Tải bản đầy đủ (.docx) (107 trang)

Đánh giá công tác giải phóng mặt bằng, bồi thường, hỗ trợ và bố trí tái định cư của một số dự án trên địa bàn huyện lệ thủy, tỉnh quảng bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 107 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ

Khoa Tài nguyên Đất và Môi trường Nông nghiệp

KHÓA LUẬN

TỐT NGHIỆP
TÊN ĐỀ TÀI:

Đánh giá công tác giải phóng mặt bằng, bồi thường, hỗ trợ và
bố trí tái định cư của một số dự án trên địa bàn huyện Lệ Thủy,
tỉnh Quảng Bình

Sinh viên thực hiện

: Lê Thị Thanh

Lớp

: Quản Lý Đất Đai 45B

Thời gian thực hiện : 05/01/2015 - 08/05/2015
Địa điểm thực hiện

: Trung tâm phát triển quỹ đất huyện Lệ Thủy

Giáo viên hướng dẫn : ThS.GVC Trần Văn Nguyện
Bộ môn

: Quy hoạch và Kinh tế đất


1


NĂM 2015

LỜI CẢM ƠN

Để có được kết quả nghiên cứu này, tôi xin bày
tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo Ths.GVC Trần
Văn Nguyện, Bộ môn Quy hoạch và Kinh tế đất,
Khoa Tài nguyên đất và Môi trường nông nghiệp,
Trường Đại học Nông lâm Huế là người luôn theo sát,
hướng dẫn trực tiếp tôi trong suốt thời gian thực hiện
đề tài.
Xin chân thành cảm ơn quý thầy giáo, cô giáo
Khoa Tài nguyên đất và Môi trường nông nghiệp,
Trường Đại học Nông lâm Huế đã giúp đỡ, động viên
tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ, tạo điều
kiện của UBND huyện Lệ Thủy, đặc biệt là Trung tâm
phát triển quỹ đất huyện, anh chị trong trung tâm đã
động viên, tạo mọi điều kiện cho tôi trong việc thu
thập thông tin, tài liệu để tôi hoàn thành đề tài tốt
nghiệp này.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn đến gia
đình, bạn bè, những người luôn sát cánh bên tôi,
động viên tôi, tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi hoàn
thành đề tài tốt nghiệp này.
Do điều kiện nghiên cứu và kiến thức còn hạn
chế nên nội dung đề tài không tránh khỏi thiếu sót.

Kính mong nhận được sự giúp đỡ, góp ý, chỉ dẫn của
thầy, cô giáo và các bạn để đề tài này được hoàn
thiện hơn.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn!
Huế, tháng 5 năm 2015
Sinh viên thực hiện
2


Lê Thị Thanh

DANH MỤC CÁC BẢNG

3


DANH MỤC CÁC HÌNH, BIỂU ĐỒ

4


DANH MỤC CHÚ GIẢI CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT

Thứ tự

Chữ viết tắt

1

CP


Chính phủ

2



Quyết định

3



Nghị định

4

UBND

5

TN&MT

6

STT

Số thứ tự

7


ĐVT

Đơn vị tính

8

GPMB

Giải phóng mặt bằng

9

BTHT

Bồi thường hỗ trợ

10

TĐC

Tái định cư

11

BT

Bồi thường

12


Chú giải

Uỷ Ban Nhân Dân
Tài nguyên và Môi trường

GCNQSDĐ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

13

ĐTH

14

QSHNƠ

15

CN-TTCNTMDV

16

TT

17

BTNMT

Đô thị hóa
Quyền sở hữu nhà ở

Công nghiệp- Tiểu thủ công nghiệp- Thương mại
dịch vụ
Thông tư
Bộ tài nguyên môi trường

5


MỤC LỤC

6


PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá của nhân loại, là cơ sở để sản xuất ra
của cải vật chất. Đất đai là hàng hóa đặc biệt có tính cố định về vị trí và không
thay đổi về số lượng và là yếu tố quan trọng có tác động mạnh mẽ đến đời sống
của con người.
Trong tình hình đất nước ta hiện nay, khi chấp nhận nền kinh tế thị trường
và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
cũng như quá trình ĐTH diễn ra mạnh mẽ. Đòi hỏi việc chuyển đổi mục đích sử
dụng đất để phục vụ nhu cầu phát triển ngày càng cao của xã hội. Do đó, hàng
loạt các công trình, dự án lần lượt được triển khai thực hiện, thì kéo theo đó là
công tác bồi thường GPMB là cần thiết vì nó là một trong những thành phần gắn
liền với tiến trình đi lên giàu mạnh của đất nước. Công tác này giải quyết các
vấn đề về quỹ đất để phục vụ cho phát triển các ngành kinh tế, an ninh, quốc
phòng, giao thông, công trình phúc lợi, khu dân cư để đất nước không những
giàu mạnh mà an ninh chính trị còn được giữ vững, góp phần đưa Việt Nam hội

nhập với thế giới.
Đặc điểm của công tác GPMB, bồi thường, hỗ trợ và TĐC là mang tính
nhạy cảm, đa dạng và phức tạp. Trong khi hệ thống pháp luật chính sách về đất
đai nhà ở hiện nay chưa thật sự hoàn thiện còn những vấn đề bất cập cần sửa
đổi, bổ sung cộng với công tác quản lý còn yếu kém gây ra tình trạng kiện cáo,
khiếu nại kéo dài.
Bên cạnh đó việc bồi thường, giải tỏa liên quan trực tiếp đến quyền và lợi
ích thiết thực của cá nhân, tập thể và toàn xã hội, nhất là những quyền lợi về mặt
kinh tế. Trong điều kiện đất đai ngày càng có giá trị và khan hiếm cho nên vấn
đề lợi ích đó càng cấp thiết hơn, quyết định đến sự thành công hay tiến độ thực
hiện của dự án. Do vậy, công tác này đòi hỏi phải giải quyết tốt mối quan hệ
giữa: người sử dụng đất - nhà nước - chủ đầu tư, đảm bảo hài hòa giữa lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính sách của chủ đầu tư và của
người sử dụng.
Lệ Thủy là một huyện còn nhiều khó khăn nhưng có tiềm năng rất lớn về đất
đai. Cùng với sự phát triển của tỉnh Quảng Bình nói chung và huyện Lệ Thủy
nói riêng, trong những năm qua huyện đã có những bước phát triển mạnh mẽ về
cơ sở hạ tầng kỹ thuật, mở rộng các khu dân cư và đi cùng với nó là công tác bồi
7


thường, bố trí TĐC, đó là điều kiện tiên quyết hàng đầu để triển khai thực hiện
các dự án.
Rất nhiều dự án đang được triển khai và thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng
Bình với hàng ngàn tỷ đồng đã được Nhà nước đầu tư phục vụ cho công tác giải
phóng mặt bằng, điều đó càng khẳng định thêm đây là một công việc rất quan
trọng. Do vậy, việc nghiên cứu đánh giá công tác giải phóng mặt bằng, bồi
thường, hỗ trợ và bố trí tái định cư là việc làm cần thiết nhằm tìm ra những
hướng đi phù hợp với thực trạng sử dụng đất, và đưa ra các giải pháp khắc phục
những khuyết điểm trong công tác giải phóng mặt bằng, bồi thường và hỗ trợ tái

định cư trên địa bàn huyện Lệ Thủy, cũng như toàn tỉnh Quảng Bình.
Xuất phát từ lý do đó, được sự phân công của Khoa Tài Nguyên đất và
Môi Trường Nông Nghiệp, trường Đại học Nông Lâm Huế và sự hướng dẫn của
thầy giáo ThS. GVC Trần Văn Nguyện, tôi đã tiến hành thực hiện đề tài: “Đánh
giá công tác giải phóng mặt bằng, bồi thường, hỗ trợ và bố trí tái định cư
của một số dự án trên địa bàn huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình’’
1.2. Mục đích của đề tài
- Tìm hiểu thực trạng công tác giải phóng mặt bằng, bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư trên địa bàn huyện Lệ Thủy.
- Phân tích được tác động của việc thực hiện chính sách bồi thường, giải
phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất đến thu nhập và đời sống của người
dân có đất bị thu hồi ở huyện Lệ Thủy.
- Đánh giá việc thực hiện công tác giải phóng mặt bằng, bồi thường và hỗ
trợ tái định cư tại một số dự án trên địa bàn huyện Lệ Thủy.
- Đưa ra một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác giải
phóng mặt bằng, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trên địa bàn huyện Lệ
Thủy.
1.3. Yêu cầu của đề tài
- Phải nghiên cứu nắm vững chính sách, nghị định, thông tư, quyết định,
công văn cùng các văn bản khác có liên quan đến công tác giải phóng mặt bằng,
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
- Các số liệu điều tra, thu thập phải mang tính khách quan, chính xác, trung
thực và đầy đủ.
- Tổng hợp, phân tích, đánh giá được số liệu đã thu thập, điều tra chính xác.
- Các đề xuất, kiến nghị phải có tính khả thi.
8


PHẦN 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Các khái niệm
2.1.1.1. Bất động sản
Bất động sản bao gồm đất đai, vật kiến trúc và các bộ phận không thể tách
rời khỏi đất đai và vật kiến trúc, cùng những thứ dùng để nâng cao giá trị sử
dụng của bất động sản như hàng rào, cây cối và các trang thiết bị cấp thoát nước,
cấp điện, vệ sinh, thông gió, thang máy, thông tin…[5].
2.1.1.2. Giá đất
Giá cả được xác định trên thị trường thể hiện bằng tiền và chính sự không
ổn định của đồng tiền dẫn đến giá cả không ổn định nên thường định giá theo
thời gian và giá cũng có giá trị theo thời gian.
Giá đất được xác định là cầu nối các mối quan hệ về đất đai – thị trường –
sự quản lý của Nhà nước. Hay nói cách khác, giá đất là công cụ kinh tế để người
quản lý và người sử dụng đất tiếp cận với cơ chế thị trường đồng thời cũng là
căn cứ để đánh giá sự công bằng trong phân phối đất đai để người sử dụng thực
hiện theo nghĩa vụ của mình và Nhà nước điều chỉnh các quan hệ đất đai theo
quy hoạch sử dụng đất và pháp luật.
Giá đất là phương tiện thể hiện nội dung kinh tế của các quan hệ chủ
quyền sử dụng đất và là căn cứ tính toán giá trị thu tiền khi giao đất hoặc cho
thuê đất, tính giá trị tài sản khi giao đất, bồi thường thiệt hại về đất khi thu hồi
và tính thuế đất [8].
Trong thực tế thì luôn luôn tồn tại hai loại giá: Giá đất do Nhà nước quy
định và giá thị trường. Giá thị trường thì luôn cao hơn giá Nhà nước, mức độ
chênh lệch giữa hai loại giá này xa hơn nếu đó là ở khu vực đô thị - nơi mà thị
trường bất động sản phát triển. Như vậy, giá đất do Nhà nước quy định để tính
giá đất bồi thường, bồi thường thiệt hại càng sát với giá chuyển nhượng quyền
sử dụng đất ở thực tế địa phương thì công tác giải phóng mặt bằng, bồi thường
và bố trí tái định cư càng nhanh gọn và hiệu quả.

9



2.1.1.3. Định giá đất
Định giá đất được hiểu là sự ước tính về giá trị của quyền sử dụng đất
bằng hình thái tiền tệ cho một mục đích sử dụng đất đã được xác định tại một
thời điểm xác định.
Định giá đất là cơ sở để Nhà nước xác lập các chính sách về đất đai, thuế,
tín dụng nhằm để tăng cường vai trò quản lý và điều tiết thị trường bất động sản
hoạt động tích cực, lành mạnh. Tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, tạo
điều kiện để thực hiện công bằng, hợp lý về quyền và nghĩa vụ đối với mọi
người sử dụng đất.
Thực hiện tốt công tác định giá đất đã góp phần điều chỉnh những quan hệ
trong quản lý và sử dụng đất đai, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế của đất
nước, thu hút nguồn đầu tư nước ngoài và giải quyết được mục tiêu công bằng,
dân chủ trong xã hội. Vì vậy, việc xây dựng một hệ thống giá đất thống nhất,
đồng bộ và sát với thực tế hơn là rất cần thiết để bồi thường và bố trí tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất [3].
2.1.1.4. Giải phóng mặt bằng
Giải phóng mặt bằng là quá trình tổ chức thực hiện các công việc liên
quan đến di dời nhà, các tài sản liên quan khác trên diện tích đất bị thu hồi để
thực hiện các dự án xây dựng mới một số công trình phục vụ cho mục đích quốc
phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng.
Giải phóng mặt bằng được tiến hành nhanh hay chậm, thuận lợi hay
không thuận lợi phụ thuộc vào các chính sách bồi thường, tái định cư áp dụng
trong dự án có thỏa đáng không, có người được thu hồi chấp nhận không. Chính
điều này đã ảnh hưởng đến tiến độ triển khai thực hiện dự án.
Việc thực hiện bồi thường, giải phóng mặt bằng và bố trí tái định cư được
bắt đầu từ khi thành lập hội đồng giải phóng mặt bằng cho đến lúc bàn giao mặt
bằng cho chủ đầu tư thực hiện dự án [1].
2.1.1.5. Bồi thường thiệt hại

Bồi thường thiệt hại là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối
với diện tích đất đã bị thu hồi cho người bị thu hồi. Giá trị quyền sử dụng đất khi
Nhà nước thu hồi có thể bồi thường bằng đất hoặc bằng tiền.
Bồi thường thiệt hại thực chất là quan hệ chuyển dịch đất đai đặc biệt,
trong đó người bị thu hồi đất không có nhu cầu chuyển nhượng đất đang sử
10


dụng, không có nhu cầu tái định cư.
Bồi thường thiệt hại có 2 loại đó là bồi thường thiệt hại về đất đai và bồi
thường thiệt hại về tài sản [1].
Bồi thường thiệt hại về đất là việc trả bằng tiền hoặc đất tương ứng
với giá trị quyền sử dụng đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất theo quy
định của pháp luật.
Bồi thường thiệt hại về tài sản là việc trả bằng tiền có giá trị tương ứng
với tài sản bị thiệt hại khi thu hồi đất theo quy định của pháp luật bao gồm: nhà,
công trình, vật kiến trúc, cây cối hoa màu, mồ mả, công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật
gắn liền với đất đai bị thu hồi.
2.1.1.6. Bố trí tái định cư
Tái định cư là quá trình chuyển giao đất, bồi thường, tái bố trí và tái thiết
lập các cơ sở kinh tế và kinh doanh [1].
Chính sách tái định cư của Nhà nước sẽ được thực hiện đối với những hộ
dân nằm trong diện bị giải tỏa, bị thu hồi đất hoàn toàn hoặc diện tích đất còn lại
sau khi bị thu hồi không đủ để ổn định sản xuất và sinh hoạt.
2.1.2. Bản chất của công tác giải phóng mặt bằng, bồi thường, hỗ trợ và bố trí
tái định cư
Hiện nay nước ta đang ở trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước thì công tác GPMB, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư là một phần không
thể xem nhẹ của nội dung phát triển bởi vì nó là điều kiện tiên quyết để triển
khai các dự án góp phần chỉnh trang lại đô thị xây dựng đất nước.

Tuy nhiên, để thực hiện tốt công việc này, đòi hỏi phải tổ chức công tác bồi
thường, giải phóng mặt bằng một cách chặt chẽ, hợp lý, khoa học nhằm đảm bảo
tính công bằng, hợp lý, hài hòa giữa lợi ích của Nhà nước và người bị thu hồi
đất, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho người bị thu hồi đất sớm ổn định đời sống
sinh hoạt và sản xuất tại nơi ở mới.
Bên cạnh đó, một chế độ bồi thường đúng, hợp lý, hợp lòng người phải
được xây dựng theo khuôn mẫu chế độ trách nhiệm dân sự. Việc xác định mức
bồi thường phải dựa vào quy tắc chung về bồi thường thiệt hại, cần nhấn mạnh
rằng theo quy luật chung, thiệt hại được bồi thường không chỉ là những mất mát
về vật chất, mà còn cả những tổn thất về tinh thần hay người ta gọi nó là giá trị
vô hình và giá trị hữu hình. Tất cả những thiệt hại, một khi được chứng minh
đều phải được bồi thường thỏa đáng.
11


Trên cơ sở đó, Nhà nước ta đã xây dựng nên một hệ thống các văn bản
pháp luật về GPMB, bồi thường và TĐC tương đối hoàn chỉnh. Giá trị đất đai
không ngừng thay đổi theo thời gian nên chế độ chính sách về bồi thường cũng
không ngừng thay đổi để phù hợp với tình hình thực tế góp phần giải quyết
những vấn đề nảy sinh trong thực hiện bồi thường hỗ trợ giúp cho công tác
GPMB để tiến hành thực hiện các dự án nhanh và hiệu quả hơn.
2.1.3. Đặc điểm của công tác giải phóng mặt bằng, bồi thường, hỗ trợ và bố
trí tái định cư.
* Tính đa dạng
Mỗi một dự án được tiến hành trên những vùng lãnh thổ khác nhau với
điều kiện tự nhiên - kinh tế xã hội khác nhau, trình độ dân trí và giá trị đất đai
khác nhau. Nên khung giá do Nhà nước ban hành để phục vụ cho công tác
GPMB, BTHT và bố trí TĐC cho mỗi vùng và mỗi dự án cũng khác nhau. Các
tài sản trên đất cũng mang tính đa dạng cao, không những đa dạng về mục đích
sử dụng mà còn đa dạng về hình thức sở hữu các tài sản đó. Tất cả các đặc điểm

trên làm cho công tác GPMB, BTHT và TĐC mang tính đa dạng.
* Tính phức tạp
Tính phức tạp của công tác GPMB, BTHT và TĐC được thể hiện ở chỗ:
- Trong quá trình thực hiện công tác GPMB, bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư phải áp dụng nhiều văn bản pháp luật, phải thông qua nhiều cấp, ban ngành
để kiểm tra, thẩm định và phê duyệt.
- Khó khăn phức tạp trong việc xác định đối tượng, điều kiện được bồi
thường vì do nguồn gốc hình thành đất đai khác nhau, giấy tờ về người sử dụng
đất còn thiếu và chưa chính xác.
- Giá cả thị trường luôn biến động do đó đơn giá bồi thường, hỗ trợ cũng
biến động phụ thuộc nhiều vào tình hình phát triển kinh tế. Khi đơn giá thay đổi
thì phải tính toán giá trị bổ sung hỗ trợ lại cho người dân bị ảnh hưởng. Nhiều
dự án phải đình trệ vì không đủ kinh phí mặc dù dự toán kinh phí đã được tính
toán kỹ lưỡng và được phê duyệt.
- Dân số ngày càng tăng lên nên nhu cầu đất cần cho sự phát triển cơ sở hạ
tầng, kinh tế xã hội, giao thông đi lại tăng lên, buộc Nhà nước phải thu hồi đất
để thực hiện các dự án phát triển đó. Trong khi đó, trình độ dân trí của người
dân ở một số vùng còn thấp nên quá trình GPMB ở những vùng đó rất phức tạp.
Mặt khác, cây trồng và vật nuôi cũng đa dạng, không tập trung thống nhất một
12


loại cây trồng, vật nuôi nhất định nên rất khó khăn cho công tác định giá bồi
thường cho người dân.
* Tính nhạy cảm
Công tác GPMB, bồi thường, hỗ trợ và TĐC liên quan trực tiếp đến quyền
lợi của nhiều bên, đó là Nhà nước, người bị thu hồi đất và nhà đầu tư. GPMB
thực tế là một quan hệ chuyển dịch đất đai đặc biệt trong đó người bị thu hồi đất
không có nhu cầu chuyển nhượng đất đang sử dụng, không có nhu cầu tái định
cư nơi ở mới mà hoàn toàn phụ thuộc vào Nhà nước và Nhà nước phải bồi

thường cho người bị thu hồi đất theo quy định của pháp luật. Vấn đề nhạy cảm
này cần được xử lý đúng mực, linh hoạt và khéo léo để hạn chế tình trạng người
dân khiếu nại, khiếu kiện, tạo được lòng tin trong nhân dân [1].
Từ những điểm trên cho thấy công tác GPMB, BT tại mỗi địa bàn khác
nhau có những đặc điểm khác nhau và phải có những phương án bồi thường
khác nhau sao cho phù hợp và thỏa đáng.
2.2. Cơ sở thực tiễn
2.2.1. Chính sách giải phóng mặt bằng, bồi thường, hỗ trợ và bố trí tái định cư
của một số nước trên thế giới
2.2.1.1. Trung quốc
Xét về tổng thể, có thể thấy rằng Trung Quốc là một nước khá thành công
trong việc quản lý đất đai nói chung và việc thực hiện công tác bồi thường, tái định
cư nói riêng. Sở dĩ được như vậy là do Trung Quốc có một hệ thống pháp luật nói
chung và pháp luật đất đai nói riêng rất đầy đủ, chi tiết, đồng bộ, phù hợp với công
tác quy hoạch - kế hoạch sử dụng đất. Cùng với một Nhà nước pháp quyền vững
chắc, người dân có ý thức chấp hành pháp luật nghiêm minh. Bên cạnh đó việc sử
dụng đất đai tại Trung Quốc thực sự tiết kiệm, Nhà nước hoàn toàn cấm việc mua
bán chuyển nhượng đất đai. Do vậy thị trường đất đai gần như không tồn tại mà chỉ
có thị trường nhà cửa.
Về bồi thường thiệt hại về đất đai: Do đất đai thuộc sở hữu Nhà nước nên
không có chính sách bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất đai, kể cả đất
nông nghiệp. Tuỳ từng trường hợp cụ thể Nhà nước cấp đất mới cho các chủ sử
dụng bị thu hồi.
Về giá bồi thường thiệt hại: Giá bồi thường theo tiêu chuẩn giá thị trường.
Nhưng đồng thời được Nhà nước quy định cho từng khu vực và chất lượng nhà,
được điều chỉnh linh hoạt cho phù hợp với thực tế. Đối với đất nông nghiệp việc
13


bồi thường thiệt hại tính theo tính chất đất và loại đất.

Về tái định cư: Đối với các dự án phải BT, GPMB, kế hoạch tái định cư
chi tiết được chuẩn bị trước khi thông qua dự án tái định cư cùng với việc dàn
xếp kinh tế, khôi phục cho từng địa phương, từng hộ gia đình và từng người
bị ảnh hưởng. Các khu tái định cư và các khu nhà ở được xây dựng đồng bộ
và kịp thời. Các chủ sử dụng phải di chuyển đều được chính quyền chú ý điều
kiện về việc làm.
2.2.1.2. Thái Lan
Pháp luật đất đai Thái Lan cho phép hình thành sở hữu cá nhân đối với đất
đai, do vậy về nguyên tắc khi Nhà nước hoặc các tổ chức lấy đất để làm bất cứ
việc gì đều phải có sự thỏa thuận về sử dụng đất giữa chủ dự án và chủ đang sử
dụng khu đất đó trên cơ sở một hợp đồng.
Năm 1987 Thái Lan ban hành luật trưng dụng bất động sản áp dụng cho
việc trưng dụng đất phục vụ vào các mục đích xây dựng công cộng, an ninh,
quốc phòng. Luật BE 2530 quy định những nguyên tắc tính giá trị bồi thường
cho các loại tài sản được bồi thường, trình tự lập dự án, duyệt dự án, lên kế
hoạch bồi thường trình các cấp phê duyệt. Luật còn quy định thủ tục thành lập
các cơ quan, ủy ban tính toán bồi thường, trình tự khiếu nại, giải quyết khiếu
nại, trình tự đưa ra tòa án.
Về giá đất để làm căn cứ bồi thường thiệt hại, các bên căn cứ mức giá do
một Ủy ban của chính phủ xác định trên cơ sở thực tế thị trường chuyển nhượng
bất động sản. Việc bồi thường thiệt hại chủ yếu bằng tiền mặt, sau đó người bị
thu hồi đem tiền đi mua đất tại khu vực khác. Trường hợp phải di chuyển nhà ở
đến nơi ở mới, Ủy ban này sẽ chỉ cho người dân biết mình được đến đâu, phải
trả tiền một lần, được cho thuê hay mua góp,…Tất nhiên cũng có việc bên bị thu
hồi không chấp hành, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền sẽ kiểm tra một lần nữa
và khẳng định mức giá đền bù đã hợp lý chưa và dù đúng hay không đúng nếu
người đó bị thu hồi không di chuyển sẽ bị cưỡng chế. Việc khiếu nại tiếp tục do
tòa án giải quyết. Thực tế hầu như không có trường hợp nào phải nhờ đến sự can
thiệp của tòa án.


14


2.2.1.3. Nhật Bản
Giải phóng mặt bằng được chia thành hai cấp độ dự án và quốc gia. Ở cấp
độ dự án thì việc thực hiện tuyên truyền thông báo công khai. Sau đó lấy ý kiến
của những người ảnh hưởng ngay từ đầu, có kế hoạch khôi phục cuộc sống và
trình bày rõ ràng cho họ hiểu. Tạo điều kiện cho những người bị di dời đưa ý
kiến vào các kế hoạch. Có cơ chế giải quyết các vấn đề với sự tham gia của các
bên trong suốt thời gian thực hiện dự án. Ở cấp độ quốc gia thì ban hành khuôn
khổ pháp lý cung cấp một cách thống nhất hưỡng dẫn cho từng dự án. Vai trò
của cơ quan tái định cư, đặc biệt là chính quyền địa phương rất quan trọng [11].
2.2.2. Chính sách giải phóng mặt bằng, bồi thường, hỗ trợ và bố trí tái định cư
của Việt Nam
2.2.2.1. Trước khi có luật đất đai 2003
Hiến pháp 1992 ra đời trên cơ sở thừa kế có chọn lọc Luật đất đai 1988
đánh dấu mốc quan trọng sự phát triển của nền kinh tế của nước ta. Từ đó tạo
tiền đề cho sự ra đời luật đất đai năm 1993 có hiệu lực từ ngày 15 tháng 10 năm
1993, đây là văn kiện chính sách quan trọng nhất đối với việc thu hồi đất và bồi
thường thiệt hại của Nhà nước. Tại điều 27 luật đất đai năm 1993 quy định:
“Trong trường hợp cần thiết, Nhà nước thu hồi đất sử dụng vào mục đích quốc
phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng thì người bị thu hồi đất đền
bù thiệt hại” [9].
Sau khi luật đất đai 1993 được ban hành, Nhà nước đã ban hành rất nhiều
các văn bản dưới luật như:
- Nghị định 90/NĐ- CP ngày 17/09/1994 quy định về việc đền bù thiệt hại
khi Nhà nước thu hồi đất sử dụng vào các mục đích an ninh, quốc phòng, lợi ích
quốc gia, lợi ích công cộng.
- Nghị định 87/NĐ- CP ngày 17/08/1994 ban hành khung giá các loại đất.
- Nghị định 22/1998/NĐ-CP ngày 24/04/1998, thay thế Nghị định 90/CP

nói trên và quy định rõ phạm vi áp dụng, đối tượng phải đền bù, đối tượng được
đền bù, phạm vi đền bù đặc biệt người có đất bị thu hồi có quyền lựa chọn một
trong ba phương án đền bù, đó là bằng đất, bằng tiền hoặc bằng đất và bằng tiền.
- Thông tư 145/1998/TT-BTC của Bộ Tài Chính thi hành Nghị định
22/1998/NĐ-CP bao gồm các phương pháp xác định hệ số k, nội dung và chế độ
quản lý, phương án đền bù và một số nội dung khác.
15


- Văn bản số 4448/TC-QLCS ngày 04/09/1999 của Cục Quản Lý Cộng
Sản của Bộ Tài Chính hưỡng dẫn xử lý một số vướng mắc trong công tác
đền bù, GPMB.
2.2.2.2. Từ khi có Luật đất đai 2003 đến nay
Luật đất đai năm 2003 được Quốc hội thông qua và có hiệu lực ngày
01/07/2004. Để hướng dẫn việc bồi thường, GPMB theo quy định của Luật đất
đai năm 2003, Nhà nước đã ban hành một số văn bản sau:
Nghị định 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ về phương
pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất.
Thông tư 114/2004/TT-BTC ngày 26/11/2004 của Bộ Tài Chính, hướng
dẫn thực hiện Nghị định 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ về
phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất.
Nghị định 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về bồi
thường, hỗ trợ và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất, thay thế cho Nghị định
22/1998/NĐ-CP ngày 22/04/1998.
Nghị định 17/2006/NĐ-CP ngày 27/01/2006 của Chính phủ về sửa đổi,
bổ sung một số điều của các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật đất đai và
Nghị định 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty Nhà nước thành công ty
cổ phần.
Thông tư 116/2004/TT-BTC ngày 07/12/2004 của Bộ Tài Chính hướng dẫn
thực hiện Nghị định 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về bồi

thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất.
Nghị định 69/2009/NĐ-CP ngày 13/08/2009 của Chính Phủ về quy định bổ
sung về quy hoạch SDĐ, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
Về Nghị định 69/2009/NĐ-CP tập trung vào việc làm rõ, bãi bỏ một số
điều trong Nghị định 181/2004/NĐ-CP và Nghị định 84/2006/NĐ-CP về một
số vấn đề cơ bản về quy hoạch SDĐ, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư. Nguyên tắc xuyên suốt của Nghị định 69/2009/NĐ-CP là đảm bảo
quyền và lợi ích của người SDĐ, thực hiện hài hòa ba lợi ích. Người SDĐ, nhà
đầu tư và quyền của nhà nước theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, Luật đất đai năm 2013 có hiệu lực từ ngày 01/07/2014, cũng
có những điểm mới về việc thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích
quốc gia, công cộng; thực hiện dự án TĐC trước khi thu hồi đất.
16


Luật đất đai năm 2013 đã quy định cụ thể về 4 trường hợp Nhà nước thu
hồi đất gồm: thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; thu hồi đất để phát
triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng; thu hồi đất do vi phạm pháp
luật về đất đai; thu hồi đất do chấm dứt SDĐ theo pháp luật, tự nguyện và do có
nguy cơ đe dọa tính mạng con người.
Đặc biệt Luật đất đai 2013 lần này đã quy định theo hướng thu hẹp hơn các
trường hợp Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc
gia, công cộng. Theo đó ngoài các dự án đã được Quốc hội quyết định chủ
trương đầu tư, dự án được Chính phủ chấp thuận, quyết định đầu tư các trường
hợp còn lại phải có xem xét về sự cần thiết phải thu hồi đất của Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh.
Đối với các dự án đầu tư SDĐ không thuộc trường hợp Nhà nước thu
hồi đất mà phù hợp với quy hoạch SDĐ thì nhà đầu tư trong nước được nhận
chuyển nhượng, nhận góp vốn, thuê QSDĐ của tổ chức kinh tế, hộ gia đình,
cá nhân để có đất thực hiện dự án đầu tư như quy định hiện nay [12].

2.2.3. Thực trạng công tác giải phóng mặt bằng, bồi thường, hỗ trợ và bố trí tái
định cư ở nước ta
Nhằm mục đích quan tâm tới lợi ích của những người bị thu hồi đất thì ở
nước ta hiện nay các quy định của pháp luật về BT, hỗ trợ và TĐC ngày càng
phù hợp hơn với yêu cầu của thực tế cũng như yêu cầu của các quy luật kinh tế.
Trên cơ sở Luật Đất Đai 2003, Nghị định 197, Nghị đinh 84 và mới nhất là Nghị
định 69 năm 2009, UBND các tỉnh, thành phố đã ban hành các quyết định
hưỡng dẫn thực hiện chi tiết công tác BT, GPMB. Nghị định 197/2004/NĐ-CP
sau một thời gian thực hiện, đặc biệt hơn là sau sự ra đời của NĐ 84/2007/NĐCP đã thể hiện tích cực vai trò và tính khả thi của các văn bản pháp luật. Vì vậy,
công tác bồi thường, hỗ trợ trong thời gian qua đã đạt được các kết quả khá khả
quan, thể hiện trên một số khía cạnh chủ yếu sau:
Thứ nhất, đối tượng được BT, hỗ trợ, TĐC ngày càng được xác định đầy
đủ chính xác, phù hợp với tình hình thực tế của đất nước, giúp cho công tác
quản lý đất đai của Nhà nước được nâng cao, người nhận đền bù cũng thấy thỏa
đáng.
Thứ hai, mức bồi thường hỗ trợ ngày càng cao tạo điều kiện cho người dân
bị thu hồi đất có thể khôi phục lại tài sản bị mất. Một số biện pháp hỗ trợ đã
được bổ sung và quy định rất rõ ràng, thể hiện được tinh thần đổi mới của Đảng
và Nhà nước nhằm giúp cho người dân ổn định về đời sống và sản xuất.
17


Thứ ba, việc bổ sung quy định về quyền tự thỏa thuận của các nhà đầu tư
cần đất với người sử dụng đất đã góp phần giảm sức ép cho các cơ quan hành
chính trong việc thu hồi đất.
Thứ tư, trình tự thủ tục tiến hành bồi thường hỗ trợ tái định cư đã giải quyết
được nhiều khúc mắc trong thời gian qua, giúp cho các cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền thực hiện công tác bồi thường, tái định cư đạt hiệu quả.
Thứ năm, các địa phương bên cạnh việc thực hiện các quy định Luật Đất
Đai năm 2003, các Nghị định hưỡng dẫn thi hành, tình hình thực tế tại địa

phương để ban hành các văn bản pháp luật áp dụng cho địa phương mình, làm
cho công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thỏa đáng nên việc thu hồi đất tiến
hành bình thường, mặc dù vẫn còn những khiếu nại nhưng con số này không gây
trở ngại nhiều trong quá trình thực hiện.
Thứ sáu, nhận thức về tầm quan trọng, ý nghĩa nhân văn cũng như tính chất
phức tạp của vấn đề thu hồi đất, tái định cư của nhà quản lý, hoạch định chính
sách, của chính quyền địa phương được nâng lên. Chính phủ đã có nhiều nỗ lực
để tạo điều kiện vật chất và kỹ thuật trong việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
Đội ngũ cán bộ làm công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư có năng lực và
có nhiều kinh nghiệm ngày càng đông đảo, sự chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn của
công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư giữa các bộ, ban, ngành có các dự án đầu
tư ngày càng được mở rộng và có hiệu quả.
2.2.4. Ảnh hưởng của công tác giải phóng mặt bằng, bồi thường và bố trí tái định
cư đến kinh tế- xã hội
Cùng với sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa thì đất nước ta đã và
đang đạt được những thành tựu quan trọng làm thay đổi từng ngày bộ mặt đất
nước từ thành thị đến nông thôn, góp phần cải thiện, nâng cao đời sống của nhân
dân và phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội. Để đạt được những bước phát
triển đó thì công tác bồi thường, hỗ trợ đóng vai trò rất quan trọng.
Trong những năm qua, công tác bồi thường, hỗ trợ và bố trí TĐC diễn ra
khá mạnh mẽ đã tác động trực tiếp đến cả ba lĩnh vực: kinh tế, chính trị, xã hội
của mỗi địa phương. Thông qua công tác bồi thường, hỗ trợ sẽ mở rộng không
gian đô thị, thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước, tạo nguồn thu
cho ngân sách địa phương và giải quyết việc làm cho người lao động. Từ đó
thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội của địa phương.

18


Bên cạnh đó, công tác bồi thường, hỗ trợ và bố trí TĐC đã làm thay đổi

toàn bộ đời sống kinh tế của người dân, các đặc trưng về văn hóa, hệ sinh thái
cũng bị ảnh hưởng. Trước áp lực ngày càng nhiều dự án gây tác động lớn về mặt
xã hội, môi trường, con người và hàng loạt các tệ nạn, tiêu cực xã hội phát sinh.
Điều này không chỉ ảnh hưởng đến ổn định, công bằng xã hội mà còn ảnh hưởng
đến sự phát triển của kinh tế địa phương.
Công tác bồi thường, hỗ trợ và bố trí TĐC góp phần phát triển kinh tế - xã
hội. Nó là một nội dung quan trọng, là yếu tố quyết định môi trường đầu tư, thu
hút nguồn vốn các dự án đầu tư, nên góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát
triển, nâng cao đời sống của nhân dân. Trong quá trình thực hiện công nghiệp
hóa -hiện đại hóa phát triển kinh tế của mỗi quốc gia đều gắn liền với sự phát
triển cơ sở hạ tầng, phát triển các khu công nghiệp, khu kinh tế, du lịch thương
mại, dịch vụ tập trung, phát triển đô thị… thì việc thu hồi đất, bồi thường luôn
được đặt ra như là một yếu tố có tính quy luật. Chính vì vậy, thực hiện tốt công
tác bồi thường, hỗ trợ là góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội của đất nước phát
triển. Đồng thời, nó cũng góp phần nâng cao đời sống của nhân dân. Đại bộ
phận nhân dân từ lao động nông, lâm, ngư nghiệp có thu nhập thấp chuyển sang
lao động công nghiệp, dịch vụ có thu nhập cao, đời sống văn hóa tinh thần từng
bước được nâng cao và mở rộng.
Bồi thường, hỗ trợ và bố trí TĐC góp phần đẩy nhanh quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất, phát triển đô thị. Thông qua việc thu hồi đất triển khai xây
dựng các dự án kinh tế - xã hội, thực hiện tốt công tác bồi thường sẽ thúc đẩy
nhanh việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của địa phương. Bồi
thường, hỗ trợ và bố trí TĐC kịp thời đóng vai trò quyết định đến hiệu quả sử
dụng đất của các dự án, khai thác được nguồn tài nguyên thiên nhiên, đất đai
không bị lãng phí.
Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực thì công tác bồi thường, hỗ
trợ và bố trí TĐC và cũng đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết. Vấn đề đảm bảo
nơi TĐC ổn định cho người bị thu hồi đất sau khi di dời nhiều nơi chưa thực
hiện tốt. Hệ thống cơ sở hạ tầng tại khu TĐC bao gồm hệ thống đường giao
thông, điện và nước phục vụ sinh hoạt chưa đáp ứng được nhu cầu của người

dân. Đào tạo nghề cho lao động địa phương bị mất đất sản xuất nông nghiệp
chưa được tiến hành kịp thời. Nó đòi hỏi các cơ quan thực thi công tác bồi
thường, hỗ trợ và bố trí TĐC không ngừng nổ lực tìm ra các giải pháp để giải
quyết những tồn tại nói trên, đem lại hiệu quả cho nền kinh tế - xã hội.
19


Vì vậy, công tác bồi thường và hỗ trợ và bố trí TĐC phải được tiến hành
đồng thời với việc thiết lập kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội nhằm đảm bảo đời
sống của người dân trong vùng giải tỏa ổn định lâu dài và bền vững.
2.2.5. Thực trạng thực hiện công tác giải phóng mặt bằng, bồi thường, hỗ trợ và
bố trí tái định cư ở huyện Lệ Thủy
Được sự quan tâm, đôn đốc, chỉ đạo thường xuyên của UBND tỉnh, cùng
với sự phối hợp và vào cuộc với tinh thần trách nhiệm cao của các sở, ban,
ngành cấp tỉnh, sự quan tâm của chính quyền địa phương các cấp, trong những
năm qua huyện Lệ Thủy đã thực hiện khá tốt công tác GPMB, bồi thường, hỗ
trợ và bố trí TĐC tạo nên những bước đột phá, nhiều điểm nhấn quan trọng góp
phần chỉnh trang diện mạo đô thị, đồng thời đưa huyện vươn cao, vươn xa hơn
trên con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Thực hiện Luật đất đai năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành luật
công tác GPMB được sự thống nhất cao của các ban ngành, ở các địa phương
thôn xóm đều ủng hộ, trong công tác bồi thường, GPMB và bố trí TĐC được
công khai dân chủ, ít xảy ra khiếu nại, khiếu kiện. UBND tỉnh đã từng bước xây
dựng và hoàn thiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và bố trí TĐC ngày càng thông
thoáng và sát với tình hình thực tế đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân,
đảm bảo hài hòa mối quan hệ về quyền lợi, nghĩa vụ của nhân dân - Nhà nước nhà đầu tư.
Về TĐC chưa đáp ứng nhu cầu thực tế, vẫn chưa giải quyết tốt đến đời
sống, việc làm của người dân. Cơ sở hạ tầng tuy đã đáp ứng cho nhu cầu của
người dân nhưng thiếu tính đồng bộ, nhiều dự án được triển khai nhưng chưa có
khu TĐC, ảnh hưởng tới đời sống sinh hoạt của người dân.

Trên cơ sở đó địa bàn huyện đã tiến hành lập Hội đồng bồi thường, hỗ trợ
và TĐC. Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và bố trí TĐC chịu trách nhiệm về tính
chính xác, hợp lý, hợp lệ của hồ sơ, chứng từ; số liệu kiểm kê, tính pháp lý của
đất đai, tài sản được bồi thường hoặc không được bồi thường, hỗ trợ và bố trí
TĐC; chi trả kịp thời tiền bồi thường, hỗ trợ cho đối tượng trong vùng dự án,
quản lý lưu trữ hồ sơ, chứng từ theo quy định của pháp luật; đồng thời chịu trách
nhiệm tổ chức các buổi họp chung nhân dân trong vùng dự án hoặc làm việc với
từng hộ gia đình, cá nhân.
Qua thực tế cho thấy công tác GPMB được thực hiện khá nhanh song vẫn
chưa thật đồng đều, vẫn còn gặp nhiều sai sót làm mất lòng tin trong nhân dân
nên đã làm chậm tiến độ của một số dự án. Mặt khác, chính sách đất đai của nhà
20


nước đã được chuyển đổi nhiều nhưng công tác quản lý đất đai vẫn còn hạn chế.
Nhìn chung việc bồi thường thiệt hại cho người dân ở trong huyện, thì Nhà nước
chỉ bồi thường đất và các tài sản gắn liền trên đất chứ chưa quan tâm đến đời
sống của nhân dân sau khi bị mất đất.
Nhưng theo phản ánh của các hộ dân cũng như lãnh đạo ở một số địa
phương, giá đất trên thị trường luôn biến động. Các địa phương không xác định
chính xác giá đất thị trường để bồi thường sát với mức giá này. Bên cạnh đó,
khung giá đất được UBND tỉnh Quảng Bình ban hành hàng năm và giữ nguyên
mức giá cho cả năm, mà GPMB, bồi thường và bố trí TĐC thường kéo dài nhiều
năm, giá bồi thường được đưa ra từ đầu và không thay đổi.
Công tác bồi thường, hỗ trợ và bố trí TĐC là công việc liên quan đến
nhiều cấp, nhiều ngành. Do đó, công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, phối hợp
thực hiện là rất quan trọng. Việc chỉ đạo, điều hành kịp thời, sát đúng, sự phối
hợp nhịp nhàng, đồng bộ giữa các cơ quan, bộ phận là điều quan trọng để quá
trình triển khai bồi thường, hỗ trợ, bố trí TĐC được nhanh chóng, thông suốt,
đúng pháp luật, đảm bảo dân chủ, công khai, được sự đồng thuận cao của đại bộ

phận nhân dân nên đáp ứng được yêu cầu mặt bằng cho các dự án triển khai kịp
thời. Thực tế vừa qua trên địa bàn huyện cho thấy nhiều dự án thực hiện một
cách nhanh chóng: đã làm thay đổi bộ mặt đô thị theo hướng hiện đại và văn
minh cho tỉnh và huyện.

21


PHẦN 3
ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, PHƯƠNG PHÁP VÀ NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đánh giá công tác giải phóng mặt bằng, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
trên địa bàn huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.
- Các văn bản Luật và văn bản dưới Luật có liên quan đến công tác giải
phóng mặt bằng, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trên địa bàn huyện Lệ Thủy,
tỉnh Quảng Bình.
- Các đối tượng nằm trong vùng ảnh hưởng của dự án giải phóng mặt bằng,
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trên địa bàn huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
3.2.1. Phạm vi không gian
Chọn 2 dự án thuộc vùng nghiên cứu là huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình
- Dự án 1: Đầu tư xây dựng công trình mở rộng Quốc lộ 1A đoạn qua Khu
vực Đông Thượng xã Sen Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.
- Dự án 2: Xây dựng điểm dân cư thôn Ninh Lộc, xã Hoa Thủy, huyện Lệ
Thủy, tỉnh Quảng Bình.
3.2.2. Phạm vi thời gian
- Thời gian sử dụng số liệu: năm 2010 – 2014
- Thời gian thực tập: 05/01/2015 đến 08/05/2015
3.3. Phương pháp nghiên cứu
3.3.1. Phương pháp thu thập số liệu, tài liệu

* Thu thập số liệu thứ cấp
Tiến hành thu thập các số liệu thứ cấp tại các cơ quan, ban ngành chuyên
môn và UBND các xã để phục vụ đề tài, các số liệu bao gồm:
- Số liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của khu vực nghiên cứu.
- Số liệu tình hình về công tác giải phóng mặt bằng, bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư.

22


* Thu thập số liệu sơ cấp
- Điều tra, phỏng vấn hộ:
+ Dự án 1: Điều tra, phỏng vấn 45 hộ trong tổng số 145 hộ bị thu hồi đất,
bồi thường và tái định cư.
+ Dự án 2: Điều tra, phỏng vấn 10 hộ trong tổng số 31 hộ bị thu hồi đất,
bồi thường và tái định cư.
- Điều tra thực địa nhằm thu thập thông tin đồng nhất từ những người
được phỏng vấn khác nhau. Những câu hỏi trong bảng hỏi chú trọng đến các
vấn đề về đời sống của người dân nằm trong vùng bị ảnh hưởng của việc thu
hồi đất trong quá trình ĐTH.
3.3.2. Phương pháp tổng hợp, phân tích, xử lý số liệu
Tiến hành xử lý số liệu thu thập và phân tích bằng phần mềm SPSS16.0
nhằm xác định sự biến động của các chỉ tiêu để phân tích, tính toán và đánh
giá vấn đề.
3.3.3. Phương pháp kế thừa
Tham khảo, vận dụng có chọn lọc các tài liệu có sẵn liên quan nhằm bổ
sung dữ liệu cho hoạt động nghiên cứu.
3.3.4. Phương pháp chuyên gia
Phỏng vấn ý kiến và kinh nghiệm của những cán bộ trong Trung tâm phát
triển quỹ đất và Phòng tài nguyên môi trường huyện Lệ Thủy về công tác đo đất

và kiểm kê tài sản của người dân để đưa ra các phương pháp chính xác nhất.
3.4. Nội dung nghiên cứu
- Tìm hiểu, đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến
công tác giải phóng mặt bằng, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
- Đánh giá tình hình công tác quản lý và sử dụng đất đai.
- Nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng công tác giải phóng mặt bằng, bồi
thường, hỗ trợ và bố trí tái định cư trên địa bàn huyện Lệ Thủy.
- Đánh giá công tác GPMB, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư tại hai dự án
trên địa bàn huyện Lệ Thủy.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong giải phóng mặt
bằng, bồi thường, hỗ trợ và bố trí tái định cư.
23


PHẦN 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội huyện Lệ Thủy
4.1.1. Điều kiện tự nhiên
4.1.1.1. Vị trí địa lý
Lệ Thủy là huyện nằm ở phía Nam của tỉnh Quảng Bình, có diện tích tự nhiên
141.611,41 ha, có toạ độ địa lý: 106º25’-106º59’ kinh Đông; 16º55’-17º22’ vĩ Bắc.
- Phía Bắc giáp huyện Quảng Ninh.
- Phía Nam giáp tỉnh Quảng Trị.
- Phía Đông giáp biển Đông.
- Phía Tây giáp nước CHDCND Lào.

Hình 4.1. Bản đồ hành chính huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình
Huyện Lệ Thủy có tổng diện tích tự nhiên của huyện là 141.611,41 ha,
chiếm 17,56% diện tích toàn tỉnh và được phân chia thành 28 đơn vị hành chính
gồm 26 xã và 2 thị trấn, với dân số 141.787 người.

24


4.1.1.2. Địa hình, địa mạo
Huyện Lệ Thủy là huyện được hình thành với nhiều dạng địa hình: vùng núi
đá vôi, vùng đồi trung du, vùng đồng bằng chiêm trũng và vùng cồn cát ven biển. Về
mặt cấu trúc địa chất, đây là vùng trũng của dãy Trường Sơn. Đồng bằng thấp trũng
bị kẹp giữa những cồn cát ven biển và vùng đồi núi phía Tây và phía Nam, địa hình
nghiêng trung bình 6° theo hướng Tây - Bắc, Đông - Nam. Địa hình đồi núi chiếm
77% diện tích tự nhiên, toàn huyện có các dạng địa hình sau:
a) Vùng núi cao
Kiểu địa hình này chiếm phần nhiều diện tích đất của huyện, có độ cao
trung bình 600 - 700 m, độ dốc 20 - 25 0 được hình thành sau vận động Hecxini
muộn, cấu trúc địa chất tương đối phức tạp. Diện tích vùng núi rộng (riêng núi
đá không có rừng cây là 352,72 ha) tập trung ở phía tây đường 15 đến biên giới
Việt - Lào, phân bố chủ yếu ở xã Sơn Thuỷ. Đây là một phần của dãy Trường
Sơn gồm nhiều núi đá vôi, địa hình chia cắt mạnh, nhiều hẻm vực sâu và phía
trên mặt ít gặp dòng chảy.
b) Vùng gò đồi
Kiểu địa hình này gồm các dãy đồi thấp dọc đường Hồ Chí Minh thuộc
địa phận các xã: Hoa Thuỷ, Sơn Thuỷ, Phú Thuỷ, Mai Thuỷ, Trường Thuỷ,
Văn Thuỷ, Thái Thuỷ, Dương Thuỷ, Sen Thuỷ và các đồi cát ven và quốc lộ
1A tạo thành chữ U bao vây vùng đồng bằng của huyện. Những quả đồi ở
vùng đệm này có dạng úp bát, thoải lượn sóng, nhiều cây bụi, độ dốc từ 18 20°, độ cao 20 - 30m. Đất đồi trung du chiếm khoảng 50 - 55% diện tích đất
tự nhiên toàn huyện.
c) Vùng đồng bằng
Vùng đồng bằng Lệ Thuỷ nằm ở hạ lưu sông Kiến Giang, kẹp giữa
đường Hồ Chí Minh và quốc lộ 1A, với độ cao trung bình 5m bị uốn lượn
theo mức độ thấp dần ra phá Hạc Hải và chịu ảnh hưởng của thuỷ triều. Địa
hình vùng này thấp trũng tương đối bằng phẳng, nhất là các xã vùng giữa

hình thành bởi phù sa của sông Kiến Giang và các con sông khác bổ sung
nguồn nước như: An Mã, Rào Ngò, Mỹ Đức, Phú Kỳ, Thạch Bàn... đảm bảo
tưới tiêu, phù sa cho ruộng lúa nước. Đây là vùng sản xuất nông nghiệp chính
của huyện, hàng năm cung cấp một lượng lớn lương thực, thực phẩm cho
nhân dân. Địa hình này khá thuận lợi cho giao thông cũng như sản xuất nông
nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản.
25


×