Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Chính sách khuyến khích xuất khẩu của nhật bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.46 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ
-------o0o-------

ĐỀ ÁN MƠN HỌC

CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH XUẤT KHẨU CỦA NHẬT
BẢN GIAI ĐOẠN NĂM 2000-2010

Sinh viên thực hiện

: VÕ TRÍ HIẾU

Mã sinh viên

: CQ511359

Số điện thoại

: 01666137983

Lớp

: QUẢN TRỊ KINH DOANH QUỐC TẾ B

Khóa

: 51

Giảng viên hướng dẫn : TH.S NGUYỄN THU NGÀ


Hà Nội, tháng 06 năm 2012


LỜI MỞ ĐẦU
Kinh tế Nhật Bản lúc đầu cũng chỉ là một nền nông nghiệp chủ yếu dựa vào việc
sản xuất các mặt hàng có hàm lượng lao động cao. Nhật Bản đã phát huy sức mạnh
truyền thống là một nước chuyên chế biến xuất khẩu các sản phẩm bằng ngun liệu
nhập khẩu từ nước ngồi, đã được hình thành từ trước chiến tranh nhằm nhanh chóng
mở rộng sản xuất và tăng cường xuất khẩu. Với hướng đi đó, năm 2002, tốc độ tăng
trưởng GDP của Nhật Bản đã đạt 0,2%, tăng mạnh so với mức tăng của nền kinh tế
sau khủng hoảng kinh tế khu vực năm 1997 (0,3%).
Từ năm 2003, đầu tư ở Nhật Bản bắt đầu chuyển sang xu hướng tích cực, tỷ lệ thất
nghiệp giảm, lịng tin của người tiêu dùng đã phục hồi.Về xuất khẩu, cho dù giá trị
đồng Yên tăng lên nhưng tác động tích cực của sự phục hồi nền kinh tế các nước
Đông Nam A, và kinh tế Hoa kỳ tiếp tục mạnh lên đã thúc đẩy xuất khẩu của Nhật
Bản tăng nhanh kể từ năm 2001 đến 2010
Có thể nói nhân tố chủ yếu quyết định tăng trưởng GDP của Nhật Bản trong năm
2000-2010 là các biện pháp về chính sách tài chính và khuyến khích xuất khẩu. Nhật
Bản tăng cường viện trợ kinh tế cho Đông Nam A và là nước viện trợ chính cho
Indonesia, Malaysia, Philippines và Thái Lan
Nhật Bản đã áp dụng biện pháp khuyến khích và ưu đãi cho các nhà xuất khẩu như
thế nào và hiệu quả của các biện pháp đó ra sao?

NỀN KINH TẾ
Nhật Bản là nước rất nghèo nàn về tài nguyên ngoại trừ gỗ và hải sản, trong khi
dân số thì quá đông, phần lớn nguyên nhiên liệu phải nhập khẩu, kinh tế bị tàn phá
kiệt quệ trong chiến tranh, nhưng với các chính sách phù hợp, kinh tế Nhật Bản đã
nhanh chóng phục hồi (1945-1954) phát triển cao độ (1955-1973) làm thế giới phải
kinh ngạc. Người ta gọi đó là "Thần kì Nhật Bản". Từ 1974 đến 2012 tốc độ phát



triển tuy chậm lại, song Nhật Bản tiếp tục là một nước có nền kinh tế lớn đứng thứ ba
trên thế giới (chỉ đứng sau Hoa Kỳ và Trung Quốc).
Trước đây Nhật Bản ln giành vị trí thứ hai về kinh tế và mới chỉ bị Trung Quốc
vượt qua từ đầu năm 2011, GDP trên đầu người là 36.218 USD (1989). Cán cân
thương mại dư thừa và dự trữ ngoại tệ đứng hàng đầu thế giới, nên nguồn vốn đầu tư
ra nước ngoài rất nhiều, là nước cho vay, viện trợ tái thiết và phát triển lớn nhất thế
giới. Nhật Bản có nhiều tập đồn tài chính, ngân hàng đứng hàng đầu thế giới. Đơn vị
tiền tệ là: đồng Yên Nhật.
Những đối tác xuất khẩu chính của Nhật là Hoa kỳ 22.9%, Trung Quốc 13.4%,
Hàn Quốc 7.8%, Đài Loan 7.3% và Hồng Kơng 6.1% (2005). Những mặt hàng xuất
khẩu chính của Nhật là thiết bị giao thông vận tải, xe cơ giới, hàng điện tử, máy móc
điện tử và hóa chất
Từ giai đoạn 1960 đến 1980, tốc độ phát triển kinh tế Nhật Bản được gọi là "sự
thần kì": tốc độ phát triển kinh tế trung bình 10% giai đoạn 1960, trung bình 5% giai
đoạn 1970 và 4% giai đoạn 1980.
. Tình trạng nợ cơng q lớn (chiếm 170%GDP) và tỉ lệ dân số có tuổi quá cao là hai
vấn đề đầy thách thức với Nhật Bản về dài hạn. Hiện tại những tranh cãi xung quanh
vai trò và hiệu quả của các chính sách vực dậy nền kinh tế là mối quan tâm lớn của
người dân lẫn chính phủ nước này.
KHỦNG HOẢNG KINH TẾ NHẬT BẢN TRƯỚC NĂM 2000
Sau khi Thế chiến thứ 2 chấm dứt, Nhật Bản là nước đầu tiên trên thế giới tạo
được mức tăng trưởng bền vững liên tục (hơn 10%/năm) từ giữa thập niên 1950 cho
tới đầu thập niên 1970. Việc kinh tế Nhật Bản liên tiếp tăng trưởng trong suốt các
thập niên từ 50 đến 80 khiến mọi người kinh ngạc. Các nhà kinh tế đã gọi đây là
“phép lạ Đông Á”, đồng thời họ xem Nhật Bản là một trong những nước thành công
nhất trong lịch sử kinh tế. Vào đầu thập niên 1980, kinh tế Nhật Bản phát triển mạnh
mẽ và giá trị các tài sản như địa ốc, chứng khoán tăng vọt.



Tuy nhiên, tới cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990, giá tất cả tài sản, trong
đó có chứng khoán và địa ốc, bắt đầu tụt giảm và kinh tế nước này khởi sự suy thoái.
Vào năm 1991, giá chứng khốn giảm khoảng 50% và sau đó tiếp tục giảm trong suốt
thập niên 1990 sang tận năm 2000. Giá đất đai cũng giảm nhưng chậm và nhẹ hơn giá
chứng khoán. Tuy nhiên, tới giữa năm 2000, giá đất giảm trong khoảng từ 60 tới 70%
so với lúc cao điểm.Sự giảm giá địa ốc và chứng khoán kéo theo cuộc khủng hoảng
trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
Tới năm 1995, các ngân hàng nhỏ đã phải đóng cửa và tới cuối thập niên 90, Nhật
Bản chìm vào tình trạng suy thối nghiêm trọng, hoạt động xuất khẩu trì trệ, cán cân
thương mại suy giảm. Vào tháng 11/1997, cuộc khủng hoảng lên tới mức cao điểm và
đến lúc này chính phủ Nhật phải ra tay hành động để cứu nguy.
Trong giai đoạn trên, xuất khẩu của EU sang Nhật đã giảm nhẹ, từ 45,5 tỷ euro
(71,9 tỷ USD) xuống 43,7 tỷ euro, và nhập khẩu của EU từ Nhật Bản cũng giảm 15%,
từ 92,1 tỷ euro xuống 77,9 tỷ euro. Thặng dư thương mại của EU với Nhật Bản theo
đó cũng sụt giảm. Tỷ trọng hàng hóa Nhật Bản trong tổng kim ngạch ngoại thương
của EU giảm 1/3.
"Nhật bị tình trạng yếu kém của kinh tế toàn cầu kéo xuống", Kyohei Morita, nhà
kinh tế quản lý của Quỹ Barclays, người từng dự đoán suy thoái sẽ kéo dài tổng cộng
4 quý.
Dù Nhật khơng phải trải qua những bất ổn tài chính với quy mô tương đương của
Mỹ hay châu Âu, nhưng nền kinh tế dựa vào xuất khẩu của nước này vẫn dễ bị ảnh
hưởng bởi sự suy sụp của toàn cầu.
"Kinh tế Nhật dựa vào xuất khẩu. Chừng nào mà xuất khẩu cịn trì trệ do sự suy
yếu của kinh tế tồn cầu thì chúng ta vẫn chưa thể thốt khỏi suy thối", Morita cho
biết.
Các nhà phân tích nhận định, người tiêu dùng Nhật sẽ thắt chặt chi tiêu do kinh tế
gặp khó khăn và các cơng ty sẽ sa thải bớt nhân viên. Ngồi ra, Nhật ít có khả năng


phục hồi sớm. Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế có trụ sở ở Paris

(Pháp), kinh tế Nhật có khả năng suy giảm 0,1% vào năm 2009.
Tóm lại, nền kinh tế Nhật Bản sụt giảm trong giai đoạn 1990-2000 đã để lại hậu
quả khá nghiêm trọng, mà kinh tế Nhật chủ yếu dựa và xuất khẩu, do đó cách duy
nhất thốt khỏi suy thối là Nhật Bản phải nhanh chóng khắc phục tình trạng trì trệ
của xuất khẩu bằng cách đưa ra các chính sách khuyến khích xuất khẩu.

CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH XUẤT KHẨU CỦA NHẬT BẢN
Chính sách thương mại tự do
Thương mại tự do là một trong những động lực to lớn phát triển kinh tế của mỗi
quốc gia và đó đã là một trong những nguyên nhân chính đưa lại sự phát triển "thần
kỳ" cho nền kinh tế Nhật Bản từ nhiều thập niên trước.
Thương mại Nhật Bản giữ vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế. Tỉ trọng
xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ của Nhật Bản tăng tương ứng tới 16% và 11%
năm 2007. Mức tăng trưởng xuất khẩu nhanh hơn so với nhập khẩu phán ánh sự đóng
góp tích cực của nhu cầu bên ngoài đối với tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản, điều
này một phần do cơ chế mở cửa của hệ thống thương mại đa phương. Chính sách
thương mại của Nhật Bản năm 2007 đề xuất một số biện pháp nhằm tự do hóa hơn
nữa cơ chế thương mại và đầu tư của Nhật Bản. Tuy nhiên, từ sau cuộc khủng hoảng
tài chính tồn cầu tháng 9 năm 2008, Nhật Bản không đưa ra những biện pháp thương
mại mới để bảo hộ thị trường nội địa.

Chính sách thuế quan
Năm 2008, tỉ lệ thuế quan trung bình áp dụng Nguyên tắc đãi ngộ tối huệ quốc
(Most Favored Nation - MFN) giảm xuống còn 6,1%. Gần 99% dòng thuế quan có


giới hạn và hầu hết tỉ lệ thuế quan áp dụng nguyên tắc đãi ngộ tối huệ quốc MFN đều
xấp xỉ với tỉ lệ MFN cho phép. Đồng thời, việc không đánh thuế theo giá hàng (non

ad valorem duties) được coi là đặc điểm quan trọng trong chính sách thuế quan của

Nhật Bản, đặc biệt đối với các sản phẩm nông nghiệp
Tỉ lệ thuế quan ưu đãi được áp dụng đối với 141 nước đang phát triển và 14 vùng
lãnh thổ thuộc Hệ thống ưu đãi chung GSP (General System of Preference). Năm
2007 chính phủ Nhật Bản đã mở rộng thêm danh mục các hàng hóa được hưởng mức
trợ cấp ưu đãi tới 49 quốc gia kém phát triển, từ mức 86% tăng lên 98% đối với tất cả
các hạng mục thuế quan. Các quốc gia hưởng lợi nhiều nhất từ GSP Nhật Bản là
Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia, Philippin và Việt Nam.
Tỉ lệ thuế quan trung bình áp dụng đối với các nước trong hệ thống GPS là 4,9%
và đối với các nước đang phát triển là 0,5% . Tỉ lệ thuế quan trung bình trong các
Hiệp định thương mại tự do dao động từ 3,3% (đối với Malaysia) và 3,9% (đối với
Brunei).
Nhật Bản vẫn duy trì ổn định mức kiếm soát xuất khẩu nhằm bảo đảm an ninh
quốc gia và nhu cầu tiêu dùng trong nước một cách thích hợp đối với nơng nghiệp và
hàng hóa tiêu dùng cơ bản khác. Nhật Bản hiện nay cũng đang khuyến khích xuất
khẩu hàng nơng nghiệp, chủ yếu bằng cách cung cấp thơng tin cho người tiêu dùng ở
nước ngồi.
Tăng cường kí kết các hiệp định bn bán khu vực
Nhật Bản bắt đầu điều chỉnh lại chính sách thương mại vào đầu những năm 2000
theo hướng tăng cường ký kết các hiệp định bn bán khu vực. Nhật Bản khơng chỉ
tìm cách ký các Hiệp định thương mại tự do (FTA) thơng thường, địi hỏi phải loại bỏ
các hàng rào thuế quan và phi thuế quan đối với mậu dịch hàng hóa, mà cịn nhấn
mạnh đến sự cần thiết phải đẩy mạnh hợp tác kinh tế toàn diện trong các lĩnh vực như
dịch vụ, di chuyển lao động. Việc ký kết các hiệp định thương mại khu vực được coi
là cách thức tốt nhất để đạt được mục tiêu cuối cùng của Nhật Bản là thiết lập một cơ
cầu phân công lao động quốc tế mới ở Đơng Á, ở đó Nhật Bản chiếm giữ vị trí cao
nhất.


Trong xu thế đó và đặc biệt là do tiến trình quan hệ hợp tác phát triển kinh tế nói
chung, thương mại nói riêng giữa hai nước Việt Nam-Nhật Bản đã và đang ngày càng

mạnh mẽ hơn
Đầu tư, viện trợ ra nước ngoài
Nhật Bản là nước nghèo về nguyên liệu và năng lượng. Trong 8 loại nguyên liệu,
năng lượng quan trọng nhất, quyết định quy mô và tốc độ phát triển của nền kinh tế,
thì Nhật Bản phải nhập khẩu tới 99,7% dầu mỏ, 100% thuỷ ngân và nhôm, 90%
quặng sắt, 86% than, 82% đồng, 62% kẽm, 57% chì. Với việc nhập khẩu này, Nhật
Bản trở thành nước nhập khẩu nguyên liệu lớn nhất thế giới cả về quy mô và cơ cấu,
chủng loại.
Để bảo đảm nguồn cung cấp nguyên vật liệu, năng lượng ổn định, an toàn trong
điều kiện thế giới đầy biến động, các tập đoàn kinh tế lớn của Nhật Bản đã tìm mọi
cách để chi phối và đa dạng hoá các nguồn cung cấp tài nguyên, năng lượng. Thông
qua hoạt động trao đổi thương mại và đầu tư ra nước ngoài của các tập đoàn tài chính
lớn, Nhật Bản đã kiểm sốt được 100% quặng sắt của Malaysia, 80% nguồn cung cấp
gỗ và đồng của Philippines, 50% nguồn dầu thô của Indonesia, 30% cao su của Thái
Lan góp phần ổn định xuất khẩu.
Nhật Bản tăng cường viện trợ kinh tế cho Đông Nam A và là nước viện trợ chính
cho Indonesia, Malaysia, Philippines và Thái Lan vượt xa cả Mỹ. Viện trợ của Nhật
Bản đã tạo thuận lợi cho việc bán các mặt hàng chế tạo của Nhật Bản và thúc đẩy
mạnh việc buôn bán của Nhật Bản với khu vực này.
Hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu
Nhằm đẩy mạnh xuất khẩu được hàng hoá của mình, Nhật Bản đã áp dụng biện
pháp khuyến khích và ưu đãi cho các nhà xuất khẩu như: miễn giảm thế cho các công
ty xuất nhập khẩu; thông qua các ngân hàng phát triển của Nhật Bản và ngân hàng
xuất nhập khẩu, cấp vốn với lãi suất thấp, ưu đãi cho các doanh nghiệp xuất khẩu. đặc
biệt, chính phủ đã thành lập các tổ chức hỗ trợ xuất khẩu trong lĩnh vực thăm dị và
tìm kiếm các thị trường bên ngoài. Tiêu biểu nhất phải kể đến là tổ chức xúc tiến mậu


dịch Nhật Bản (JETRO), thành lập năm 1958 với các hoạt động hỗ trợ xuất khẩu như:
điều tra, theo dõi những thay đổi về chính sách thuế quan, thị hiếu tiêu dùng và tình

hình cạnh tranh của các nước trên thị trường sở tại báo cáo về nước để phục vụ cho
cơng tác hoạch định chính sách song phương và các doanh nghiệp có nhu cầu tìm
hiểu. Hai là, tổ chức xây dựng các phòng giới thiệu sản phẩm, triển lãm hàng của
Nhật Bản ở nước ngoài ...Ba là, Thăm dị và tìm kiến những bạn hàng tương lai của
Nhật Bản để giới thiệu với các đối tác trong nưóc. Ngồi ra, chính phủ Nhật Bản cịn
thành lập ngân hàng xuất khẩu, nay là ngân hàng xuất nhập khẩu (EXIMBANK) để
hỗ trợ tín dụng cho cho những dự án xuất khẩu có kim ngạch lớn như sản xuất, chế
tạo tầu biển, thiết bị, thép...Hàng năm, hội nghị tham vấn cấp cao bàn về xuất khẩu
(gồm đại diện của chính phủ và giới kinh doanh, giới học giả...) được tổ chức bàn về
mục tiêu xuất khẩu cho năm tới và thảo luận các biện pháp hỗ trợ cụ thể.
Nhật Bản còn áp dụng biện pháp khuyến khích xuất khẩu bằng cách đưa ra các
tiêu chuẩn cơng nhận các doanh nghiệp có nhiều cống hiến cho xuất khẩu. Hàng năm
kiểm điểm, đánh giá kết quả xuất khẩu để biểu dương, tặng thưởng bằng biện pháp
cấp tín dụng với lãi suất thấp và miễn giảm thuế đặc biệt cho các doanh nghiệp.
Quảng bá thương hiệu và xúc tiến thương mại
Nhật Bản không chỉ hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu trong việc hỗ trợ giá, các
thủ tục đưa hàng ra nước ngoài mà còn các chiến lược quảng bá thương hiệu sản
phẩm quốc gia tại nước ngoài như tham gia các hoạt động văn hóa xã hội tại các nước
EU, tổ chức các cuộc triển lãm lớn như triển lãm robot tokyo Nhật Bản 2007. Các hội
trợ triển lãm của Nhật Bản thu hút sự tham gia của nhiều nước trên thế giới trong đó
có các đối tác xuất khẩu chính của Nhật Bản như Mỹ hay Eu… Đây không chỉ là biện
pháp xúc tiến thương mại mà còn là biện pháp quảng bá sản phẩm quốc gia với các
nước tham gia.

Chính sách kiểm tra chất lượng khắt khe
Nhật Bản có một chính sách kiểm tra chất lượng hàng xuất khẩu rất khắt khe nhằm
không cho hàng kém phẩm chất lọt ra thị trường bên ngồi để giữ uy tín. Chính việc
kiểm tra chặt chẽ chất lượng hàng xuất khaủa của Nhật Bản



đã làm cho những nhà nhập khẩu tin tưởng vào hàng của Nhật và góp phần thúc đẩy
việc tăng xuất khẩu của nước này.

KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Kết quả chung và những thay đổi tích cực
Từ năm 2003 cho dù giá trị đồng Yên tăng lên nhưng tác động tích cực của sự
phục hồi nền kinh tế các nước Đông Nam A, và kinh tế Hoa kỳ tiếp tục mạnh lên đã
thúc đẩy xuất khẩu của Nhật Bản tăng nhanh kể từ năm 2001 đến 2003. Có thể nói
nhân tố chủ yếu quyết định tăng trưởng GDP của Nhật Bản trong năm 2000-2003 là
các biện pháp về chính sách tài chính và khuyến khích xuất khẩu
Năm 2008. dự trữ ngoại hối của Nhật Bản tăng lên 997 tỉ đôla (so với mức 879 tỉ
đôla năm 2006), tương đương với 21 tháng nhập khẩu của Nhật Bản.
Kim ngạch xuất khẩu của Nhật tăng chủ yếu nhờ sự gia tăng nhu cầu ở các nền
kinh tế đang phát triển ở Châu Á, cho dù nền kinh tế lớn thứ hai thế giới này đang
phải chống chọi với giảm phát và sự suy giảm nhu cầu trong nước
Năm 2008 xuất khẩu của Nhật Bản đã tăng 7 năm liên tục và đạt ở mức cao 775,9
Tỷ USD, . Tuy thế, năm 2009 xuất khẩu của nước này lại giảm mạnh xuống còn 580,9
tỷ USD ( giảm 25,1% so với năm trước), phản ánh tác động từ suy thoái kinh tế tiếp
theo sự khủng hoảng kinh tế và tài chính tồn cầu.
Tương tự , năm 2008 nhập khẩu của Nhật Bản tăng 6 năm liên tục và đạt ở mức cao
756,1 tỷ USD nhưng giảm mạnh còn 551 tỷ USD vào năm 2009 (giảm 27,1% so với
năm trước), nguyên nhân do sự giảm giá nguyên liệu sau sự tăng cao cảu năm trước và
sự suy thoái kinh tế ở Nhật Bản.
Điều này dẫn đến thặng dư thương mại của Nhật Bản tăng lên đáng kể ( 50,9%), từ
19,8 tỷ USD năm 2008 lên 29,9 tỷ USD năm 2009.
Theo báo cáo của Bộ Thương mại Nhật Bản, trong năm 2010, thặng dư thương mại
của nước này đạt 6.770 tỷ Yên (tương đương 82 tỷ USD), tăng tới 153,4% so với năm
2009.
Trong đó, xuất khẩu tăng 24,4% lên 67.410 tỷ Yên, nhập khẩu tăng 17,7% lên
60.640 tỷ Yên



Thặng dư thương mại của Nhật Bản trong năm 2010 tăng cao là nhờ xuất khẩu sang
các nền kinh tế mới nổi ở châu Á, như Trung Quốc, đạt mức kỷ lục. Các số liệu này

cho thấy dấu hiệu nền kinh tế Nhật Bản sẽ mở rộng trong năm 2011, đồng thời tăng
trưởng nhanh hơn Mỹ và Trung Quốc trong lĩnh vực xuất khẩu.
Thay đổi trong Xuất Nhập khẩu của Nhật Bản ( USD)
Năm

Xuất khẩu Nhập khẩu Thay đổi theo năm
(USD)

(USD)

Cán cân

Thay đổi

thương mại

theo năm

Xuất khẩu Nhập khẩu (USD)
(%)

(%)

(%)


2000

480,7

381,1

-

-

99,6

-

2001

405,2

351,1

-15,7%

-7,9%

54,1

-45,7%

2002


415,9

336,8

2,6%

-4,1%

79,0

46,2%

2003

469,9

381,5

13,0%

13,3%

88,3

11,8%

2004

565,0


454,7

20,3%

19,2%

110,4

24,9%

2005

598,2

518,6

5,9%

14,2%

79,6

-27,9%

2006

647,3

579,3


8,2%

11,7%

68,0

-14,6%

2007

712,7

621,1

10,1

7,2%

91,7

34,8%

2008

775,9

756,1

8,9%


21,7%

19,8

-78,4%

2009

580,9

551,0

-25,1%

-27,1%

29,9

50,9%

(Nguồn: Tổng hợp dựa trên số liệu thống kê “Thương mại quốc tế của Nhật Bản”
trên Website của JETRO - Cục XTTM Nhật Bản tháng 4/2010)


Thay đổi trong Xuất Nhập khẩu của Nhật Bản theo chủng loại hàng hóa (USD)
Hàng
hóa

2004


2005

2006

2007

2008

2009

(Triệu
USD)

(Triệu
USD)

(Triệu
USD)

(Triệu
USD)

(Triệu
USD)

(Triệu USD)

2,617

2,894


3,078

3,548

3,877

3,932

1,4 %

0,7%

Hóa chất 48,245

53,273

58,445

65,749

69,486

61,904

-10,9%

10,7%

Kim loại 6,263

màu

6,947

7,406

8,037

8,691

7,739

-11,0%

1,3%

Kim loại 37,513
chế tạo

43,493

49,762

57,023

68,559

50,686

-26,1%


8,7%

Máy móc 403,629
& thiết bị

416,308

444,657

484,584

516061

367,048

-28,9%

63,2%

-Máy
móc

116,453

121,776

127,344

141,167


152,721

103,733

-32,1%

17,9%

-Máy
132,708
móc điện
tử

132,459

138,262

143,952

147,170

115,379

-21,6%

19,9%

-Thiết bị 130,360
vận tải


138,524

156,898

177,030

192,195

127,139

-33,8%

21,9%

-Thiết bị 24,108
chính
xác

23,549

22,153

22,435

23,975

20,979

-13,3%


3,6%

Các loại 66,773
khác

75,301

83,942

93,794

109,244

89,602

-18.0%

15,4%

Cộng:

598,215

647,290

712,735

775,918


580,911

-25,1%

100%

Thay đổi Tỷ trọng
theo
năm

Xuất
khẩu:
Thực
phẩm

565,039


(Nguồn: Tổng hợp dựa trên số liệu thống kê “Thương mại quốc tế của Nhật Bản theo chủng
loại hàng hóa” trên Website của JETRO - Cục XTTM Nhật Bản tháng 4/2010).

KẾT QUẢ VỚI CÁC ĐỐI TÁC
Nhìn vào số liệu nhập khẩu theo nước và khu vực nhập khẩu thì khu vực Đông Á
bao gồm Trung Quốc, Asia NIEs - Các nước công nghiệp mới ở Châu Á (Hàn Quốc,
Hồng Kông, Đài Loan, Singapore) và các nước ASEAN chiếm tỷ trọng lớn nhất,
khoảng 40% tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2009 của Nhật Bản, tiếp đó là Trung
Đơng (tỷ trọng 16,8%) , Bắc Mỹ ( 12,4%) và Châu Âu (12,3%).
Kết quả với đối tác Mỹ
Năm 2008 kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Mỹ tăng 24,2% lên 710,4 tỷ yen,
lần tăng đầu tiên trong 29 tháng, trong đó xuất khẩu ơtơ tăng hơn hai lần. Do đó,

thặng dư thương mại với Mỹ cũng tăng 78,7% lên 237,1 tỷ yen.
Kết quả với đối tác EU
Riêng trong năm 2007, Nhật Bản chiếm khoảng 4% và 6% hàng nhập khẩu và
xuất khẩu của EU và là đối tác thương mại quan trọng thứ 5 của EU. Trong khối EU
27 thành viên, Đức là nước xuất khẩu nhiều nhất sang Nhật Bản trong năm 2007,
chiếm 13 tỷ euro (30% tổng kim ngạch xuất khẩu của EU sang Nhật Bản). Tiếp đến
là Pháp với 5,8 tỷ euro (13%). Đức đồng thời cũng là nhà nhập khẩu hàng Nhật lớn
nhất, với 18,2 tỷ euro (23% kim ngạch nhập khẩu của EU từ Nhật Bản).
Hơn 1/3 hàng xuất khẩu của EU sang Nhật trong năm 2007 là máy móc, xe cộ và
1/4 là các mặt hàng cơng nghiệp khác. EU nhập từ Nhật chủ yếu là xe hơi, phụ tùng
xe hơi, máy in và máy ảnh kỹ thuật số.

Kết quả với đối tác Trung Quốc
Trung Quốc đã vượt Mỹ để trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Nhật Bản
trong năm 2009 với kim ngạch xuất khẩu đạt 920 tỷ yen, tăng 79,9% nhờ nhu cầu cao


đối với các sản phẩm như chất bán dẫn, linh kiện, ôtô và chất dẻo. Theo nhà kinh tế
hàng đầu của Viện Nghiên cứu Norinchukin, Takeshi Mianmi, Nhật Bản cần lưu tâm

đến sự phát triển của Trung Quốc do sự thắt chặt tín dụng của nước này khiến nền
kinh tế phát triển chậm lại và giảm nhập khẩu từ Nhật Bản.
Thương mại quốc tế của Nhật Bản theo khu vực ( USD)
Xuất khẩu

Nhập khẩu

2007

2008


2009

2007

2008

2009

(Triệu
USD)

Thay đổi Tỷ trọng
theo năm
(%)
(%)

(Triệu
USD)

(Triệu
USD)

Thay đổi
theo năm

(Triệu
USD)

(Triệu

USD)

(Triệu
USD)

(%)

Tỷ trọng
(%)

Tổng tồn
cầu

712,735 775,918

580,911

-25,1%

100,0%

621,084

756,068

550,981

-27,1%

100,0%


Bắc Mỹ

153,093 146,891

101,519

-30,9%

17,5%

80,857

89,780

68,133

-24,1%

12.4%

U.S.A

143,383 136,200

93,771

-31,2%

16,1%


70,836

77,018

58,963

-23,4%

10,7%

Châu Âu

112,492 118,411

81,467

-31,2%

14,0%

72,510

79,053

67,648

-14,4%

12,3%


EU27 *1

105,270 109,383

72,380

-33,8%

12,5%

65,009

69,915

59,085

-15,5%

10,7%

Đơng Á

327,727 363,134

298,647

-17,8%

51,4%


253,976

286,898

230,801

-19,6%

41,9%

Asia NIEs
*2

159,581 171,106

136,291

-20,3%

23,5%

55,541

60,259

47,525

-21,%1


8,6%

52,689

-22,5%

9,1%

70,791

84,302

60,760

-27,9%

11,0%

Trung Quốc 109,060 124,035

109,666

-11,6%

18,9%

127,644

142,337


122,516

-13,9%

22,2%

Đài Loan

44,780

45,708

36,446

-20,3%

6,3%

19,809

21,637

18,333

-15,3%

3,3%

Hàn Quốc


54,119

58,985

47,275

-19,9%

8,1%

27,252

29,248

21,987

-24,8%

4,0%

Châu Đại
Dương

17,891

21,069

15,130

-28,2%


2,6%

35,529

51,658

37,858

-26,7%

6,9%

Trung &
Nam Mỹ

35,063

40,684

32,997

-18,9%

5,7%

24,117

27,448


19,623

-28,5%

3,6%

Nga và các 12,482
nước S.N.G

19,139

4,135

-78,4%

0,7%

11,514

14,743

9,654

-34,5%

1,8%

Trung Đông 26,184

33,722


21,661

-35,8%

3,7%

113,824

165,445

92,828

-43,9%

16,8%

Châu Phi

13,344

9,499

-28,8%

1,6%

14,770

20,768


9,098

-56,2%

1,7%

ASEAN 4 *359,085

11,602

67,993

Chú thích *1: Đức, Pháp, Anh, Ý, Đan Mạch, Ireland, Hà Lan, Bỉ, Luxembourg, Tây ban Nha, Thổ Nhĩ Kỹ, Hy lạp, Úc,
Thuỵ Điển, Ba Lan, Cộng Hòa Séc, Slovakia, Hungải, Esitonia, Latvia, Lithuania, Slovenia, Cyprus, Malta, Rumani, Bulgari


*2: Các nước công nghiệp mới ở Châu Á (Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Singapore)
*3: Thái Lan, Malaysia, Philippines và Indonexia
(Nguồn: Tổng hợp dựa trên số liệu thống kê “Thương mại quốc tế của Nhật Bản theo khu vực” trên Website của JETRO Cục XTTM Nhật Bản tháng 4/2010)

KẾT LUẬN
Từ những phân tích và các kết quả thu được ta có thể giải thích cho sự phát triển
cao trong xuất khẩu của Nhật Bản có sự đóng góp một tỷ lệ lớn là các chính sách
đúng đắn của chính phủ Nhật Bản trong khuyến khích xuất khẩu.
Các chính sách khuyến khích xuất khẩu của Nhật Bản nhìn chúng đem lại hiệu quả
tích cực cho xuất khẩu của Nhật Bản, góp phần cải thiện tình hình kinh tế đang trì trệ
của Nhật Bản, nâng cao thặng dư cán cân thương mại.
Tuy nhiên Nhật Bản vẫn đang gặp phải những khó khăn như trong thương mại Nhật
bản bị kêu ca vì thực hiện các chính sách thuế quan nhằm hạn chế và bảo hộ trong

nước làm giảm sức mua của người Nhật Bản, giảm hàng nhập khẩu và tăng hàng xuất
khẩu
Bài học cho Việt Nam
Qua nghiên cứu sự thành công cũng như chính sách mà Nhật Bản áp dụng trong xuất
khẩu ta có thể rút ra một số gợi ý cho Việt Nam trong việc lựa chọn chính sách xuất
khẩu như sau:
Để nâng cao sức cạnh tranh của hàng Việt Nam thì cần nâng cao sức
cạnh tranh về giá và chất lượng. Duy trì mức tỷ giá thấp tuy nhiên cần áp dụng nó
cũng với một chiến lược thúc đẩy xuất khẩu tổng thể như các chính sách thuế, trợ cấp,
xúc tiến thương mại, hệ thống thông tin hỗ trợ, tư vấn thương mại
Điều quan trọng nhất trong hoạch định chính sách về xuất khẩu của Việt Nam
trong điều kiện hiện nay là cơ cấu và chiến lược thâm nhập. Ngoài ra chúng ta cũng
có thể học hỏi các chính sách về thuế và các ưu đãi xuất khẩu khác.


Trong thương mại với thị trường Mỹ hay EU thì cần nâng cao năng lực pháp lý của
các công ty xuất khẩu, năng lực dự báo, cảnh báo của các cơ quan chuyên trách về
thương mại nhằm hạn chế các ảnh hưởng bất lợi của hệ thống các rào cản thương mại
và hàng rào kỹ thuật.

Thường xuyên tham gia và tổ chức các hộ trợ triển lãm nhằm giới thiệu và quảng
bá cho hàng hóa Việt Nam.
Cần có chiến lược chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu một cách hợp lý, theo hướng
tăng thêm các hàng hóa có hàm lượng kỹ thuật và mức thặng dư cao
Tự do hoá thương mại là việc cần phải làm đối với tất cả các nước trong điều kiện
hội nhập kinh tế. Tuy nhiên, tự do hoá thương mại cần phải được thực hiện theo
những bước đi phù hợp. Nếu không chú trọng đến trình tự tự do hố, Việt Nam có thể
phải gánh chịu những bài học đắt giá. Việc xác định lộ trình tự do hố thương mại
cần dựa vào đặc điểm, điều kiện và nội lực trong nước.



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. />2. />%20t%E1%BA%BF%20Nh%E1%BA%ADt%20B%E1%BA%A3n.html
3. />4.
5.



×