Lời cảm ơn
Khóa luận tốt nghiệp là một học phần có số đơn vị học phần là 10
tín chỉ. Nó là quá trình thực hành hóa những kiến thức về chuyên
ngành mà sinh viên tích lũy được trong suốt khóa học. Trong quá trình
thực hiện khóa luận tốt nghiệp, cá nhân tôi đã gặp một số khó khăn
nhất định. Nhưng tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ để tôi có thể
vượt qua và hoàn thành bài khóa luận tốt nghiệp này.
Trước hết, tôi xin cảm ơn các thầy cô trường Đại học Nông lâm
Huế. Đặc biệt, là các thầy cô trong khoa Chăn nuôi – Thú y đã trực
tiếp truyền đạt cho tôi những kiến thức cần thiết để tôi có thể hoàn
thành bài khóa luận này.
Tiếp theo, tôi cũng xin chân thành cảm ơn ban quản lý cùng các
cô, các chú, các anh chị em công nhân trại chăn nuôi Vĩnh Tân 2.
Trong quá trình thực tập, tôi đã được mọi người chỉ bảo, giúp đỡ tận
tình. Họ truyền dạy cho tôi những kinh nghiệm quý báu mà khó có thể
có được trên giảng đường đại học.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới cô giáo ThS. Bùi Thị
Hiền. Người đã trực tiếp hướng dẫn tôi thực hiện và hoàn thành bài
khóa luận tốt nghiệp này.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình của tôi đã tạo mọi
điều kiện tốt nhất để tôi có thể an tâm học tập, hoàn thành bài khóa
luận. Qua đây, tôi cũng xin cảm ơn những người bạn của tôi. Các bạn
đã ở bên cạnh tôi, giúp đỡ tôi những khi tôi gặp khó khăn nhất.
Do kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế nên bài khóa luận này
không tránh khỏi những sai sót. Rất mong nhận được sự nhận xét, góp
ý của thầy cô giáo để bài khóa luận hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Huế, ngày 23 tháng 05 năm
2015
Sinh viên thực hiện
Lê Quang Dương
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Thành phần dinh dưỡng của các loại cám được sử dụng trong trại
.............................................................................................................................26
Bảng 2.2. Chương trình cho ăn đối với nái mang thai...................................27
Bảng 2.3. Chương trình cho ăn đối với nái trước khi đẻ...............................27
Bảng 2.4. Lịch trình tiêm vaccine cho lợn tại trại Vĩnh Tân 2......................28
Bảng 4.1. Tỷ lệ lợn con theo mẹ mắc hội chứng tiêu chảy tại trại Vĩnh Tân 2
.............................................................................................................................34
Bảng 4.2. Quy trình điều chỉnh nhiệt độ quạt thông gió trong trại đẻ.........37
Bảng 4.3. Quy trình chăm sóc lợn con theo mẹ..............................................41
DANH MỤC CÁC HÌNH ẢNH
Hình 2.1. Trại Vĩnh Tân 2 chụp từ ảnh vệ tinh...............................................24
(Nguồn: Internet)..............................................................................................24
Hình 2.2. Cám HI-GRO 567S Hình 2.3. Cám HI-GRO 550S.......................26
Hình 4.1. Phân lợn con bị tiêu chảy.................................................................35
Hình 4.2. Sơ đồ mặt cắt trại nái đẻ..................................................................36
(Nguồn: Trại Vĩnh Tân)....................................................................................36
Hình 4.3. Thuốc sát trùng Omnicide...............................................................38
Hình 4.4. Trại đẻ sau khi tổng vệ sinh.............................................................40
Hình 4.5. Chế phẩm CTC
Hình 4.6. Sorbitol (màu hồng)........................40
.............................................................................................................................41
Hình 4.6. Bột Mistral.........................................................................................41
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
Chú giải tiếng anh
AD
Aujezsky’s disease
C. perfringens
Clostridium perfringens
CFU
Colony forming unit
Cs
CSF
Chú giải tiếng việt
Bệnh giả dại
Số đơn vị khuẩn lạc trên 1ml mẫu
Cộng sự
Classical swine fever
Dịch tả lợn
Chế phẩm phòng tiêu chảy cho lợn
con
CTC
E. coli
Escherichia coli
EM
Effective microorganisms
FMD
Foot and mouth disease
Bệnh lở mồm long móng
I.M
Injection muscular
Tiêm bắp
ME
Metabolizable energy
Năng lượng trao đổi
PED
Porcine epidemic
diarrhea
Dịch tiêu chảy trên lợn
PRRS
Porcine reproductive and
respiratory syndrome
Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh
sản ở lợn
TGE
Transmissible
gastroenteritis
Bệnh viêm dạ dày ruột truyền
nhiễm
U.V
Ultraviolet
Tia tử ngoại
:
MỤC LỤC
Phần 1. MỞ ĐẦU.................................................................................................1
1.1. Đặt vấn đề........................................................................................................................1
1.2. Mục tiêu đề tài..................................................................................................................2
Phần 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU......................................................................3
2.1. Khái niệm về hội chứng tiêu chảy....................................................................................3
2.2. Tình hình nghiên cứu về hội chứng tiêu chảy trên thế giới và ở Việt Nam.....................3
2.2.1. Trên thế giới..............................................................................................................3
2.2.2. Ở Việt Nam...............................................................................................................4
Theo Sử An Ninh và cs (1981) bệnh phân trắng lợn con có liên quan đến trạng thái stress.
Hầu hết lợn con bị bệnh phân trắng có hàm lượng Cholesterol trong huyết thanh giảm thấp
[27]..........................................................................................................................................6
2.3. Đặc điểm sinh lý của lợn con...........................................................................................6
2.3.1. Đặc điểm tiêu hoá của lợn con..................................................................................7
2.3.2. Đặc điểm thích ứng của lợn con................................................................................7
2.3.3. Hệ vi sinh vật đường ruột ở lợn con..........................................................................8
2.3.4. Khả năng đáp ứng miễn dịch của lợn con.................................................................9
2.4. Một số nguyên nhân gây tiêu chảy ở lợn.......................................................................10
2.4.1. Do điều kiện ngoại cảnh bất lợi..............................................................................10
2.4.2. Do chế độ nuôi dưỡng không hợp lý.......................................................................11
2.4.3. Do ký sinh trùng......................................................................................................11
2.4.4. Do virus...................................................................................................................11
2.4.5. Do vi khuẩn.............................................................................................................12
2.4.6. Do nấm mốc............................................................................................................13
2.4.7. Ảnh hưởng của điều kiện chuồng trại.....................................................................13
2.4.8. Ảnh hưởng của độ ẩm chuồng nuôi đến hội chứng tiêu chảy ở lợn.......................14
2.5. Bệnh lý lâm sàng của hội chứng tiêu chảy.....................................................................14
2.5.1. Cơ chế sinh bệnh.....................................................................................................14
2.5.1.1. Rối loạn tiết dịch mật.......................................................................................15
2.5.1.2. Rối loạn tiết dịch vị..........................................................................................15
2.5.1.3. Rối loạn tiết dịch ruột.......................................................................................15
2.5.1.4. Rối loạn co bóp ruột.........................................................................................15
2.5.2. Triệu chứng của bệnh .............................................................................................16
Bệnh thường xảy ra ở lợn con, đặc biệt ở lợn mới sinh đến 21 ngày tuổi, có con mắc sớm
hơn, ngay sau khi sinh ra 1 đến 3 giờ và mắc muộn khi 4 tuần tuổi.................................16
Lợn con mắc bệnh đa số thân nhiệt tăng sau 2 đến 3 ngày thì hạ xuống do tiêu chảy mất
nước nhiều. Trong 1 đến 2 ngày đầu mắc bệnh lợn vẫn bú sau đó gầy tọp nhanh, lông xù,
đuôi rũ, da nhăn nheo, nhợt nhạt, hai chân sau dúm lại và run rẩy, đuôi và khoeo dính
đầy phân............................................................................................................................16
Tiêu chảy ở mức độ nhẹ lợn không có biểu hiện mất nước nhưng cũng có thể tiêu chảy
nặng. Khối lượng cơ thể bị giảm sút 30- 40% do mất nước. Cơ bụng hóp lại, lợn gầy, suy
kiệt và đi siêu vẹo, mắt trũng sâu, da tái xám và nhợt nhạt. Trong trường hợp mãn tính,
da quanh vùng hậu môn có thể đỏ lên do tiếp xúc với phân kiềm tính, lợn ít bị mất nước
và nếu điều trị tích cực thì có thể khỏi bệnh.....................................................................16
Ngoài việc chẩn đoán dựa vào triệu chứng trên thì bệnh còn được xác định chủ yếu dựa
vào trạng thái biến đổi của phân. Về trạng thái phân có thể chia làm 3 giai đoạn:...........16
2.5.3. Bệnh tích của bệnh..................................................................................................17
Xác chết gầy, đuôi và khoeo dính đầy phân, mắt trũng sâu, lông da khô, mất tính đàn hồi.
Dạ dày chứa đầy sữa đông vón màu vàng trắng chưa tiêu. Ruột non căng phồng chứa đầy
hơi, dịch màu vàng và có xuất huyết điểm ở thành ruột, niêm mạc ruột bị hoại tử từng
đám. Trong ruột già chứa phân màu vàng. Màng treo ruột xuất huyết, hạch màng treo
ruột sưng. Một số trường hợp lợn con bị viêm phổi, xoang ngực, xoang bụng chứa dịch
[41]....................................................................................................................................17
2.6. Những kết quả nghiên cứu về phòng và trị tiêu chảy ở lợn...........................................17
2.6.1. Những nghiên cứu về phòng tiêu chảy...................................................................18
2.6.1.1. Phòng tiêu chảy bằng các biện pháp kỹ thuật..................................................18
2.6.1.2. Phòng bệnh bằng vaccine.................................................................................19
2.6.1.3. Phòng bệnh bằng chế phẩm sinh học...............................................................19
2.6.2. Những nghiên cứu về điều trị tiêu chảy..................................................................21
2.6.2.1. Điều trị hội chứng tiêu chảy bằng kháng sinh..................................................22
2.6.2.2. Điều trị hội chứng tiêu chảy bằng chế phẩm sinh học.....................................23
2.7. Tình hình chăn nuôi tại trại Vĩnh Tân 2.........................................................................24
2.7.1. Quy mô chăn nuôi...................................................................................................24
2.7.2. Hệ thống chuồng trại...............................................................................................25
2.7.3. Thức ăn được sử dụng.............................................................................................26
2.7.3.1. Lợn nái mang thai............................................................................................26
2.7.3.2. Giai đoạn trước khi đẻ......................................................................................27
2.7.3.3. Giai đoạn sau khi đẻ.........................................................................................27
2.7.4. Thuốc và vaccine.....................................................................................................28
Phần 3. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.30
3.1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu..................................................................................30
3.2. Đối tượng.......................................................................................................................30
3.3. Nội dung.........................................................................................................................30
3.4. Vật liệu...........................................................................................................................30
3.5. Phương pháp nghiên cứu................................................................................................33
3.5.1. Phương pháp điều tra..............................................................................................33
3.5.2. Phương pháp xử lý số liệu.......................................................................................33
Phần 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN.............................................................34
4.1. Tỷ lệ lợn con theo mẹ mắc hội chứng tiêu chảy tại trại Vĩnh Tân 2..............................34
4.2. Công tác phòng bệnh trong trại đẻ.................................................................................35
4.2.1. Về chuồng trại.........................................................................................................35
4.2.2. Về vệ sinh tiêu độc, khử trùng................................................................................37
4.2.3. Về chăm sóc, nuôi dưỡng........................................................................................39
4.3. Công tác điều trị hội chứng tiêu chảy............................................................................42
Phần 5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ.................................................................43
5.1. Kết luận..........................................................................................................................43
5.2. Kiến nghị........................................................................................................................43
Phần 6. TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................45
Phần 7. PHỤ LỤC...............................................................................................1
Phần 1. MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Chăn nuôi là một phần của hệ thống nông nghiệp Việt Nam, khi mà tỷ
trọng ngành nông nghiệp đang dần giảm xuống thì chăn nuôi vẫn sẽ giữ vai
trò quan trọng góp phần phát triển kinh tế. Trong đó, chăn nuôi lợn đóng vai
trò chủ yếu trong phát triển ngành chăn nuôi của Việt Nam. Trong 5 năm gần
đây, sản lượng thịt lợn chiếm 76% sản lượng thịt hơi các loại. Sản phẩm thịt
lợn là sản phẩm quen thuộc và không thể thiếu đối với người Việt Nam, nó đã
trở thành loại thức ăn phổ biến nhất so với những loại thịt khác trên thị trường
như thịt bò, thịt trâu, thịt gà, tôm , cua .v.v…Theo kết quả điều tra 01/10/2014
cả nước có khoảng 26,8 triệu con lợn, tăng 1,9%, trong đó đàn lợn nái có 3,9
triệu con, bằng 100,1% so với cùng kỳ năm trước [3]. Hiện tại chăn nuôi lợn
khá thuận lợi do giá lợn hơi tăng và dịch lợn tai xanh không xảy ra đã kích
thích người chăn nuôi đầu tư tái đàn. Sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng 6
tháng đầu năm ước tính đạt 1963,3 nghìn tấn, tăng 1,65% so với cùng kỳ năm
trước. Chính vì thế ngành chăn nuôi lợn của Việt Nam trong những năm qua
đã góp phần chủ đạo vào việc đáp ứng nhu cầu về dinh dưỡng cho người dân,
đặc biệt là người dân ở nông thôn Việt Nam.
Hiện nay, với sự phát triển của khoa học công nghệ, chăn nuôi lợn với quy
mô lớn sẽ là biện pháp hiệu quả để tiết kiệm chi phí mua chất đốt và điện thắp
sáng nhờ sử dụng khí biogas từ chăn nuôi lợn. Chăn nuôi lợn quy mô lớn đang
là xu hướng tất yếu trong nền kinh tế thị trường, là tối ưu hóa lợi nhuận từ chăn
nuôi lợn và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng.
Tuy vậy, tình hình dịch bệnh trên đàn lợn ngày càng diễn biến rất phức tạp.
Lợn bị bệnh ở mọi lứa tuổi với nhiều loại bệnh khác nhau và có thể bị bệnh ghép
làm cho lợn chết nhanh, chết với tỷ lệ cao; gây thiệt hại lớn về kinh tế cho người
chăn nuôi, gây khó khăn cho công tác khám và điều trị bệnh cho con vật. Đặc
biệt, lợn con sơ sinh đến 21 ngày tuổi là dễ mắc bệnh nhất vì lúc này miễn dịch
chủ động của lợn con chưa có và miễn dịch chủ yếu là từ mẹ truyền sang qua
sữa đầu. Một trong những bệnh mà lợn con hay mắc phải và gây thiệt hại lớn
cho người chăn nuôi là bệnh phân trắng lợn con. Bệnh do nhiều nguyên nhân
gây ra có thể do thay đổi thời tiết, tuổi cai sữa, dinh dưỡng, vận chuyển, vi sinh
vật,...Bệnh này là bệnh đặc trưng đối với lợn con ở giai đoạn từ 1-3 tuần tuổi,
bệnh phát triển mạnh mẽ và gây thiệt hại nghiêm trọng nhất khi lợn con ở độ
tuổi 10-20 ngày tuổi. Bệnh này xảy ra ở hầu hết các nước trên thế giới. đối với
1
Việt Nam từ những năm trước cho tới hiện nay bệnh lợn con phân trắng vẫn phổ
biến và xảy ra nhiều [23].
Đã có nhiều công trình nghiên cứu trong nước về hội chứng tiêu chảy ở lợn
con và đưa ra các biện pháp phòng trị bệnh, góp phần không nhỏ trong việc hạn
chế những thiệt hại do tiêu chảy gây ra ở lợn con theo mẹ. Tuy nhiên sự phức
tạp của cơ chế gây bệnh, những tác động phối hợp của các nguyên nhân, đặc
điểm cơ thể gia súc non… đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc ứng dụng các kết
quả nghiên cứu. Vì thế, các giải pháp được đưa ra chưa thực sự đem lại kết quả
mong muốn. Hội chứng tiêu chảy ở lợn con theo mẹ vẫn là nguyên nhân gây
thiệt hại lớn cho các cơ sở chăn nuôi lợn. Do đó, việc điều tra tình hình mắc hội
chứng tiêu chảy ở lợn con theo mẹ và biện pháp phòng trị bệnh tại trại Vĩnh Tân
2 sẽ phần nào làm rõ hơn thực trạng bệnh và hiệu quả phòng trị bệnh tại cơ sở
chăn nuôi. Từ kết quả nghiên cứu thu được, chúng tôi mong muốn cung cấp cái
nhìn toàn diện hơn về bệnh này.
Xuất phát từ thực tiễn trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Điều tra
tình hình mắc hội chứng tiêu chảy ở lợn con theo mẹ và biện pháp phòng trị
bệnh tại trại Vĩnh Tân 2”
1.2. Mục tiêu đề tài
- Xác định được tỷ lệ mắc hội chứng tiêu chảy ở lợn con từ lúc sơ sinh đến
21 ngày tuổi tại trại Vĩnh Tân 2
- Điều tra tình hình phòng và điều trị hội chứng tiêu chảy ở lợn con từ lúc
sơ sinh đến 21 ngày tuổi tại trại Vĩnh Tân 2.
2
Phần 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Khái niệm về hội chứng tiêu chảy
Tiêu chảy là một hội chứng bệnh lý đường tiêu hóa, là hiện tượng con vật
tiêu nhiều lần trong ngày, trong phân có nhiều nước do rối loạn chức năng tiêu
hóa (tăng cường co bóp và tiết dịch) [53], hoặc chỉ phản ánh đơn thuần sự thay
đổi tạm thời của phân gia súc bình thường khi gia súc đang thích ứng với những
thay đổi trong khẩu phần ăn. Tiêu chảy xảy ra ở nhiều bệnh và bản thân nó
không phải là bệnh đặc thù [1].
2.2. Tình hình nghiên cứu về hội chứng tiêu chảy trên thế giới và ở Việt
Nam
2.2.1. Trên thế giới
Trên thế giới, hội chứng tiêu chảy ở lợn đã được nghiên cứu từ lâu. Các tác
giả đã đi sâu nghiên cứu về hội chứng tiêu chảy theo nhiều khía cạnh khác nhau
bằng nhiều phương pháp khác nhau.
Radostits và cs (1994) cho rằng E. coli gây bệnh cho lợn là các chủng có
kháng nguyên pili và sản sinh độc tố đường ruột đóng vai trò quan trọng và phổ
biến trong quá trình tiêu chảy ở lợn. Đồng thời, theo ông Salmonella cũng là
nguyên nhân chính gây ra hội chứng tiêu chảy ở lợn. Hiện nay, các nhà khoa học
đã ghi nhận có khoảng 2.200 serotype Salmonella và được chia ra 67 nhóm
huyết thanh dựa vào cấu trúc kháng nguyên O [72]. E. coli có các chủng O8, O129
,O138 ,O141, O147, O149 và O157 là nguyên nhân của yếu gây tiêu chảy ở lợn con
trong thời kỳ bú mẹ đã được Nagy và cs phát hiện năm 1991 [70].
Nhiều nghiên cứu khác nhau chỉ ra rằng, sự xuất hiện bệnh do Salmonella
phụ thuộc vào các điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng. Mỗi yếu tố bất lợi làm giảm
sức đề kháng của vật nuôi đều phải coi là nguyên nhân tiên phát của sự xuất hiện
bệnh [29], [52].
Lecce (1976), Nilson (1984) nghiên cứu về virus gây bệnh đường tiêu
hoá đã xác định được vai trò của Rotavirus trong hội chứng tiêu chảy ở lợn
[69], [71].
Khoon Teng Hout (1995) đã thống kê được 11 loại virus có tác động làm
tổn thương đường tiêu hoá gây viêm ruột tiêu chảy như Adenovirus type IV,
Enterovirus, Rotavirus [13].
3
Theo Bergenland (1992) trong số những mầm bệnh thường gặp ở lợn trước
và sau cai sữa bị bệnh tiêu chảy có rất nhiều loại virus, 29% phân lợn bệnh tiêu
chảy phân lập được Rotavirus, 11,2% có virus TGE, 2% có Enterovirus, 0,7% có
Parvovirus [66].
Theo các tác giả Niconxki (1986) khi gia súc bị lạnh, ẩm kéo dài sẽ làm
giảm phản ứng miễn dịch, giảm tác động thực bào, do đó gia súc dễ bị vi khuẩn
cường độc gây bệnh [29].
Laval (1997) cho biết, thức ăn thiếu các chất khoáng, vitamin cần thiết cho
cơ thể gia súc, đồng thời phương thức cho ăn không phù hợp sẽ làm giảm sức đề
kháng của gia súc và tạo cơ hội cho các vi khuẩn gây hội chứng tiêu chảy [68].
2.2.2. Ở Việt Nam
Theo Nguyễn Lương (1963) Trịnh Văn Thịnh (1985) lợn bị tiêu chảy
thường mất nước, mất chất điện giải và kiệt sức. Những lợn khỏi bệnh thường
chịu hậu quả còi cọc, thiếu máu, chậm lớn dẫn đến tỷ lệ nuôi sống thấp và tỷ
lệ chết cao. Đó cũng là nguyên nhân làm cho hiệu quả chăn nuôi không cao
[22], [59].
Theo Đoàn Thị Băng Tâm (1987) , Sử An Ninh (1993) , Lê Văn Tạo
(1993), Phan Thanh Phượng (1995) , ở nước ta bệnh tiêu chảy xảy ra quanh
năm, đặc biệt là vào vụ đông xuân, khi thời tiết thay đổi đột ngột và vào những
giai đoạn chuyển mùa trong năm [52], [28], [50], [44].
Kết quả nghiên cứu của Hoàng Văn Tuấn, Lê văn Tạo, Trần Thị Hạnh
(1998) cho thấy bệnh tiêu chảy xảy ra ở mọi lứa tuổi, sơ sinh, cai sữa và cả lợn
sinh sản, nhưng trầm trọng nhất là ở lợn sơ sinh đến cai sữa [64].
Trịnh Văn Thịnh (1964), Vũ Văn Ngữ (1979), Trương Quang (2005) cho
rằng do một tác nhân nào đó, trạng thái cân bằng của khu hệ vi sinh vật đường
ruột bị phá vỡ, tất cả hoặc chỉ một loại nào đó sinh sản lên quá nhiều sẽ gây ra
hiện tượng loạn khuẩn. Loạn khuẩn đường ruột là nguyên nhân chủ yếu gây
bệnh ở đường tiêu hoá, đặc biệt là gây tiêu chảy [57], [32], [47].
Đào Trọng Đạt và cs (1996) cho biết, khi sức đề kháng của cơ thể giảm sút.
E. coli thường xuyên cư trú trong đường ruột của lợn thừa cơ sinh sản rất nhanh
và gây nên sự mất cân bằng hệ vi sinh vật đường ruột, gây tiêu chảy [8].
Theo Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân (1997) tác nhân gây bệnh lợn con
phân trắng chủ yếu là E. coli và nhiều loại Salmonella [18].
4
Theo Nguyễn Như Thanh và cs (2001) ở bệnh phân trắng lợn con, tác nhân
gây bệnh chủ yếu là E. coli, ngoài ra có sự tham gia của Salmonella và vai trò
thứ yếu là Proteus, Streptococcus [54].
Hồ Văn Nam, Trương Quang và cs (1997) khi xét nghiệm phân lợn khoẻ và
lợn bị tiêu chảy đã nhận thấy trong phân lợn thường xuyên có các loại vi khuẩn
hiếu khí: E. coli, Salmonella Streptococcus, Klebsiella, Bacilus subtilis. Khi lợn
bị tiêu chảy E. coli, Salmonella tăng lên một cách bội nhiễm [26].
Trịnh Văn Thịnh (1985) cho rằng tác nhân gây tiêu chảy ở lợn con là E.
coli, nhiều loại Salmonella, đóng vai trò phụ là Proteus, trực trùng sinh mủ,
Streptococcus [59].
Đoàn Thị Kim Dung (2004) cho biết khi lợn bị tiêu chảy số loại vi khuẩn và
tổng số vi khuẩn hiếu khí trong một gram phân tăng lên so với ở lợn không bị
tiêu chảy. Khi phân lập tác giả thấy rằng các vi khuẩn đóng vai trò quan trọng
trong hội chứng tiêu chảy như E. coli, Salmonella và Streptococcus tăng lên,
trong khi Staphylococcus và Bacillus subtilis giảm đi [4].
Theo Nguyễn Thị Oanh (2003) lợn nuôi ở Đắc Lắc nhiễm Salmonella với
tỷ lệ 17,2%; trong đó lợn ở lứa tuổi 2- 4 tháng nhiễm Salmonella cao nhất
(24,78%). Lợn khoẻ, tỷ lệ nhiễm Salmonella là 11,2%; trong khi đó ở lợn tiêu
chảy nhiễm 23,68% [37].
Tạ Thị Vịnh, Đặng Khánh Vân (1996) khi nghiên cứu E. coli và Salmonella
cho biết tỷ lệ nhiễm E. coli độc ở lợn bình thường là 14,66%, ở lợn tiêu chảy tỷ
lệ này là 33,84% [65].
Vũ Bình Minh, Cù Hữu Phú (1999) khi nghiên cứu về E. coli ở phân lợn
tiêu chảy, tỷ lệ phát hiện E. coli độc trong phân là 80- 90% số mẫu xét [24].
Nguyễn Thị Nội (1985) nghiên cứu định type kháng nguyên O của 5430
chủng E. coli phân lập ở lợn nuôI tại 8 tỉnh, thành phố trong cả nước cho biết
các serotype gây bệnh phổ biến ở lợn là O141, O149, O117, O147, O138, và
O139. Ngoài những chủng phổ biến trên, mỗi địa phương còn có những
serotype riêng biệt [36].
Lê Văn Tạo (1996) qua phân lập từ bệnh phẩm của lợn dưới 30 ngày
tuổi, đã kết luận các chủng E. coli thuộc serotype kháng nguyên O thường
gây bệnh phân trắng lợn con ở các cơ sở chăn nuôi phía Bắc là O 111, O86, O26
tiếp đó là O141, và O1 [51].
5
Tô Thị Phượng (2006) khi nghiên cứu biến động của Salmonella và E. coli
ở lợn qua các lứa tuổi cho thấy, có 100 % các mẫu phân có vi khuẩn E. coli dù
lợn bị tiêu chảy hay không tiêu chảy. Lợn từ sơ sinh đến 21 ngày tuổi tỷ lệ
nhiễm Salmonella là 41,165%, sau đó theo độ tuổi tỷ lệ nhiễm tăng dần từ
58,33% đến 60%. Khi lợn bị tiêu chảy, tỷ lệ Salmonella cũng tăng lên đáng kể,
tỷ lệ nhiễm là 81,25% ở lợn 1 – 21 ngày tuổi , 85,71% ở lợn 22 - 60 ngày tuổi và
75% ở lợn > 60 ngày tuổi. Số lượng vi khuẩn Salmonella cũng tăng lên từ 13,91
triệu đến 41,48 triệu vi khuẩn/1gram phân ở lợn từ 1 đến >60 ngày tuổi [46].
Nguyễn Thị Ngữ (2005) khi nghiên cứu về E. coli và Salmonella trong
phân lợn tiêu chảy và lợn không tiêu chảy cho biết: ở lợn không tiêu chảy có
83,30% - 88,29% số mẫu có E. coli, 61,00% - 70,50% số mẫu có mặt
Salmonella. Trong khi đó ở mẫu phân của lợn bị tiêu chảy thì có tới 93,7% 96,4% số mẫu phân lập có E. coli, và 75,0%-78,6% số mẫu phân lập có
Salmonella [35].
Phan Thanh Phượng (1996) đã xác định vi khuẩn yếm khí Clostridium
perfringens là một trong những tác nhân quan trọng gây ra hội chứng tiêu chảy ở
lợn lứa tuổi 1 đến 120 ngày. ở lợn con theo mẹ, tỷ lệ mắc bệnh có thể đến 100%
và tỷ lệ chết là 60%. Số lượng vi khuẩn C. perfringens trong 1 gam phân lợn
tiêu chảy ở lứa tuổi 1 đến 60 ngày dao động từ 10 6 đến 1010 CFU, số mẫu có
lượng vi khuẩn cao (108, 109, 1010) chiếm tỷ lệ 37% đến 45%. ở lợn từ 60 đến
120 ngày tuổi bị tiêu chảy, những mẫu phân có số lượng vi khuẩn /1gram phân ở
mức 108; 109 chiếm tỷ lệ 27,14% đến 35,71% [45].
Theo Đoàn Thị Kim Dung (2004), các yếu tố nóng, lạnh, mưa, nắng, hanh,
ẩm thay đổi bất thường và điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng ảnh hưởng trực tiếp
đến cơ thể lợn, nhất là cơ thể lợn con chưa phát triển hoàn chỉnh, các phản ứng
thích nghi của cơ thể còn yếu [4].
Theo Đào Trọng Đạt và cs (1996) thì trong những tháng mưa nhiều, độ ẩm
cao lợn con bị bệnh phân trắng tăng lên rõ rệt, có khi lên đến 90 – 100% [8].
Theo Phạm Khắc Hiếu và cs (1998) hệ thống tiêu hoá (dạ dày, ruột) của lợn
mẫn cảm đặc biệt với stress. Hiện tượng stress thường gây nên biểu hiện chán
ăn, nôn mửa, tăng nhu động ruột, có khi tiêu chảy, đau bụng [11].
Theo Sử An Ninh và cs (1981) bệnh phân trắng lợn con có liên quan đến trạng thái
stress. Hầu hết lợn con bị bệnh phân trắng có hàm lượng Cholesterol trong huyết thanh
giảm thấp [27].
2.3. Đặc điểm sinh lý của lợn con
6
2.3.1. Đặc điểm tiêu hoá của lợn con
Lợn con mới sinh ra sống nhờ vào sữa mẹ, sau khi cai sữa cơ thể lợn trải
qua một quá trình thay đổi không ngừng về hình thái, cấu tạo và sinh lý của ống
tiêu hoá để thích ứng với điều kiện mới. Sau khi sinh ra, ở lợn con chức năng
tiêu hoá của dạ dày còn hạn chế, dễ gây rối loạn trao đổi chất mà hậu quả là rối
loạn tiêu hoá, gây tiêu chảy, còi cọc, thiếu máu và chậm lớn.
Lợn con trước 1 tháng tuổi có hàm lượng HCl tự do trong dạ dày rất ít, giai
đoạn này gọi là giai đoạn thích ứng cần thiết tự nhiên giúp cơ thể thẩm thấu
được các kháng thể miễn dịch trong sữa đầu của lợn mẹ. Dịch vị không có hoạt
tính phân giải protein mà chỉ có hoạt tính làm vón sữa đầu, albumin và globulin
được chuyển xuống ruột để vào máu. Tuy nhiên, lợn con trên 14 - 16 ngày tuổi
tình trạng thiếu HCl ở dạ dày không còn là sự cần thiết cho sinh lý bình thường
nữa [6]. Vì vậy, việc tập cho lợn con ăn sớm đã rút ngắn được giai đoạn thiếu
HCl, giúp hoạt hoá hoạt động tiết dịch, tạo khả năng xây dựng nhanh chóng các
đáp ứng miễn dịch của cơ thể.
Sau 20 ngày lượng sữa mẹ giảm dần trong khi nhu cầu của lợn con tăng lên.
Vì vậy, lợn con rất dễ rơi vào trạng thái khủng hoảng. Để khắc phục tình trạng
này cần tập cho lợn con tập ăn sớm để bổ sung thêm chất dinh dưỡng, có tác
dụng kích thích tăng tiết dịch, tăng hàm lượng HCl và men tiêu hóa; sự phát
triển của dạ dày và ruột để đáp ứng kịp thời với chế độ sau cai sữa.
2.3.2. Đặc điểm thích ứng của lợn con
Sự thích ứng của lợn con khi thay đổi môi trường sống là rất kém. Đặc biệt
ở giai đoạn lợn con chuyển từ môi trường sống trong bụng mẹ ra môi trường bên
ngoài, từ nuôi dưỡng qua sữa mẹ đến chế độ tập ăn sớm.Hơn nữa, sự thành thục
và thiếu hoàn chỉnh về chức năng của các cơ quan nội tạng, nhất là bộ máy tiêu
hoá, liên quan mật thiết đến sự phát triển của hệ vi sinh vật có lợi hoặc có hại
trong ruột và sức đề kháng của cơ thể chống lại bệnh tật. Quá trình tuần hoàn
chuyển từ tuần hoàn máu qua nhau thai sang tuần hoàn nhờ tim phổi, toàn bộ
máu ở mạch máu rốn qua gan. Sự cân bằng nhiệt của lợn con cũng phải tự thiết
lập để thích ứng với môi trường bên ngoài, không thể nhờ vào cân bằng nhiệt
lượng của cơ thể mẹ như trong giai đoạn bào thai.
Quá trình chuyển hoá, cân bằng năng lượng từ giai đoạn bào thai sang giai
đoạn sau khi sinh rất chậm, chưa thích nghi ngay nên dễ bị tác động bởi môi
trường. Nhờ quá trình oxy hoá mô mỡ nên lợn con điều chỉnh được thân nhiệt.
Khả năng điều chỉnh thân nhiệt khác nhau ở lợn con là do mức độ phát triển
7
khác nhau của mô mỡ ở từng cá thể, từng loại gia súc [6].
Lợn con có nhu cầu dinh dưỡng rất cao. Axit amin là nguyên liệu chủ yếu
cho sự sinh trưởng và phát triển của lợn con. Tốc độ sinh trưởng của gia súc non
rất nhanh, trong vòng 10 đến 14 ngày, thể trọng tăng gấp 1,3 lần; sau 2 tháng
tuổi khối lượng lợn con có thể tăng 14 đến 15 lần so với sơ sinh. Nếu sữa mẹ
không đảm bảo đủ chất lượng, trong khẩu phần ăn thiếu đạm, sự sinh trưởng của
cơ thể sẽ bị chậm hoặc ngừng lại, khả năng chống đỡ bệnh tật rất kém nên cơ thể
dễ bị nhiễm bệnh.
2.3.3. Hệ vi sinh vật đường ruột ở lợn con
Ở gia súc trưởng thành, trong đường ruột có hệ vi sinh vật có lợi thường
trực cộng sinh có khả năng khống chế sự xâm nhập và nhân lên của các loài vi
sinh vật khác lạ từ môi trường bên ngoài, đồng thời tham gia vào quá trình tiêu
hoá hấp thu. Trong đường ruột của gia súc non, hệ vi sinh có lợi - vi sinh vật đối
kháng với vi khuẩn gây bệnh chưa hình thành, chức năng tiêu hoá chưa thành
thục, môi trường sống, điều kiện ngoại cảnh, chăm sóc không tốt đều là những
stress đối với gia súc non. Khi chuyển từ bào thai sang nuôi dưỡng bằng sữa mẹ
và chế độ tập ăn, tiếp xúc thường xuyên với môi trường bên ngoài và nhất là
điều kiện không vệ sinh, vi sinh vật gây bệnh dễ dàng xâm nhập và gây bệnh
đường ruột cho gia súc non, có thể ở dạng cấp tính hay mạn tính.
Ở trạng thái sinh lý bình thường, giữa cơ thể vật chủ và hệ vi sinh vật trong
đường tiêu hoá cũng như giữa các loài vi sinh vật trong khu hệ vi sinh vật với
nhau luôn luôn ở trạng thái cân bằng, sự cân bằng này là cần thiết cho sức khoẻ
của vật chủ. Họ vi khuẩn đường ruột là một họ lớn, bao gồm các trực khuẩn gram
âm sống trong ống tiêu hoá của người và động vật. Chúng có thể gây bệnh hoặc
không gây bệnh, hiếu khí hoặc hiếu khí tuỳ tiện, bao gồm vi khuẩn sinh axit
lactic, vi khuẩn Bifidium, một số loại cầu khuẩn đường ruột có khả năng ức chế và
tiêu diệt vi khẩn Salmonella, Proteus vulgaris và các loại vi khuẩn sinh thối rữa,
vi khuẩn Lactobacillus, Bacilus subtilis. Ở gia súc sơ sinh, chưa hình thành hoặc
hình thành không ổn định hệ vi sinh vật có lợi này, có nghĩa là chưa có vi khuẩn
ức chế và tiêu diệt sự xâm nhập của vi khuẩn gây bệnh đường tiêu hoá.
Con vật ở trạng thái sinh lý bình thường khi mà hệ vi sinh vật đường ruột
có sự cân bằng. Điều này có được do sự tương tác giữu vi sinh vật, môi trường
đường tiêu hóa và giữa các vi sinh vật trong khu hệ vi sinh vật đường ruột với
nhau. Mỗi loài khác nhau ở các vị trí khác nhau của đường tiêu hóa cũng sẽ có
số lượng khác nhau và ổn định. Nguyễn Như Thanh và cs (2001) cho biết bình
8
thường trong ruột của động vật trưởng thành trong chất chứa ở tá tràng có từ 10 3
đến 106 vi khuẩn /1gram, ở hồi tràng là 10 8 đến 1010 vi khuẩn/1gram, ở ruột già
khoảng 1011 vi khuẩn /1gram [54].
Theo Lê Khắc Thận (1974), Nguyễn Tài Lương (1982) những vi khuẩn
đường ruột giữ chức năng nhất định trong quá trình tiêu hóa và có vai trò sinh lý
quan trọng đối với cơ thể. Ở trạng thái sinh lý bình thường giữa cơ thể và hệ vi
sinh vật đường tiêu hoá luôn ở trạng thái cân bằng và sự cân bằng này là cần
thiết cho cơ thể vật chủ [56], [21].
Theo Vũ Văn Ngữ (1979), vi khuẩn trong đường ruột giữ vai trò là một
“hàng rào vi khuẩn”, ngăn chặn các vi khuẩn gây bệnh đường ruột xâm nhập và
cư trú ở ống tiêu hoá bằng tác động đối kháng giữa các vi khuẩn [32].
Những biến đổi về thức ăn, chế độ chăm sóc nuôi dưỡng, thời tiết khí hậu
hay trạng thái cơ thể tác động làm cho trạng thái cân bằng hệ vi sinh vật trong
đường ruột bị phá vỡ, vi sinh vật có hại hoặc gây bệnh sẽ tăng cường độc lực
sinh ra tiêu chảy.
Theo Nguyễn Thị Khanh (1994), loạn khuẩn thể hiện sự biến động về số
lượng và chất lượng của các nhóm vi khuẩn. Có thể một loài nào đó tăng về số
lượng hoặc tăng về độc lực, cũng có thể có sự đột biến hay sự bội nhiễm [12].
Đoàn Thị Kim Dung (2004) khi nghiên cứu biến động về số loại và số lượng vi
khuẩn hiếu khí ở phân lợn tiêu chảy đã kết luận: bình thường ở lợn giai đoạn 1 đến
21 ngày tuổi trong phân có 5 loại vi khuẩn và ở lợn 22 đến 60 ngày tuổi là 6 loại. Khi
bị tiêu chảy, lợn 1 đến 21 ngày tuổi số lượng vi khuẩn là 261,25x106 vi khuẩn/1gram
phân, ở lợn 22 đến 60 ngày tuổi là 237,99 x106 vi khuẩn /1gram phân [4].
Nguyễn Bá Hiên (2001) cho biết trong đường tiêu hoá của gia súc khoẻ
mạnh và gia súc tiêu chảy thường xuyên có mặt 6 loại vi khuẩn hiếu khí là
Salmonella, E. coli, Klebsiella, Staphylococcus sp., Streptococcus sp., Bacillus
subtilis và các loài vi khuẩn yếm khí Clostridium perfringens, Peptococcus sp.
và Bacteroides fragilis [10].
2.3.4. Khả năng đáp ứng miễn dịch của lợn con
Theo Trương Lăng (2007), khả năng miễn dịch của cơ thể là khả năng phản
ứng của cơ thể đối với các chất lạ khi xâm nhập vào cơ thể. Các chất lạ có thể là
mầm bệnh, các mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể gia súc non tương đối dễ do các
cơ quan bảo vệ cơ thể phát triển chưa hoàn chỉnh. Trong hệ thống tiêu hoá của
lợn con lượng enzym tiêu hoá và lượng HCl tiết ra chưa đủ để đáp ứng cho quá
9
trình tiêu hoá, gây rối loạn trao đổi chất, tiêu hoá và hấp thu dinh dưỡng kém.
Do vậy, các mầm bệnh như E. coli, Salmonella… dễ dàng xâm nhập vào cơ thể
qua đường tiêu hoá và gây bệnh. Ở lợn con, các yếu tố miễn dịch như bổ thể,
profecdin và lysozim được tổng hợp còn ít, khả năng thực bào kém. Vì vậy, việc
cho lợn con bú sữa đầu là rất cần thiết do trong sữa đầu có rất nhiều globulin
miễn dịch, bảo vệ cơ thể lợn con chống lại mầm bệnh. Hai giờ sau khi đẻ, lợn
con phải được bú sữa đầu để hấp thu được nhiều globulin từ sữa đầu vào máu
trong thời gian 24 - 36 giờ, nhờ đó có đủ kháng thể trong 5 tuần đầu tiên [16].
Tuy nhiên còn một yếu tố quan trọng nữa là sự phát triển của hệ vi sinh vật
trong đường ruột gia súc non có những đặc thù riêng. Việc cân bằng khu hệ vi
sinh vật có lợi trong đường ruột nhằm khắc phục, hạn chế sự loạn khuẩn trong
quá trình phát triển và trưởng thành của cơ thể lợn con là rất quan trọng. Sử
dụng chế phẩm sinh học để phòng và trị tiêu chảy cho lợn con là rất cần thiết.
2.4. Một số nguyên nhân gây tiêu chảy ở lợn
Các nguyên nhân gây tiêu chảy rất phức tạp. Trong lịch sử nghiên cứu
hội chứng tiêu chảy, rất nhiều tác giả đã dày công tìm hiểu nguyên nhân. Nhìn
chung hội chứng tiêu chảy ở gia súc thường xảy ra do các nguyên nhân chủ
yếu sau.
2.4.1. Do điều kiện ngoại cảnh bất lợi
Điều kiện ngoại cảnh bất lợi là một trong những nguyên nhân nguyên phát
gây hội chứng tiêu chảy ở lợn con. Điều kiện khí hậu thay đổi đột ngột, quá
nóng, quá lạnh, mưa gió, ẩm ướt kết hợp với chuồng trại không hợp vệ sinh,
điều kiện nuôi nhốt, vận chuyển gia súc quá chật chội,... Là các yếu tố stress ảnh
hưởng trực tiếp tới cơ thể gia súc. Khi gia súc bị nhiễm lạnh, độ ẩm kéo dài sẽ
làm giảm phản ứng miễn dịch, giảm tác dụng thực bào, do đó gia súc dễ bị
nhiễm khuẩn gây bệnh [25].
Như vậy nguyên nhân môi trường ngoại cảnh gây bệnh tiêu chảy không
mang tính đặc hiệu mà mang tính tổng hợp. Lạnh và ẩm gây rối loạn hệ thống
điều hòa trao đổi nhiệt của cơ thể lợn, dẫn đến rối loạn quá trình trao đổi chất,
làm giảm sức đề kháng của cơ thể, từ đó các mầm bệnh trong đường tiêu hóa có
thời cơ tăng cường độc lực và gây bệnh.
10
2.4.2. Do chế độ nuôi dưỡng không hợp lý
Thức ăn kém chất lượng, ôi thiu, khó tiêu,... Là nguyên nhân gây tiêu chảy
ở gia súc. Thức ăn thiếu các chất khoáng, vitamin cần thiết cho cơ thể, đồng thời
phương thức chăn nuôi không phù hợp sẽ làm giảm đề kháng của cơ thể gia súc
và tạo cơ hội cho các vi khuẩn đường tiêu hóa phát triển và gây bệnh [26].
2.4.3. Do ký sinh trùng
Ký sinh trùng đường tiêu hóa là một trong những nguyên nhân gây tiêu
chảy ở gia súc. Đặc điểm chủ yếu của tiêu chảy do ký sinh trùng là con vật mắc
bệnh bị tiêu chảy nhưng không liên tục, có sự xen kẽ giữa tiêu chảy và bình
thường, cơ thể thiếu máu, da nhợt nhạt, gia súc kém ăn, thể trạng sa sút. Các loài
ký sinh trùng như cầu trùng và một số loài giun tròn (giun đũa, giun tóc, giun
lươn) là các nguyên nhân gây tiêu chảy ở lợn sau cai sữa [15]. Tác hại của chúng
không chỉ cướp chất dinh dưỡng của vật chủ mà còn tác động lên vật chủ bằng
độc tố, đầu độc vật chủ, làm giảm sức đề kháng, tạo điều kiện cho các bệnh khác
phát sinh. Theo Phạm Văn Khuê, Phan Lục (1996) chính phương thức sống ký
sinh của giun sán đã làm tổn thương niêm mạc đường tiêu hóa, nhờ đó các mầm
bệnh xâm nhập gây viêm ruột tiêu chảy [14].
2.4.4. Do virus
Ngoài các vi khuẩn E. coli và Salmonella thường xuyên có trong đường
ruột và được coi là tác nhân gây bệnh quan trọng trong chứng viêm ruột tiêu
chảy, vai trò của virus trong gây tiêu chảy cho lợn đã được nhiều nghiên cứu
đề cập đến. Các nghiên cứu trong nước của Nguyễn Như Pho (2003) cho rằng:
Rotavirus và Coronavirus gây bệnh chủ yếu ở lợn con trong giai đoạn theo mẹ,
với triệu chứng tiêu chảy cấp tính, nôn mửa, mất nước với tỷ lệ chết cao [38].
Khooteng Huat (1995) đã thống kê có hơn 10 loại virus có tác động làm tổn
thương đường tiêu hóa, gây viêm ruột tiêu chảy như: Enterovirus, Rotavirus,
Coronavirus, Adenovirus type IV, virus dịch tả lợn [13]. Cũng theo kết quả
nghiên cứu của Archie (2000), Rotavirus và Coronavirus là những virus gây
tiêu chảy quan trọng ở gia súc non mới sinh như nghé, dê cừu con, lợn con,
ngựa con và đặc biệt là bê con do những virus này có khả năng phá hủy màng
ruột và gây tiêu chảy nặng [1].
Sự xuất hiện của virus đã làm tổn thương niêm mạc ruột, làm suy giảm sức
đề kháng của cơ thể và thường gây tiêu chảy cấp tính với tỷ lệ chết cao [53].
Bệnh dịch tiêu chảy trên lợn (PED) là điển hình. Bệnh do Coronavirus gây ra và
lây lan theo đường tiêu hóa, qua các phương tiện vận chuyển lợn, phân, tinh...
11
Có nhiễm virus và do người mang mầm bệnh vào trại. Lợn nuốt phải virus sau
đó virus phát triển trong tế bào ruột, chủ yếu trong đoạn không tràng và hồi
tràng. Sau đó tế bào ruột bị teo đi, trong vòng 24 giờ nhung mao ruột sẽ ngắn đi.
Bệnh gây tiêu chảy trên lợn con theo mẹ thường ở thể nặng, tỷ lệ bệnh là 100%
và tỷ lệ chết là gần 100%. Lợn con càng lớn thì tỷ lệ chết càng hấp [63].
2.4.5. Do vi khuẩn
Trước hết là do E. coli, một loại vi khuẩn xuất hiện rất sớm ở đường ruột
người và động vật sơ sinh, khoảng 2 giờ sau khi đẻ. E. coli thường có mặt ở ruột
già, ít khi ở dạ dày và ruột non. Trong đường ruột của động vật, E. coli chiếm
khoảng 80% quần thể các vi khuẩn hiếu khí; đồng thời là một tác nhân không
thể phủ nhận.
Lê Văn Tạo (1996) cho biết: vi khuẩn E. coli cộng sinh trong đường ruột,
muốn trở thành vi khuẩn gây bệnh phải có 3 điều kiện:
- Trên cơ thể vật chủ có những cấu trúc phù hợp giúp cho vi khuẩn thực
hiện chức năng bám dính
- Có khả năng xâm nhập vào lớp tế bào biểu mô của niêm mạc ruột, từ đó
phát triển và nhân lên
- Vi khuẩn có khả năng sản sinh các yếu tố gây bệnh, đặc biệt là sản sinh
độc tố, quan trọng nhất là độc tố đường ruột Enterotoxin [50].
Một số vi khuẩn thuộc họ vi khuẩn đường ruột như E. coli, Salmonella sp,
shigella, klebsiella, C. perfringens, đó là những vi khuẩn quan trọng gây rối loạn
tiêu hóa, viêm ruột tiêu chảy ở người và nhiều loài động vật.
Đào Trọng Đạt và cs (1996) cho biết: chiếm tỷ lệ cao nhất trong số các vi
khuẩn đường ruột gây tiêu chảy là E. coli với 45,6%. Cũng theo tác giả, vi
khuẩn yếm khí C. perfringens gây bệnh khi có điều kiện thuận lợi và khi nó trở
thành vai trò chính [8].
Vũ Bình Minh, Cù Hữu Phú (1999) khi nghiên cứu về E. coli và
Salmonella ở lợn tiêu chảy cho biết: tỷ lệ phát hiện E. coli độc trong phân là 8090% số mẫu xét nghiệm [24].
Theo Phan Thanh Phượng (1996), vi khuẩn yếm khí C. perfringens là mộ
trong những tác nhân gây bệnh quan trọng trong hội chứng tiêu chảy của lợn ở
lứa tuổi từ 1- 120 ngày tuổi. Ở lợn con theo mẹ, tỷ lệ mắc bệnh do vi khuẩn này
gây ra có thể đến 100% và tỷ lệ chết là 60% [45].
12
Hồ Văn Nam và cs (1997), Archie (2000) đã nhấn mạnh: vi khuẩn đường
ruột có vai trò không thể thiếu được trong hội chứng tiêu chảy [26], [1].
Nguyễn Như Pho (2003) cho rằng, khả năng gây bệnh của các loại vi khuẩn
đối với lứa tuổi lợn khác nhau. Đối với lợn con theo mẹ, lợn sau cai sữa hoặc
giai đoạn đầu nuôi thịt thì tỷ lệ mắc tiêu chảy do Salmonella cao hơn; giai đoạn
từ lúc sơ sinh đến sau cai sữa thường do E. coli; lứa tuổi 6- 12 tuần thường do
xoắn khuẩn Treponema hyodysenterriae; còn vi khuẩn yếm khí C. perfringens
thường gây bệnh nặng cho lợn con theo mẹ trong khoảng 1 tuần tuổi đến cai sữa.
2.4.6. Do nấm mốc
Thức ăn khi chế biến hoặc bảo quản không đúng kỹ thuật dễ bị nấm mốc.
Một số loài như: Aspergillus, Penicillium, Fusarium,... Có khả năng sản sinh
nhiều độc tố, nhưng quan trọng nhất là nhóm độc tố Aflatoxin (Aflatoxin B1,
B2, G1, G2, M1).
Độc tố Aflatoxin gây độc cho người và gia súc, gây bệnh nguy hiểm nhất
cho người là ung thư gan, hủy hoại gan, độc cho thận, sinh dục và thần kinh.
Aflatoxin gây độc cho nhiều loại gia súc, gia cầm, mẫn cảm nhất là vịt, gà, lợn
và các gia súc khác. Lợn khi nhiễm độc thường bỏ ăn, thiếu máu, vàng da, tiêu
chảy, tiêu chảy ra máu. Nếu trong khẩu phần có 500 - 700µg Aflatoxin/kg thức
ăn sẽ làm cho lợn con chậm lớn, còi cọc, giảm sức đề kháng với các bệnh truyền
nhiễm khác [48].
Như vậy có thể thấy, có rất nhiều nguyên nhân gây tiêu chảy ở lợn, nhưng
theo một số chuyên gia chuyên nghiên cứu về bệnh tiêu chảy ở lợn như Nguyễn
Thị Nội (1985), Lê Văn Tạo (1993), Hồ Văn Nam (1997) thì dù nguyên nhân
nào gây tiêu chảy cho lợn đi nữa, cuối cùng vẫn là quá trình nhiễm khuẩn, vi
khuẩn kế phát làm viêm ruột, tiêu chảy nặng thêm, có thể dẫn đến chết hoặc
viêm ruột, tiêu chảy mạn tính [36], [50], [26].
2.4.7. Ảnh hưởng của điều kiện chuồng trại
Trong điều kiện khí hậu nhiệt đới của nước ta, về mùa hè khí hậu nóng, ẩm,
về mùa đông khí hậu lạnh, khô nên yêu cầu chuồng nuôi gia súc luôn phải khô
ráo, thoáng mát về mùa hè, ấm áp về mùa đông. Do vậy trong xây dựng chuồng
trại ngoài việc đảm bảo các yếu tố kỹ thuật cần chú ý đến địa điểm xây dựng
chuồng, hướng chuồng, vật liệu xây dựng để dễ dàng khống chế các chỉ tiêu tiểu
khí hậu chuồng nuôi phù hợp với từng giai đoạn phát triển của lợn.
13
Theo Chu Thị Thơm và cs (2006) nếu chuồng nuôi kém thoáng khí, ẩm, tồn
đọng nhiều phân, rác, nước tiểu khi nhiệt độ trong chuồng nuôi lên cao sẽ sản
sinh nhiều khí có hại NH3, H2S làm con vật bị trúng độc thần kinh nặng, con vật
bị stress - một nguyên nhân dẫn đến tiêu chảy. Nếu chuồng nuôi khô ráo thoáng
khí, sạch sẽ sẽ làm giảm lượng khí độc trong chuồng nuôi đồng thời hơi nước
thừa được thoát ra ngoài làm cho độ ẩm trong chuông nuôi vừa phải. Cũng theo
tác giả, trong cùng điều kiện chăn nuôi, thời gian nào độ ẩm cao ở chuồng mà
nền không thoát nước, xây dựng ở chỗ đất trũng thì bệnh lợn con phân trắng
phát triển mạnh [61].
2.4.8. Ảnh hưởng của độ ẩm chuồng nuôi đến hội chứng tiêu chảy ở lợn
Đào Trọng Đạt và cs (1996), Phạm Khắc Hiếu và cs (1998) cũng cho rằng
trong các yếu tố về tiểu khí hậu thì quan trọng nhất là nhiệt độ và độ ẩm. Các
yếu tố này ảnh hưởng rất lớn đến lợn sơ sinh, lợn con vài ngày tuổi. Vì thế việc
làm khô và giữ ấm chuồng nuôi là vô cùng quan trọng. Độ ẩm thích hợp cho lợn
là từ 75 - 85% [8], [11]. Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân (1997) cũng cho rằng
chuồng trại ẩm, lạnh tác động vào cơ thể lợn gây rối loạn thần kinh từ đó gây rối
loạn tiêu hoá [18].
Tiểu khí hậu trong các kiểu chuồng khác nhau sau những trận mưa hay khi
có gió mùa đông bắc thì tỷ lệ lợn con mắc phân trắng tăng lên. Vì vậy, chuồng
trại sạch sẽ, kín, ấm vào mùa đông và vào mùa xuân giữ cho chuồng khô ráo,
chống ẩm ướt sẽ giúp lợn con phòng được bệnh lợn con phân trắng [19].
Tuy nhiên, tiêu chảy là một hiện tượng bệnh lý có liên quan đến rất nhiều
các yếu tố, có yếu tố là nguyên nhân nguyên phát, có yếu tố là nguyên nhân
thứ phát, vì vậy phân biệt rạch ròi nguyên nhân gây tiêu chảy không đơn giản.
Ngày nay người ta thống nhất rằng cách phân loại chỉ có ý nghĩa tương đối,
chỉ nêu lên yếu tố nào là chính, xuất hiện đầu tiên; yếu tố nào là phụ hoặc
xuất hiện sau, từ đó vạch ra phác đồ vạch ra phác đồ phòng trị bệnh cho có
hiệu quả mà thôi [53].
2.5. Bệnh lý lâm sàng của hội chứng tiêu chảy
2.5.1. Cơ chế sinh bệnh
Cơ chế sinh bệnh của hội chứng tiêu chảy là quá trình rối loạn chức phận
bộ máy tiêu hóa và nhiễm khuẩn. Hai quá trình này có thể diễn ra đồng thời,
hoặc cũng có thể quá trình này trước, quá trình kia sau và ngược lại, song không
thể phân biệt rõ được từng quá trình.
14
Rối loạn chức phận tiêu hóa có thể xảy ra ở bất cứ giai đoạn nào của ống
tiêu hóa, cụ thể như sau.
2.5.1.1. Rối loạn tiết dịch mật
Khi thức ăn qua tá tràng, kích thích niêm mạc tá tràng làm cho gan tiết ra mật.
Mật tham gia quá trình tiêu hóa mỡ và nhờ ở muối mật. Muối mật làm cho acid
béo, cholesterol tan trong nước, làm nhũ tương hóa mỡ, giúp cho các men tiêu hóa
mỡ tác dụng có hiệu quả hơn. Muối mật còn có tác dụng tăng tiết dịch mật.
Theo Phạm Ngọc Thạch (1996), khi thiếu mật thì tới 60% mỡ không tiêu
hóa được, gây ra chứng đầy bụng, khó tiêu và tiêu chảy, hoặc việc giảm hấp thu
cũng dẫn đến tiêu chảy [53].
2.5.1.2. Rối loạn tiết dịch vị
Tụy đóng vai trò rất quan trọng trong việc tham gia vào quá trình tiêu hóa
tại ruột, ở đây chỉ đề cập đến dịch tụy ngoại tiết mà thôi. Dịch tụy ngoại tiết gồm
3 loại men chính: là men tiêu hóa protit, men tiêu hóa mỡ và men tiêu hóa tinh
bột. Khi thiếu dịch tụy tức là thiếu men, các thành phần protit, lipit, tinh bột
không tiêu hóa được, cho nên trong phân bệnh súc còn nguyên các mảng thức
ăn, hạt bột và hạt mỡ. Lượng mỡ trong phân quá nhiều làm cho phân óng ánh và
kích thích ruột, sinh ra tiêu lỏng, kém hấp thu và kéo dài dẫn đến suy dinh
dưỡng [5].
2.5.1.3. Rối loạn tiết dịch ruột
Để hoàn thành được nhiệm vụ tiêu hóa cần có sự hiệp đồng của tiết dịch
ruột và những tuyến phụ cận như gan tụy. Tiết dịch do bản thân ruột cũng gồm
có 3 loại men chính: men tiêu hóa protit, men tiêu hóa mỡ và men tiêu hóa bột
đường. Tiết dịch của ruột chịu sự điều hòa cơ học, hóa học của thức ăn và thần
kinh thể dịch. Ngoài ra, ruột còn tiết những hormon để điều hòa tiết dịch chung
của ống tiêu hóa như cholecystokinin, secretin. Hiện tượng tiết dịch của ruột hay
gặp là tăng tiết dịch, đồng thời tăng co bóp, hấp thu kém, gây nên chứng tiêu
chảy [5].
2.5.1.4. Rối loạn co bóp ruột
Ruột co bóp quyết định thức ăn qua ruột nhanh hay chậm. Trung bình từ 1,5
giờ đến 3 giờ thì thức ăn tới ruột non và nằm tại đó cho đến giờ thứ 6- 7 thì bị
đẩy sang đại tràng. Tại đây, những cặn bã nằm lại đó đến khoảng 24 giờ sau bữa
ăn thì được tống ra ngoài. Rối loạn co bóp tại ruột cũng có thể tăng co bóp, giảm
co bóp, cùng với tăng hay giảm tiết dịch mà hậu quả của tình trạng này là tiêu
15
chảy, tắc ruột, hấp thu kém và táo bón. Tăng co bóp ruột do tăng các chất phải
hấp thu nên lượng các chất có trong ruột rất nhiều, sẽ kích thích ruột tăng co
bóp, nhanh chóng đẩy các chất ra ngoài, dẫn đến tiêu chảy. Ví dụ, khi tiêu hóa bị
trở ngại, những thức ăn không tiêu ở ruột bị phân hủy, làm tăng áp lực thẩm
thấu, cao hơn trong máu và tổ chức sẽ kéo nước vào trong lòng ruột. Hoặc khi
có viêm ruột, ngộ độc do thức ăn, dịch nhầy của ruột với nước có thể tăng 80 lần
so với bình thường. Lượng dịch trong ruột tăng lên sẽ kích thích ruột tăng co
bóp, sinh ra tiêu chảy [5].
Giảm hấp thu cũng dẫn đến tiêu chảy. Bởi vì, phần lớn nước được hấp thu
tại ruột, do đó chỉ cần giảm tái hấp thu ở ruột là lượng nước trong ruột sẽ rất lớn
hậu quả là gây tiêu chảy. Trong khi đó, trung bình lượng nước đưa vào cơ thể do
ăn uống cùng với dịch tiết của ruột trong một ngày có thể lên tới 10 lít.
Vũ Văn Ngũ(1975), Trịnh Văn Thịnh (1985) cho rằng: do một tác nhân bất
lợi nào đó, trạng thái cân bằng của khu hệ vi khuẩn đường ruột bị phá vỡ tất cả
hoặc chỉ một loài nào đó sinh sản quá nhiều sẽ gây hiện tượng loạn khuẩn, gây
ra sự biến động ở nhóm vi khuẩn đường ruột, cũng như ở nhóm vi khuẩn vãng
lai, các vi khuẩn gây bệnh có cơ hội tăng mạnh cả về số lượng và độc lực, các vi
khuẩn có lợi cho quá trình tiêu hóa do không cạnh tranh nổi nên giảm đi, cuối
cùng loạn khuẩn xảy ra, hấp thu bị rối loạn, gây ra tiêu chảy [30], [58].
2.5.2. Triệu chứng của bệnh
Bệnh thường xảy ra ở lợn con, đặc biệt ở lợn mới sinh đến 21 ngày tuổi, có con mắc
sớm hơn, ngay sau khi sinh ra 1 đến 3 giờ và mắc muộn khi 4 tuần tuổi.
Lợn con mắc bệnh đa số thân nhiệt tăng sau 2 đến 3 ngày thì hạ xuống do tiêu chảy
mất nước nhiều. Trong 1 đến 2 ngày đầu mắc bệnh lợn vẫn bú sau đó gầy tọp nhanh,
lông xù, đuôi rũ, da nhăn nheo, nhợt nhạt, hai chân sau dúm lại và run rẩy, đuôi và
khoeo dính đầy phân.
Tiêu chảy ở mức độ nhẹ lợn không có biểu hiện mất nước nhưng cũng có thể tiêu
chảy nặng. Khối lượng cơ thể bị giảm sút 30- 40% do mất nước. Cơ bụng hóp lại, lợn
gầy, suy kiệt và đi siêu vẹo, mắt trũng sâu, da tái xám và nhợt nhạt. Trong trường hợp
mãn tính, da quanh vùng hậu môn có thể đỏ lên do tiếp xúc với phân kiềm tính, lợn ít bị
mất nước và nếu điều trị tích cực thì có thể khỏi bệnh.
Ngoài việc chẩn đoán dựa vào triệu chứng trên thì bệnh còn được xác định chủ yếu
dựa vào trạng thái biến đổi của phân. Về trạng thái phân có thể chia làm 3 giai đoạn:
- Giai đoạn đầu kể từ 12- 24 giờ trước khi bị bệnh (thời kỳ nung bệnh), lúc
này thấy lợn đi tiêu khó khăn, phân táo đen và nhỏ như hạt đỗ đen.
- Giai đoạn tiếp theo phân táo bón chuyển sang dạng sền sệt, màu vàng, 2
đến 3 ngày sau phân chuyển sang thành màu trắng như vôi hoặc trắng xám. Phân
16
ngày một lỏng hơn, trong phân có lẫn những hạt sữa chưa tiêu hoá, lổn nhổn như
vôi hoặc có nhiều bột. Có trường hợp mắc bệnh đến ngày thứ 3 phân đã loãng
như nước, tháo tung toé. Lúc này lợn con mất nước nặng, nếu kiểm tra phân
dưới kính hiển vi sẽ thấy trong phân có những hạt mỡ chưa tiêu hoá, các tế bào
niêm mạc ruột hoặc có thể lẫn một ít hồng cầu.
- Giai đoạn bệnh chuyển sang lành, phân từ màu trắng xám chuyển thành
xám đen. Phân đặc dần thành khuôn như phân lợn khoẻ [41].
2.5.3. Bệnh tích của bệnh
Xác chết gầy, đuôi và khoeo dính đầy phân, mắt trũng sâu, lông da khô, mất tính
đàn hồi. Dạ dày chứa đầy sữa đông vón màu vàng trắng chưa tiêu. Ruột non căng phồng
chứa đầy hơi, dịch màu vàng và có xuất huyết điểm ở thành ruột, niêm mạc ruột bị hoại
tử từng đám. Trong ruột già chứa phân màu vàng. Màng treo ruột xuất huyết, hạch
màng treo ruột sưng. Một số trường hợp lợn con bị viêm phổi, xoang ngực, xoang bụng
chứa dịch [41].
2.6. Những kết quả nghiên cứu về phòng và trị tiêu chảy ở lợn
Hội chứng tiêu chảy ở gia súc nói chung và ở lợn nói riêng xảy ra thường
xuyên và rất phức tạp bởi nguyên nhân gây bệnh rất khác nhau và có tính chất
tổng hợp bao gồm vi khuẩn, virus, ký sinh trùng, và các yếu tố khác như thời tiết
khí hậu, vệ sinh chuồng trại, điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng…. Các yếu tố như
thời tiết khí hậu, chuồng trại bẩn thỉu, tối tăm ẩm thấp, thức ăn kém chất lượng
được coi là các yếu tố mở đường làm suy giảm sức đề kháng của lợn tạo điều
kiện cho các yếu tố quyết định như vi khuẩn, virus phát huy tác dụng, tăng
cường độc lực dẫn đến loạn khuẩn đường tiêu hóa phát sinh tiêu chảy. Để kìm
khuẩn người ta sử dụng kháng sinh bằng cách bổ sung vào thức ăn và dùng
kháng sinh trong điều trị mà không tính đến khả năng kháng thuốc, tồn dư trong
sản phẩm thịt và cả trường hợp vi sinh vật có lợi trong đường tiêu hóa bị tiêu
diệt nếu sử dụng lâu dài. Do vậy tìm ra biện pháp tổng hợp, hiệu quả để phòng
và trị hội chứng tiêu chảy nhằm hạn chế đến mức thấp nhất tỷ lệ mắc bệnh, giảm
thiệt hại cho người chăn nuôi là điều cần thiết. Biện pháp tổng hợp đó là:
- Khống chế điều kiện nuôi dưỡng phù hợp với hoạt động sinh lý của cơ thể
lợn trong từng giai đoạn như vệ sinh chuồng trại, chế độ nhiệt độ, độ ẩm trong
chuồng nuôi, chế độ vận động, chế độ nuôi dưỡng.
- Tăng sức đề kháng bằng cách bổ sung các chất dinh dưỡng, amino acid,
vitamin, chất khoáng, vi lượng
- Tăng sự tiêu hóa bằng việc bổ sung các men tiêu hóa hoặc các vi sinh vật
đặc hiệu sinh enzim, dùng thức ăn có lên men axit lactic để tạo độ pH trong dạ
17
dày, ruột có lợi cho tiêu hóa
- Tạo sự ổn định của hệ vi sinh vật trong đường tiêu hóa bằng cách bổ sung
các chế phẩm sinh học trong thức ăn, sử dụng kháng sinh và vaccin [2].
Các nhà chăn nuôi đã đưa ra một công thức trong phòng, trị tổng hợp hội
chứng tiêu chảy là:
Phòng, trị = chế độ vệ sinh, nuôi dưỡng + chế phẩm sinh học + kháng sinh
2.6.1. Những nghiên cứu về phòng tiêu chảy
Tiêu chảy là bệnh do nhiều nguyên nhân gây ra, để phòng chống bệnh
đường tiêu hoá cho lợn phải thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp, tác động đến
nhiều khâu, nhiều yếu tố như tác động vào môi trường, đối tượng lợn con và lợn
mẹ dựa trên nguyên tắc 3 nên, 3 chống.
- Nên cho lợn bú sữa đầu, nên chăm sóc lợn mẹ trước khi sinh, nên tập ăn
sớm cho lợn con.
- Chống ẩm, chống bẩn và chống lạnh.
2.6.1.1. Phòng tiêu chảy bằng các biện pháp kỹ thuật
Trong chăn nuôi việc đảm bảo đúng quy trình kỹ thuật là điều cần thiết,
chăm sóc nuôi dưỡng tốt sẽ tạo ra những gia súc khỏe mạnh, có khả năng chống
đỡ bệnh tật tốt và ngược lại.
Theo Trịnh Văn Thịnh (1985) trong quá trình chăm sóc nuôi dưỡng lợn, nếu
chuồng nuôi đảm bảo vệ sinh sạch sẽ, thoáng khí, khô ráo sẽ làm giảm tỷ lệ
bệnh đường tiêu hoá [59].
Chăm sóc nuôi dưỡng lợn nái không đúng kỹ thuật cũng ảnh hưởng đến tỷ
lệ mắc tiêu chảy. Nếu chăm sóc lợn mẹ khi mang thai không tốt, thiếu dinh
dưỡng sẽ tạo ra con non có trọng lượng sơ sinh nhỏ, sức đề kháng kém dễ mắc
bệnh trong đó có tiêu chảy.
Theo Hồ văn Nam và cs (1997) nếu con mẹ không được chăm sóc tốt trong
thời kỳ mang thai hoặc khi mang thai, nuôi con gia súc bị bệnh đường tiêu hoá
thì con non sinh ra dễ mắc bệnh lợn con phân trắng [25].
Theo Cabrera (1989), Trịnh Văn Thịnh (1985), Đào Trọng Đạt và cs (1995)
trong quy trình kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng lợn thì công tác chăm sóc, nuôi
dưỡng lợn con và lợn mẹ đúng kỹ, thuật phù hợp với lứa tuổi là yếu tố quan
trọng quyết định đến tỷ lệ tiêu chảy cao hay thấp. Việc đảm bảo đủ và sự cân đối
các chất dinh dưỡng trong khẩu phần đóng vai trò quan trọng [67], [59], [7].
18
2.6.1.2. Phòng bệnh bằng vaccine
Phòng bệnh bằng vaccin là phương pháp hữu hiệu nhất để ngăn ngừa bệnh
đặc biệt là các bệnh có nguyên nhân là vi sinh vật. Vaccine là chế phẩm sinh
học, được bào chế từ các vi sinh vật gây bệnh, trong đó mầm bệnh đã bị giết
chết hay giảm độc không còn khả năng gây bệnh, khi đưa vào cơ thể có khả
năng kích thích hệ thống miễn dịch cơ thể vật chủ sản sinh ra kháng thể. Vaccine
phòng tiêu chảy cho lợn đã được nghiên cứu khá lâu và đã được sử dụng để
phòng ngừa tiêu chảy nhằm tạo miễn dịch chủ động cho đàn lợn chống lại bệnh,
các loại vaccine này đã và đang cho kết quả phòng bệnh một cách khả quan, đạt
được mục tiêu làm giảm tỷ lệ bệnh.
Khi nghiên cứu xác định vai trò của E. coli trong bệnh phân trắng lợn con
và triển vọng phòng trừ bằng vaccin, Nguyễn Thị Nội (1985) đã chọn những
Serotype thường gặp cùng với các chủng có kháng nguyên K88 để chế vaccine
phòng bệnh, tiêm cho nái chửa 4-6 tuần trước khi đẻ cho kết quả bảo hộ tăng
hơn 30-40% lợn con sinh ra so với lô đối chứng [36].
Lê Văn Tạo (1993) cũng đã nghiên cứu chế tạo vaccin E. coli dạng uống.
Vaccin được chế tạo từ các chủng E. coli gây bệnh phân lập từ các địa phương
dùng cho lợn con uống 3 – 4 lần. Vaccin có tác dụng phòng bệnh đạt tỷ lệ 70%.
Do E. coli có nhiều type kháng nguyên khác nhau nên việc bào chế vaccine E.
coli gặp những khó khăn nhất định và việc chế một loại vaccine E. coli để phòng
bệnh cho lợn ở nhiều địa phương thường đem lại hiệu quả phòng bệnh không
cao. Vì vậy có thể sử dụng phương pháp chế tạo vaccin phòng bệnh E. coli cho
hiệu quả cao bằng cách lấy vi khuẩn E. coli có trong chất chứa đường ruột của
lợn bị tiêu chảy cấy vào sữa và cho lợn mẹ ăn canh trùng đó trước khi đẻ 1 tháng
cho kết quả phòng tiêu chảy ở lợn con sơ sinh tốt, phương pháp này hiện nay
vẫn được dùng tại Mỹ. ở nước ta, các cơ sở chăn nuôi, các cán bộ thú y đã thực
hiện biện pháp vaccine chuồng cũng cho hiệu quả tốt trong phòng bệnh [50].
Bên cạnh các loại vaccine E. coli, các nhà khoa học cũng đã nghiên cứu chế
vaccine Salmonella. Hiện nay trên thế giới đã có nhiều loại vaccine phòng bệnh
do vi khuẩn Salmonella gây ra ở lợn. Mỹ sản xuất vaccine đa giá thành phần
gồm E. coli, Pasteurella multocida, Salmonella choleraesuis. ở Đức chế vaccine
Salmonella typhimurium chủng ĐT 104. Hungari chế vaccine vi khuẩn
Salmonella có bổ trợ glucose.
2.6.1.3. Phòng bệnh bằng chế phẩm sinh học
Chế phẩm sinh học là môi trường nuôi cấy một loại vi sinh vật có lợi nào
19