Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Vi phạm và chế tài áp dụng xử lý vi phạm pháp luật chứng khoán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.65 KB, 25 trang )

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU
Thị trường chứng khoán Việt Nam chính thức ra đời vào năm 2000, đánh dấu bằng sự ra
đời của Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh, nay là Sở Giao dịch
Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh. Sự ra đời chính thức của thị trường chứng khoán
Việt Nam là nhờ có một sự nỗ lực từ phía Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, vừa là cơ quan
quản lý, vừa điều hành và giám sát cấp Nhà nước. Mặc dù mới ra đời, nhưng thị trường
chứng khoán Việt Nam đã thật sự sôi động. Đặc biệt là vào cuối năm 2006, đầu năm 2007
chơi chứng khoán trở thành "mốt", "hiện tượng", "nhà nhà chơi chứng khoán, người người
chơi chứng khoán". Hàng loạt cổ phiếu lên sàn giao dịch, hàng loạt nhà đầu tư vào cuộc, chỉ
số chứng khoán VN – Index đã có thời gian vượt trên 1000 điểm.
Thị trường chứng khoán là kênh huy động vốn đầu tư và lưu thông giữa các nguồn vốn
đầu tư, tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh kích thích các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh, là công cụ hữu hiệu giúp Nhà nước thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội. Bên
cạnh những ưu điểm, những yếu tố tiêu cực luôn tiềm ẩn ở thị trường này và kìm hãm sự
phát triển của thị trường. Các chủ thể tham gia thị trường đa dạng, có cơ hội tiếp cận thông
tin, phân tích thông tin và phân tích đầu tư không giống nhau. Khi thực hiện các hành vi
nhằm đạt được lợi ích của mình không tuân thử các quy tắc thị trường, quy định pháp luật
chứng khoán áp dụng cho mỗi loại hành vi có thể làm tổn hại đến lợi ích của các chủ thể
khác mà những lợi ích này lại cần được bảo vệ. Những hành vi đó được gọi là vi phạm pháp
luật về chứng khoán.
Tùy theo mức độ, tính chất của từng hành vi vi phạm mà có thể phải chịu các loại chế tài
pháp luật khác nhau. Hệ thống luật Việt Nam công nhận các hình thức xử lý-chế tài áp
dụng : dân sự, hình sự, hành chính đối với các loại vi phạm trong lĩnh vực này nhằm đảm
bảo cho các chủ thể an toàn, yên tâm khi tham gia quan hệ chứng khoán.
Bài tiểu luận dưới đây tìm hiểu về các chế tài, các quy định pháp lý về xử phạt vi phạm
trong hoạt động kinh doanh chứng khoán. Bài làm gồm có các nội dung lớn sau:
Chương I : Lý luận chung về vai trò của luật đối với thị trường chứng khoán
Chương II: Vi phạm và chế tài áp dụng xử lý vi phạm pháp luật chứng khoán
Chương III: Đề xuất giải pháp


1


Do chưa có nhiều kinh nghiệm chuyên môn và sự hạn hẹp về kiến thức luật nên bài làm
không thể tránh khỏi có sự sai xót. Kính mong nhận được sựu góp ý, nhận xét từ phía cô
giáo để kiến thức của em ngày càng hoàn thiện hơn và bài làm của nhóm sẽ tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

CHƯƠNG I:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA LUẬT ĐỐI VỚI THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1.1 SỰ RA ĐỜI CỦA LUẬT CHỨNG KHOÁN
1.1.1 Nguyên nhân

Báo cáo của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cho biết, thị trường chứng khoán Việt
Nam hiện nay đã có hơn 28.000 tài khoản chứng khoán, tăng hơn 8 lần so với năm đầu mở
cửa thị trường, trong đó có 246 nhà đầu tư có tổ chức và 251 nhà đầu tư nước ngoài. Bên
cạnh những yếu tố tích cực, hoạt động thị trường chứng khoán cũng chứa đựng nhiều rủi ro.
Nguyên nhân chính là do các văn bản pháp luật hiện hành mới chỉ dừng lại ở Nghị định,
chưa điều chỉnh được toàn diện hoạt động của thị trường chứng khoán. Vì vậy, nhất thiết
phải có một văn bản pháp lý cao hơn để tạo cơ sở pháp lý cho thị trường chứng khoán phát
triển.
1.1.2 Sự ra đời
Theo Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội Nguyễn Đức Kiên, mục
đích ban hành Luật Chứng khoán để tạo kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng cho
nền kinh tế, cùng với việc tạo khung pháp lý đầy đủ về chứng khoán và thị trường chứng
khoán. Tuy nhiên, cũng phải bảo đảm sự đồng bộ, phù hợp với các văn bản quy phạm pháp
luật khác có liên quan, đặc biệt là Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Các tổ chức tín
dụng, Luật Kinh doanh bảo hiểm... Mặt khác, xây dựng Luật Chứng khoán sẽ tạo cơ sở cho
thị trường chứng khoán phát triển nhanh và ổn định, tạo tâm lý yên tâm cho các tổ chức, cá

nhân khi tham gia kinh doanh, đầu tư vào thị trường chứng khoán và bảo đảm lợi ích hợp
pháp của nhà đầu tư; giúp công chúng dễ dàng hiểu biết về chứng khoán, thị trường chứng
khoán và có cơ sở pháp lý để công chúng tham gia thị trường khi có điều kiện. Đồng thời,
giúp việc phân định rõ vai trò của từng thị trường vốn trung hạn, dài hạn và ngắn hạn trong
cơ cấu thị trường tài chính; bảo đảm và phát huy quyền tự chủ của doanh nghiệp huy động
vốn trên thị trường chứng khoán, giảm gánh nặng trong việc dùng vốn ngắn hạn cho vay dài
hạn của hệ thống ngân hàng hiện nay và góp phần tăng cường tính công khai, minh bạch
trong cộng đồng các doanh nghiệp và cả nền kinh tế. Đáp ứng yêu cầu của các cam kết quốc
2


tế trong quá trình hội nhập, đặc biệt là các cam kết về hệ thống pháp luật phục vụ quá trình
đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Uỷ ban Kinh tế và ngân sách cho rằng, hoạt động chứng khoán là hoạt động kinh doanh
có điều kiện; do vậy trên cơ sở Luật Doanh nghiệp, Luật Chứng khoán phải quy định cụ thể
các điều kiện để được cấp phép hoạt động. Các điều kiện cơ bản phải có gồm: cơ sở vật chất,
kỹ thuật bảo đảm nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán; có vốn pháp định; người hoạt động
kinh doanh chứng khoán phải có chứng chỉ hành nghề. Về thủ tục thành lập mới, nội dung
giấy phép, nội dung điều lệ... cần dẫn chiếu Luật Doanh nghiệp, Luật Chứng khoán chỉ nên
quy định những đặc thù riêng của hoạt động chứng khoán. Các cụm từ sử dụng trong dự thảo
Luật Chứng khoán như: đăng ký, chấp thuận, xin phép thành lập... cần thể hiện rõ ràng dưới
hình thức là văn bản và đều phải có thời hạn, quy định rõ thời hạn tối đa phải trả lời. Trường
hợp kéo dài thì cần quy định không quá một thời gian nhất định. Cần rà soát lại các quy định
này theo nguyên tắc; phải cải cách hành chính mạnh mẽ nhưng đối với lĩnh vực mới, hoạt
động kinh doanh có điều kiện như lĩnh vực chứng khoán thì phải bảo đảm các yêu cầu kiểm
soát của Nhà nước.
Để thị trường chứng khoán hoạt động nề nếp, quy cũ... nhất thiết phải xác định cụ thể địa
vị pháp lý của Uỷ ban Chứng khoán ngay trong Luật. Việc xác định rõ mô hình tổ chức của
Uỷ ban Chứng khoán là rất quan trọng, chi phối nhiều quy định trong Luật. Có thể tóm gọn
3 loại mô hình cơ quan quản lý về chứng khoán. Thứ nhất, Uỷ ban Chứng khoán là cơ quan

của Chính phủ hay tổ chức dưới dạng Hội đồng trực tiếp báo cáo lên Thủ tướng, hoàn toàn
độc lập trong chỉ đạo, điều hành hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán, có
quyền thanh tra, giám sát thị trường, điều tra và xử lý các vi phạm. Thứ hai, Uỷ ban Chứng
khoán được tổ chức như một Hội đồng, có một số thành viên gồm Bộ trưởng Bộ Tài chính,
Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Thứ trưởng Bộ Thương mại và một số chuyên gia
kinh tế, tài chính... Giúp việc cho Hội đồng này là một Văn phòng Uỷ ban Chứng khoán.
Thứ ba, Uỷ ban Chứng khoán trực thuộc Bộ Tài chính hoặc một Bộ nào đó. Nhìn từ thực
tiễn, mô hình tổ chức, hoạt động của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước ở Việt Nam chia làm 2
giai đoạn: từ 1997 đến tháng 3/2004, Uỷ ban chứng khoán nhà nước là cơ quan thuộc Chính
phủ; từ tháng 3/2004 đến nay, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước vào Bộ Tài chính. Được sự hỗ
trợ trực tiếp, thường xuyên của Bộ Tài chính, cùng với việc kết hợp thực hiện chính sách cổ
phần hoá, kế toán, kiểm toán, chính sách thuế... nên từ năm 2005 trở lại đây, thị trường
chứng khoán có xu hướng phát triển mạnh hơn, tạo sự tin tưởng cho các nhà đầu tư. Mặc dù
trực thuộc Bộ Tài chính, những chức năng, nhiệm vụ của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước đã
được quy định tương đối rõ ràng, nhằm bảo đảm tính độc lập cần thiết trong việc thực thi
công tác quản lý. Theo Uỷ ban Kinh tế và Ngân sách, trước mắt, Uỷ ban Chứng khoán Nhà
nước vẫn là cơ quan trong Bộ Tài chính, nhưng trong Luật cần giao cho Uỷ ban Chứng
khoán Nhà nước một số chức năng và thẩm quyền, bảo đảm tính độc lập cần thiết và thực
quyền của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước trong việc xử lý các vấn đề nghiệp vụ chứng
3


khoán. Về lâu dài, khi thị trường chứng khoán đã phát triển ổn định sẽ sắp xếp lại cho phù
hợp với yêu cầu của kinh tế thị trường.
Tuy nhiên, trong hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán cũng cần loại bỏ các
thủ tục hành chính, các loại giấy phép không cần thiết, nhưng cũng phải bảo đảm yêu cầu
quản lý của nhà nước để thị trường này phát triển an toàn, ổn định. Các nội dung liên quan
đến việc cấp các loại Giấy phép cần phải được quy định rõ ràng, chi tiết, đặc biệt là quy định
cụ thể về điều kiện, thủ tục, thời hạn cấp giấy phép. Nói tóm lại, hoạt động chứng khoán là
lĩnh vực kinh doanh có điều kiện, còn mới, nhiều rủi ro. Vì vậy, áp dụng Luật Chứng khoán

ở Việt Nam làm sao phải phù hợp với điều kiện cũng như đặc thù thể chế của Việt Nam, cần
chọn bước đi cởi mở, nhưng thận trọng.
1.2 VAI TRÒ CỦA LUẬT ĐỐI VỚI THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1. Luật Chứng khoán ra đời góp phần hoàn chỉnh thể chế về kinh tế thị trường ở nước
ta, quán triệt tinh thần đổi mới của Đảng và Nhà nước thể hiện trong Nghị quyết
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX và lần thứ X.
2. Luật Chứng khoán ra đời khắc phục những khiếm khuyết, bất cập trong khuôn khổ
pháp luật chứng khoán và thị trường chứng khoán (Nghị định 144), đồng bộ hoá với
Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư mà Quốc hội đã thông qua. Điều này hết sức quan
trọng vì tạo ra môi trường pháp luật ổn định cho các nhà đầu tư.
3. Luật Chứng khoán ra đời tạo điều kiện hình thành khuôn khổ pháp luật trong việc
quản lý, giám sát thị trường, đảm bảo nguyên tắc hoạt động thị trường: công khai,
công bằng, minh bạch và bảo vệ lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư.
4. Luật Chứng khoán ra đời tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán phát triển nhanh
và bền vững; tăng cường khả năng huy động vốn của Chính phủ, các doanh nghiệp
trên thị trường chứng khoán cho đầu tư phát triển; tạo cơ hội đầu tư cho công chúng
nhằm tăng nhanh luồng luân chuẩn vốn đầu tư. Thị trường chứng khoán phát triển
sẽ làm cho các doanh nghiệp minh bạch. Điều này góp phần làm cho nền kinh tế
của chúng ta minh bạch.
5. Luật Chứng khoán tạo điều kiện thị trường chứng khoán Việt Nam hội nhập với thị
trường chứng khoán khu vực và quốc tế. Thông qua hoạt động đầu tư gián tiếp có
khả năng khơi thông nguồn vốn nước ngoài vào Việt Nam, đồng thời tạo cơ hội để
các nhà đầu tư Việt Nam đầu tư ra nước ngoài.

4


CHƯƠNG II:
VI PHẠM VÀ CHẾ TÀI ÁP DỤNG XỬ LÝ VI PHẠM
PHÁP LUẬT CHỨNG KHOÁN

2.1 TÌM HIỂU CHUNG VỀ VI PHẠM VÀ CHẾ TÀI ÁP DỤNG XỬ LÝ VI
PHẠM PHÁP LUẬT CHỨNG KHOÁN
2.1.1 Tìm hiểu chung về vi phạm pháp luật chứng khoán
 Khái niệm :
Vi phạm pháp luật chứng khoán và thị trường chứng khoán là hành vi trái pháp luật của
tổ chức, cá nhân, xân hại tới xã hội được pháp luật chứng khoán xác lập và bảo vệ, theo đó,
phải chịu trách nhiệm pháp lý theo quy định của pháp luật chứng khoán.
 Vi phạm pháp luật chứng khoán có những đặc điểm sau:
- Thứ nhất, chủ thể thực hiện hành vi vi phạm là các tổ chức, cá nhân trực tiếp liên
quan đến hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán, phát sinh trên tất cả các
bộ phận thị trường.
- Thứ hai, hành vi vi phạm thường xuất phát từ động cơ vụ lợi vật chất.
- Thứ ba, phần lớn các vi phạm về hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán
được thực hiện do lỗi cố ý.
- Thứ tư, phần xác định chính xác về hành vi vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán và
thị trường chứng khoán thường rất phức tạp.
- Thứ năm, hành vi vi phạm thường đặc thù, phát sinh nhanh.
 Các chủ thể tham gia TTCK.
a. Nhà phát hành.
- Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành các trái phiếu Chính phủ và
trái phiếu địa phương.
- Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty.
Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như các trái phiếu,
chứng chỉ thụ hưởng... phục vụ cho hoạt động của họ.
5


b. Nhà đầu tư.
- Các nhà đầu tư cá nhân
- Các nhà đầu tư có tổ chức.

c. Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán.
- Công ty chứng khoán
- Quỹ đầu tư chứng khoán
- Các trung gian tài chính
d. Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán
- Cơ quan quản lý Nhà nước
- Sở giao dịch chứng khoán
- Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán
- Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán
- Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán
- Các tổ chức tài trợ chứng khoán
- Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm...
 Các văn bản pháp luât.
-

Căn cứ Luật chứng khoán ngày 29 tháng 6 năm 2006.

-

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật chứng khoán ngày 24 tháng 11 năm 2010.

-

Luật xử lý vi phạm hành chính ngày 20 tháng 6 năm 2012.

Nghị định số 36/2007/NĐ-CP ngày 08/3/2007 của Chính phủ về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Nghị định 01/2010/NĐ-CP ngày 04/01/2010 của Chính phủ về chào bán cổ phần

-


riêng lẻ.
-

Nghị định 85/2010 NĐ-CP

Nghị định 108/2013 NĐ-CP ngày 23/9/2013 của Chính phủ xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán.
2.1.2 Chế tài áp dụng xử lý vi phạm pháp luật chứng khoán
a) Chế tài là gì?
Một trong ba bộ phận cấu thành của quy phạm pháp luật (giả định, quy định và chế tài),
trong đó chế tài là bộ phận xác định các hình thức trách nhiệm pháp lý khi có hành vi trái
ngược với những quy tắc xử sự đã được ghi trong phần quy định và giả định.
Căn cứ vào tính chất của các nhóm quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh, chế tài
được phân làm nhiều loại: Chế tài hành chính; Chế tài dân sự; Chế tài dân sự;… Việc áp
dụng chế tài cũng phụ thuộc vào những đặc điểm của lợi ích mà pháp luật cần bảo vệ, vào
tính chất của hành vi phạm pháp, mức độ thiệt hại do các hành vi phạm pháp gây ra.
6


Chế tài gồm có các hình thức: Chế tài trừng trị, Chế tài khôi phục trạng thái pháp lý ban
đầu, Chế tài bảo vệ và Chế tài bảo đảm, Chế tài vô hiệu hóa. Chế tài pháp luật đảm bảo tính
nghiêm minh của pháp luật, bảo đảm trật tự pháp luật và trật tự xã hội. Chế tài thể hiện thái
độ của nhà nước đối với những hành vi phạm pháp và có tác dụng phòng ngừa, giáo dục để
bảo đảm việc tuân thủ pháp luật, góp phần thực hiện pháp chế và dân chủ.
b) Chế tài áp dụng khi xử lý vi phạm pháp luật chứng khoán
Hành vi vi phạm pháp luật chứng khoán có thể được nhìn nhận ở những khía cạnh, mục
tiêu khác nhau. Nếu căn cứ vào mức độ vi phạm, lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng
khoán thường tồn tại phổ biến các loại vi phạm: vi phạm hành chính, vi phạm dân sự và vi
phạm pháp luật hình sự. Cách phân loại này có ý nghĩa pháp lý trong việc xác định chế tài áp

dụng co chủ thể thực hiện hành vi vi phạm.
Chính vì vậy, pháp luật chứng khoán nói riêng và các văn bản pháp luật điều chỉnh liên
quan cũng có các quy định cụ thể về hình thức hay chế tài xử lý vi phạm luật chứng khoán
bao gồm: chế tài hành chính, chế tài dân sự và chế tài hình sự.

2.2 CÁC CHẾ TÀI ÁP DỤNG KHI XỬ PHẠT VI PHẠM PHÁP LUẬT
CHỨNG KHOÁN
2.2.1 Chế tài hành chính
Những chủ thể phải chịu chế tài hành chính theo quy định của pháp luật là các cá nhân,
tổ chức cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường
chứng khoán mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Cũng như bất cứ lĩnh vực hoạt động nào đó của xã hội, quy định của pháp luật xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán phải dựa trên cơ sở pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chính.
Ngày 2/8/2010 chính phủ ban hành nghị định số 85/2010/ NĐ-CP về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán. Đây cũng là văn bản
pháp lý chuyên ngành xử lý vi phạm trên thị trường chứng khoán và đã cơ bản đáp ứng được
yêu cầu trong hoạt động của thị trường và đảm bảo những thuộc tính của văn bản pháp quy.
Chế tài hành chính của đa số các nước đều quy định phạt tiền và cảnh cáo là một trong
hai hình phạt chính áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính trên thị trường chứng
khoán. Phù hợp với thông lệ quốc tế, tại Việt Nam khoản 1 điều 6 nghị định số 85/2010/NĐCP quy định phạt cảnh cáo và phạt tiền là hai hình thức xử phạt chính mà cá nhân, tổ chức vi
phạm phải gánh chịu.
Cảnh cáo là hình thức xử phạt chính được áp dụng chủ yếu với những hành vi vi phạm
lần đầu, nhỏ, ít nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và gây ra thiệt hại không lớn cho
các chủ thể khác. Nhằm xử lý triệt để các vi phạm, nhằm mục đích phòng ngừa, răn đe và
loại trừ các nguyên nhân, điều kiện tiếp tục vi phạm đến mức thấp nhất các hậu quả xảy ra
bởi hành vi vi phạm pháp luật chứng khoán có thể ảnh hưởng đến các chủ thể khác và gây
7



mất ổn định của thị trường chứng khoán, pháp luật các nước đều quy định hình phạt bổ sung
và một số biện pháp khác cùng với việc quy định hình phạt chính.
Theo quy định của pháp luật, ngoài hình phạt chính thì tùy theo tính chất, mức độ vi
phạm các chủ thể có hành vi vi phạm còn có thể bị áp dụng một hoặc nhiều hình thức xử
phạt bổ sung kèm theo hình phạt chính. Điều đặc biệt lưu ý ở đây là hình phạt chính là hình
phạt có tính độc lập nghĩa là một người có thể chỉ phải chịu một hình phạt chính là đầy đủ,
thế nhưng hình phạt bổ sung chỉ xuất hiện với tính chất kèm theo hình phạt chính tức là sẽ
không có hình phạt bổ sung nếu chủ thể không bị hình phạt chính. Các hình thức xử phạt bổ
sung thường được áp dụng là: tước có thời hạn hoặc không có thời hạn quyền sử dụng các
loại giấy phép liên quan đến chứng khoán và thị trường chứng khoán như: giấy phép phát
hành chứng khoán, giấy phép niêm yết chứng khoán, giấy phép đăng kí hoạt động kinh
doanh chứng khoán, giấy phép quản lý quỹ, chứng chỉ hành nghề kinh doanh chứng khoán
và chứng chỉ hành nghề quản lý quỹ…Biện pháp này áp dụng với chủ thể vi phạm nghiệm
trọng quy định về sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề kinh doanh chứng khoán. Việc
tước giấy phép có thể tạm thời hoặc không thời hạn. Trong thời gian bị tước quyền sử dụng
giấy phép, chứng chỉ hành nghề, các chủ thể không được phép tiến hành các hoạt động được
ghi trong các giấy tờ đang bị tước, tịch thu toàn bộ các khoản thu từ việc thực hiện các hành
vi vi phạm mà có và số chứng khoán được sử dụng để vi phạm hành chính.
Ngoài áp dụng các hình thức xử phạt bổ sung, các chủ thể vi phạm còn có thể bị áp dụng
một trong các biện pháp khắc phục hậu quả nhất định. Các biện pháp khắc phục hậu quả bao
gồm: buộc hủy bỏ, cải chính những thông tin sai lệch không đúng sự thật, buộc bồi thường
thiệt hại do vi phạm hành chính gây ra, buộc tổ chức phát hành phải thu hồi chứng khoán đã
phát hành, hoàn trả tiền đặt cọc hoặc tiền mua chứng khoán cho người đầu tư .
Chủ thể có thẩm quyền thực hiện chế tài hành chính tại Việt Nam khoản 1, khoản 2 điều
37 Nghị định của chính phủ số 85/2010/NĐ-CP quy định thẩm quyền xử phạt hành chính
trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán thuộc thẩm quyền của chánh thanh
tra UBCKNN, chủ tịch UBCKNN. Việc quy định cơ quan xử phạt một mặt phải tính đến
tính đặc thù của lĩnh vực chứng khoán đồng thời đảm bảo hiệu quả áp dụng chế tài xử phạt
thực sự phát huy hiệu quả trên thực tế.
Về mức độ xử phạt. Theo quy định hiện hành, mức xử phạt hành chính tối đa với vi

phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán là 500 triệu đồng. Ngoài ra, quy định về hình
thức xử phạt bổ sung và việc áp dụng biện pháp khác cũng đã được đặt ra trong hoạt động
chứng khoán như: tước quyền sử dụng giấy phép, tịch thu các khoản thu từ việc thực hiện
hành vi vi phạm hành chính, buộc khôi phục lại trạng thái ban đầu, buộc bồi thường thiệt
hại.
Theo báo cáo của năm 2011 đã xử phạt vi phạm chứng khoán hơn 10 tỷ đồng. Đây là
con số kỷ lục về giá trị xử phạt mà Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCK) đã ký kể từ khi
TTCK đi vào hoạt động. Đã có 9 cá nhân bị xử phạt vì có hành vi thao túng giá với các mã
cổ phiếu MKV, HTV, V15, VIC, AAA. Theo Vụ trưởng Vụ Thanh tra, UBCK thì số lượt vi
8


phạm trong lĩnh vực thao túng giá chứng khoán năm nay sụt giảm, nhưng mức xử phạt đã
tăng lên đáng kể, làm tăng tính răn đe pháp luật. Cụ thể, với trường hợp vi phạm thao túng
giá, theo Nghị định 36/2007/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng
khoán và TTCK, chỉ bị xử phạt từ 30 - 50 triệu đồng, nhưng từ khi Nghị định 85/2010/NĐCP thay thế Nghị định 36 có hiệu lực (20/9/2010), mức xử phạt đã tăng lên đến 300 triệu
đồng, tức gấp đến 10 lần so với quy định cũ.
Năm 2011 là năm trọng điểm hướng sự kiểm tra, giám sát của cơ quan quản lý vào
nhóm tổ chức trung gian cung cấp dịch vụ chứng khoán. Trong năm 2011, có 11 trường hợp
CTCK, công ty quản lý quỹ bị xử phạt do vi phạm quy định của phát luật về chứng khoán.
Đối với các tổ chức trung gian cung cấp dịch vụ chứng khoán, nhất là các CTCK, 11 trường
hợp bị xử phạt hành chính chỉ là bề nổi. Thời gian gần đây, liên tiếp các vụ khiếu kiện liên
quan đến nhóm này, trong đó không ít trường hợp CTCK là bị đơn, mà nguyên nhân xuất
phát từ tình trạng cạnh tranh bất chấp khuôn khổ pháp lý.
Cũng trong năm qua, UBCK đã thực hiện xử phạt 47 trường hợp vi phạm về công bố
thông tin (CBTT) giao dịch của cổ đông nội bộ các công ty niêm yết, 63 trường hợp vi phạm
quy định về công ty đại chúng, chào bán chứng khoán ra công chúng và công bố thông tin
của công ty đại chúng, công ty niêm yết.Năm 2011 cũng là năm đầu tiên có 3 trường hợp
công ty bị hủy niêm yết do liên tiếp vi phạm quy định về công bố thông tin, 4 công ty bị
cảnh báo do vi phạm về CBTT và 575 công ty niêm yết bị nhắc nhở bằng văn bản cũng như

công bố vi phạm trên website của UBCK do vi phạm quy định về CBTT.
Qua đây ta thấy được những ưu điểm của hình thức xử phạt hành chính đó là:
- Đã hạn chế được các hành vi vi phạm hành chính pháp luật chứng khoán thông qua
việc xử lý kịp thời và nghiêm khắc mọi hành vi vi phạm.
- Đã phần nào xử phạt (quy định khung phạt và mức phạt tiền, các hình thức phạt bổ
sung) minh bạch, công bằng, hợp lý căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm cũng như
hậu quả của hành vi vi phạm.
- Đã quy định rõ ràng, minh bạch để cơ quan có thẩm quyền xử phạt đúng người đúng
tội, đúng hành vi vi phạm, các tổ chức cá nhân có cơ sở rõ ràng để thực hiện.
Hình thức xử phạt hành chính đã góp phần đáng kể trong việc xử lý nghiêm minh và kịp
thời các hành vi vi phạm pháp luật chứng khoán, qua đó nâng cao ý thức chấp hành pháp
luật của các tổ chức cá nhân tham gia thị trường.Tuy nhiên vẫn còn một số những
khuyết điểm sau:
- Việc xử phạt vi phạm hành chính đối với vi phạm về công bố thông tin của DN hiện
nay chưa mang tính răn đe, do số tiền xử phạt không nhiều.
- Chế tài xử phạt cụ thể đối với các cá nhân vi phạm còn ít.
2.2.2 Chế tài hình sự
Hiện nay, trong tình hình nền kinh tế đất nước đang phát triển, xã hội càng có nhiều đổi
thay, đặc biệt là từ khi gia nhập WTO thì tội phạm kinh tế ngày càng nhiều và phức tạp.
Chứng khoán là một lĩnh vực đầu tư mới, thực tế phát sinh nhiều hành vi vi phạm trong lĩnh
9


vực này. Những chủ thể chịu chế tài về hình sự là những chủ thể đã thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội được quy định trong bộ luật hình sự do người có năng lực trách nhiệm hình
sự gây ra một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại đến hoạt động của thị trường chứng khoán, các
quyền, lợi ích của chủ thể khác.
Nếu như ở các nước vi phạm hình sự trong lĩnh vực chuyên ngành có thể được quy định
trong văn bản pháp luật của chính lĩnh vực đó thì ở Việt Nam Bộ luật hình sự có thể coi là
văn bản pháp luật duy nhất quy định về xử lý hình sự và được áp dụng để xử lý bất cứ vi

phạm nào nếu gây nguy hiểm cho xã hội. Việc quy định chế tài hình sự các tội phạm về
chứng khoán không nằm ngoài thông lệ này.
Luật hình sự nước ta vẩn chưa quy định một cách đầy đủ các tội danh của loại tội phạm
chứng khoán. Hơn nữa những tội danh mà Luật hình sự đã quy định thì chưa xác định được
những cấu thành tội phạm cụ thể. Do vậy việc nghiên cứu và làm rõ những hành vi cấu
thành loại tội phạm này để tìm ra những biện pháp nhằm hạn chế các hành vi phạm tội cũng
như bổ sung thêm một số tội danh của loại tội phạm này vào bộ luật hình sự là rất cần thiết
và cấp bách.
Các tội phạm về chứng khoán có thể bị xử lý về hình sự khi những tội đó được quy định
trong Bộ luật hình sự. Bộ luật hình sự Việt Nam chưa quy định các tội danh trong lĩnh vực
chứng khoán và thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, để đảm bảo nguyên tắc mọi hành vi vi
phạm có đủ yếu tố cấu thành tội phạm đều bị áp dụng các hình phạt hình sự được pháp luật
quy định, việc xử lý hình sự đối với chủ thể thực hiện hành vi vi phạm nghiêm trọng các quy
định pháp luật trong lĩnh vực chứng khoán được căn cứ trên cơ sở một số tội danh có các
yếu tố cấu thành mang tính tương đồng. Năm 2009, Bộ luật hình sự sửa đổi, bổ sung đã quy
định ba tội danh từ Điều 181a – 181c liên quan về hoạt động chứng khoán: Tội cố ý công bố
thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán; Tội sử dụng thông tin
nội bộ để mua bán chứng khoán; Tội thao túng giá chứng khoán đã góp phần làm rõ hơn về
chế tài xử lý hình sự trong lĩnh vực này.
Việc áp dụng các tội danh này để xử lý các vi phạm hình sự trong lĩnh vực phát hành,
kinh doanh, giao dịch chứng khoán, công bố thông tin… cũng có nhiều vấn đề mới nảy sinh.
Thực tế xét xử trong thời gian qua rất hiếm vụ án liên quan trực tiếp đến chứng khoán và thị
trường chứng khoán.
Giải pháp hoàn thiện:
Ở nước ta hiện nay, hệ thống pháp luật và cơ quan thực thi pháp luật chưa đủ mạnh để
đấu tranh có hiệu quả với các vi phạm trong lĩnh vựa chứng khoán. Vì vậy, theo chúng tôi
giải pháp trước mắt cần phải thực hiện là.
Một là: Trước hết, cần nhanh chóng làm rõ những dấu hiệu cấu thành tội phạm của các
tội danh trong lĩnh vực chứng khoán mà BLHS sửa đổi, bổ sung vừa mới đưa vào. Đồng thời
cũng nên bổ sung thêm một số hành vi vi phạm trong lĩnh vực chứng khóan là tội phạm để

có cơ chế xử lý khi những hành vi này được thực hiện.
10


Hai là, xây dựng và ban hành các nghị định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
chứng khoán nhằm cụ thể hóa các hành vi vi phạm chưa đến mức phải truy cứu TNHS trong
lĩnh vực này một cách đầy đủ hơn, trong đó cần tăng nặng chế tài xử lý, nhất là phạt tiền, để
nâng cao mức độ răn đe và ngăn chặn loại tội phạm này.
Ba là, nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan bảo vệ pháp luật, đặc biệt là đội ngũ
cán bộ trong cơ quan bảo vệ pháp luật, cụ thể:
- Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ trong cơ quan bảo vệ pháp luật.
Nâng cao hiệu quả các biện pháp xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực chứng
khoán.
Bốn là, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật.
Năm là, tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan chuyên ngành với cơ quan thực thi pháp
luật và hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán.
2.2.3 Chế tài dân sự
Hoạt động của thị trường chứng khoán còn có nhiều vấn đề liên quan đến pháp luật dân
sự, nó được áp dụng thường xuyên và nhất là các chế định về hợp đồng dân sự như việc kí
kết các hợp đồng bảo lãnh phát hành, tư vấn phát hành, hợp đồng mở tài khoản kí kết giữa
công ty chứng khoán với khách hàng, hợp đồng mở tài khoản giữa thành viên lưu kí là ngân
hàng và khách hàng….
Vậy chế tài dân sự trong lĩnh vực chứng khoán là việc các cá nhân, tổ chức tham gia
hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán phải gánh chịu trách
nhiệm pháp luật dân sự do có những hành vi trái pháp luật, có lỗi, xâm hại tới quan hệ về tài
sản giữa các chủ thể.
Để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, pháp luật dân sự đã quy định rất nhiều biện
pháp như cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, bảo lãnh, đặt cọc, kí cược, kí quỹ, phạt vi
phạm….Hiện nay, một số biện pháp đã được áp dụng trong hoạt động chứng khoán như:
cầm cố chứng khoán để cho vay tiền của các ngân hàng thương mại, kí quỹ trong giao dịch

chứng khoán.
Theo đó, Bộ Tài chính giao cho ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Bộ Công an giao cho
cơ quan Cảnh sát điều tra (Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức
vụ) phối hợp thực hiện. Bộ Tài chính và Bộ Công an có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ với
nhau trong công tác phòng ngừa, phát hiện, làm rõ và xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
chứng khoán và TTCK. Khi xem xét vụ việc vi phạm pháp luật trong lĩnh vực trên cơ quan
có thẩm quyền phải xác định rõ tính chất vụ việc là dân sự, kinh tế, hành chính hay hình sự
để xác định đúng thẩm quyền, áp dụng đúng quy định pháp luật, tránh gây phiền hà, thiệt hại
cho tổ chức, cá nhân tham gia TTCK.
Trong trường hợp trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội tự nguyện, kịp
thời bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, kịp thời

11


khai báo sự việc, góp phần vào việc thanh tra, điều tra vụ việc, cố gắng hạn chế đến mức
thấp nhất hậu quả của hành vi phạm tội, thì cũng có thể được miễn trách nhiệm hình sự.
Các cơ quan thực hiện phải đánh giá khách quan, toàn diện, đầy đủ về nguyên nhân, tính
chất, mức độ và hậu quả của các hành vi vi phạm pháp luật, trường hợp cần thiết thì phải
tiến hành trưng cầu giám định của cơ quan chuyên môn theo quy định của pháp luật. Những
vi phạm sau đây của tổ chức, cá nhân gây hậu quả nghiêm trọng (gây thiệt hại lớn về tài sản
và các hậu quả phi vật chất như gây ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng,
chính sách của Nhà nước; gây ảnh hưởng xấu đến sự công bằng, công khai, minh bạch và an
toàn của thị trường chứng khoán) sẽ bị xử lý:
- Lập hồ sơ đăng ký giả mạo để chào bán chứng khoán ra thị trường.
- Lập hồ sơ giả mạo để niêm yết chứng khoán trên thị trường.
- Tổ chức thị trường chứng khoán trái pháp luật gây mất ổn định cho TTCK.
- Hoạt động kinh doanh chứng khoán lợi dụng chức trách, nhiệm vụ sử dụng tiền,
chứng khoán trên tài khoản của khách hàng khi chưa được khách hàng ủy thác.
Lập quỹ đầu tư chứng khoán mà không đăng ký hoặc báo cáo với ủy ban Chứng

khoán Nhà nước và sử dụng quỹ đó.
- Vi phạm quy định về giao dịch chứng khoán:
+ Cung cấp, tiết lộ, sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán hoặc đề nghị
người khác mua, bán chứng khoán.
+ Thực hiện hành vi gian lận, lừa đảo, cung cấp tài liệu giả, làm giả, làm sai lệch
hoặc tiêu hủy tài liệu giao dịch để lừa đảo, dụ dỗ khách hàng mua, bán chứng khoán
gây hậu quả nghiêm trọng; làm giả chứng khoán, lưu hành chứng khoán giả.
+ Thực hiện các hành vi bị cấm để thao túng giỏ chứng khoán, tạo ra giỏ chứng
khoán giả tạo, giao dịch giả tạo. Tổ chức, cá nhân cố ý công bố thông tin sai lệch
hoặc tạo dựng, tuyên truyền thông tin sai sự thật để trục lợi gây ảnh hưởng đến thị
trường chứng khoán, gây lũng đoạn TTCK.
- Các vi phạm pháp luật khác trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK.
Vì cho vay đầu tư chứng khoán khá rủi ro, nên các ngân hàng cũng tham gia một cách
thận trọng. Theo đó, các ngân hàng liên kết với công ty chứng khoán lập danh mục các mã
được chấp nhận cầm cố và chỉ những cổ phiếu có thanh khoản cao như DPM, FPT, STB,
SSI, HPG, KDC... và có hoạt động kinh doanh tốt mới được chấp nhận.
Mức cho vay đối với tài sản cầm cố là chứng khoán không cao, chỉ khoảng từ 30% 40% thị giá của chứng khoán đó, tùy loại. Nếu vi phạm sẽ bị xử phạt theo pháp luật dân sự

2.3 CỤ THỂ
2.3.2 Các quy định đối với nhà đầu tư về vi phạm khi kinh doanh chứng khoán.
Căn cứ Điều 28 Nghị định 108/2013/NĐ-CP sẽ có những mức phạt cụ thể cho
những hành vi sau:
1. Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi
phạm sau:
12


a) Vi phạm tỷ lệ nắm giữ chứng khoán của nhà đầu tư nước ngoài; vi phạm quy định về
hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam;
b) Vi phạm quy định về tỷ lệ sở hữu vốn cổ phần hoặc phần vốn góp của công ty chứng

khoán và công ty quản lý quỹ;
c) Vi phạm quy định về mở tài khoản giao dịch chứng khoán, giao dịch ký quỹ chứng
khoán, tài khoản giao dịch ủy quyền;
d) Vi phạm quy định về giao dịch trong ngày giao dịch.
2. Phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng đối với hành vi thực hiện một
hoặc một số giao dịch nhằm che giấu quyền sở hữu thực sự đối với một chứng khoán để trốn
tránh nghĩa vụ công bố thông tin theo quy định.
2.3.2 Các quy định xử phạt đối với doanh nghiệp niêm yết khi vi phạm.
Căn cứ vào Điều 14 Nghị định số 108/2013/NĐ-CP sẽ có những mức phạt cho
từng hành vi sau:

Hành vi

Mức phạt

- Không làm thủ tục thay đổi đăng ký niêm yết CK, đăng 50.000.000 đồng -70.000.000 đồng
ký GDCK hoặc thực hiện niêm yết CK , đăng ký GDCK
bổ sung không đúng thời hạn theo quy định pháp luật
- Không sửa đổi, bổ sung hồ sơ đăng ký niêm yết CK 80.000.000 đồng - 120.000.000 đồng
hoặc đăng ký GDCK khi phát hiện thông tin không
chính xác hay bỏ sót nội dung quan trọng theo quy định
phải có trong hồ sơ hoặc phát sinh thông tin quan trọng
liên quan đến hồ sơ đã nộp.
Lập, xác nhận hồ sơ đăng ký niêm yết CK hoặc đăng ký 300.000.000 đồng - 400.000.000 đồng
GDCK có thông tin sai sự thật hoặc che giấu sự thật
hoặc sai lệch nghiêm trọng.
Lập, xác nhận hồ sơ giả mạo để niêm yết chứng khoán 1.800.000.000 đồng - 2.000.000.000 đồng
hoặc đăng ký giao dịch chứng khoán.

13



Hình thức xử phạt bổ sung:
Đình chỉ hoạt động niêm yết chứng khoán hoặc đăng ký giao dịch chứng khoán trong
thời hạn từ 01 tháng đến 03 tháng đối với hành vi vi phạm quy định tại Khoản 3 và Khoản 4
Điều này.
2.3.3 Các quy định xử lý vi phạm với các chủ thể khác khi tham gia thị trường.
Đối với các chủ thể khác khi tham gia thị trường chứng khoán có 2 chủ thể tiêu biểu
là :
- Ngân hàng lưu ký, ngân hàng giám sát.
- Sở giao dịch chứng khoán.
a) Ngân hàng lưu ký, ngân hàng giám sát.
MUC 7: HÀNH VI QUY ĐỊNH VI PHẠM VỀ ĐĂNG KÝ, LƯU KÝ, BÙ TRỪ VÀ
THANH TOÁN CHỨNG KHOÁN NGÂN HÀNG GIÁM SÁT, NGÂN HÀNG LƯU
KÝ.( NGHỊ ĐỊNH 85/2010 NĐ-CP)
Điều 30. Vi phạm quy định về đăng ký hoạt động lưu ký
(1) Phạt tiền 30.000.000 đồng đối với công ty chứng khoán, ngân hàng thương mại không
thực hiện đăng ký thành viên lưu ký, chi nhánh thành viên lưu ký và hoạt động lưu ký chứng
khoán trong thời hạn quy định.
(2) Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng đối với công ty chứng khoán, ngân
hàng thương mại thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau:
- Lập hồ sơ đăng ký hoạt động lưu ký chứng khoán, chi nhánh hoạt động lưu ký có
thông tin sai lệch;
- Thực hiện hoạt động lưu ký chứng khoán khi chưa đáp ứng đầy đủ điều kiện theo quy
định; hoạt động lưu ký chứng khoán khi chưa được cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động
lưu ký chứng khoán hoặc chưa được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước chấp thuận.
Hình thức xử phạt bổ sung:
- Đình chỉ hoạt động lưu ký trong thời hạn tối đa 90 ngày đối với trường hợp vi phạm
quy định tại khoản 2 Điều này;
- Thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động lưu ký chứng khoán nếu sau thời hạn

đình chỉ quy định tại điểm a khoản này mà vẫn không khắc phục được vi phạm;
- Tịch thu toàn bộ khoản thu trái pháp luật do thực hiện hành vi vi phạm quy định tại
điểm b khoản 2 Điều này.
14


Điều 31. Vi phạm quy định về đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán
(1) Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng đối với Trung tâm lưu ký chứng
khoán, thành viên lưu ký chứng khoán, ngân hàng thanh toán thực hiện một trong các hành
vi vi phạm sau:
- Tổ chức thực hiện đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán trong khi chưa
đáp ứng các điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ cho các hoạt động đăng ký, lưu ký, bù
trừ, và thanh toán chứng khoán theo quy định;
- Chưa xây dựng đầy đủ các quy trình hoạt động và quản lý rủi ro cho từng nghiệp vụ
theo quy định;
- Không cung cấp đầy đủ, kịp thời, chính xác danh sách người sở hữu, cổ đông và các
tài liệu liên quan theo yêu cầu hợp lệ và phù hợp với quy định pháp luật hiện hành của công
ty đại chúng; không thông báo kịp thời, đầy đủ các quyền lợi phát sinh liên quan đến chứng
khoán lưu ký của khách hàng.
(2) Phạt tiền từ 70.000.000 đồng đến 90.000.000 đồng đối với Trung tâm lưu ký chứng
khoán, thành viên lưu ký chứng khoán và nhân viên của các tổ chức này thực hiện một trong
các hành vi vi phạm sau:
-

Chấp thuận hoặc hủy bỏ tư cách thành viên lưu ký không đúng quy định;

Vi phạm chế độ bảo quản, lưu giữ chứng khoán, chế độ đăng ký, lưu ký, bù trừ và
thanh toán chứng khoán;
Không quản lý tách biệt chứng khoán của khách hàng lưu ký tại Trung tâm lưu ký
chứng khoán, thành viên lưu ký với tài sản của Trung tâm lưu ký chứng khoán, thành viên

lưu ký; không mở tài khoản lưu ký chứng khoán chi tiết cho từng khách hàng và quản lý
tách biệt tài sản cho từng khách hàng.
(3) Phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 120.000.000 đồng đối với Trung tâm lưu ký chứng
khoán, thành viên lưu ký chứng khoán và nhân viên của các tổ chức này thực hiện một trong
các hành vi vi phạm sau:
- Vi phạm quy định về hạch toán trên tài khoản lưu ký chứng khoán, về thời gian thanh
toán, chuyển giao quyền sở hữu chứng khoán hoặc sửa chữa, thất lạc, giả mạo chứng từ
trong thanh toán, chuyển giao quyền sở hữu chứng khoán;
15


- Sử dụng chứng khoán của khách hàng vì lợi ích của tổ chức, cá nhân khác hoặc vì lợi
ích của chính Trung tâm lưu ký chứng khoán, thành viên lưu ký;
- Thực hiện giao dịch chứng khoán khi chưa được Trung tâm lưu ký chứng khoán hạch
toán vào tài khoản chứng khoán giao dịch của thành viên, trừ trường hợp pháp luật quy định
khác;
- Chưa có biện pháp bảo vệ cơ sở dữ liệu và lưu giữ các chứng từ gốc về đăng ký, lưu
ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán theo quy định;
- Vi phạm chế độ bảo mật tài khoản lưu ký của khách hàng.
Hình thức xử phạt bổ sung:
- Đình chỉ hoạt động lưu ký trong thời hạn tối đa 90 ngày đối với thành viên lưu ký vi
phạm quy định tại các điểm a, b, d và đ khoản 3 Điều này;
- Thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động lưu ký chứng khoán nếu sau thời hạn đình
chỉ hoạt động quy định tại điểm a khoản này mà vẫn không khắc phục được vi phạm;
- Tịch thu toàn bộ khoản thu trái pháp luật do thực hiện hành vi vi phạm quy định tại
khoản 3 Điều này.
Điều 32. Vi phạm quy định về trách nhiệm của ngân hàng giám sát, ngân hàng lưu ký
(1) Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với ngân hàng giám sát, ngân
hàng lưu ký thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau:
- Không thực hiện việc lưu ký, tách biệt tài sản của từng quỹ, từng khách hàng ủy thác và

tài sản của ngân hàng theo đúng quy định;
- Không thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ của ngân hàng giám sát, ngân hàng lưu ký theo
quy định tại hợp đồng giám sát, hợp đồng lưu ký, điều lệ quỹ và các quy định của pháp luật;
- Không lập, lưu trữ hồ sơ, chứng từ theo quy định; không phản ánh chính xác, chi tiết các
giao dịch của công ty, quỹ đầu tư, nhà đầu tư ủy thác, công ty đầu tư chứng khoán theo quy
định;
- Không tuân thủ chế độ báo cáo, công bố thông tin theo quy định pháp luật và thực hiện
báo cáo kịp thời những vấn đề bất thường trong hoạt động lưu ký, giám sát; không cung cấp
kịp thời, đầy đủ và chính xác thông tin cho công ty quản lý quỹ, tổ chức kiểm toán, các cơ
quan quản lý chức năng theo đúng quy định pháp luật;
16


- Không báo cáo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước về thành viên Ban giám đốc được phân
công phụ trách hoạt động lưu ký, đăng ký, thanh toán bù trừ chứng khoán và các nhân viên
nghiệp vụ; không đảm bảo bộ phận cung cấp dịch vụ xác định giá trị tài sản có nhân viên có
chứng chỉ hành nghề kiểm toán hoặc kế toán theo quy định.
(2) Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng đối với ngân hàng lưu ký thực hiện
một trong các hành vi vi phạm sau:
- Thực hiện lưu ký trong điều kiện chưa bảo đảm cơ sở vật chất, kỹ thuật, chưa xây dựng
quy trình hoạt động, quản lý rủi ro để đảm bảo thực hiện đầy đủ nghĩa vụ theo quy định của
pháp luật;
- Thực hiện hoạt động thu, chi, thanh toán và chuyển giao tiền, chứng khoán không kịp
thời, chính xác theo quy định;
- Sử dụng tiền và tài sản của quỹ, nhà đầu tư ủy thác sai mục đích hoặc không đúng quy
định tại điều lệ quỹ, hợp đồng lưu ký và các quy định hiện hành;
- Thực hiện việc thanh toán cho các giao dịch không phù hợp với điều lệ quỹ, hợp đồng ủy
thác và hợp đồng lưu ký;
- Không thực hiện đúng, đầy đủ và kịp thời lệnh hoặc các chỉ thị hợp pháp khác của công
ty quản lý quỹ, của ngân hàng giám sát và các quyền phát sinh trong việc thực hiện các

quyền và nghĩa vụ liên quan đến quyền sở hữu tài sản của quỹ, của nhà đầu tư ủy thác;
Không thực hiện đầy đủ, chính xác, kịp thời các quy định về việc thanh lý tài sản,
phương án xử lý các tài sản còn lại; không thực hiện báo cáo Ủy ban Chứng khoán Nhà
nước các thông tin cần thiết có liên quan đến việc giải thể quỹ;
- Vi phạm các quy định về nghĩa vụ của thành viên lưu ký.
(3) Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng đối với ngân hàng giám sát, thành
viên Hội đồng quản trị, Giám đốc, Phó giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Phó Tổng giám đốc
và nhân viên nghiệp vụ thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau:
- Là người có liên quan hoặc tham gia điều hành, quản trị công ty quản lý quỹ hoặc có
quan hệ sở hữu, tham gia góp vốn, nắm giữ cổ phần, vay hoặc cho vay với công ty quản lý
quỹ, công ty đầu tư chứng khoán và ngược lại;
-

Là các đối tác trong các giao dịch tài sản của quỹ, công ty đầu tư chứng khoán;

17


- Không thực hiện việc giám sát hoạt động, hạn chế đầu tư của quỹ do công ty quản lý quỹ
thực hiện theo các quy định pháp luật;
- Không báo cáo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, báo cáo không kịp thời khi phát hiện sai
sót, vi phạm của công ty quản lý quỹ;
- Không thông báo kịp thời đến cơ quan quản lý chức năng về việc ngân hàng giám sát,
thành viên Hội đồng quản trị, người điều hành và nhân viên nghiệp vụ là người có liên quan
hoặc có quan hệ sở hữu, tham gia góp vốn, nắm giữ cổ phần, vay hoặc cho vay với công ty
quản lý quỹ, công ty đầu tư chứng khoán và ngược lại;
- Không tách biệt về hoạt động, hệ thống công nghệ thông tin, hệ thống báo cáo giữa bộ
phận cung cấp dịch vụ xác định giá trị tài sản ròng, bộ phận thực hiện chức năng giám sát,
bộ phận chịu trách nhiệm lập, lưu trữ và cập nhật Sổ đăng ký nhà đầu tư;
- Không thực hiện đầy đủ trách nhiệm của ngân hàng giám sát tại các báo cáo liên quan

đến tài sản và hoạt động của quỹ do công ty quản lý quỹ lập; xác nhận báo cáo tài sản quỹ
đại chúng, tài sản công ty đầu tư chứng khoán, báo cáo xác định giá trị tài sản ròng do công
ty quản lý quỹ, công ty đầu tư chứng khoán lập không chính xác hoặc có sai lệch.
Hình thức xử phạt bổ sung:
- Đình chỉ hoạt động lưu ký chứng khoán trong thời hạn tối đa 30 ngày đối với trường hợp
vi phạm quy định tại điểm c khoản 2 Điều này.
- Thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động lưu ký chứng khoán nếu sau thời hạn đình
chỉ hoạt động quy định tại điểm a khoản này mà vẫn không khắc phục được vi phạm;
- Tịch thu toàn bộ khoản thu trái pháp luật do thực hiện hành vi vi phạm quy định tại điểm
c khoản 2, điểm a và b khoản 3 Điều này.
b) Sở giao dịch chứng khoán.
MỤC 9. HÀNH VI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ TỔ CHỨC THỊ TRƯỜNG GIAO DỊCH
CHỨNG KHOÁN ( NGHỊ ĐỊNH 108/2013 NĐ-CP)
Điều 16. Vi phạm quy định về tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán
(1) Phạt tiền từ 1.800.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng đối với tổ chức có hành vi tổ
chức thị trường giao dịch chứng khoán trái quy định pháp luật trong trường hợp không có
khoản thu trái pháp luật.
(2) Phạt tiền từ 01 lần đến 05 lần khoản thu trái pháp luật theo quy định tại Khoản 1 Điều
124 Luật chứng khoán đối với tổ chức có hành vi tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán
18


trái quy định pháp luật trong trường hợp có khoản thu trái pháp luật nhưng mức phạt không
thấp hơn mức phạt tối đa quy định tại Khoản 1 Điều này.
Hình thức xử phạt bổ sung:
Đình chỉ hoạt động kinh doanh, dịch vụ chứng khoán trong thời hạn từ 01 tháng đến 03
tháng đối với hành vi vi phạm quy định về tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán..
Điều 17. Vi phạm quy định về quản lý niêm yết của Sở giao dịch chứng khoán
(1) Phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng đối với Sở giao dịch chứng
khoán không xử lý kịp thời những trường hợp tổ chức niêm yết không duy trì đầy đủ điều

kiện niêm yết theo quy định.
(2) Phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 400.000.000 đồng đối với Sở giao dịch chứng
khoán chấp thuận hoặc hủy bỏ niêm yết không đúng quy định.
Điều 18. Vi phạm quy định về quản lý thành viên của Sở giao dịch chứng khoán
(1) Phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng đối với Sở giao dịch chứng
khoán không xử lý kịp thời những trường hợp thành viên giao dịch không duy trì đầy đủ
điều kiện về thành viên hoặc không tuân thủ đầy đủ nghĩa vụ của thành viên theo quy chế
của Sở giao dịch chứng khoán.
(2) Phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 400.000.000 đồng đối với Sở giao dịch chứng
khoán chấp thuận hoặc hủy bỏ tư cách thành viên của công ty chứng khoán không đúng quy
định.
Điều 19. Vi phạm quy định về giao dịch và giám sát của Sở giao dịch chứng khoán
(1) Phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng đối với Sở giao dịch chứng
khoán thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau:
- Tổ chức giao dịch loại chứng khoán mới, thay đổi và áp dụng phương thức giao dịch
mới, đưa vào vận hành hệ thống giao dịch mới khi chưa được Ủy ban Chứng khoán Nhà
nước chấp thuận;
- Không xử lý kịp thời các hành vi vi phạm quy chế giao dịch hoặc không chấp hành
đúng quy trình giám sát các hoạt động giao dịch theo quy định để xảy ra vi phạm.
(2) Phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 400.000.000 đồng đối với Sở giao dịch chứng
khoán không tạm ngừng, đình chỉ hoặc hủy bỏ giao dịch chứng khoán theo quy chế giao
dịch của Sở giao dịch chứng khoán trong trường hợp cần thiết để bảo vệ nhà đầu tư.
2.4 VÍ DỤ VỀ VI PHẠM CỦA CÁC CÔNG TY CHỨNG KHOÁN.
VÍ DỤ 1:

19


- Ngày 17/3/2007, UBCKNN đã thực hiện phạt hành chính đối với 4 cổ đông nội bộ và
người có liên quan đến CTCP XNK lâm thuỷ sản Bến Tre (mã CK: FBT) do hành động trục

lợi nhờ biết trước thông tin nội bộ.
- Khi UBCKNN công bố thông tin cụ thể thì thị trường mới rõ về sự việc liên quan đến
diễn biến tăng giá trên 100% của CP FBT từ thời điểm giữa tháng 8 đến tháng 9.2008.
- Ngày 22.9.2008 thì HOSE mới công bố thông tin về khoản thặng dư trên 233 tỉ mà
FBT được hoàn trả, cao gấp nhiều lần lợi nhuận cả năm của Cty này. Nhưng lúc đó, FBT đã
có một chu kỳ tăng từ giữa tháng 8.2008 tới gần 59%, từ giá quanh mức 11.000đ/CP lên trên
17.000đ/CP.
- Sau khi thông tin trên được công khai, FBT còn có một con sóng nữa tăng thêm lên
mức cao nhất 24.000đ/CP. FBT đã có diễn biến giá đi ngược lại thị trường chung vào thời
điểm đó khi VN-Index giảm từ 561 điểm xuống 460 điểm.
- Theo thông tin từ UBCKNN, 4 cá nhân có hành vi trục lợi nhờ thông tin gây sốc của
FBT khá đa dạng nhưng đều là những người có "điều kiện" tiếp xúc sớm với thông tin.
- Quyết định phạt của UBCKNN cũng gây bất ngờ cho thị trường khi mức phạt đồng loạt
chỉ là 30 triệu đồng. Đây là khung phạt thấp nhất đối với cá nhân vi phạm quy định về giao
dịch nội bộ mà cụ thể là sử dụng thông tin nội bộ để mua/bán CK cho mình hoặc cho bên
thứ 3.
VÍ DỤ 2:
Ngày 06/11/2007, Thanh tra chứng khoán quyết định ban hành 6 quyết định xử phạt, 4
công ty đại chúng và 2 công ty chứng khoán.
- Đó là Công ty Chứng khoán châu Á - Thái Bình Dương và Công ty Chứng khoán Hà
Nội. Cả hai công ty này đã có sự thay đổi về thành viên Hội đồng Quản trị nhưng không báo
cáo theo đúng thời hạn quy định. Mỗi công ty bị phạt 20 triệu đồng, bốn công ty đại chúng
khác là Công ty Cổ phần Giấy Sài Gòn, Công ty Cổ phần Lilama, Công ty Cổ phần Cao su
Sao Vàng và Công ty Cổ phần Phát triển đô thị Từ Liêm.
- Mức phạt nhiều nhất là 70 triệu đồng thuộc về Công ty Cổ phần Giấy Sài Gòn. Trong
thời gian Ủy ban Chứng khoán xem xét hồ sơ đang ký chào bán chứng khoán ra công chúng,
công ty này đã thực hiện 6 lần phát hành riêng lẻ mà không báo cáo. Giấy Sài Gòn đã vi
phạm quy định về công bố thông báo phát hành, cụ thể : ngày 14/06/2007, Uỷ ban Chứng
khoán đã cấp giấy chứng nhận chào bán chứng khoán ra công chúng cho đợt chào bán 3,2
triệu cổ phiếu của Công ty.

- Tuy nhiên, công ty này đã không thực hiện công bố thông báo phát hành theo quy
định. Công ty Cổ phần Phát triển đô thị Từ Liêm cũng bị phạt 70 triệu đồng do phân phối
hàng bán không đúng nội dung của đăng ký chào bán theo quy định, hồ sơ đăng ký chào
bán chứng khoán ra công chúng có thông tin sai lệch, không có đầy đủ thông tin cần thiết
theo quy định.
20


- Đặc biệt, đợt phát hành cổ phiếu của Công ty Cổ phần Phát triển đô thị Từ Liêm còn có
nhiều điểm không rõ ràng, trái với quy định của Luật Doanh nghiệp và Điều lệ Công ty.
Trong quá trình phát hành, Hội đồng Quản trị đã không thực hiện đúng Nghị quyết Đại hội
cổ đông, có hành vi hợp pháp hóa việc làm sai của mình.
- Hai trường hợp còn lại là Công ty Cổ phần Lilama, Công ty Cổ phần Cao su Sao Vàng,
bị phạt ở mức 30 triệu đồng do đã thực hiện phân phối chứng khoán không đúng thời hạn
phát hành theo quy định của pháp luật.
VÍ DỤ 3: Xử phạt vi phạm hành chính đối với Công ty Cổ phần Chứng khoán VSM
Ngày 6/4/2015, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) ban hành Quyết định số
322/QĐ-XPVPHC về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị
trường chứng khoán đối với Công ty Cổ phần Chứng khoán VSM, địa chỉ: Tầng 2 Tòa nhà
Handico, Số 34 Hai Bà Trưng, Phường Tràng Tiền, Quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội, cụ
thể như sau:
- Phạt tiền 250.000.000 đồng (Hai trăm năm mươi triệu đồng) theo quy định tại Điểm a
Khoản 6 Điều 20 Nghị định số 108/2013/NĐ-CP ngày 23/9/2013 của Chính phủ quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán (Nghị định
108/2013/NĐ-CP) do cung cấp dịch vụ tài chính khi chưa có quy định hướng dẫn của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền.
- Phạt tiền 70.000.000 đồng (Bảy mươi triệu đồng) theo quy định tại Điểm b Khoản 3
Điều 34 Nghị định 108/2013/NĐ-CP do báo cáo có nội dung không chính xác (Công ty đã
khắc phục vi phạm).
Tổng cộng mức phạt tiền đối với Công ty là 320.000.000 đồng.

* Xử phạt vi phạm hành chính đối với Công ty Cổ phần Chứng khoán Phương Đông 350
triệu đồng.
NDĐT – Ngày 12-6, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã quyết định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vựcchứng khoán và thị trường chứng khoán đối với Công ty Cổ phần
Chứng khoán Phương Đông, với tổng số tiền là 350 triệu đồng.
Theo đó, Công ty Cổ phần Chứng khoán Phương Đông, địa chỉ: số 194 Nguyễn Công
Trứ, Phường Nguyễn Thái Bình, Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh, bị phạt tiền tổng cộng là
350 triệu đồng. Cụ thể:
- Phạt tiền 150 triệu đồng, theo quy định tại Điểm a Khoản 4 Điều 21 Nghị định số
108/2013/NĐ-CP ngày 23-9-2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán (Nghị định số 108/2013/NĐ-CP), do
không quản lý tách bạch tiền của khách hàng với tiền của công ty chứng khoán.
- Phạt tiền 200 triệu đồng, theo quy định tại Điểm a Khoản 6 Điều 20 Nghị định số
108/2013/NĐ-CP, do cung cấp dịch vụ tài chính khi chưa có quy định hướng dẫn của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền.

21


Công ty Cổ phần Chứng khoán Phương Đông được hưởng tình tiết giảm nhẹ: Theo quy
định tại Điều 9 Luật xử lý vi phạm hành chính ngày 20-6-2012
*Xử phạt vi phạm hành chính đối với Công ty Cổ phần Chứng khoán với công ty Đầu
tư và phát triển năng lượng Việt Nam
Ngày 21/8/2015, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) ban hành Quyết định số
713/QĐ-XPVPHC xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường
chứng khoán đối vớiCông ty Cổ phần Đầu tư và phát triển năng lượng Việt Nam (Địa chỉ:
Số nhà 36 nhà E3 nghách 3/18 đường Kim Giang, Phường Kim Giang, Quận Thanh Xuân,
Tp. Hà Nội), cụ thể như sau:
Phạt tiền 85.000.000 đồng (Tám mươi lăm triệu đồng) theo quy định tại Khoản 4 Điều
11 Nghị định số 108/2013/NĐ-CP ngày 23/9/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm

hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Vì đã có hành vi vi phạm hành chính: Vi phạm quy định pháp luật quản trị công ty về tổ
chức họp Đại hội đồng cổ đông (Công ty Cổ phần Đầu tư và phát triển năng lượng Việt Nam
đã tổ chức Đại hội đồng cổ đông thường niên năm 2015 dưới hình thức lấy ý kiến cổ đông
bằng văn bản).
VÍ DỤ 4:
+ ISC bị phạt 60.000.000 đồng do vi phạm công bố thông tin , ủy ban chứng khoán nhà
nước( UBCKNN) ban hành quyết đinh số 543/QĐ-XPVPHC về việc sử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán đối với công ty cổ phần chứng
khoán công nghiệp Việt Nam (ISC)
+ PAMCO bị phạt 235 triệu đồng do mua cổ phần trái quy định và vi phạm công bố
thông tin Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) ban hành quyết định về việc xử phạt
vi phạm hành chính đối với CTCP Quản lý quỹ Thái Bình Dương (PAMCO) do đã có hành
vi vi phạm hành chính, cụ thể như sau:
(1) Đầu tư tài chính, mua cổ phần trái quy định pháp luật: Tại thời điểm 31/12/2014 và
đến thời điểm 31/3/2015 (theo Báo cáo tài chính kiểm toán năm 2014 và Báo cáo tài chính
quý 1/2015), trong khoản mục đầu tư ngắn hạn cho thấy Công ty đã thực hiện mua
2,440,000 cổ phần của CTCP Chứng khoán Đại Dương – OSC, giá trị 24.4 tỷ đồng.
Quy định tại: Điểm c Khoản 4 Điều 22 Nghị định 108/2013/NĐ-CP.
PAMCO bị xử phạt 175 triệu đồng.
(2) Báo cáo không đúng thời hạn, không đầy đủ nội dung theo quy định pháp luật, cụ
thể: Công ty chậm nộp báo cáo tỷ lệ an toàn tài chính tháng 3/2015, tháng 4/2015; Công ty
chưa gửi đầy đủ báo cáo Quản trị rủi ro năm 2014 cho UBCKNN.
Quy định tại: Khoản 2 Điều 34 Nghị định 108/2013/NĐ-CP.
PAMCO bị xử phạt 60 triệu đồng.
Tổng mức phạt tiền đối với PAMCO là 235 triệu đồng.

22



CHƯƠNG III
ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP
3.1 NHẬN XÉT CỦA NHÓM VỀ CHẾ TÀI ÁP DỤNG KHI XỬ LÝ VI
PHẠM PHÁP LUẬT CHỨNG KHOÁN
3.1.1 Ưu điểm của các chế tài áp dụng khi xử lý vi phạm pháp luật luật chứng khoán
Hệ thống các văn bản pháp lý về xử phạt vi phạm luật hành chính trong lĩnh vực chứng
khoán và thị trường chứng khoán dần được hoàn thiện từ Nghị định 161/2004/NĐ_CP ngày
07/09/2004 của Chính Phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng
khoán và thị trường chứng khoán, nghị định ra đời là hoàn toàn phù hợp với hoạt động của
tổ chức cá nhân trong thị trường chứng khoán còn rất non trẻ lúc bấy giờ. Tiếp theo sự ra đời
của Luật chứng khoán năm 2006 sửa đổi và bổ sung năm 2010 quy định mục 2 Chương IX
về xử phạt vi phạm quy định cụ thể các chế tài áp dụng khi có hành vi vi phạm. Rồi đến
Nghị định 85/2010/NĐ_CP ngày 02/08/2010 của Chính Phủ về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán. Như vậy cùng với sự phát triển của
thị trường chứng khoán thì hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm luật
chứng khoán ngày càng được hoàn thiện đáp ứng nhu cầu phát triển của thị trường.
Hoạt động của thị trường chứng khoán dần đi vào ổn định. Thị trường chứng khoán Việt
Nam là thị trường vốn dài hạn, tập trung phân phối các nguồn vốn cho đầu tư và phát triển
kinh tế, có tác dụng rất lớn đến môi trường đầu tư và nền kinh tế. Việc đặt các quy định về
xử phạt vi phạm hành chính và đảm bảo thực thi nó trên thực tế nhằm thiết lập trật tự cho thị
trường chứng khoán, phòng và chống các hành vi lừa đảo, lũng đoạn thị trường hoặc các
hành vi khác gây thiệt hại cho nhà đầu tư thiếu kinh nghiệm, thiếu thông tin, bảo vệ quyền
lợi chính đáng của nhà đầu tư, dung hòa lợi ích của tất cả những người tham gia thị trường.
Hiện nay trong Luật Chứng khoán sửa đổi bổ sung năm 2010 có sự phân định rõ ràng
giữa chế tài xử lý vi phạm hành chính và chế tài xử lý vi phạm hình sự tạo sự thuận lợi trong
công tác xử lý vi phạm luật chứng khoán đảm bảo tính công bằng, ổn định trên thị trường.
Các chế tài xử lý vi phạm luật chứng khoán đa dạng và phong phú, đồng thời có sự phối hợp
linh hoạt giữa các chế tài với nhau tạo ra thị trường phát triển ổn định, bền vững. Hệ thống
các chế tài này tạo ra hành lang pháp lý vững chắc cho chủ thể khi tham gia thị trường này,
góp phần lớn trấn áp, răn đe hành vi vi phạm luật chứng khoán.

3.1.2 Bất cập của các chế tài áp dụng khi xử lý vi phạm pháp luật luật chứng khoán
Hệ thống pháp luật Việt Nam ngày càng hoàn thiện bắt kịp sự phát triển của thị trường
chứng khoán, đặc biệt từ khi ban hành luật chứng khoán sửa đổi và bổ sung năm 2010 đã
khắc phục được rất nhiều nhược điểm tồn tại trước đây. Nhưng bên cạnh đó vẫn tồn tại một
vài bất cập gây cản trở cho sự phát triển của thị trường chứng khoán.
23


Xử lý vi phạm pháp luật chứng khoán về dân sự, theo quy định Điều 559 Bộ Luật Dân
sự năm 2005 hợp đồng gửi giữ được quy định “Hợp đồng gửi giữ tài sản là sự thỏa thuận
giữa các bên, theo đó bên giữ nhận tài sản của bên gửi để bảo quản và trả lại chính tài sản đó
cho bên gửi khi hết thời hạn hợp đồng, còn bên gửi phải trả tiền công cho bên giữ, trừ trường
hợp gửi giữ không phải trả tiền công”. Quy định này nếu áp dụng trong việc ký kết hợp đồng
về lưu ký chứng khoán thì rất khó thực hiện. Theo Khoản 2 Điều 40 Nghị định
144/2003/NĐ_CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng
khoán quy định “Việc lưu ký chứng khoán được thực hiện theo hai cấp, người sở hữu chứng
khoán phải lưu ký chứng khoán tại thành viên lưu ký; thành viên lưu ký tái lưu ký chứng
khoán đó tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán, Trung tâm Lưu ký Chứng khoán”. Như vậy
nếu người đầu tư có nhu cầu rút chứng khoán đã lưu ký thì họ chỉ có thể rút loại chứng
khoán tương tự chứ không thể rút chính seri chứng khoán mà họ đã lưu ký (áp dụng với
chứng khoán vật chất).
3.2 ĐỀ XUẤT CỦA NHÓM VỀ CÁC CHẾ TÀI ÁP DỤNG KHI XỬ LÝ VI PHẠM
PHÁP LUẬT CHỨNG KHOÁN
Thứ nhất: xác định đúng hành vi vi phạm luật chứng khoán
Cần phải căn cứ mức độ vi phạm và đối tượng chịu thiệt hại, về mức độ vi phạm cần xác
định dựa trên nhiều yếu tố nhằm đảm bảo sự chính xác, bao gồm các yếu tố như mức độ lợi
nhuận thu được, mức độ tránh được tổn thất, tình trạng tái phạm nhiều lần (khi vi phạm về
công bố thông tin)…Về đối tượng bị thiệt hại cần xác định thiệt hại xảy ra trên thị trường
chứng khoán quốc gia có thể của một đối tượng (tổ chức, cá nhân) cụ thể nhưng cũng có thể
là thiệt hại cho thị trường nói chung, nhưng cũng có thể là sự thiệt hại ở mức độ lớn hơn là

thiệt hại về tính ổn định thị trường và thiệt hại phi kinh tế khác…nên không coi đối tượng
thiệt hại trực tiếp như một trong các yếu tố xác định hành vi vi phạm. Xác định chính xác
hành vi vi phạm pháp luật chứng khoán là cơ sở quan trọng, quyết định chế tài hợp lý với
từng vi phạm.
Thứ hai: xác định mối liên hệ giữa hính phạt chính và hình phạt bổ sung.
Để đảm bảo tính răn đe, xử lý thích đáng cần nhiều biện pháp khác nhau được tiến hành
với mỗi hành vi vi phạm riêng biệt. Bộ luật hình sự năm 1999 quy định tại Mục b Khoản 1
Điều 28 và Mục đ Khoản 1 Điều 28 có tất cả bảy hình phạt chính trong đó có hình phạt tiền,
hình phạt tù có thời hạn. Nếu tội phạm bị xử phạt theo hình thức tù có thời hạn thì cũng có
thể áp dụng hình phạt bổ sung như phạt tiền khi không áp dụng hình phạt chính (Mục c
Khoản 2 Điều 28). Như vậy để thực hiện pháp luật một cách nghiêm minh cần sự phối hợp
linh hoạt của nhiều hình thức phạt với mỗi loại hành vi vi phạm riêng biệt. Sự phối hợp này
thu được hiệu quả tốt nhằm đảm bảo sự phát triển lành mạnh của thị trường chứng khoán nói
chung và nền kinh tế nói riêng.
Thứ ba: xác định trách nhiệm cá nhân cho người đứng đầu.
Nhằm xử lý nghiêm minh và thích đáng hành vi vi phạm pháp luật chứng khoán cần xác
định trách nhiệm một cách rõ ràng và cụ thể. Không chỉ xử phạt về vật chất với tổ chức có
hành vi vi phạm mà còn cần xử phạt hành chính với người đứng đầu tổ chức. Vì họ là người
có trách nhiệm trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra thiệt hại hoặc hành vi vi phạm.
24


Thứ tư: hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan tới lĩnh vực chứng khoán.
Để tạo ta hành lang pháp lý vững chắc cũng như tạo sự phối hợp nhịp nhàng giữa luật
chứng khoán và ngành luật khác có liên quan cần hoàn thiện ngành luật chứng khoán nói
riêng và các ngành luật khác. Luật pháp chỉ phát huy hiệu quả khi có sự phối hợp đồng bộ và
nhịp nhàng đòi hỏi sự hoàn thiện từ chính bản thân mỗi ngành luật có liên quan như luật dân
sự, luật hình sự,…
Thứ năm: tăng cường công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật chứng khoán.
Việc tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến các kiến thức về thị trường chứng khoán

đặc biệt hệ thống pháp luật về thị trường chứng khoán sẽ giúp cho các chủ thể tham gia hiểu
về thị trường và các quy định trên thị trường chứng khoán để từ đó tuân thủ nghiêm chỉnh,
đúng đắn, tránh vi phạm các quy định đã bị cấm quy định thực hiện. Để đảm bảo trật tự xã
hội, thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật nói chung và pháp luật chứng khoán nói riêng, đưa
pháp luật đến với dân chúng. Có thể liên kết, hợp tác với những tổ chức đào tạo chuyên
nghiệp để phổ biến kiến thức chứng khoán đến các đối tượng khác nhau với phương pháp và
cách thức phù hợp.

25


×