứu đề tài “Chính sách
thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam: Những điều chỉnh khi gia nhập WTO

2


và giải pháp hoàn thiện”. Đây là vấn đề cần thiết và cấp bách để hoàn thiện chính

sách xuất khẩu của Việt Nam.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là đánh giá thực trạng điều chỉnh chính sách
thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa nước ta và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện chính
sách thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam trong bối cảnh là thành viên của WTO.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của đề tài nghiên cứu gồm 3
chương như sau:
Chương 1: Khái quát chung về chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa
Chương 2: Những điều chỉnh chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của
Việt Nam khi gia nhập WTO
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa của
Việt Nam sau khi gia nhập WTO.
Do thời gian nghiên cứu có hạn, bài viết sẽ không tránh khỏi thiếu sót, rất
mong nhận được ý kiến góp ý của cô giáo và các bạn.
Xin cảm ơn.
NHÓM 10

Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG HÓA

3


1. Khái niệm về chính sách thúc đẩy xuất khẩu
Chính sách thúc đẩy xuất khẩu là một bộ phận nằm trong hệ thống chính
sách điều hành xuất nhập khẩu nói riêng và chính sách kinh tế - xã hội nói chung
của Nhà nước, nó có quan hệ chặt chẽ và phục vụ sự phát triển kinh tế của đất
nước. Các nước khi xây dựng chính sách kinh tế - xã hội nói chung đều nhằm vào
mục xây dựng xã hội phồn vinh, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu vật chất, tinh thần
của nhân dân, chính sách thúc đẩy XK cũng phải hướng tới mục đích đó.
Chính sách XK theo nghĩa rộng bao gồm các bộ phận cấu thành như chính

sách mặt hàng, chính sách thị trường, chính sách thuế quan, các biện pháp cấm
đoán, hạn chế, kiểm soát hay khuyến khích xuất khẩu hàng hoá, chính sách đầu tư
liên quan đến thương mại. Do đó, chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa tác động
đến khối lượng cũng như cơ cấu hàng hoá xuất khẩu và nó cũng có ảnh hưởng đến
cung cầu của nhiều loại hàng hoá khác nhau trong nước, ảnh hưởng đến môi
trường cạnh tranh, quy mô đầu tư cũng như mô hình tăng trưởng của cả nền kinh
tế. Như vậy, chính sách thúc đẩy xuất khẩu có thể tác động đến mọi hoạt động kinh
tế - xã hội của đất nước.
Như vậy, có thể hiểu chính sách thúc đẩy xuất khẩu là một hệ thống các quy
định, công cụ và biện pháp mà nhà nước áp dụng để điều chỉnh hoạt động xuất
khẩu ở những thời kỳ nhất định nhằm tạo điều kiện thuận lợi đẩy mạnh xuất khẩu,
góp phần đạt mục tiêu đề ra trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Chính sách thúc đẩy xuất khẩu của một quốc gia là một bộ phận quan trọng
trong chính sách phát triển kinh tế của quốc gia đó. Tuy nhiên, khi đã trở thành
thành viên của WTO, các nước phải xây dựng và thực hiện chính sách thúc đẩy
xuất khẩu của mình phù hợp với các quy định trong các hiệp định cũng như các
nguyên tắc và hành vi thương mại được quy định trong WTO.
2 Vai trò của chính sách thúc đẩy xuất khẩu
Bằng các công cụ để quản lý hoạt động xuất khẩu như: thuế, công cụ hành
chính, các đòn bẩy kinh tế, các biện pháp kỹ thuật,...chính sách thúc đẩy xuất khẩu
hàng hóa tác động đến sự biến động của giá cả đối với người tiêu dùng và người
sản xuất hoặc đưa đến sự điều chỉnh quan hệ cung- cầu trên thị trường về một số
4


loại hàng hoá nhất định. Một số công cụ như thuế gây tác động trực tiếp đến giá cả
đối với cả người sản xuất lẫn người tiêu dùng, đồng thời nó có thể làm cho các
hoạt động thương mại phát triển hoặc bị thu hẹp. Những công cụ khác như biện
pháp quy định về các tiêu chuẩn kỹ thuật cũng tác động tương tự vị nó sẽ dẫn đến
việc hạn chế số lượng hàng hoá được đưa vào kinh doanh xuất khẩu. Các khoản trợ

cấp và khen thưởng trực tiếp cho các nhà sản xuất kinh doanh trong nước sẽ làm
tăng khả năng mở rộng quy mô sản xuất và kinh doanh, qua đó tăng cường sức
cạnh tranh với hàng nhập khẩu, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ
của trong nước trên thị trường nhưng không đưa đến sự tăng giá trực tiếp đối với
giá bán cho người tiêu dùng cuối cùng.
Như vậy, chính sách thúc đẩy XK có vai trò tác động đến quá trình tái sản
xuất kinh doanh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước, khai thác triệt để các lợi
thế so sánh của nền kinh tế, phát triển các ngành sản xuất thương mại hàng hoá
với quy mô tối ưu, từ đó đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế và nâng cao hiệu quả của
các hoạt động kinh doanh.
Chính sách thúc đẩy XK hàng hóa không những tạo môi trường và định
hướng cho hoạt động xuất khẩu được phát triển và tăng trưởng, mà còn tạo điều
kiện để các quốc gia khai thác được những lợi thế kinh tế và thương mại từ việc
thực hiện các hoạt động xuất khẩu. Nhưng nếu chính sách thúc đẩy XK hàng hóa
thiếu đồng bộ, không phù hợp và minh bạch sẽ dẫn đến kìm hãm sự phát triển và
tăng trưởng của bản thân hoạt động xuất khẩu đồng thời bóp méo và làm sai lệch
chuyển dịch cơ cấu sản xuất, cũng như làm sai lệch trong quan hệ đối tác với các
bạn hàng.
Cùng với các chính sách kinh tế, xã hội khác, chính sách thúc đẩy XK hàng
hóa sẽ tạo nên sự đồng bộ thống nhất của hệ thống luật pháp của một quốc gia, để
thực thi các mục tiêu, chiến lược và định hướng phát triển nền kinh tế trong bối
cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
3. Những nguyên tắc cần tuân thủ của chính sách thúc đẩy xuất khẩu
hàng hóa khi Việt Nam là thành viên của WTO
5


Sau khi nhận được thông báo phê chuẩn của Quốc hội Việt Nam, ngày
11/01/2007, WTO đã chính thức trao thẻ thành viên cho Việt Nam.
Có thể thấy rằng, việc gia nhập WTO không nằm ngoài xu hướng chung về

hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, với nhiều cơ hội thúc đẩy hơn nữa tăng
trưởng kinh tế và đời sống xã hội, bao gồm tạo điều kiện mở rộng thị trường xuất
khẩu cho hàng hoá Việt Nam; góp phần tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài,
và nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá trong nước v.v... Tuy nhiên, trong thời
gian tới gia nhập WTO cũng sẽ mang lại nhiều thách thức không chỉ đối với cộng
đồng doanh nghiệp mà còn đối với cả công tác hoạch định chính sách và quản lý
Nhà nước.
Trong quá trình đàm phán gia nhập WTO, thực hiện vai trò là cơ quan hoạch
định chính sách và quản lý Nhà nước về mặt tài chính, Bộ Tài chính chịu trách
nhiệm về các nội dung liên quan đến đàm phán về thuế nhập khẩu, mở cửa thị
trường về dịch vụ tài chính (bảo hiểm, chứng khoán) và dịch vụ kế toán - kiểm
toán và tư vấn thuế; và một số nội dung đàm phán đa phương liên quan đến nguyên
tắc tối huệ quốc (MFN) và đối xử quốc gia (NT) bao gồm phí, lệ phí, chính sách
giá, phương pháp xác định trị giá hải quan, kiểm định hàng hoá trước khi xuống
tàu, các vấn đề liên quan về trợ cấp, các biện pháp đầu tư liên quan đến thương
mại, về thuế xuất khẩu.
Ngoài việc hội đủ những nguyên tắc thông thường như: thống nhất, đồng bộ,
khách quan, khả thi, phù hợp với các điều kiện kinh tế xã hội của đất nước... mà
bất kỳ một chính sách nào cũng có, chính sách thúc đẩy XK hàng hóa còn phải
chứa đựng những nguyên tắc thuộc về thương mại quốc tế, đây cũng là những
nguyên tắc cần phải triệt để tuân thủ trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.
Theo quy định của WTO đối với các nước thành viên, chính sách thương
mại của mỗi quốc gia cần phải tuân thủ 4 nguyên tắc cơ bản: không phân biệt đối
xử, cạnh tranh tự do và lành mạnh, đảm bảo tính minh bạch và có thể dự đoán, và
đối xử ưu đãi hơn đối với các quốc gia đang phát triển. Là một bộ phận của chính
sách thương mại, chính sách thúc đẩy XK hàng hóa cần tuân thủ 4 nguyên tắc đó.
3.1 Nguyên tắc minh bạch
6



Nguyên tắc này đòi hỏi các quốc gia phải thiết lập hành lang pháp lý điều
chỉnh các hoạt động thương mại quốc tế rõ ràng và ổn định. Mọi chính sách và chế
độ pháp lý trong lĩnh vực thương mại phải được phổ biến rộng rãi, dễ tiếp cận và
có thể dự đoán được.
Nguyên tắc này yêu cầu hải quan các nước thành viên ký kết hiệp định phải
thực hiện một cách công khai, rõ ràng và có hiệu quả về phân loại và tính giá đối
với sản phẩm, về tỷ suất thu thuế và các loại lệ phí khác,… Tuy nhiên, nếu sự công
khai này có thể gây trở ngại cho việc thực thi pháp luật, vi phạm lợi ích công cộng
hoặc làm tổn hại đến lợi ích thương mại chính đáng của một doanh nghiệp nào đó
thì có thể không cần công khai.
3.2 Nguyên tắc không phân biệt đối xử
Nội dung của nguyên tắc này bao gồm chế độ đãi ngộ tối huệ quốc (MFM)
và chế độ đãi ngộ quốc gia (NT). Chế độ MFM là chế độ không phân biệt đối xử
mà các quốc gia giành cho hàng hoá và dịch vụ của các quốc gia khác. Còn chế độ
NT lại là chính sách thương mại không phân biệt đối xử của các quốc gia đối với
hàng hoá, dịch vụ nhập khẩu và hàng hoá, dịch vụ trong nước.
Nguyên tắc này nhấn mạnh khi thoả thuận áp dụng qui chế tối huệ quốc, các
nước thành viên của WTO cam kết không phân biệt đối xử giữa các nước và không
được đối xử với một nước kém ưu đãi hơn một nước khác trong mọi vấn đề liên
quan tới thương mại hàng hoá. Tuy nhiên, các quy định của GATT cũng cho phép
một số trường hợp ngoại lệ như những ưu đãi thương mại mà các nước nằm trong
khu vực thương mại tự do giành cho nhau theo Hiệp định ưu đãi khu vực, hoặc các
nước có chung đường biên giới thì không phải áp dụng cho các nước còn lại.
Chế độ NT được quy định tại GATT 1994, Điều III:1. Theo đó, WTO yêu
cầu các nước không phân biệt đối xử giữa hàng hoá sản xuất trong nước với hàng
hoá nhập khẩu cùng loại về các vấn đề về thuế trong nước, các luật lệ quy định
chung. Đãi ngộ quốc gia giúp cho hàng hoá nhập khẩu sau khi vượt qua hàng rào
hải quan tại biên giới của một quốc gia sẽ được đối xử như những hàng hoá được
sản xuất trong nước cùng loại.
3.3 Nguyên tắc cạnh tranh tự do và lành mạnh

7


Môi trường cạnh tranh tự do và lành mạnh là một yêu cầu bắt buộc để hoạt
động XK có thể diễn ra một cách thuật lợi.
Nguyên tắc này giải quyết hai tập quán thương mại “không lành mạnh” đã
làm ảnh hưởng đến những điều kiện cạnh tranh. Thứ nhất, cạnh tranh sẽ không
lành mạnh nếu hàng xuất khẩu được trợ giá. Thứ hai, những điều kiện cạnh tranh
bị ảnh hưởng nếu hàng xuất khẩu được bán phá giá. Những biện pháp khắc phục
thương mại không lành mạnh này như chống bán phá giá và chống trợ cấp chính là
những công cụ pháp lý được duy trì để đảm bảo môi trường cạnh tranh trong hoạt
động XK. Chính vì vậy, những quy định của GATT/WTO cho phép các nước tiến
hành những hành động tự vệ hạn chế nhập khẩu thông qua biện pháp chống bán
pháp giá và chống trợ cấp trong một thời gian tạm thời khi ngành sản xuất nội địa
của nước nhập khẩu bị tổn hại nghiêm trọng do hàng nhập khẩu bị bán phá giá
hoặc được trợ cấp của nước xuất khẩu.
3.4. Nguyên tắc đối xử ưu đãi hơn đối với các quốc gia đang phát triển
Giữa các quốc gia phát triển và đang phát triển có sự chênh lệch khá lớn về
trình độ khoa học, kỹ thuật, kinh tế - xã hội. Bởi vậy sẽ là bình đẳng hơn trong xuất
khẩu giữa các quốc gia khi các quốc gia đang phát triển được hưởng sự đối xử ưu
đãi và thuận lợi hơn từ các nước phát triển thông qua: Giảm thấp mức độ nghĩa vụ
hơn đối với các quốc gia đang phát triển; Tạo thời gian biểu mềm dẻo hơn cho các
quốc gia đang phát triển có điều kiện thực hiện các cam kết thương mại; Mọi chế
độ và quy định pháp lý trong luật thương mại cần phải cân nhắc tới lợi ích của các
quốc gia đang phát triển; Thiết lập những điều kiện và chế độ thương mại thuận lợi
đặc biệt cho các quốc gia kém phát triển; Hỗ trợ kỹ thuật và đào tạo cho các quốc
gia đang phát triển.
4 Sự cần thiết điều chỉnh chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa khi
gia nhập WTO
4.1 Sự phát triển không ngừng của kinh tế - xã hội Việt Nam

Công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế Việt Nam được đề ra tại Đại hội
Đảng toàn quốc lần từ VI (1986) đã giúp cho nền kinh tế Việt Nam đạt được những
thành tựu kinh tế tế vĩ mô đáng kể, cơ bản chuyển từ một nền kinh tế trì trệ, lạm
8


phát cao và bị cô lập vào cuối những năm 1980, sang một nền kinh tế mở, tăng
trưởng bền vững và ổn định vào những năm 1990 và những năm đầu thập kỷ thứ
nhất của thế kỷ 21. Những cố gắng cải cách liên tục trong suốt thời kỳ 1986 đến
nay đã mang lại những tiến bộ đáng kể trên cả hai phương diện:
Thứ nhất, Việt Nam đã thiết lập được những yếu tố cơ bản hệ thống kinh tế
định hướng thị trường, bao gồm: Hệ thống giá cả tự do; Khu vực tư nhân năng
động, tuy chưa phát triển mạnh nhưng đã góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng
kinh tế; Chế độ ngoại thương mở cửa, tích cực hội nhập với nền kinh tế bên ngoài.
Thứ hai, Việt Nam đã nhanh chóng thực hiện được toàn diện các chính sách
kinh tế vĩ mô kết hợp với một số biện pháp cơ cấu then chốt để giảm nhanh lạm
phát trong một thời gian tương đối ngắn.
Tiếp theo, những cải cách kinh tế cũng đã đóng góp vào việc chuyển dịch cơ
cấu kinh tế và phân bổ lại những nguồn lực. Việt Nam đã phối hợp hài hoà các
chính sách tài chính đi kèm với những đổi mới hệ thống để đạt được mục tiêu ổn
định và phát triển. Trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, từ chỗ bị bao vây, cô lập, Việt
Nam đã bắt đầu hội nhập với nền kinh tế bên ngoài.
Trong bối cảnh môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt cả ở thị trường
trong và ngoài nước; thực hiện những cam kết của ta với WTO; để tiếp tục duy trì
và phát huy đà phát triển kinh tế đã đạt được, Nhà nước cần có những điều chỉnh
hợp lý đối với chính sách thương mại quốc tế nói chung trong đó có chính sách
thúc đẩy XK hàng hóa nói riêng nhằm tạo môi trường tốt cho hoạt động XK trong
điều kiện mới. Ngoài ra việc điều chỉnh này còn có tác dụng định hướng, đi tắt đón
đầu xu thế phát triển của thế giới.
4.2 Yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế và xu hướng tự do hoá thương

mại toàn cầu
Hội nhập kinh tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh. Đây là một thử
thách rất lớn đối với nền kinh tế Việt Nam song nó là việc phải làm. Hội nhập kinh
tế quốc tế của Việt Nam là cần thiết và phù hợp với quy luật phát triển chung của
nhân loại, hội nhập cho phép Việt Nam tận dụng nhiều điều kiện thuận lợi và cơ

9


hội cũng như vượt qua những khó khăn, thách thức để đẩy nhanh sự phát triển kinh
tế, thực hiện thành công công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Việc hội nhập vào kinh tế thế giới giúp cho Việt Nam tránh được tình trạng
phân biệt đối xử trong quan hệ với các nước, đặc biệt là với nước lớn, có thể tận
dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế để giải quyết tranh chấp khi phát
sinh, vừa bảo vệ được lợi ích quốc gia, vừa tăng thêm uy tín của Việt Nam trong
thương mại quốc tế. Mở cửa, hội nhập giúp mở rộng thị trường xuất khẩu, tìm
kiếm nguồn cung cấp đầu vào cho sản xuất trong nước, tăng sức thu hút đầu tư và
chuyển giao kỹ thuật, công nghệ từ các nước khác, tạo cơ hội để doanh nghiệp Việt
Nam mở rộng quan hệ, học tập, tiếp thu kinh nghiệm quản lý tiên tiến, nâng cao
sức cạnh tranh. Đây cũng là việc kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại,
nội lực và ngoại lực tạo nên sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước, thực hiện
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đáp ứng đòi hỏi cấp bách của hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hoá thương
mại, chúng ta phải tiến hành điều chỉnh chính sách cũng như các hoạt động thực
tiễn trong lĩnh vực XK theo hướng tự do hoá và mở cửa nhiều hơn. Đây là cơ hội
và cũng là thách thức rất lớn đối với Việt Nam, một nước đang phát triển, đang
trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường.
4.3. Thực hiện các cam kết trong khuôn khổ WTO
Bộ văn kiện gia nhập WTO là thoả thuận thương mại đồ sộ nhất cả về qui
mô và mức độ cam kết mà Việt Nam đã từng ký kết. Các cam kết đa phương này

của Việt Nam được xây dựng trên nền tảng các nguyên tắc được quy định trong
các hiệp định của WTO. Đây là những nguyên tắc mang tính ràng buộc với mọi
thành viên nhằm mục đích đưa hệ thống luật lệ và cơ chế điều hành thương mại
của các nước thành viên phù hợp với chuẩn mực chung. Về cơ bản, chúng ta cam
kết thực hiện toàn bộ các hiệp định WTO ngay thời điểm gia nhập. Tuy nhiên, do
nước ta đang phát triển ở trình độ thấp lại đang trong quá trình chuyển đổi nên Việt
Nam yêu cầu và được các nước trong WTO chấp nhận cho hưởng thời gian chuyển
đổi để thực hiện một số cam kết có liên quan đến thuế tiêu thụ đặc biệt, trợ cấp phi
nông nghiệp, quyền kinh doanh...
10


- Những cam kết về thương mại hàng hoá của Việt Nam
+ Về trợ cấp phi nông nghiệp: Việt Nam đồng ý bãi bỏ hoàn toàn các loại trợ
cấp bị cấm theo quy định của WTO như trợ cấp xuất khẩu và quy đinh về tỷ lệ nội
địa hoá. Tuy nhiên với các ưu đãi đầu tư giành cho hàng xuất khẩu đã cấp trước
ngày gia nhập WTO, Việt Nam được bảo lưu thời gian quá độ là 5 năm, trừ ngành
dệt may.
+ Về trợ cấp nông nghiệp: Việt Nam cam kết không áp dụng trợ cấp xuất
khẩu đối với nông sản từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên, Việt Nam bảo lưu được
quyền hưởng một số quy định riêng của WTO dành cho các nước đang phát triển
trong lĩnh vực này, tức là chúng ta vẫn được duy trì mức hỗ trợ cho sản phẩm nông
nghiệp ở mức không quá 10% giá trị sản lượng. Ngoài mức này ra, chúng ta còn
bảo lưu thêm một số khoản hỗ trợ nữa vào khoảng 4.000 tỷ đồng mỗi năm.
+ Về quyền kinh doanh bao gồm quyền xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá:
Tuân thủ các quy định của WTO, Việt Nam đồng ý cho doanh nghiệp và cá nhân
nước ngoài được quyền xuất nhập khẩu hàng hoá như người Việt Nam kể từ khi
gia nhập trừ một số mặt hàng thuộc danh mục thương mại nhà nước như: xăng dầu,
thuốc lá điếu, xì gà, băng đĩa hình, báo chí và một số mặt hàng nhạy cảm khác.
Việt Nam đồng ý cho phép doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài không có

hiện diện tại Việt Nam được đăng ký quyền xuất nhập khẩu tại Việt Nam nhưng
chỉ giới hạn quyền đứng tên trên tờ khai hải quan để làm thủ tục xuất nhập khẩu.
+ Về thuế nhập khẩu: Theo quy định của WTO, một nước khi tham gia tổ
chức này cần phải thực hiện các cam kết ràng buộc về thuế nhập khẩu của các mặt
hàng cụ thể. Trong trường hợp các nước thành viên WTO sau này muốn tăng thuế
lên cao hơn mức ràng buộc thì sẽ phải đàm phán lại. Tuy nhiên, thực tế cho thấy,
vấn đề đàm phán lại sẽ hết sức khó khăn và có thể dẫn đến trường hợp phải bồi
thường cho những nước xuất khẩu hoặc phải đưa ra những nhượng bộ cắt giảm
thuế nhập khẩu tương xứng với các mặt hàng khác.
Đối với những mặt hàng có cam kết ràng buộc thuế quan, mức độ ràng buộc
gồm 3 loại: 1) cam kết thực hiện thấp hơn mức thuế đang áp dụng theo lịch trình

11


cắt giảm cụ thể, 2) Thực hiện ràng buộc ở mức thuế bằng thuế suất đang áp dụng,
3) Thực hiện ràng buộc ở mức cao hơn mức áp dụng.
Việt Nam cam kết ràng buộc toàn bộ biểu thuế nhập khẩu hiện hành, gồm
10.600 dòng thuế. Thuế suất cam kết cuối cùng có mức bình quân giảm 23% so với
mức thuế bình quần hiện hành (thuế suất MFN) của Biểu thuế (từ 17,4% xuống
còn 13,4%). Thời gian thực hiện là sau 5-7 năm.
- Những cam kết về dịch vụ:
+ Về cam kết mở cửa thị trường dịch vụ: chúng ta cam kết đủ 11 ngành dịch
vụ, khoảng 110 phân ngành.
+ Về mức độ cam kết: thoả thuận WTO có đi xa hơn BTA nhưng không
nhiều. Với hầu hết các ngành dịch vụ, trong đó có các ngành nhạy cảm như bảo
hiểm, phân phối, du lịch… chúng ta giữ được mức độ cam kết gần như trong BTA.
Theo đó, công ty nước ngoài không được hiện diện tại Việt Nam dưới hình thức
chi nhánh trừ phi điều đó được Việt Nam cho phép trong từng ngành cụ thể. Ngoài
ra, công ty nước ngoài tuy được phép đưa cán bộ quản lý vào làm việc tại Việt

Nam nhưng ít nhất 20% cán bộ quản lý của công ty phải là người Việt Nam.
- Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs):
Chúng ta đồng ý cam kết thực hiện đầy đủ nghĩa vụ quy định tại Hiệp định
TRIMs từ thời điểm gia nhập.
- Những khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền SHTT (TRIPs):
Chúng ta cam kết tuân thủ Hiệp định TRIPs kể từ khi gia nhập. Hệ thống
pháp luật trong nước về quyền SHTT của Việt Nam tương đối phù hợp với các quy
định tương ứng của TRIPs, nên việc cam kết này về cơ bản không làm phát sinh
nghĩa vụ mới.

Chương 2
NHỮNG ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU
HÀNG HÓA CỦA VIỆT NAM KHI GIA NHẬP WTO

12


1. Thực trạng điều chỉnh chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa
Ngày 07/11/2006, Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển và Tổng
giám đốc Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) Pascal Lamy đã ký vào Nghị định
thư gia nhập của Việt Nam kết thúc 11 năm tiến hành hàng loạt các cuộc đàm phán
song phương, đa phương và tham vấn kể từ khi đệ đơn gia nhập vào năm 1995.
Ngày 11/01/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO, từ
đây Việt Nam cũng chính thức phải thực hiện các cam kết đã đưa ra với WTO.
Khi Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế, thị trường thế giới hầu như đã ổn
định. Vì vậy thị trường cho hàng xuất khẩu của Việt Nam luôn khó khăn. Làm thế
nào để hàng hoá Việt Nam thâm nhập vào thị trường thế giới là điều không dễ
dàng. Bởi vậy, trong thời gian qua, Việt Nam dành nhiều chính sách hỗ trợ sản
xuất và thúc đẩy xuất khẩu, những chính sách đó là:
1.1. Chính sách ưu đãi qua thuế

Biện pháp khuyến khích xuất khẩu thông qua thuế thường được thực hiện
dưới hai hình thức: trực tiếp và gián tiếp. Các chế độ ưu đãi trực tiếp cho hoạt động
xuất khẩu bao gồm: thuế xuất khẩu và các loại phí, lệ phí liên quan tới xuất khẩu.
Các ưu đãi gián tiếp gồm thuế nhập khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế TTĐB.
Riêng thuế GTGT vừa ưu đãi trực tiếp vừa ưu đãi gián tiếp.
Từ năm 1995 trở lại đây, đặc biệt là từ khi trở thành thành viên chính thức
của WTO, hệ thống thuế Việt Nam liên tục được sửa đổi bổ sung, ngày càng tạo
điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu và khuyến khích hơn nữa các
doanh nghiệp này trong việc xuất khẩu hàng ra nước ngoài.
+ Đối với thuế xuất khẩu, WTO không có nội dung nào yêu cầu cam kết về
thuế xuất khẩu. Tuy nhiên, một số thành viên (chủ yếu là các nước đã phát triển
như: Hoa Kỳ, Australia, Canada và EU) yêu cầu cắt giảm tất cả thuế xuất khẩu đặc
biệt đối với phế liệu kim loại màu và kim loại đen vào thời điểm gia nhập với lý do
đây là một hình thức nhằm hạn chế thương mại, gây nên tình trạng khan hiếm
nguyên liệu, làm đẩy giá trên thị trường thế giới và trợ cấp cho doanh nghiệp trong
nước sử dụng các mặt hàng này.
13


Cam kết của Việt Nam hiện nay là sẽ giảm thuế xuất khẩu đối với phế liệu
kim loại đen từ 35% xuống 17% trong 5 năm; giảm thuế phế liệu kim loại màu từ
45% xuống 22% trong 5 năm. Không cam kết ràng buộc về thuế xuất khẩu đối với
các mặt hàng khác.
Thực hiện cam kết WTO, theo Quyết định 1006/2007/QĐ-BTC ngày 20-122007 của Bộ Tài chính, Việt Nam đã thực hiện giảm thuế xuất khẩu phế liệu kim
loại.
+ Thuế TTĐB: Theo cam kết, Việt Nam cam kết trong vòng 3 năm kể từ khi
gia nhập WTO sẽ áp dụng một mức thuế tuyệt đối hoặc một mức thuế phần trăm
đối với rượu chưng cất trên 20 độ cồn và chỉ áp dụng một mức thuế phần trăm đối
với bia. Thuế TTĐB cũng quy định hàng hoá do các cơ sở sản xuất, gia công trực
tiếp xuất khẩu ra nước ngoài không phải là đối tượng chịu thuế TTĐB. Thực hiện

cam kết gia nhập WTO, Quốc hội đã ban hành Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt số
27/2008/QH12 ngày 14/11/2008, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/4/2009; các quy
định đối với mặt hàng rượu và bia có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2010.
Luật thuế tiêu thụ đặc biệt này bãi bỏ các quy định tại Luật thuế tiêu thụ đặc
biệt số 05/1998/QH10; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ
đặc biệt số 08/2003/QH11; Điều 1 của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật thuế giá trị gia tăng số 57/2005/QH11. Luật thuế tiêu
thụ đặc biệt quy định về đối tượng chịu thuế, đối tượng không chịu thuế, người nộp
thuế, căn cứ tính thuế, hoàn thuế, khấu trừ thuế và giảm thuế tiêu thụ đặc biệt. Hiện
nay Luật thuế tiêu thụ đặc biệt chủ yếu đánh vào ba mặt hàng chính là rượu, thuốc
lá, ô tô và các dịch vụ đặc thù. Danh mục hàng hóa, dịch vụ là đối tượng của Luật
thuế tiêu thụ đặc biệt sẽ được Quốc hội xem xét bổ sung phù hợp với tình hình
quản lý kinh tế nhà nước
+ Thuế GTGT: Một chính sách thuế không thể thiếu trong việc khuyến
khích xuất khẩu là thuế GTGT. Chính phủ đã quy định trong Luật thuế GTGT là
áp dụng thuế suất 0% đối với hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu. Toàn bộ thuế GTGT
đầu vào doanh nghiệp đã nộp khi mua hàng hoá, nguyên liệu… để sản xuất hàng
hoá hoặc dịch vụ xuất khẩu sẽ được Nhà nước hoàn lại toàn bộ.
14


1.2. Chính sách phi thuế quan
Chính sách thúc đẩy hoạt động XK hàng hóa bằng hàng rào phi thuế quan
mà Việt Nam áp dụng chủ yếu trong thời gian qua là:
- Hỗ trợ tín dụng xuất khẩu
Hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ và vừa,
số vốn tự có quá nhỏ nên không thể tự đầu tư đổi mới công nghệ, không đáp ứng
được các yêu cầu sản xuất hàng hoá xuất khẩu. Vì vậy, chính sách tín dụng xuất
khẩu sẽ hỗ trợ vốn cố định và vốn lưu động cho các doanh nghiệp thực hiện các
khâu sản xuất, chế biến, thu mua, vận chuyển và thanh toán hàng xuất khẩu.

Trước đây, từ ngày 1/10/2001, Chương trình hỗ trợ tín dụng xuất khẩu theo
quy chế mới đã được áp dụng theo Quyết định số 133/2001/QĐ-TTg ngày
10/9/2001. Theo đó, doanh nghiệp được hưởng tín dụng hỗ trợ xuất khẩu thông
qua hai hình thức: tín dụng trung hạn, dài hạn và tín dụng ngắn hạn. Các hình thức
ưu đãi qua tín dụng hỗ trợ xuất khẩu trung và dài hạn gồm: cho vay đầu tư, hỗ trợ
lãi suất sau đầu tư và bảo lãnh tín dụng đầu tư. Hình thức ưu đãi qua tín dụng hỗ
trợ xuất khẩu ngắn hạn gồm: cho vay vốn ngắn hạn, bảo lãnh dự thầu và bảo lãnh
thực hiện hợp đồng. Cho vay vốn ngắn hạn với lãi suất ưu đãi chỉ dành cho những
đơn vị xuất khẩu những mặt hàng thuộc diện khuyến khích xuất khẩu. Theo Quyết
định của Bộ Thương mại số 0271/2003/QĐ-BTM ngày 13/3/2003, danh mục mặt
hàng được hưởng tín dụng hỗ trợ xuất khẩu năm 2003 gồm: gạo; lạc nhân; cà phê;
chè; hạt tiêu; hạt điều đã qua chế biến; rau quả; đường; thuỷ sản; thịt gia cầm, gia
súc; gốm sứ; đồ gỗ mỹ nghệ; mây tre lá; sản phẩm tơ và lụa; sản phẩm dây điện,
cáp điện; sản phẩm cơ khí trọng điểm; hàng dệt kim; máy tính nguyên chiếc và phụ
kiện máy tính. Đây là 18 sản phẩm chủ yếu có sức cạnh tranh, nhằm tăng cường hỗ
trợ đầu vào, giảm chi phí sản xuất.
Hoạt động hỗ trợ tín dụng xuất khẩu đã giúp cho các doanh nghiệp nâng cao
khả năng cạnh tranh hàng hoá của mình trên thị trường thế giới, giúp cho các nhà
sản xuất bán được sản phẩm và mở rộng thị trường. Như vậy, việc cho vay tín
dụng xuất khẩu đã có một sự khởi đầu tích cực. Tuy nhiên, quy trình thủ tục vay
vốn còn rườm rà, phức tạp, gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp, vì vậy có
15


nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp dân doanh khó tiếp cận được các
nguồn vốn vay này.
Kể từ khi gia nhập WTO, Việt Nam đã phải bãi bỏ Quỹ hỗ trợ xuất khẩu
(Quỹ này được thành lập theo Quyết định số 195/1999/QĐ-TTg ngày 27/9/1999
của Thủ tướng Chính phủ nhằm mục đích hỗ trợ lãi suất vay ngân hàng, bù lỗ xuất
khẩu, thưởng kim ngạch xuất khẩu... để tăng sức cạnh tranh cho hàng xuất khẩu

Việt Nam). Tuy nhiên, để tạo thuận lợi hơn nữa trong việc cấp tín dụng xuất khẩu,
đồng thời phù hợp với nguyên tắc và cam kết WTO, Ngân hàng phát triển Việt
Nam đã được thành lập (trên cơ sở Quỹ hỗ trợ phát triển). Với chức năng của
mình, Ngân hàng phát triển Việt Nam sẽ tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ tín
dụng xuất khẩu theo quy định của Chính phủ.
- Hỗ trợ xúc tiến thương mại
Xúc tiến thương mại là những hoạt động hỗ trợ kinh doanh, tác động trực
tiếp hoặc gián tiếp đến quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá, cung ứng dịch vụ.
Hỗ trợ xúc tiến thương mại có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các doanh nghiệp
Việt Nam trong việc tìm kiếm thị trường, tìm kiếm khách hàng. Vì vậy, Chính phủ
đã giao Bộ Tài chính phối hợp với Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương) và
các Bộ liên quan nghiên cứu, cải tiến chế độ chi hỗ trợ phát triển thị trường và xúc
tiến thương mại cho các chương trình trọng điểm, nhất là những chương trình
khuyếch trương mặt hàng xuất khẩu mới hoặc thâm nhập thị trường mới. Đây là
chủ trương rất đúng đắn bởi nguồn kinh phí dành cho hoạt động này của chúng ta
còn rất nhỏ, nếu rải đều cho các doanh nghiệp thì hiệu quả không lớn.
Trước khi cam kết gia nhập WTO, Cục Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa
(Bộ Kế hoạch và Đầu tư) đã giới thiệu chương trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp
nhỏ và vừa. Theo đó, tất cả các doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc mọi thành phần
kinh tế sẽ được hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu. Chương trình này được thực hiện với 3
nội dung: 1) Tổ chức cho các doanh nghiệp đi khảo sát, học tập, trao đổi và tham
dự hội chợ, triển lãm giới thiệu sản phẩm ở nước ngoài; 2) Xây dựng một số chính
sách tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia các chương trình xuất

16


khẩu của Nhà nước; 3) Tổ chức hội thảo, triển lãm giới thiệu sản phẩm ở trong
nước cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, có sự tham gia của các đối tác nước ngoài.
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 279/2005/QĐ-TTg ngày

03 thỏng 11 năm 2005 về việc ban hành Quy chế xây dựng và thực hiện Chương
trình xúc tiến thương mại quốc gia giai đoạn 2006 – 2010. Thực hiện Đề án này,
Năm 2006, Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương) quyết định dành 60 triệu
USD cho chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia. Đây được coi là
mức kinh phí tương đối lớn dành cho hoạt động này, trong đó các mặt hàng xuất
khẩu sẽ được tập trung ưu tiên hỗ trợ là thuỷ sản, gạo, chè, rau quả, dệt may, giày
dép, các sản phẩm gỗ, hàng thủ công mỹ nghệ, điện tử tin học, xe đạp, dây cáp
điện và các sản phẩm nhựa.
Hiện nay, để đáp ứng yêu cầu ngày ngày cao của quá trình hội nhập, Chính
phủ đang giao Bộ Công Thương xây dựng dự thảo Quyết định mới của Thủ tướng
Chính phủ ban hành Quy chế xây dựng và thực hiện Chương trình xúc tiến thương
mại quốc gia giai đoạn 2011-2015. Dự thảo mới này sẽ mở rộng đối tượng tham
gia và tăng cường kinh phí hỗ trợ của Nhà nước cho công tác xúc tiến thương mại
để đẩy mạnh xuất khẩu.
- Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu
Để khuyến khích xuất khẩu, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định
số 2011/QĐ-TTg ngày 05 tháng 11 năm 2010 về việc thí điểm bảo hiểm tín dụng
xuất khẩu, trước hết là thí điểm thực hiện trong giai đoạn 2011-2013 áp dụng với
các mặt hàng xuất khẩu chủ lực và tiềm năng, được chia làm 2 nhóm: Nhóm I gồm
các mặt hàng: Thủy sản, gạo, cao su, cà phê, rau quả, hạt tiêu, nhân điều, chè, sắn
và các sản phẩm từ sắn; Nhóm II gồm các mặt hàng: Dệt may, giày dép, điện tử và
linh kiện mát tính, gốm sứ, thủy tinh, mây tre, sản phẩm gỗ, dây và cáp điện, xe
đạp và phụ tùng, túi, va ly, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải. Mục đích của
bảo hiểm tín dụng xuất khẩu là ngăn ngừa và giảm thiểu rủi ro trong tín dụng xuất
khẩu góp phần đảm bảo an toàn tài chính và thúc đẩy xuất khẩu. Ngân sách Nhà
nước hỗ trợ triển khai thực hiện thí điểm bảo hiểm tín dụng xuất khẩu theo quy

17



định của Bộ tài chính. Nguồn hỗ trợ của Ngân sách nhà nước hàng năm được bố trí
trong Chương trình xúc tiến thương mại, đầu tư và du lịch quốc gia.
1.3. Chính sách thương nhân
Chính sách thương nhân là những quy định của Nhà nước về điều kiện cho
phép đối tượng nào được trực tiếp tham gia vào hoạt động xuất khẩu. Nếu dựa vào
nội dung các văn bản chính sách đã ban hành, có thể thấy rằng quyền thương mại
của các doanh nghiệp đăng ký tại Việt Nam ngày càng trở nên thông thoáng hơn,
mở rộng hơn. Việc điều chỉnh chính sách về quyền kinh doanh XK được thực hiện
liên tục và theo hướng mở rộng hơn cho các chủ thể kinh doanh.
Trước yêu cầu của WTO, bằng việc ban hành Nghị định 12/2006/NĐ-CP thì
quyền thương mại của các doanh nghiệp đã được tự do, các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế đều thực sự được bình đẳng trước pháp luật, đều được
quyền trực tiếp tham gia vào hoạt động xuất khẩu.
Tiếp đó, để thực hiện Nghị quyết số 71/2006/QH ngày 29/11/2006 của Quốc
hội phê chuẩn Nghị định thư về việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế
giới, Chính phủ đã ban hành Nghị định 90/2007/NĐ-CP ngày 31 tháng 5 năm 2007
quy định về quyền xuất khẩu, quyền nhập khẩu của thương nhân nước ngoài không
có hiện diện tại Việt Nam. Theo đó, các thương nhân nước ngoài không có hiện
diện tại Việt Nam thuộc các nước, vùng lãnh thổ là thành viên của WTO và các
quốc gia, vùng lãnh thổ có thỏa thuận song phương với Việt Nam sẽ được thực
hiện các quyền sau: Thực hiện các quyền xuất khẩu, nhập khẩu khi được cấp Giấy
chứng nhận đăng ký quyền xuất khẩu, quyền nhập khẩu đối với các loại hàng hoá
được phép xuất khẩu, nhập khẩu theo quy định của pháp luật Việt Nam và theo lộ
trình cam kết về mở cửa thị trường của Việt Nam; Thực hiện mua hàng hoá để xuất
khẩu và bán hàng hoá nhập khẩu với thương nhân Việt Nam có đăng ký kinh
doanh các loại hàng hoá đó theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam.
2 Đánh giá quá trình điều chỉnh chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng
hoá của Việt Nam
2.1 Những kết quả đạt được


18


Có thể nói, việc điều chỉnh chính sách thúc đẩy XK hàng hoá của Việt Nam
khi gia nhập WTO đã có những bước tiến dài và đã đạt được những thành tựu đáng
kể, những thành tựu đó được thể hiện qua các mặt sau:
- Chính sách thúc đẩy XK hàng hoá ngày càng hoàn thiện, đáp ứng được
yêu cầu phát triển XK của đất nước và phù hợp hơn với thông lệ quốc tế
Trong thời gian qua, Việt Nam đã tích cực rà soát lại toàn bộ hệ thống văn
bản pháp luật. Xoá bỏ những văn bản cũ, lạc hậu, thay vào đó là một hành lang
pháp lý ngày càng hoàn thiện như Luật Thương mại, Luật Đầu tư, Luật Hải quan,
Luật Cạnh tranh,... Các văn bản luật trên được sửa đổi và xây dựng theo hướng tự
do hoá hơn, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh và cũng là để
thực hiện các cam kết quốc tế. Ngoài ra, hàng loạt các Nghị định của Chính phủ,
Quyết định của Thủ tướng chính phủ, Thông tư của các Bộ, Ngành cũng được ban
hành nhằm hướng dẫn thi hành các Luật và Pháp lệnh đó.
Thông qua các văn bản pháp lý đó, sự quản lý của Nhà nước đối với hoạt
động xuất khẩu đã linh hoạt hơn, mềm dẻo hơn và đạt hiệu quả cao hơn. Đến nay,
tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều được tự do kinh doanh
XK các mặt hàng (trừ danh mục mặt hàng cấm xuất khẩu và một số mặt hàng xuất
khẩu có điều kiện). Điều này phù hợp với cam kết của Việt Nam khi gia nhập
WTO.
Quản lý nhà nước đối với hoạt động XK ngày càng đơn giản, thuận lợi cho
các doanh nghiệp khi làm thủ tục XK như xoá bỏ việc cấp giấy phép xuất khẩu, lệ
phí cấp Chứng nhận xuất sứ cho hàng xuất khẩu; công tác hải quan cũng ngày càng
hoàn thiện theo hướng hiện đại, áp dụng công nghệ thông tin vào công tác khai báo
hải quan. Qua đó không những Nhà nước vừa quản lý tốt hoạt động XK mà còn
góp phần làm giảm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp.
- Chính sách thuế quan đã được điều chỉnh từng bước, đảm bảo thực hiện
các cam kết quốc tế và chuẩn mực quốc tế

Việc điều chỉnh chính sách thuế quan đã thể hiện rõ nét quá trình điều chỉnh
chính sách thúc đẩy XK hàng hóa của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế

19


quốc tế, thực hiện các nghĩa vụ cam kết trong quá trình đàm phán gia nhập WTO.
Những điều chỉnh đó được thể hiện qua các mặt sau:
+ Danh mục hàng hoá xuất khẩu được xây dựng theo nguyên tắc phân loại
HS của Tổ chức Hải quan thế giới đã tạo thuận lợi cho Việt Nam trong đàm phán
gia nhập WTO. Bộ Tài chính đã có Quyết định 1006/2007/QĐ-BTC ngày
20/12/2007, ban hành Biểu thuế XK, Biểu thuế NK ưu đãi mới, thay thế cho Biểu
thuế hiện hành. Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu xây dựng trên nguyên
tắc hệ thống hoá tất cả các Biểu sửa đổi, bổ sung trước đó để thuận tiện cho cơ
quan Hải quan cũng như doanh nghiệp trong việc thực hiện, hỗ trợ cho công tác
hiện đại hoá ngành Hải quan.
+ Thuế suất đối với hàng hoá xuất khẩu giảm dần theo đúng lộ trình cam kết
quốc tế.
+ Giá tính thuế đã được áp dụng theo đúng nguyên tắc Hiệp định về xác
định trị giá tính thuế hải quan của GATT. Như vậy quy định về Bảng giá tối thiểu
đã bị bãi bỏ theo Thông tư 87/2004/TT-BTC ngày 31/6/2004.
+ Chính sách thuế quan ngày càng rõ ràng, minh bạch, việc thay đổi mức
thuế suất được công bố rộng rãi với thời hạn hiệu lực so với ngày công bố đã tính
đến đặc thù của từng mặt hàng nên đã hạn chế tổn thất cho các doanh nghiệp.
2.2 Những tồn tại, hạn chế
Bên cạnh những thành công đạt được, việc điều chỉnh chính sách thúc đẩy
XK hàng hóa của ta còn có những tồn tại và hạn chế cần khắc phục trong thời gian
tới, đó là:
- Hệ thống chính sách thúc đẩy XK hàng hóa thiếu ổn định và nhất quán.
Tính minh bạch, rõ ràng của chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa là chưa cao

Chính sách thúc đẩy XK hàng hóa của Việt Nam vẫn đang trong quá trình
hoàn thiện nên việc điều chỉnh chính sách là tất yếu. Tuy nhiên những điều chỉnh
đó thường chưa được công bố ngay cũng như rộng rãi trên các phương tiện thông
tin đại chúng nên đối tượng áp dụng không thuận tiện tiếp cận với chính sách mới.
Đặc biệt là việc điều chỉnh thuế suất đối với hàng hóa xuất khẩu diễn ra thường

20


xuyên làm cho doanh nghiệp khó biết được chính xác mức thuế đối với mặt hàng
mà họ định xuất khẩu.
Tình trạng thiếu nhất quán, thậm chí có những quyết định trái ngược nhau về
chính sách cũng đã xảy ra. Điều này thể hiện trong một số văn bản hướng dẫn của
các Bộ, Ngành, UBND khi đưa ra đã tính đến quyền lợi và lợi ích riêng. Cùng một
văn bản pháp luật Nhà nước đưa ra nhưng mỗi Bộ, Ngành, địa phương thực hiện
lại khác nhau, gây trở ngại cho các doanh nghiệp. Tình trạng lúc cấm, lúc hạn chế,
lúc cho phép xuất khẩu hàng hoá đã tạo nên tính thiếu ổn định trong chính sách
quản lý của nhà nước, gây nên tình trạng mất cân đối trong cung cầu ở thị trường
trong nước và ảnh hưởng đến giá cả, ảnh hưởng đến cả người sản xuất, người kinh
doanh và người tiêu dùng.
- Vẫn tồn tại những quy định thể hiện sự phân biệt giữa doanh nghiệp nhà
nước và doanh nghiệp tư nhân trong hoạt động kinh doanh XK
Cho đến nay doanh nghiệp nhà nước vẫn được hưởng nhiều ưu đãi hơn so
với doanh nghiệp tư nhân về nhiều mặt như đất đai, tín dụng và đầu mối XK. Một
số lĩnh vực quan trọng vẫn do doanh nghiệp nhà nước chiếm giữ (như gạo, xăng
dầu, điện, nước…).
- Việc điều chỉnh chính sách thúc đẩy XK hàng hóa trong thời gian qua của
Việt Nam chưa tạo ra được một hệ thống chính sách XNK phù hợp hoàn toàn với
thông lệ quốc tế
Điểm chưa phù hợp trước tiên đó là các quy định về trợ cấp xuất khẩu, trên

thực tế, trong chính sách thúc đẩy XK hàng hóa của Việt Nam vẫn tồn tại các hình
thức trợ cấp xuất khẩu bị cấm trong WTO. Mặc dù chúng ta cam kết không cấp bất
kỳ khoản trợ cấp nào cho các đối tượng hưởng trợ cấp mới theo chương trình dành
ưu đãi đầu tư dựa trên tiêu chí xuất khẩu cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, những lợi ích mà các đối tượng hưởng trợ cấp hiện tại sẽ được xoá bỏ dần
trong vòng 5 năm kể từ ngày gia nhập WTO. Tuy nhiên những động thái xoá bỏ
những trợ cấp này từ phía Chính phủ đến nay vẫn chưa thực sự triệt để.
Mặt khác, chính sách thúc đẩy XK hàng hóa của Việt Nam trong quá trình
hội nhập đã được điều chỉnh theo hướng thông thoáng hơn. Tuy nhiên, thủ tục
21


hành chính liên quan đến hoạt động XK ở Việt Nam còn rườm rà, phức tạp gây
khó khăn cho các doanh nghiệp trong hoạt động XK. Việc duy trì quá lâu tình
trạng độc quyền trong một số ngành hàng đã làm cho chất lượng hàng hoá không
tăng, giá cả quá cao hạn chế sức cạnh tranh hàng xuất khẩu nước ta.
3 Tình hình xuất khẩu của Việt Nam sau khi gia nhập WTO
3.1. Quy mô và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu
Với kim ngạch xuất khẩu đến năm 2010 dự kiến ước đạt hơn 69 tỷ USD, thì
tốc độ tăng trưởng bình quân cả giai đoạn 2006-2010 đạt trên 16%/năm, đạt mục
tiêu Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 2010 đặt ra (tăng trưởng 16%/năm).
Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu diễn ra không đều. Trong 3 năm đầu, 2006 2008, tốc độ tăng trưởng trung bình đạt mức cao 24,6%/năm, tuy nhiên 2 năm
2009, 2010 do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới, thị trường thu hẹp,
hoạt động xuất khẩu có sự ngưng trệ, năm 2009 xuất khẩu giảm 8,9% so với năm
2008, năm 2010, khi kinh tế thế giới có sự hồi phục, tăng trưởng xuất khẩu dự kiến
sẽ tăng khoảng trên 20% .
Tổng kim ngạch xuất khẩu bình quân hàng năm trên 55 tỷ USD; tốc độ tăng
kim ngạch xuất khẩu đã gấp hơn 2 lần tốc độ tăng trưởng kinh tế. Cơ cấu các mặt
hàng có sự cải thiện, tăng nhanh tỷ trọng các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng các
mặt hàng thô. Một số mặt hàng đã có vị trí trên thị trường như dầu thô, gạo, hàng

thuỷ sản chế biến, cà phê, cao su, quần áo may sẵn... Kim ngạch xuất khẩu bình
quân đầu người cuối thời kỳ kế hoạch (năm 2010) đạt khoảng 800 USD/người.

Nguồn: Bộ Công Thương

22


3.2. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu
Nhìn chung, cơ cấu hàng hoá xuất khẩu giai đoạn 2006 - 2010 đã có sự
chuyển dịch đáng kể theo hướng tăng dần tỷ trọng nhóm hàng chế biến từ 39%
năm 2006 lên khoảng 54,4% năm 2010, giảm dần tỷ trọng nhóm hàng nông, lâm,
thuỷ sản từ 20,6% xuống còn 19,8% và giảm nhanh nhóm hàng nhiên liệu khoáng
sản từ 23,2% xuống còn 9,7%, nhóm hàng hoá khác từ 17% năm 2006 xuống còn
16,1% (một số mặt hàng năm 2006 thống kê trong nhóm hàng hoá khác đến năm
2010 đã thống kê vào nhóm hàng công nghiệp chế biến vì vậy cơ cấu giảm).
3.3. Cơ cấu thị trường xuất khẩu
Thị trường xuất khẩu đã được củng cố và mở rộng. Đến nay, hàng hoá và dịch
vụ của Việt Nam đã có mặt trên thị trường của 220 nước và vùng lãnh thổ ở khắp
các châu lục, đặc biệt là thị trường Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, các nước ASEAN,
Trung Quốc, khu vực Châu phi và các nước Trung Đông.
Các khu vực thị trường có tỷ trọng xuất khẩu tăng dần trong giai đoạn 5 năm
như châu Âu chiếm trên 22% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước (tăng 1,5%)
từ năm 2006; châu Mỹ tăng chiếm tỷ trọng từ 22,6 % năm 2006 lên 25% vào năm
2010 (tăng 2,4 %); châu Phi chiếm tỷ trọng từ 1,5% năm 2006 lên 4% năm 2010
(tăng 2,5%).
3.4. Chủ thể tham gia xuất khẩu
Xuất khẩu của doanh nghiệp khu vực kinh tế trong nước tăng nhanh chóng và
đóng góp ngày càng lớn vào kim ngạch xuất khẩu chung của cả nước. Với tổng
kim ngạch xuất khẩu năm 2005 là 13,89 tỷ USD (chiếm 42% kim ngạch xuất khẩu

của cả nước), đến năm 2010 đã tăng lên 40,73 tỷ USD, chiếm 63% kim ngạch xuất
khẩu của cả nước.
Nguợc với xu hướng tăng lên của khu vực doanh nghiệp kinh tế trong nước,
tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
lại giảm dần từ 58% năm 2005 xuống còn 37% năm 2010, chủ yếu do xuất khẩu
dầu thô giảm.
3.5. Những kết quả và hạn chế
a. Những kết quả
23


- Qui mô đã được mở rộng và tốc độ tăng trưởng của xuất khẩu ở mức độ khá,
đạt mục tiêu Đại hội X.
- Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu đã có những chuyển dịch tích cực theo hướng
tăng dần tỷ trọng nhóm hàng chế biến, chế tạo, nhóm hàng có hàm lượng công
nghệ và chất xám cao, giảm dần xuất khẩu hàng thô.
- Công tác phát triển thị trường xuất khẩu đạt được nhiều thành tựu quan
trọng nhờ các hoạt động hợp tác kinh tế của Chính phủ và chương trình xúc tiến
thương mại quốc gia, vừa mở ra thị trường mới, vừa khai thác tốt hơn thị trường
đang có.
- Các chủ thể tham gia xuất khẩu không ngừng được mở rộng, đa dạng hoá và
hoạt động ngày càng hiệu quả, đặc biệt là khu vực doanh nghiệp kinh tế trong nước
so với giai đoạn 2001 - 2005 đã vươn lên thay thế khu vực doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài, trong vai trò quyết định sự tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu.
b. Những tồn tại, hạn chế
- Qui mô xuất khẩu vẫn còn chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu phát
triển, kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người còn thấp so với các nước trong
khu vực.
- Xuất khẩu tăng trưởng có giai đoạn nhanh nhưng chưa vững chắc, tính cạnh
tranh của sản phẩm xuất khẩu thấp, chưa vượt qua các rào cản kỹ thuật trên thị

trường các nước phát triển, dễ bị tổn thương bởi những biến động của thị trường,
đặc biệt khi cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế xẩy ra trong các năm
2007 - 2009 cũng như trước những biến động giá cả thế giới, sự xuất hiện các rào
cản thương mại mới....
- Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chưa hợp lý trên cả ba phương diện: (i) chủng
loại hàng hóa còn đơn điệu, chậm xuất hiện những mặt hàng mới có kim ngạch
đáng kể; (ii) các mặt hàng xuất khẩu có giá trị gia tăng cao còn thấp; (iii) quá trình
chuyển dịch cơ cấu mặt hàng theo hướng công nghiệp hoá diễn ra chậm và chưa có
giải pháp cơ bản, triệt để; về thực chất vẫn chuyển dịch theo chiều rộng mà chưa đi
vào chiều sâu, chủ yếu dựa vào lợi thế so sánh sẵn có mà chưa khai thác được lợi
thế cạnh tranh thông qua việc xây dựng và phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ
24


để hình thành chuỗi giá trị gia tăng xuất khẩu lớn.
- Khả năng chủ động nắm bắt những cơ hội thuận lợi để thâm nhập và khai
thác các thị trường xuất khẩu còn nhiều hạn chế. Chưa tận dụng triệt để lợi ích từ
các hiệp định thương mại song phương, đa phương và khu vực đã ký kết giữa Việt
Nam với các đối tác để khai thác hết tiềm năng các thị trường lớn như Hoa Kỳ,
EU, Trung Quốc, Nhật Bản...
- Năng lực cạnh tranh còn yếu kém ở cả 3 cấp độ (nền kinh tế, doanh nghiệp
và mặt hàng xuất khẩu).
- Nhập siêu còn ở mức cao đã ảnh hưởng đến một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô
của nền kinh tế như cán cân thanh toán, dự trữ ngoại tệ, nguồn lực đầu tư...
Chương 3
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU
HÀNG HÓA CỦA VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP WTO

1. Quan điểm điều chỉnh chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa
Điều chỉnh chính sách thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa phải xuất phát từ các

quan điểm sau:
- Việc điều chỉnh chính sách thúc đẩy XK hàng hóa phải nhằm mục đích tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu hàng hoá. Chính sách thúc đẩy XK
hàng hóa của Việt Nam hiện tại được đánh giá là đã mở rộng và tạo điều kiện rất
nhiều cho hoạt động xuất khẩu phát triển hơn nhiều so với thời kỳ trước. Việc điều
chỉnh chính sách thúc đẩy XK hoàng hóa thời gian tới cần thể hiện rõ ràng mục
tiêu thuận lợi hoá hoạt động xuất khẩu.
- Việc điều chỉnh chính sách thúc đẩy XK hàng hóa phải thích ứng với các
tập quán và pháp luật thương mại quốc tế, nhằm thực hiện các cam kết WTO cũng
như các cam kết song phương và đa phương khác của Việt Nam. Tập quán và pháp
luật thương mại quốc tế là những quy định bất thành văn và thành văn trong
thương mại quốc tế. Hoạt động XK là một lĩnh vực quan trọng trong thương mại
quốc tế. Vì vậy, các chính sách thúc đẩy XK hàng hóa được ban hành hay sửa đổi
bổ sung cần phải phù hợp với tập quán và pháp luật thương mại quốc tế nhằm
25


×