Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

THỰC TRẠNG lạm PHÁT của VIỆT NAM từ năm 2008 đến NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (288.98 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA KẾ TOÁN-KIỂM TOÁN
LỚP 111_T08

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KINH TẾ
THỰC TRẠNG LẠM PHÁT TỪ NĂM 2008 ĐẾN NAY

NHÓM 9
Trần Thị Ngọc Bích
Nguyễn Thành Đạt
Nguyễn Văn Đô
Nguyễn Thị Mỹ Hường
Nguyễn Thị Hồng Nhung
Lê Thị Thu Thảo
GVHD: Trần Mạnh Kiên

1. MỞ ĐẦU
Việt nam đang trên tiến trình hội nhập kinh tế để phát triển, chúng ta cũng
giống như phần lớn các quốc gia trong giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi từ


mô hình kinh tế chỉ huy sang mô hình kinh tế thị trường đều trải qua lạm phát
cao. Lạm phát là một hiện tượng kinh tế vĩ mô phổ biến và có ảnh hưởng rộng
lớn đến các mặt của đời sống hiện đại. James Tobin là một nhà kinh tế học người
Hoa Kỳ theo trường phái kinh tế học Keynes đã từng được trao giải nobel kinh tế
năm 1981, ông đưa ra quan điểm: khi tỷ lệ lạm phát mang giá trị dương vừa phải
sẽ có lợi cho nền kinh tế và thuật ngữ “dầu bôi trơn” được ông dùng để miêu tả
những tác động tích cực của lạm phát.
Theo James Tobin mức lạm phát vừa phải làm cho chi phí thực tế mà nhà
sản xuất phải chịu để mua đầu vào sản xuất giảm đi, điều này sẽ khuyến khích họ
đầu tư mở rộng sản xuất, việc làm cũng được tạo thêm góp phần vào tăng trưởng


của đất nước đồng thời hạn chế được thất nghiệp. theo kinh tế học hiện đại khi tỷ
lệ lạm phát xảy ra ở mức cao ( trên 9%) sẽ làm ảnh hưởng tiêu cực đến toàn nền
kinh tế. Những tác động chủ yếu bao gồm: giá cả tăng mạnh sẽ làm tăng chi phí
sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp ở cả
hai thị trường trong và ngoài nước (mức độ tùy thuộc vào độ mở của nền kinh tế,
càng nghiêm trọng khi độ mở càng lớn và ngược lại) dẫn tới giảm khả năng cạnh
tranh của toàn nền kinh tế.
Lạm phát cao làm giảm giá trị đồng tiền trong nước. Khi các mức giá cả
trong tương lai khó dự đoán hơn thì các kế hoạch chi tiêu và tiết kiệm hợp lý sẽ
trở nên khó thực hiện hơn. Người dân ngày càng lo ngại về việc sức mua trong
tương lai của họ giảm xuống và mức sống của họ cũng vì vậy mà kém đi ngay từ
hiện tại. Lạm phát cao khuyến khích các hoạt động đầu tư mang tính đầu cơ trục
lợi hơn là vào các hoạt động sản xuất khiến kinh tế tăng trưởng chậm lại, thất
nghiệp tăng, phúc lợi xã hội vì thế sẽ giảm.
Chúng ta biết rằng mức lạm phát cao sẽ ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế,
tăng trưởng và lạm phát là hai chỉ số vĩ mô cơ bản của mỗi nền kinh tế nhưng
chúng lại biến thiên theo xu hướng ngược chiều nhau khiến các chính phủ
thường phải đánh đổi một trong hai hoặc cân bằng hài hòa giữa chúng mỗi khi
đưa ra các chính sách phát triển kinh tế. Lạm phát có nhiều nguyên nhân, để
kiểm soát tình trạng lạm phát trước hết chúng ta phải hiểu rõ về nguyên nhân của
lạm phát. Từ đó phân tích nguyên nhân nào là nguyên nhân chính yếu để giúp
chính phủ đưa ra những chính sách phát triển kinh tế phù hập và đây cũng là mục
đích bài tiểu luận của nhóm chúng tôi.


2. THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN LẠM PHÁT
2.1. Khái niệm lạm phát
Lạm phát dùng để chỉ sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung hầu
hết các hàng hóa, dịch vụ so với thời điểm một năm trước đó trong một thời gian
nhất định. Tức là khi giá trị của hàng hóa dịch vụ tăng lên đồng nghĩa với sức

mua của đồng tiền giảm đi cùng với một số tiền nhất định. Có thể nói lạm phát là
sự tăng lên liên tục của mức giá.
Nói một cách cụ thể hơn, lạm phát là hiện tượng giảm mãi lực của đồng
tiền. Điều này cũng đồng nghĩa với “vật giá leo thang”, giá cả hàng hóa, dịch vụ
tăng cao khiến với cùng một số lượng tiền, người tiêu thụ mua được ít hàng hóa
hơn hoặc phải trả một giá cao hơn để hưởng cùng một dịch vụ.
2.1.1. Các chỉ số đo lường lạm phát:
Mức giá chung của nền kinh tế được nhìn nhận theo 2 cách. Chúng ta coi
mức giá là giá của một giỏ hàng hóa và dịch vụ. Khi mức giá tăng mọi người
phải trả nhiều tiền hơn cho những hàng hóa dịch vụ mà họ mua. Chúng ta có thể
coi mức giá cũng như là giá trị của tiền. Sự gia tăng mức giá có nghĩa là giá trị
của tiền giảm bởi vì mỗi đồng tiền bỏ ra lúc này mua được ít hàng hóa hơn trước.
Mức giá chung được tính bằng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) hoặc chỉ số điều
chỉnh (GDP). Chỉ số giá bao gồm một số loại như sau:
• Chỉ số giá bán lẻ - CPI – Consumer Price Index
• Chỉ số giảm phát GDP (GDP Deflator)
• Chỉ số giá bán buôn – WPI - Wholesale Price Index
• Chỉ số giá sản xuất – PPI – Producer Price Index,...
2.1.2. Phân loại lạm phát:
• Dựa vào định lượng:
Lạm phát vừa phải: lạm phát dưới 2 chữ số
Lạm phát phi mã: lạm phát từ 2-3 con số
Siêu lạm phát: trên 3 chữ số
Thực tế, lạm phát nước ta là lạm phát phi mã.
• Dựa vào định tính
Lạm phát thuần tuý: giá hàng hoá sản xuất và hàng tiêu dùng tăng cùng tỉ
lệ trong một đơn vị thời gian.


Lạm phát cân bằng và không cân bằng: lạm phát tưng cùng tỉ lệ với thu

nhập.
Lạm phát dự đoán trước được và lạm phát bất thường.
2.1.3. Nguyên nhân của lạm phát:
Có ba nguyên nhân chính gây ra lạm phát:
• Lạm phát do cầu kéo.
• Lạm phát do chi phí đẩy.
• Lạm phát do quán tính.
2.2. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam qua các giai đoạn:
2.2.1. Lạm phát qua các giai đoạn:
• Giai đoạn 2007-2008:
Năm 2007: Theo Tổng cục Thống kê, giá tiêu dùng tháng 12/2007 tăng tới
2,91%, không những cao nhất so với các tháng trong năm (kể cả tháng 2 là tháng
có Tết Nguyên đán cũng chỉ tăng 2,17%).
Lạm phát của Việt Nam tăng cao ở mức hai con số 12,63, giá tiêu dùng
tăng 12,63%, cao nhất trong 11 năm qua; tốc độ tăng trưởng 8,5% nhờ có nguồn
vốn đầu tư nước ngoài khá lớn đã chảy vào nước ta. Theo các số liệu đưa ra
trong báo cáo, các dòng vốn FDI đổ vào Việt Nam trong năm 2007 có thể đạt 5,7
tỷ USD (8,1% GDP), còn các dòng vốn khác có thể đạt khoảng 8,9 tỷ USD
(12,7% GDP). Cùng với đó, tăng trưởng tín dụng trong năm 2007 đạt mức 54%,
thị trường chứng khoán cũng phát triển bùng nổ... Ở các nước châu Á khác, giá
lương thực - thực phẩm tăng cao là nguyên nhân chính gây lạm phát, nhưng ở
Việt Nam, giá cả các mặt hàng phi lương thực cũng tăng tới trên 10% so với
cùng kỳ năm ngoái do tăng trưởng kinh tế cao, nhu cầu cao và thanh khoản dồi
dào. Tình hình lạm phát ở Việt Nam hiện nay được coi là một ví dụ về “cú sốc”
lạm phát. Một số ví dụ khác bao gồm Trung Quốc hồi mùa xuân năm 2004 và
mùa thu năm 2007, Ấn Độ đầu 2008, Indonesia mùa hè 2005… Đi đôi với sự
tăng trưởng kinh tế nhanh chóng như thế khiến nước ta khó tránh khỏi lạm phát
cũng leo thang. Cán cân thương mại năm 2007 thâm hụt lớn, nhập khẩu 62,7 tỷ
USD tăng +39.6% so với năm 2006, xuất khẩu 48.6 tỷ USD tăng 21,9%, nhập
siêu 14,1 tỷ USD (năm 2006 nhập siêu 5 tỷ USD), nhập siêu chiếm tỷ lệ rất đáng

lo ngại 19,8%GDP (lưu ý việc nhập siêu tăng nhanh có yếu tố giá cả thế giới:
xăng dầu, sắt thép, sợi bông, chất dẻo.. tăng cao do đồng USD yếu), cán cân
vãng lai thâm hụt ở tỷ lệ cao trên 6% GDP ở mức đáng lo ngại…
Năm 2008: Khép lại với mức lạm phát những 2 con số 19,89% với mức
lạm phát gia tăng không ngừng trong 8 tháng đầu năm (đỉnh điểm là vào tháng 2,
tháng 5 và tháng 8) do hệ quả của năm 2007 và chủ yếu còn do tác động trực tiếp


từ giá LTTP, giá VLXD, giá dầu tăng và kết thúc với sự giảm phát trong những
tháng cuối năm vì các kinh tế không còn chịu tác động của giá các mặt hàng trên
cùng với tâm lý chờ giá xuống đã thắng tâm lý cầm cự của các nhà DN. Chỉ số
giá tháng 9 tăng 0,18%, tháng 10 giảm 0,19%; chỉ số giá tháng 10 so với tháng
12/2007 tăng 21,69%, tháng 11 này âm, tháng 12 đề phòng giáp tết nhu cầu tiêu
thụ tăng làm giá hàng hoá có thể lên chút ít thì con số chắc vào khoảng 22%. Ba
tháng cuối năm là thời gian khủng hoảng kinh tế bộc lộ rõ ràng và lan rộng.
Chỉ số tăng trưởng GDP hiện nay giảm xuống rất thấp và lạm phát ở mức
rất cao (trên 20%). Chỉ số tăng trưởng GDP năm 2008 rất thấp, chỉ còn 6,7%
mặc dù tốc độ tăng trưởng của Việt Nam năm 2007 cao nhất trong 10 năm qua.
Mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2008 do Quốc hội đề ra từ kỳ họp cuối năm
trước là 8,5- 9%, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo phấn đấu đạt trên 9%. Tuy nhiên,
tăng trưởng kinh tế quý 1/2008 đã chậm lại so với tốc độ của quý 1/2007.
Lạm phát vượt qua mức tối đa cho phép 9% và lạm phát năm 2008 tình
đến nay là 22,3%. Lạm phát năm 2007 đã ở mức hai chữ số (12,63%), 3 tháng
2008 tiếp tục lồng lên đến mức 9,19%, cao gấp ba lần cùng kỳ và bằng gần ba
phần tư mức cả năm 2007, đã vượt qua mức theo mục tiêu đã đề ra cho cả năm
2008; nhập siêu gia tăng cả về kim ngạch tuyệt đối (3.366 triệu USD so với
1.933 triệu USD), cả về tỷ lệ nhập siêu so với xuất khẩu (56,5% so với 18,2%)...

HÌNH 1: Tốc độ tăng lạm phát ở Việt Nam vào năm 2007 và 2008 (từ
tháng 1 năm 2007 đến tháng 10 năm 2008)



Nhận xét: Nhìn đồ thị ta thấy giai đoạn 2007-2008, chỉ số giỏ thực phẩm
tăng cao và tăng mạnh vào những thỏng 1-2/07 và 1-2/08 và cao nhất khoảng 56/08. Qua đây cho ta thấy giỏ thực phẩm tăng mạnh vào những thỏng gần tết khi
nhu cầu về hàng hoá gia tăng. Mặt hàng phi thực phẩm cú chỉ số giỏ thấp hơn
thực phẩm và chỉ tăng vào 8-9/08.


Nguyên nhân cơ bản:
- Sự biến động thị giá cả trên thị trường thế giới tác động đến giá cả của
thị trường trong nước, đặc biệt là các mặt hàng: dàu mỏ, lương thực,
thực phẩm, các nguyên liệu trong sản xuất công nghiệp. Sự tăng giá các
mặt hàng trong nước đã góp phần làm lạm phát bùng phát.
- Cung tiền quá mức: 11/2007 Việt Nam chính thức là thành viên của tổ
chức thương mại thế giới WTO đã tạo ra nhiều cơ hội và thách thức
mới. Nguồn vốn từ nước ngoài đổ vào Việt Nam tăng lên nhanh
chóng.Cụ thể: năm 2007, vốn đầu tư trực tiếp FDI giải ngân lên 8 tỉ
USD, năm 2008 lên tới 11,7 tỉ USD chiếm 1/3 lượng vốn đầu tư trong
nền kinh tế. Dòng vốn đàu tư gián tiếp FPI cũng tăng mạnh, năm 2007
ước tính có trên 7 tỉ USD từ dòng vốn FPI đổ vào Việt Nam. Vốn viện
trợ phát triển ODA hằng năm Việt Nam nhận được 2 tỉ USD ( nhưng
năm 2007:2 tỉ USD, năm 2008: 2,2 tỉ USD. Kiều hối chuyển về Việt
Nam hằng năm từ 5-7 tỉ USD. Mặc dù Việt Nam luôn bị thâm hụt
thương mại cao nhưng khoản thâm hụt này ít hơn so với dòng tiền
chuyển vào Việt Nam dẫn đến cán cân tài khoản vãng lai vẫn thặng
dư.Dự trữ ngoại tệ ngân hàng thương mại liên tục tăng cao ( năm 2006:
tăng 4,6 tỉ USD, năm 2007: tăng 10 tỉ USD, năm 2008: tăng 2,4 tỉ
USD).Gây những biến động về lãi suất (lãi suất huy động liên tục tăng
cao trong cuộc chạy đua về lãi suất) và tỉ giá (diễn biến phức tạp). Dự
trữ ngoại tệ của ngân hàng nhà nước tăng đồng nghĩa với một lượng tiền

tương ứng VND được bơm vào nền kinh tế. Mặt khác, ngân hàng nhà
nước không thực hiện các biện pháp kiểm soát lượng tiền bơm vào nền
kinh tế dẫn đến tiền trong nền kinh tế cứ tăng lên. Ngoài ra, năm 2006
và năm 2007, hệ thống các ngân hàng phát triển mạnh mẽ tăng trưởng
tín dụng đạt 49.1% năm 2007 và 50.18% năm 2008. Như vậy, tăng
trưởng tín dụng cao và dùng tiền mua ngoại tệ của ngân hàng nhà nước
đã làm cho cung tiền tăng mạnh  Lạm phát.
- Sự thiếu hiệu quả đầu tư (Nước ta chỉ số ICOR cao, lớn hơn 40%, gấp 5
lần các nước Đông Á và các quốc gia có cùng trình độ phát triển) 
Thâm hụt ngân sách cao thường xuyên.
- Sử dụng không hiệu quả chính sách tiền tệ: đầu năm 2008, nhà nước
thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ thông qua tăng lãi suất gây ra tình
trạng kinh tế bị suy thoái.
- Thị trường chứng khoán, bất động sản bất ổn, tỉ giá diễn biến phức tạp
gây ra tâm lí bất ổn các nhà đầu tư và người dân: dẫn đến các hiện


tượng như đầu cơ tích trữ hay rút vốn đầu tư đối với các nhà đầu tư
nước ngoài.


• Giai đoạn 2009-2010:
Năm 2009: Kinh tế Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng 5,32%, vượt mục
tiêu đề ra và đứng vào hàng các nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao của khu
vực và trên thế giới. Sản xuất công nghiệp thoát khỏi tình trạng trì trệ những
tháng đầu năm và cả năm đã tăng 7,6%. Sản xuất nông nghiệp được mùa với sản
lượng lúa cả năm đạt 38,9 triệu tấn, tăng 165.700 tấn so với năm 2008. Cân đối
kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định.
Mặc dù nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài giảm sút, nhưng đầu tư trong nước
đã được khơi thông nên tính chung vốn đầu tư phát triển cả năm đạt 7042000 tỷ

đồng, tăng 15,3% so với năm 2008. Thu ngân sách đạt dự toán cả năm và bội chi
ngân sách bảo đảm được mức Quốc hội đề ra là không vượt quá 7% GDP. Lạm
phát được kiềm chế, chỉ số tăng giá tiêu dùng tháng 12 năm 2009 so với tháng 12
năm 2008 tăng 6,52%, thấp hơn mục tiêu 7% Quốc hội thông qua; chỉ số giá
bình quân năm 2009 là 6,88%, thấp nhất trong 6 năm gần đây.
Với CPI bình quân cả năm đứng ở mức 1 con số (6,88%), năm 2009, kiểm
soát lạm phát được coi là thành công lớn của Việt Nam. Thành công đó càng ấn
tượng hơn khi đồng hành với tốc độ tăng trưởng GDP 5,3% và thất nghiệp không
ở mức nguy hiểm như dự đoán.
Khủng hoảng tài chính của một số nền kinh tế lớn trong năm 2008 đã đẩy
kinh tế thế giới vào tình trạng suy thoái, làm thu hẹp đáng kể thị trường xuất
khẩu, thị trường vốn, thị trường lao động và tác động tiêu cực tới nhiều lĩnh vực
kinh tế xã hội của nước ta. Nhìn một cách khách quan có thể thấy, lạm phát cao
năm 2008, cùng với sự đảo chiều của vốn đầu tư nước ngoài và thâm hụt cán cân
thương mại đã tác đông đến tâm lí các nhà đầu tư trên thị trường ngoại hối, gây
những biến động khó lường đến tỷ giá. Do thực hiện tôt các chính sách tiền tệ
bằng biện pháp hỗ trợ lãi suất đã tác động tích cực hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi
sản xuất, làm khởi sắc thị trường chứng khoán, bất động sản và thị trường tín
dụng. Thị trường tiền tệ từng bước được ổn định tuy nhiên 6 tháng đầu năm 2009
thị trường ngoại hối có những diễn biến không thuận lợi. Các biện pháp chấn
chỉnh hoạt động ngoại hối được tăng cường. Cuối năm, thâm hụt cán cân thương
mại gia tăng thêm vào đó thâm hụt ngân sách tăng cao, năm 2009 thâm hụt ngân
sách ở mức 6,5%.Tỷ giá biến đổi bất lợi.
Năm 2010: chỉ số giá tiêu dùng tăng 11,75% so với tháng 12/2009, vượt
xa chỉ tiêu lạm phát Quốc hội thông qua đầu năm là không quá 7% trong khi
mục tiêu Chính phủ điều chỉnh là không quá 8%.
Theo tài liệu họp báo của Chính phủ ngày 02/7/2010, trong 6 tháng đầu


năm 2010, tình hình phát triển kinh tế - xã hội đất nước đã đạt được kết quả khá

toàn diện, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế được lạm phát, nền kinh tế
tiếp tục phục hồi khá nhanh. Các ngành, lĩnh vực đều đạt tăng trưởng cao hơn
cùng kỳ năm trước: GDP 6 tháng đầu năm 2010 đạt khoảng 6,16%; Tổng kim
ngạch xuất khẩu ước đạt 32,1 tỷ USD, tăng 15,7%; thu ngân sách đạt khá đảm
bảo các nhiệm vụ chi từ NSNN. Trong 6 tháng đầu năm 2010, vốn FDI thực hiện
đạt 5,4 tỷ USD, tăng 5,9% so với cùng kỳ năm 2009. Đặc biệt lạm phát được
kiềm chế. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 6 so với tháng 5/2010 tăng 0,22%, là mức
thấp nhất so với cùng kỳ các năm trước. So với tháng 12/2009, chỉ số giá tiêu
dùng tháng 6/2010 tăng 4,87%. Trong đó, nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng
16,18%, với quyền số 39,93%, nhóm này đã đóng góp vào mức tăng chung của
chỉ số CPI khoảng 6,46%, hơn một nửa mức tăng CPI của cả năm. Tiếp đến là
nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt, VLXD, tăng 15,74%, với quyền số 10,01%,
nhóm này góp phần làm tăng chỉ số chung khoảng 1,57%. Nhóm giáo dục có
mức tăng cao nhất 19,38%, với quyền số không lớn là 5,72%, nhưng nhóm này
đã đóng góp mức tăng khoảng 1,1% vào mức tăng chung của chỉ số CPI. Trong
tháng 12, giá vàng và đôla Mỹ không leo thang mạnh như những tháng trước
(lần lượt tăng 5,43% và 2,86%). Tuy nhiên, tính chung trong cả năm 2010, giá
vàng đã tăng tới 30% trong khi mức tăng của đôla Mỹ là xấp xỉ 10%.
Mặc dù năm 2010, bội chi ngân sách đã được kéo xuống còn dưới 6%,
nhưng nếu tính cả huy động trái phiếu, thì tỷ lệ vẫn còn ở mức 7%. Đó là mức rất
cao, không những là một trong những nguyên nhân của lạm phát cao, mà còn
làm gia tăng nợ nần.Nhập siêu năm 2010, so với năm trước và so với kế hoạch
trong năm, đã giảm và thấp hơn cả về kim ngạch tuyệt đối cũng như tỷ lệ nhập
siêu so với xuất khẩu, nhưng nhập siêu liên tục, kéo dài và hiện ở mức khá cao
(năm 2007 là 14,2 tỷ USD, năm 2008 là 18,0 tỷ USD, năm 2009 gần 12,9 tỷ
USD, năm 2010 khoảng 12 tỷ USD). Điều này đã tác động tiêu cực tới cán cân
thanh toán, dự trữ ngoại hối và tạo sức ép lên tỷ giá. Giá USD trên thế giới giảm,
nhưng ở trong nước vẫn tăng (năm 2008 tăng 6,31%, năm 2009 tăng 10,7%, 11
tháng năm 2010 tăng 6,63%), làm tăng mạnh gánh nặng lạm phát…
Báo cáo do Ngân hàng Thế giới (WB) đưa ra ngày 7/12/2010 tại Hội nghị

Nhóm tư vấn các nhà tài trợ (CG-2010), WB nhận định lạm phát cả năm 2010 ở
mức 10,5% - cao hơn nhiều so với mục tiêu 8% mà Quốc hội đề ra trước đó.
Ngân hàng Thế giới khuyên Việt Nam cần có những chính sách thân thiện với thị
trường hơn để đạt mục tiêu bình ổn giá, trong đó bao gồm việc sử dụng nhiều
hơn chính sách cạnh tranh và chính sách tiền tệ. Tỷ lệ lạm phát của Việt Nam đột
ngột dâng cao hơn dự kiến trong tháng 10 và 11. Cụ thể, đến cuối tháng 11, tỷ lệ
lạm phát 11 tháng đứng ở mức gần 9,6%. Lạm phát giá lương thực hàng năm lên
đến 14,8%, cao nhất kể từ tháng 4/2009.


Hình 2: Diễn biến chỉ số giá tiêu dùng (CPI) 2009 và 11 tháng của năm
2010 (đơn vị: %).
Từ biểu đồ chúng ta có thể nhận thấy lạm phát của giai đoạn 2009 –2010
có nhiều nét tương đồng. Cả hai năm này đều có hình dạng của một chiếc cốc,
chỉ số CPI vào các tháng đầu năm và cuối năm đều ở mức cao, cụ thể là: CPI ở
mức cao nhất vào tháng 2 với CPI của 2 năm lần lượt là 1,17 và 1,96; CPI vào
tháng 9 lần lượt là: 0,62 và 1,31, tới cuối năm thì lên tiếp tục lên cao vào tháng
11 với chỉ số CPI lần lượt là: 1,38 và 1,86 chủ yếu do sức ép cầu lớn. Trái lại ở
các tháng còn lại chỉ số CPI lại giảm sụt liên tục và sự tăng trở lại là không đáng
kể. Cụ thể vào tháng 3 (năm 2009) chỉ số CPI chỉ ở mức -0,17 cho thấy sự suy
giảm của nền kinh tế đã tới mức nghiêm trọng, hay ở tháng 4, tháng 7 trong năm
2010 cũng có dấu hiệu của sự tăng trưởng kinh tế yếu. Nhưng một điểm đáng
chú ý là năm 2009 do tác động của khủng hoảng kinh tế và giảm phát của cuối
năm 2008 nên tốc độ lạm phát có phần dịu hơn so với năm 2010 - khi mà nền
kinh tế đã bắt đầu phục hồi trở lại. Nhìn chung vấn đề lạm phát của giai đoạn này
có thể gói gọn trong cụm từ “diễn biến phức tạp, khó dự báo trước”.
Nguyên nhân cơ bản:
- Khủng hoảng tài chính của một số nước lớn trong năm 2008 đã đẩy
kinh tế thế giới vào tình trạng suy thoái, làm thu hẹp đáng kể thị trường
xuất khẩu, thị trường vốn, thị trường lao động và tác động tiêu cực tới

nhiều lĩnh vực kinh tế-xã hội khác của nước ta. Lạm phát cao năm 2008,


-

-

-



cùng với sự đảo chiều của vốn đầu tư nước ngoài và thâm hụt cán cân
thương mại đã tác động mạnh mẽ tâm lí các nhà đầu tư trên thị trường
ngoại hối gây những biến động khó lường đến tỉ giá.
Thêm vào đó, giải pháp hỗ trợ lãi suất cho các doanh nghiệp phục hồi
sản xuất, nhiều doanh nghiệp vay VND để mua ngoại tệ cầu mua
ngoại tệ tăng mạnh, tâm lí găm giữ ngoại tệ và gói hỗ trợ lãi suất này
còn làm khởi sắc thị trường chứng khoán, bất động sản và tín dụng, gây
sức ép tăng lượng tiền trong nền kinh tế, tín dụng tăng cao và giảm gía
VND.
Thâm hụt ngân sách tăng cao năm 2009 là 6,5% GDP buộc ngân sách
phải vay nợ nhiều gây áp lực giảm giá VND.
Đến năm 2010 kinh tế thế giới phục hồi, kì vọng sự phục hồi kinh tế
khiến giá hàng hoá tăng lên, chi phí đầu vào sản xuất của các doanh
nghiệp tăng lên (vì nhập nhiều nguyên, vật liệu, phụ liệu cho sản xuất)
đẩy giá thành sản phẩm lên cao.
Các công cụ chính sách được nhà nước ban hành và không đạt được
hiệu quả như ý muốn, quản lí giá cả vẫn chưa thực hiện tốt như vàng,
USD tăng chủ yếu do tâm lí, đầu cơ, găm giữ.
Hiệu quả đầu tư chưa tốt nguồn vốn đầu tư lớn.

Ngoài ra do chính sách tự do lãi suất nên các ngân hàng thương mại
muốn thu hút vốn nên đẩy lãi suất huy động lên cao lại chay đua lãi suất
lãi suất cho vay cao gây cản trợ hoạt động kinh doanh cho các doanh
nghiệp, để cho vay được thì các ngân hàng này cấp tín dụng cho các
khoản vay đầu tư bất động sản, chứng khoán nguồn vốn không vào hoạt
động sản xuát kinh doanh mà chuyển vào đầu tư không tạo giá trị gia
tăng.
Giai đoạn 2011-2012:

Năm 2011: Các chuyên gia nghiên cứu kinh tế nhận định lạm phát năm
2011 là rất phức tạp, khó dự báo trước được. Biểu hiện cụ thể qua việc: Ba lần
liên tiếp trong năm nay Chính phủ nới chỉ tiêu về lạm phát. Trong lần điều chỉnh
đầu tiên cuối quý 1, chỉ tiêu về lạm phát được điều chỉnh từ 7% lên 11,75%. Lần
thứ hai từ 11,75% lên 15% vào cuối tháng 5 và lần thứ ba từ 15% lên 17% tính
đến thời điểm vào cuối tháng 6.
So với cuối năm 2010 thì chỉ số giá tiêu dùng tháng 7-2011 tăng 14,61%
và tăng 22,16% nếu so với cùng kỳ năm trước.Tỷ lệ lạm phát chung của Việt
Nam năm 2011 (so với tháng 12/2010) được dự báo sẽ ở mức khá cao: 18,98%.


Hình 3:Diễn biến chỉ số giá tiêu dùng chín tháng đầu năm 2011 (nguồn:
Tổng cục Thống kê) - Đồ họa: Vĩ cường - Ảnh: H.T.V.
Nhận xét: Kinh tế Việt Nam tăng trưởng 6.78% năm 2010 trong khi tỷ lệ
lạm phát là 11,75% Mục tiêu phát kinh tế Việt Nam năm 2011 do Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng đưa ra và đã được Quốc hội thông qua ngày 08/11/2010 đã
nhấn mạnh tới việc tăng cường ổn định vĩ mô và kiềm chế lạm phát nhưng vẫn
đề ra mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao hơn năm 2010. Điều này mâu thuẫn với
chính các quy luật kinh tế bởi khi mức tăng trưởng cao thì sẽ đi kèm theo lạm
phát mặc cho lạm phát đang diễn biến phức tạp, liên tục tăng cao từ những năm
2007, 2008. Nền kinh tế nước ta có độ mở thương mại lớn nên không thể nói là

đã hết bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng tài chính thế giới 2008 vẫn còn dai rẳng,
đặc biệt là khủng hoảng nợ công hiện tại ở Châu âu sẽ ảnh hưởng không tích cực
tới xuất khẩu của đất nước. Tăng trưởng ở nước ta cũng phụ thuộc quá nhiều từ
đầu tư thế nhưng chỉ số ICOR về hiệu quả đầu tư của Việt Nam luôn cao chứng
tỏ hệu quả sử dụng vốn chưa cao. Tổng kết tình hình kinh tế xã hội chín tháng
đầu năm 2011 chỉ số giá tiêu dùng CPI vượt ngưỡng 18% và chưa có xu hương
giảm cho nên không có cơ sở nào có thể khẳng định được chính phủ hoàn thành
được mục tiêu kểm soát lạm phát dưới 7% như đã đề ra. Tổng sản phẩm trong
nước (GDP) 9 tháng ước tính tăng 5,76% so với cùng kì năm 2010. Nhâp siêu là
6,84 tỷ USD bằng 9,77% tổng kinh ngạch xuất khẩu 9 tháng.
Theo như dự báo của ủy ban kinh tế mặc dù chúng ta đã thực hiện tốt
nghị quyết 11 của chính phủ nhưng từ nay đến cuối năm, áp lực lạm phát có thể
sẽ ra tăng , bản tin kinh tế vĩ mô số 5 của Uỷ ban Kinh tế vừa được gửi đến quốc
hội cho rằng mục tiêu mới của chính phủ về kiềm giữ CPI dưới 18% của năm
nay trở nên rất khó khăn. Bởi lạm phát tháng 9 có thể coi là đã vượt đỉnh của


năm 2011 và lạm phát tính theo cùng kỳ năm trước của tháng 8 ở mức rất cao
23,02%.
Trong khi đó từ nay đến cuối năm, áp lực lạm phát có thể ra tăng do áp lực
tăng giá USD so với VND, điều chỉnh tăng giá điện, tăng lương. Sự biến động
mạnh của giá vàng lên lạm phát kỳ vọng và áp lực ra tăng nhu cầu đầu tư, tiêu
dung của người dân vào cuối năm.
Trong bốn tháng đầu năm nay lạm phát ở nước ta vẫn ở mức cao và diễn
biến khá phức tạp. Tính đến cuối tháng bốn,lạm phát tăng 9,6 % so với tháng 12
năm 2010, tăng 17,51 % so với cùng kì năm 2010.
Tới cuối tháng 5: lạm phát của nước ta vẫn ở mức 2 chữ số 19,78 % (so
với cùng kì năm ngoái,CPI tăng 2,21 %).
Nhờ việc chính phủ đã thông qua nghị quyết 11 về giải pháp chống lạm
phát nên tới tháng 6 lạm phát ở nước ta đã được kiềm chế thể hiện ở chỉ số giá

tiêu dùng CPI chỉ tăng 1,09 %.
Tháng 8 là đỉnh điểm của lạm phát với() thâm hụt thương mại cao với tăng
trưởng xuất khẩu xuống còn 21 % cùng kì so với mức tăng trưởng 5,6 % trong
tháng 7, nhập khẩu tăng 25,5 % cao hơn tháng 7 với 17,3 %. Cán cân thương
mại dịch chuyển từ mức kỉ lục 1,1 tỷ USD sang thâm hụt 800 USD. Theo tin
AFP, số liệu của chính phủ Việt Nam cho biết lạm phát Việt Nam trong tháng
8/2011 lên mức 23%, ảnh hưởng không nhỏ đến mục tiêu và nổ lực bình ổn kinh
tế vĩ mô mà chính phủ đang nhắm tới. Tổng Cục Thống Kê Việt Nam loan báo
mức lạm phát tháng Tám này là 23% so với mức 22% của tháng Bảy. Đây cũng
là lần thứ mười hai trong năm mà chỉ số giá tiêu dùng tăng lên.
Tính đến tháng 9,chỉ số CPI tăng nhẹ 0,82 % so với tháng trước, giảm
xuống còn 22,42% từ 23,02%. Đây là mức tăng khá cao so với các tháng cùng kì
của 15 năm gần đây. Trong khi đó nguồn cung tiền còn khá chậm, tổng phương
tiện thanh toán M2 chỉ tăng 5 % trong 8 tháng đầu năm 2011
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, nguyên nhân đẩy giá CPI tiếp tục
tăng trong tháng này vẫn là do sự tăng đột biến trong nhóm giáo dục với mức
3,2% do tháng 10 nhu cầu tiêu dùng và sắm sửa đồ dùng học tập cho năm học
mới vẫn khá cao.
Kế đến là nhóm hàng thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,73%; may mặc,
mũ nón, giầy dép tăng 0,63%; nhóm hàng đồ uống và thuốc lá tăng 0,49% và
nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,45%... Nhóm hàng hàng ăn, dịch vụ ăn uống
vốn là tác nhân chính khiến chỉ số CPI tăng vọt trong những tháng trước đây lại
có mức tăng khá khiêm tốn chỉ 0khỏi,06%. Nguyên nhân chính là do mặt hàng
lương thực tháng này tăng đột biến đến 1,27% và nhóm ăn uống ngoài gia đình


tăng 0,67%. Tuy nhiên, đà tăng của nhóm đã bị chặn lại do giá thực phẩm hạ
nhiệt, giảm 0,49% so với tháng trước.
Cùng với mặt hàng lương thực, tháng 10 còn ghi nhận thêm sự giảm tốc ở
nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng khi giảm 0,03%. Các nhóm giao thông, bưu

chính viễn thông cũng tiếp tục giảm lần lượt là 0,13% và 0,17%.
Tuy nhiên, tính chung trong 10 tháng, chỉ số CPI hiện vẫn tăng 18,5% so
với cùng kỳ năm ngoái. Còn tính từ đầu năm đến nay, CPI đã tăng 17,05%. , chỉ
số giá vàng đã giảm 4,22%, trong khi đôla Mỹ tăng 0,39%.
Năm 2011 dư âm lạm phát năm 2010 gây tác động vào kì vọng của người
dân, họ không tin lạm phát đầu năm 2011 sẽ được kiểm soát. Lãi suất cao không
thể giảm do lạm phát cao từ năm 2010 và do đó doanh nghiệp tiếp tục gặp khó
khăn trong vấn đề vay vốn ảnh hưởng tới giả cả hàng hoá.
Nguyên nhân lạm phát của nước ta trong giai đoạn trên là do :
- Lạm phát do chi phí đẩy: giá cả biến động…
- Lạm phát do cầu kéo: do các chính sách điều chỉnh kiểm soát chưa hiệu
quả của nhà nước. Và do chưa kiểm soát hiệu quả nguyên nhân này mà
nước ta hiện nay có tỉ lệ lạm phát cao nhất Châu Á, nhì thế giới, chỉ sau
Venuezuela.
- Ngoài ra còn có yếu tố khách quan đó là: thiên tai vì nước ta chịu nhiều
thiên tai nên cũng gây ảnh hưởng tới giá cả của một số mặt hàng.
Năm 2012: Dự báo biến thiên từ 7,9 đến 14,7%. Viện Khoa học xã hội
Việt Nam dự báo lạm phát 2012 (so với tháng 12/2011) sẽ giảm mạnh xuống
mức 11,3% và thậm chí xuống mức 1 chữ số, Ủy ban Kinh tế cho biết tại bản tin.
Mức độ giảm sẽ phụ thuộc chủ yếu vào việc triển khai quyết liệt Nghị quyết 11
đến cuối năm 2012, trong đó đặc biệt là thực hiện hiệu quả cắt giảm đầu tư công,
kiềm chế tăng trưởng tín dụng không quá 18% và tổng phương tiện thanh toán
dưới 15%, cộng với tăng mạnh cung lương thực và thực phẩm. Dự báo lạm phát
của Việt Nam sẽ biến thiên từ 7,9% tới 14,7% với độ tin cậy 70% năm 2012.
Lạm phát cơ bản dự báo sẽ đạt 5,46% so với cuối năm 2011 (biến thiên từ 5,0%
tới 5,92% với độ tin cậy 70%).
3. Kết luận và giải pháp
3.1. Kết luận
Có thể khái quát một số đặc điểm của nền kinh tế vĩ mô củaViệt Nam như
sau:

- Tăng trưởng đạt mức cao so với khu vực, nhưng đang có khuynh hướng
chậm lại; đồng thời, tăng trưởng vẫn lệ thuộc nhiều vào mở rộng đầu


tư.
- Nền kinh tế ngày càng trở nên bất ổn khi hội nhập sâu vào nền kinh tế
thế giới (lạm phát dao động mạnh hơn).
- Ngân sách thâm hụt triền miên, đi liền với thâm hụt thương mại (thâm
hụt kép).
- Ngay cả khi được hỗ trợ bởi một dòng kiều hối lớn, cán cân vãng lai
vẫn thâm hụt.
- Cán cân tổng thể được hỗ trợ bởi mức thặng dư cao từ cán cân vốn.
Tuy nhiên, chịu ảnh hưởng của điều kiện quốc tế, các dòng vốn đang
dần có khuynh hướng kém ổn định hơn, dẫn tới khả năng cán cân tổng
thể có những dao động lớn, chuyển từ thặng dư sang thâm hụt.
Chính sách tỷ giá neo một cách linh hoạt (crawlingpeg) vào đồng USD,
nhưng có khuynh hướng đánh giá cao đồng nội tệ.
Kiềm chế lạm phát là một vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu trong chính
sách kinh tế của các nước nói chung và ở Việt Nam ta nói riêng. Vì vậy việc tìm
hiểu bản chất, nguyên nhân gây ra lạm phát là điều hết sức quan trọng và cần
thiết. Từ đó ta có thể tìm ra giải pháp tối ưu nhất để khắc phục lạm phát và đem
lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Lạm phát luôn đi kèm với tăng trưởng kinh tế và là
kẻ thù của tăng trưởng kinh tế. Nếu chính phủ không cố những chính sách tài
chính linh hoạt thì nền kinh tế sẽ rơi vào tình trạng suy thoái, lạm phát ở mức
cao như những năm đầu của thập kỉ 80 ở nước ta.
3.2. Giải pháp
Gồm một số điểm như sau :
- Thứ nhất: Đẩy mạnh hơn nữa quá trình chuyển đổi nền kinh tế và cơ
chế quản lý kinh tế. Trên cơ sở đó có thể tận dụng tối đa ưu thế của thị
trường và khai thác tối ưu tiềm năng của nền sản xuất xã hội. Nhờ vậy

mà tăng nhanh số lượng chủng loại và chất lượng hàng hoá cung ứng ra
thị trường.
- Thứ hai: ổn định giá cả những mặt hàng thiết yếu và những mặt hàng
mà nhà nước độc quyền sản xuất kinh doanh.
- Thứ ba: Thước đo thông thường nhất của lạm phát là CPI, nhưng việc
đo lường CPI không phải luôn chính xác. Vì nó vừa không thể hiện
được đầy đủ những biến đổi chất lượng hàng hoá và do nhưng sai sót về
mặt kỹ thuất tính toán.
- Thứ tư: Cần nhận thức rằng chống và kiềm giữ lạm phát không phải là
mục đích của điều tiết kinh tế vĩ mô, mà chỉ là công cụ, phương tiện,
cách thức để tạo môi trường và kích thích tăng trưởng kinh tế. Nghĩa là
toàn bộ công cụ, cách thức vĩ mô đều phải hướng tới một mục đích duy
nhất là thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh và bền vững.


Luôn có sự đánh đổi giữa lạm phát và tăng trưởng chính vì vậy khi nhà
nước đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế thì không thể nào tránh được lạm phát,
chúng ta chỉ có thể kiềm chế lạm phát ở một mức độ nào đó nhưng vẫn đảm bảo
tăng trưởng kinh tế đó chính là mức lạm phát tôi ưu.
Về biện pháp kiềm chế lạm phát mới nhất hiện nay chính phủ Việt Nam đã
ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24-02-2011 đưa ra bẩy “giải pháp chủ
yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội”.
Nội dung nghị quyết có một số tin chính sau đây:
-

Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng.
Thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, giảm bội
chi ngân sách nhà nước.
Thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập
siêu, sử dụng tiết kiệm năng lượng.

Điều chỉnh giá điện, xăng dầu gắn với hỗ trợ hộ nghèo.
Tăng cường bảo đảm an sinh xã hội.
Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền.
Tổ chức thực hiện.

Những biện pháp này được áp dụng với mục tiêu giảm tức thời cơn sốt
lạm phát trên cơ sở đó sẽ áp dụng các biện pháp ổn định tiền tệ lâu dài.
* Những biện pháp chiến lược
Đây là những biện pháp có tác động lâu dài đến sự phát triển của nền kinh
tế quốc dân. Tổng hợp các biện pháp này sẽ tạo ra sức mạnh kinh tế lâu dài cho
đất nước.
- Thúc đẩy sự phát triển sản xuất hàng hoá và mở rộng lưu thông hàng
hoá. Đây là biện pháp chiến lược hàng đầu để hạn chế lạm phát, duy trì
sự ổn định tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân. Sản xuất trong nước càng
phát triển thì càng tạo tiền đề vững chắc cho sự ổn định tiền tệ. Chú
trọng thu hút ngoại tệ qua việc xuất khẩu hàng hoá, phát triển ngành du
lịch.
- Kiện toàn bộ máy hành chính, cắt giảm biên chế quản lý hành chính .
Thực hiện tốt biện pháp này sẽ góp phần to lớn vào việc giảm chi tiêu
thường xuyên của ngân sách do đó giảm bội chi ngân sách nhà nước.
- Tăng cường công tác quản lý điều hành ngân sách nhà nước trên cơ sở
tăng các khoản thu cho ngân sách một các hợp lý, chống thất thu, đặc
biệt là thất thu về thuế, nâng cao hiệu quả của các khoản chi ngân sách
nhà nước .
Để khắc phục và kiềm chế lạm phát trong giai đoạn hiện nay cần phải thực


hiện nhiều biện pháp đồng bộ như sau:
- Trước hết phải khống chế tỷ lệ bội chi ngân sách ở dưới mức 5% GDP.
Bởi và bội chi ngân sách là một nhân tố quan trọng gâỵ ra sự mất cân

đối giữa cung và cầu.
- Phải nâng cao sản lượng hàng hoá trên cơ sở đẩy mạnh phát triển sản
xuất công, nông nghiệp, cụ thể là tạo ra nhiều lương thực, thực phẩm,
một số hàng hoá là tư liệu sản xuất và các loại hàng hoá là nhiên liệu,
năng lượng. Mặt khác cần tiếp tục đổi mới cơ cấu kinh tế và cải tiến
công nghệ, cải tiến kỹ thuật đảm bảo từng bước giảm chi phí sản xuất.
Về lĩnh vực ngân hàng với trách nhiệm là một ngành đóng vai trò quan
trọng nhất trong việc kiềm chế lạm phát, cần tiến hành các bước sau:
- Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng trên cơ sở tích cực huy động vốn
và cho vay hiệu quả các dự án.
- Kiểm soát chặt chẽ cung ứng tiền tệ của ngân hàng nhà nước cho mục
tiêu ngoại tệ, ổn định thị trường ngoại tệ và tỷ giá đồng Việt Nam.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc.
- Tăng cường hiệu lực của công tác thanh tra đối với ngân hàng thương
mại.
- Xử lý tôt mối quan hệ với ngân sách nhà nước, phát triển thị trường
vốn, đồng thời xúc tiến nhanh việc thiết lập thị trường chứng khoán ở
Việt Nam và sự hoà nhập của thị trường này vào cộng đồng kinh tế
quốc tế, thu hút nhanh chóng hơn nữa nguồn vốn nước ngoài góp phần
phát triển kinh tế đất nước.
Ngoài ra cần tổ chức quản lý nợ nước ngoài có kế hoạch và sử dụng có
hiệu quả các nguồn vốn vào Việt Nam dưới nhiều hình thức khác nhau như vay
vốn của IMF, WB, ADB,..
Tóm lại, trong tình hình hiện nay cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các
ngành, các cấp trong việc thực hiện có hiệu quả về chính sách kinh tế vi mô và vĩ
mô của nhà nước (giải quyết tốt vấn đề thâm hụt ngân sách, chấn chỉnh hoạt
động xuất nhập khẩu, điều hành tốt giá cả và lưu thông hàng hoá..) để đảm bảo
vừa tăng trưởng kinh tế vừa kiềm chế lạm phát ở mức tốt nhất.



TÀI LIỆU THAM KHẢO

/>






×