Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

Biện pháp phát triển kỹ năng xã hội cho trẻ KTTT từ 4 – 5 tuổi thông qua trò chơi dân gian

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (957.16 KB, 109 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thành đề tài nghiên cứu này, trước tiên tôi xin bày tỏ
lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Trần Đình Thuận – Phó Vụ Trưởng - Vụ Giáo dục
Tiểu học – Bộ Giáo dục và Đào tạo, người đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình chỉ
bảo cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất các thầy cô giáo trong
Khoa Giáo dục Đặc biệt – các thầy cô đã trực tiếp giảng dạy, trang bị những
kiến thức quý báu trong suốt thời gian tôi học tập tại trường Đại học Sư phạm
Hà Nội.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến Ban Giám hiệu, các thầy cô giáo và học sinh
ở cơ sở Thực nghiệm – Trung tâm giáo dục đặc biệt - Viện Khoa học giáo dục
Việt Nam và Trung tâm Đào tạo và phát triển giáo dục đặc biệt – Khoa giáo dục
đặc biệt – Trường đại học sư phạm Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi và giúp
đỡ trong quá trình tôi điều tra thực tế và tiến hành thực nghiệm.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, bạn bè đã tận tình giúp đỡ, tiếp
thêm tinh thần và nghị lực để tôi hoàn thành luận văn này.
Do điều kiện thời gian và năng lực bản thân còn hạn chế, chắc chắn
luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự
quan tâm, góp ý của các thầy cô và các bạn.
Hà Nội, tháng 10 năm 2014
Học viên

Đoàn Thị Thao


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AAMR
CPTTT
DSM
GV
KNXH


KTTT
STN
STT
TTN

Hiệp hội khuyết tật trí tuệ Mỹ - 1992
Chậm phát triển trí tuệ
Sổ tay thống kê và chẩn đoán những rối nhiễu tâm thần
Giáo viên
Kĩ năng xã hội
Khuyết tật trí tuệ
Sau thực nghiệm
Số thứ tự
Trước thực nghiệm


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN........................................................................................................................1

DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. Tiêu chí chẩn đoán khuyết tật trí tuệ...................................................................17
Bảng 1.2. Các lĩnh vực quan trọng để chẩn đoán trẻ KTTT................................................18
Bảng 2.1. Thực trạng KNXH của trẻ KTTT 4 – 5 tuổi tại 2 cơ sở......................................43
Bảng 2.2. Mục tiêu phát triển KNXH cho trẻ KTTT 4 – 5 tuổi...........................................45
Bảng 2.3. Mục tiêu phát triển kỹ năng hợp tác cho trẻ KTTT 4 – 5 tuổi.............................46
Bảng 2.4. Mục tiêu phát triển kỹ năng vui chơi cho trẻ KTTT 4 – 5 tuổi............................47
Bảng 2.5. Mục tiêu phát triển kỹ năng luân phiên cho trẻ KTTT 4 – 5 tuổi........................48
Bảng 2.6. Nội dung phát triển kỹ năng hợp tác cho trẻ KTTT 4 – 5 tuổi............................48
Bảng 2.7. Nội dung phát triển kỹ năng vui chơi cho trẻ KTTT 4 – 5 tuổi...........................49
Bảng 2.8. Nội dung phát triển kỹ năng luân phiên cho trẻ KTTT 4 – 5 tuổi.......................50

Bảng 2.9. Yếu tố để giáo viên lựa chọn trò chơi dân gian để phát triển KNXH cho trẻ
KTTT 4 – 5 tuổi...................................................................................................................52
Bảng 2.10. Những yếu tố giáo viên thường chú ý khi thiết kế trò chơi dân gian để phát triển
KNXH cho trẻ KTTT 4 – 5 tuổi...........................................................................................54
Bảng 2.11. Hình thức phát triển kĩ năng xã hội cho trẻ KTTT 4 – 5 tuổi thông qua trò chơi
dân gian................................................................................................................................55
Bảng 2.12. Thuận lợi trong quá trình tổ chức trò chơi dân gian nhằm phát triển KNXH cho
trẻ KTTT 4 – 5 tuổi..............................................................................................................56
Bảng 2.13. Khó khăn trong quá trình tổ chức trò chơi dân gian nhằm phát triển KNXH cho
trẻ KTTT 4 – 5 tuổi..............................................................................................................57
Bảng 3.1. Kết quả đo trước thực nghiệm (GV can thiệp)....................................................78
Bảng 3.3. Kết quả đo sau thực nghiệm................................................................................81


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1. Đánh giá của giáo viên về vai trò của việc phát triển KNXH cho trẻ KTTT. .44
Biểu đồ 2.2. Mức độ sử dụng trò chơi dân gian để phát triển KNXH cho trẻ KTTT 4 – 5
tuổi 51
Biểu đồ 3.1. Biểu đồ so sánh kết quả TNN và STN.............................................................83


MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
Gần 20 năm nay, trẻ khuyết tật nói chung và trẻ khuyết tật trí tuệ
(KTTT) nói riêng có cơ hội được đến trường hòa nhập, được học tập, vui chơi
với các bạn cùng trang lứa trong cộng đồng xã hội. Nhưng có thể hòa nhập
được với cộng đồng, đòi hỏi trẻ phải có những kĩ năng xã hội để tạo các mối
quan hệ với bạn bè, thầy cô để trẻ có thể tự tin, mạnh dạn trong môi trường
học tập. Nhưng thực tế cho thấy, kỹ năng xã hội ở trẻ KTTT thường phát triển
chậm và muộn hơn so với trẻ khác cùng độ tuổi. Đặc biệt, đối với các trẻ

KTTT 4 – 5 tuổi, khi các em đang trên đà chuẩn bị bước vào một giai đoạn
mới – vào học lớp 1, thì việc phát triển kĩ năng xã hội cho các em lại càng cần
thiết và quan trọng. Tuy nhiên, phát triển kỹ năng xã hội cho trẻ KTTT 4 – 5
tuổi là một việc không ít khó khăn và đòi hỏi phải có những biện pháp, cách
thức phù hợp.
Kỹ năng xã hội (KNXH) được hiểu là những hành vi ứng xử giúp cá
nhân có thể tiếp xúc, quan hệ với những người xung quanh và hoà nhập vào
cộng đồng. Bởi ở đó, trẻ được thường xuyên tiếp xúc, tương tác với bạn bè,
thầy cô, chịu sự giám sát của thầy cô trong mọi hoạt động. Từ đó, các KNXH
của trẻ được củng cố, phát triển và ngày càng hoàn thiện hơn. Biểu hiện là trẻ
biết tuân theo các quy tắc trường lớp; có mối quan hệ đẹp với thầy cô, bạn bè;
có thể tham gia chơi một cách phù hợp… Nhưng với trẻ KTTT, do hạn chế
trong cách tương tác với mọi người xung quanh nên khi tham gia vào môi
trường trường học, trẻ gặp một số khó khăn về ngôn ngữ, giao tiếp, học
đường... Do đó, việc rèn luyện KNXH cho trẻ KTTT khi trẻ tham gia vào môi
trường trường học là vô cùng cần thiết.
Thực tế cho thấy, khi tham gia vui chơi, sinh hoạt tại môi trường
trường lớp do không hiểu, không biết cách ứng xử lại một cách phù hợp với
1


các hoạt động, với mọi người xung quanh nên trẻ KTTT ít được bạn bè chấp
nhận, dần trở nên lạc lõng, vì vậy, ảnh hưởng tới quá trình hoà nhập cộng
đồng của trẻ. Giáo viên, cha mẹ trẻ KTTT thường gặp khó khăn và luôn mong
muốn tìm được phương pháp có khả năng khắc phục được tình trạng trên. Một số
giáo viên đã lựa chọn phương pháp sử dụng trò chơi vào dạy KNXH cho trẻ, tuy
nhiên do nhiều nguyên nhân nên hiệu quả của việc sử dụng phương pháp này còn
nhiều hạn chế.
Trò chơi dân gian là những trò chơi được sáng tạo, lưu truyền tự nhiên,
rộng rãi từ thế hệ này sang thế hệ khác, mang đậm bản sắc văn hóa dân gian.

Nó được kết thành từ quá trình lao động và sinh hoạt. Đặc biệt đối với trẻ em,
trò chơi dân gian với những chức năng đặc biệt của nó đã mang lại cho thế
giới trẻ thơ nhiều điều thú vị và bổ ích, đồng thời thể hiện nhu cầu giải trí, vui
chơi, quyền được chia sẻ niềm vui của các em với bạn bè, cộng đồng. Nó làm
cho thế giới xung quanh các em đẹp hơn và rộng mở; tuổi thơ của các em sẽ
trở thành những kỉ niệm quý báu theo suốt cuộc đời; làm giàu nguồn tình cảm
và trí tuệ cho các em. Chính vì vậy, trò chơi dân gian rất cần thiết được lựa
chọn, giới thiệu trong nhà trường tuỳ theo lứa tuổi của trẻ.
Trò chơi dân gian cũng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc phát
triển kỹ năng xã hội cho trẻ KTTT. Thông qua các trò chơi mà giáo viên tổ
chức với mục đích cụ thể sẽ tạo điều kiện cho trẻ có cơ hội tham gia vui chơi
cùng bạn bè, đăc biệt trẻ phát triển kĩ năng cần thiết phục vụ cho việc học tập
và trong cuộc sống. Trẻ tạo được sự thân thiện với bạn bè, thầy cô và từ đó
giúp trẻ học tập tốt hơn.
Cơ sở thực nghiệm trực thuộc Trung tâm Nghiên cứu Giáo dục đặc
biệt-Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam được thành lập vào tháng 1 năm
2010. Mục tiêu chính là thực nghiệm những công trình nghiên cứu về lĩnh vực
Giáo dục đặc biệt giúp cán bộ nghiên cứu có cơ hội nâng cao năng lực nghiên

2


cứu về lí luận cũng như thực tiễn. Hiện nay, cơ sở thực nghiệm tiếp nhận các
đối tượng trẻ có nhu cầu giáo dục đặc biệt gồm: trẻ khiếm thính, trẻ tự kỷ, trẻ
chậm nói, trẻ KTTT, trẻ khó khăn về học, trẻ đa tật, trong đó số trẻ KTTT là
chủ yếu. Hầu hết các em đều thiếu, yếu về các KNXH và các giáo viên ở đây
cũng đang gặp nhiều khó khăn trong việc giải quyết vấn đề này.
Chính vì những lý do trên mà chúng tôi đã chọn nghiên cứu đề tài
“Biện pháp phát triển kỹ năng xã hội cho trẻ KTTT từ 4 – 5 tuổi thông qua
trò chơi dân gian”.

2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở đặc điểm cũng như vai trò của trò chơi dân gian đến sự phát
triển ở trẻ KTTT 4 – 5 tuổi, đặc biệt đối với sự phát triển kỹ năng xã hội, đề
tài đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc phát triển kỹ năng
xã hội cho trẻ KTTT 4 – 5 tuổi thông qua trò chơi dân gian.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình phát triển KNXH của trẻ KTTT 4 – 5 tuổi.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động trò chơi dân gian nhằm phát triển KNXH cho trẻ KTTT
4 - 5 tuổi.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của việc phát triển KNXH
cho trẻ KTTT 4 – 5 tuổi thông qua trò chơi dân gian.
- Đề xuất một số biện pháp phát triển KNXH cho trẻ KTTT trong độ
tuổi từ 4 - 5 thông qua trò chơi dân gian.
- Tổ chức thực nghiệm để ứng dụng đề xuất tính khả thi của các biện
pháp phát triển KNXH cho trẻ KTTT 4 – 5 tuổi thông qua trò chơi dân gian
mà đề tài nghiên cứu.

3


5. Giới hạn nghiên cứu
5.1. Giới hạn về đối tượng và địa bàn nghiên cứu
- Đề tài tập trung vào nghiên cứu một số biện pháp nhằm phát triển
KNXH cho trẻ KTTT 4 – 5 tuổi thông qua việc sử dụng trò chơi dân gian.
- Nghiên cứu và thực nghiệm được tiến hành với các KNXH của trẻ
KTTT bao gồm:
+ Kỹ năng luân phiên

+ Kỹ năng hợp tác
+ Kỹ năng vui chơi
Việc đánh giá thực trạng và thực nghiệm được tiến hành tại Cơ sở Thực
Nghiệm - Trung tâm Nghiên cứu Giáo dục đặc biệt - Viện Khoa học giáo dục
Việt Nam và Trung tâm Đào tạo và Phát triển Giáo dục đặc biệt – Trường Đại
học Sư phạm Hà Nội.
5.2. Giới hạn về khách thể khảo sát
- Khảo sát KNXH của 30 trẻ KTTT 4 – 5 tuổi mức độ trung bình (IQ từ
40 – 55), 30 giáo viên dạy trẻ tại Cơ sở Thực Nghiệm - Trung tâm Nghiên cứu
Giáo dục đặc biệt - Viện Khoa học giáo dục Việt Nam và Trung tâm Đào tạo và
Phát triển Giáo dục đặc biệt – Trường Đại học Sư phạm Hà Nội nhằm tìm hiểu
thực trạng sử dụng các trò chơi dân gian trong dạy học cho trẻ nói chung và
trẻ KTTT nói riêng.
- Chúng tôi lựa chọn 3 trẻ KTTT từ 4 – 5 tuổi mức độ trung bình (IQ từ
40 – 55) để thực nghiệm và rút ra kết luận.
6. Giả thuyết khoa học
Hiện nay, ở các trung tâm chuyên biệt, GV đã quan tâm đến việc phát
triển KNXH thông qua trò chơi dân gian cho trẻ KTTT 4 – 5 tuổi, tuy nhiên
chưa có hiệu quả cao. Nếu giáo viên nắm được đặc điểm, vai trò của trò chơi dân
gian cũng như đặc điểm hình thành và phát triển KNXH của nhóm trẻ lứa tuổi
này, trên cơ sở đó áp dụng một số biện pháp thích hợp sẽ giúp trẻ phát triển kỹ
năng xã hội tốt hơn, tạo nền tảng cho trẻ có khả năng hoà nhập cao hơn.
4


7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
7.1.1. Mục đích
- Nghiên cứu tài liệu nhằm xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.
7.1.2. Nội dung

- Nghiên cứu các tài liệu liên quan tới trò chơi dân gian, kỹ năng xã
hội, trẻ KTTT, và việc phát triển KNXH thông qua trò chơi dân gian cho trẻ
KTTT từ 4 – 5 tuổi.
7.1.3. Các bước tiến hành
- Xây dựng sơ đồ lý thuyết cho đề tài.
- Sưu tầm những tài liệu liên quan.
- Đọc các tài liệu liên quan tới đề tài qua: Luận án, luận văn, tạp chí,
báo mạng…
- Phân tích những nội dung đã đọc được thông qua các tài liệu, để tìm
ra nội dung chính liên quan trực tiếp tới đề tài.
- Tổng hợp, thu thập thông tin về các vấn đề liên quan nhằm xây dựng
cơ sở lí luận cho đề tài qua quan sát, sử dụng phiếu hỏi, phỏng vấn…
- Viết cơ sở lý luận của đề tài.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp quan sát
a. Mục đích:
- Thu thập thông tin về KNXH của trẻ KTTT từ 4 - 5 tuổi, các trò chơi
dân gian giáo viên sử dụng để phát triển KNXH cho trẻ KTTT 4 – 5 tuổi.
b. Nội dung
- Quan sát KNXH của trẻ KTTT 4 – 5 tuổi thể hiện như thế nào khi
chơi với các bạn, với cô giáo.
- Quan sát GV tổ chức trò chơi dân gian để phát triển KNXH cho trẻ
KTTT từ 4 5 tuổi.
5


c. Các bước tiến hành
- Xác định mục đích, đối tượng và khách thể quan sát.
- Thiết kế, xây dưng kế hoạch quan sát.
- Tiến hành quan sát (Ghi chép thông tin).

- Xử lý thông tin.
7.2.2. Phương pháp phỏng vấn
a. Mục đích
- Trao đổi với GV về các trò chơi dân gian nhằm phát triển KNXH cho
trẻ KTTT.
- Trao đổi với cha mẹ và người chăm sóc trẻ KTTT về tính cần thiết
của việc sử dụng trò chơi dân gian trong việc phát triển KNXH cho trẻ.
b. Nội dung
- Tìm hiểu về đặc điểm KNXH của trẻ KTTT thông qua trò chuyện với
giáo viên và cha mẹ trẻ.
- Tìm hiểu về việc phát triển KNXH cho trẻ KTTT
- Tìm hiểu về việc sử dụng trò chơi dân gian nhằm phát triển KNXH
cho trẻ KTTT 4 – 5 tuổi.
c. Các bước tiến hành
- Xác định mục đích, đối tượng phỏng vấn.
- Xây dựng chương trình phỏng vấn.
- Tiến hành phỏng vấn (Ghi chép, ghi âm, quay hình..)
- Xử lý thông tin.
7.2.3. Phương pháp điều tra bằng phiếu trưng cầu ý kiến
a. Mục đích
- Sử dụng bảng hỏi dành cho GV để tìm hiểu thực trạng việc sử dụng
các trò chơi dân gian nhằm phát triển KNXH cho trẻ KTTT 4 – 5 tuổi tại Cơ
sở Thực Nghiệm - Trung tâm Nghiên cứu Giáo dục đặc biệt - Viện Khoa học

6


Giáo dục Việt Nam và Trung tâm Đào tạo và Phát triển Giáo dục đặc biệt –
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
b. Nội dung

- Tìm hiểu về đặc điểm KNXH của trẻ KTTT 4 – 5 tuổi thông qua trò
chuyện với giáo viên và cha mẹ trẻ.
- Tìm hiểu về việc phát triển KNXH cho trẻ KTTT 4 – 5 tuổi.
- Tìm hiểu về việc sử dụng trò chơi dân gian nhằm phát triển KNXH
cho trẻ KTTT 4 – 5 tuổi.
c. Cách tiến hành
- Xác định đối tượng cần trưng cầu ý kiến.
- Xây dựng phiếu trưng cầu ý kiến.
- Phát phiếu.
- Thu hồi phiếu và xử lý thông tin.

7


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG XÃ HỘI
CHO TRẺ KHUYẾT TẬT TRÍ TUỆ 4 – 5 TUỔI THÔNG QUA
TRÒ CHƠI DÂN GIAN
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Nghiên cứu về kỹ năng xã hội
Nghiên cứu về kỹ năng xã hội, trong tâm lí học phải kể đến Lý thuyết
hoạt động của Vưgôtxky qua việc đưa ra khái niệm và xây dựng lí thuyết
“Vùng phát triển gần” của học sinh, phải kích thích, thức tỉnh quá trình vận
động chuyển hoạt động vào bên trong của trẻ. Quá trình này chỉ xảy ra trong
mối quan hệ với xung quanh hay sự tương tác với cá nhân, tập thể. Thực hiện
điều đó tức là hình thành nên cho trẻ những kĩ năng tương tác hay đó là kỹ
năng xã hội cần thiết để giải quyết các mối quan hệ xã hội. Như vậy có thể
khẳng định việc giáo dục kỹ năng xã hội là hết sức cần thiết cho sự phát triển
của trẻ nói chung và trẻ KTTT nói riêng [11].
Nghiên cứu về kĩ năng xã hội của trẻ KTTT, trong định nghĩa về trẻ

KTTT của Tredgod và E.A Doll những năm 30 - 40 của thế kỉ XX, của
AAMR - 1992 hay của DSM - IV đều đề cập đến ý nghĩa của việc đánh giá
mức độ kỹ năng xã hội trong việc phân biệt trẻ KTTT với trẻ bình thường hay
việc phân loại mức độ KTTT của trẻ [25], [18]. Những nghiên cứu này đều
nhận định kỹ năng xã hội của trẻ KTTT là rất hạn chế. Đó chính là một rào
cản lớn tách biệt trẻ với môi trường xung quanh. Hạn chế về kỹ năng xã hội,
trẻ hành động và ứng xử thiếu tự tin, không phù hợp, thậm chí sai lệch đi
nhiều so với những chuẩn mực xã hội. Điều đó có ý nghĩa trẻ sẽ không
giống với những người khác và có thể không được chấp nhận. Do đó, vai
trò của việc phát triển kỹ năng xã hội cho trẻ KTTT là một việc hết sức
quan trọng trong quá trình giúp trẻ KTTT hòa nhập với xã hội và có một
cuộc sống bình thường nhất.
8


Trung tâm Nghiên cứu chất lượng và Phát triển chương trình Giáo dục
đã nghiên cứu các thành tựu của tác giả trong và ngoài nước, đồng thời tính
đến các đặc điểm đặc thù của trẻ KTTT như khả năng tư duy logic, cách lí
giải nguyên nhân và ý nghĩa của tình huống, hiện tượng, kĩ năng sống,.., đưa
ra quy trình phát triển kĩ năng xã hội của trẻ KTTT gồm 4 bước (giai đoạn):
tiếp thu, duy trì, thuần thục và thành thạo. Nghiên cứu cho rằng: khảo sát và
đánh giá chính xác mức độ kỹ năng xã hội của trẻ KTTT đó là điều kiện thiết
yếu đầu tiên để xác định cách thức phát triển kĩ năng xã hội của trẻ KTTT
một cách hiệu quả. Nhiều công trình nghiên cứu đã cho thấy môi trường giáo
dục là môi trường tốt nhất để phát triển kĩ năng xã hội cho trẻ KTTT. Ở
trường trẻ em KTTT được tiếp xúc với nhiều bạn bè thầy cô và được làm
quen với các chuẩn mực xã hội mới. Qua đó các em hình thành các mối quan
hệ xã hội cần thiết giúp cho sự phát triển bình thường của trẻ [7].
Một số công trình nghiên cứu về kỹ năng xã hội:
- Năm 2010, tác giả Nguyễn Thị Hiền đã nghiên cứu đề tài Luận văn

Thạc sỹ “Biện pháp rèn luyện kỹ năng xã hội cho trẻ CPTTT học hòa nhập tại
trường tiểu học”. Qua đề tài, tác giả đã đưa ra một số đặc điểm và khó khăn
về KNXH của trẻ CPTTT khi học hòa nhập tại trường tiểu học. Qua đó, tác
giả đã đề xuất một số biện pháp để rèn luyện KNXH cho trẻ CPTTT, và các
biện pháp đó cũng đã có những hiệu quả nhất định [6].
- Năm 2011, tác giả Nguyễn Thị Hương đã nghiên cứu đề tài “Áp dụng
phương pháp sử dụng trò chơi nhằm phát triển kỹ năng xã hội cho trẻ KTTT”.
Trong đề tài, tác giả cũng đã đề cập tới vai trò của trò chơi trong việc phát
triển KNXH cho trẻ KTTT. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là trẻ KTTT học
tiểu học chuyên biệt. Qua đề tài này, càng thấy được những khó khăn về
KNXH mà trẻ KTTT gặp phải. Đồng thời, tác giả cũng khẳng định vai trò của
KNXH đối với sự phát triển của trẻ KTTT [7].

9


- Tác giả Nguyễn Thị Tuyết Mai đã bảo vệ đề tài Luận văn Thạc sỹ
“Giáo dục KNXH cho trẻ KTTT 4 – 5 tuổi thông qua câu chuyện xã hội”.
Theo tác giả, trẻ KTTT gặp nhiều khó khăn trong KNXH, từ kỹ năng trong
gia đình, kỹ năng trong nhà trường và kỹ năng xã hội. Các GV cũng chưa có
nhiều phương pháp để phát triển những KNXH đó cho trẻ. Vì thế, tác giả đã
sử dụng câu chuyện xã hội để giáo dục KNXH cho các trẻ KTTT 4 – 5 tuổi tại
trường Mầm non hòa nhập. Đề tài đã giúp cho các GV một hướng mới trong
việc hình thành và phát triển KNXH cho trẻ KTTT [10].
Nói tóm lại, các tác giả trên đã đi sâu vào tìm hiểu KNXH của trẻ
KTTT và sử dụng một số phương pháp nhằm phát triển KNXH cho trẻ.
Những phương pháp, biện pháp đó cũng đã góp phần giúp trẻ KTTT phát
triển KNXH của mình hơn. Tuy nhiên, hầu hết các tác giả nghiên cứu trên đối
tượng trẻ KTTT đang học tiểu học hòa nhập, và cũng chưa có tác giả nào sử
dụng trò chơi dân gian nhằm phát triển KNXH cho trẻ KTTT 4 – 5 tuổi.

Như vậy, qua một số nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước,
có thể khẳng định sự cần thiết của việc phát triển kỹ năng xã hội cho trẻ
KTTT 4 – 5 tuổi. Vì thế, trong nghiên cứu này, chúng tôi cũng muốn đưa ra
những biện pháp khi sử dụng trò chơi dân gian nhằm phát triển KNXH cho trẻ
KTTT 4 – 5 tuổi.
1.1.2. Những nghiên cứu về trò chơi dân gian
Hoạt động vui chơi nói chung, trò chơi dân gian nói riêng từ lâu đã cuốn
hút sự quan tâm của các nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như sinh
học, tâm lý học, xã hội học, giáo dục học… Nhưng đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế
kỷ XX các nhà khoa học mới nghiên cứu hoạt động này một cách sâu sắc. Vấn
đề lí luận và phương pháp tổ chức trò chơi nói chung và trò chơi dân gian nói
riêng được các nhà sư phạm thế giới và Việt Nam quan tâm, bởi lẽ họ thấy được
ý nghĩa đích thực của trò chơi trong việc giáo dục và dạy học cho trẻ.

10


Trên thế giới, hầu hết các quốc gia đều quan tâm đến việc hoạt động,
vui chơi của trẻ em. Điều đó thể hiện rất rõ vào việc cùng nhau ký kết “Tuyên
bố về quyền và bổn phận của trẻ em”, trong đó khẳng định trẻ em có quyền
được vui chơi. Tiếng nói chung về vấn đề này là: Trẻ em không được vui chơi
thì không thể phát triển, trò chơi và vui chơi là cuộc sống thực của trẻ, hãy tạo
mọi điều kiện tốt nhất để cho trẻ được vui chơi và phát triển [27].
Vào những năm 40 của thế kỉ XIX, một số nhà giáo dục Nga như
P.A.Bexonova, O.P.Seia, V.I.Đalia, E.A.Pokrovxki,… đã đánh giá cao tính
hấp dẫn của trò chơi dân gian Nga đối với trẻ mẫu giáo. E.A.Pokrovxki đã chỉ
ra nguồn gốc và tính hấp dẫn đặc biệt của trò chơi dân gian Nga, đó là những
trò chơi thuộc nhóm trò chơi có luật do nhân dân sáng tác, chúng được truyền
từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trò chơi này đa dạng về thể loại. phong phú
về nội dung. Trò chơi dân gian có sức hấp dẫn lạ thường với trẻ em, bởi lẽ

chúng làm thỏa mãn nhu cầu chơi, nhu cầu nhận thức và nhu cầu xã hội của
trẻ em [3].
Ở một số nước phương Đông như Trung Quốc, Ấn Độ, người lớn cũng
đã sưu tầm trò chơi dân gian, đặc biệt là các trò chơi mang tính trí tuệ nhằm
mục đích giáo dục trẻ.
Việc nghiên cứu trò chơi nói chung và trò chơi dân gian Việt Nam nói
riêng đã được một số nhà văn hóa, nhà giáo dục Việt Nam sưu tầm nghiên
cứu như “Trò chơi xưa và nay” của tác giả Mai Văn Muôn (1985), “Trò chơi
dân gian của trẻ em Việt Nam” (1992) do nhóm tác giả Huy Hà, Hoàng Lân,
Ngô Bích Luận, Phan Ngọc Minh, Lê Bích Ngọc sưu tầm tuyển chọn và giới
thiệu; “100 trò chơi dân gian” do Nguyễn Hạnh tuyển chọn; Trần Hòa Bình
và Bùi Lương Việt với “Trò chơi dân gian trẻ em” (2007). Các tác giả đã giới
thiệu nguồn gốc, đặc điểm, vai trò của trò chơi dân gian với việc giáo dục và

11


phát triển toàn diện cho thế hệ trẻ. Bên cạnh đó, các tác giả còn sưu tầm và
phân loại trò chơi dân gian trẻ em theo chức năng giáo dục như trò chơi trí
tuệ, trò chơi thẩm mỹ, trò chơi thể lực. Từ cách phân loại này, các nhà giáo
dục đã vận dụng vào quá trình tổ chức trò chơi dân gian cho trẻ ở trường mầm
non nhằm phục hồi những trò chơi truyền thống ở trẻ em [21].
Điều đáng lưu ý là trò chơi dân gian luôn gắn liền với các bài đồng dao,
vì vậy nó thu hút được sự quan tâm của các nhà thơ, nhà văn. Họ đã sưu tầm
và biên soạn rất nhiều bài đồng dao phục vụ cho các trò chơi dân gian của trẻ
như nhóm tác giả Nguyễn Phùng Loan, Đặng Diệu Trang, Trần Hoàn, sưu
tầm và biên soạn “Đồng dao và trò chơi trẻ em người Việt”, “Bé với khúc
đồng dao” của Nhà xuất bản Giáo dục. Chính nội dung của bài đồng dao đã
góp phần phát triển ngôn ngữ, mở rộng vốn hiểu biết cho trẻ về môi trường
xung quanh và phát triển óc sáng tạo… đặc biệt nó làm tăng tính hấp dẫn của

trò chơi dân gian với trẻ [21].
Trò chơi dân gian có ý nghĩa vô cùng to lớn với trẻ em nói chung và trẻ
em KTTT nói riêng. Có khá nhiều nghiên cứu về tầm quan trọng của trò chơi
dân gian đối với sự phát triển trong các lĩnh vực của trẻ:
- Năm 2013, Thạc sỹ Phạm Hà Thương đã tiến hành nghiên cứu đề tài
“Quy trình tổ chức các trò chơi dân gian nhằm nâng cao hiệu quả việc phát
triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi “. Đề tài đã đưa ra quy trình cụ thể
khi tổ chức trò chơi dân gian, và đã áp dụng quy trình đó đối với một số trò chơi
dân gian quen thuộc nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo 4 – 5 tuổi. Quy
trình này đã giúp các GV dễ dàng hơn khi tổ chức trò chơi dân gian cho các trẻ
trong trường Mầm non [20].
- Năm 2011, tác giả Nguyễn Thị Quỳnh Trâm đã nghiên cứu đề tài Luận
văn Thạc sỹ “Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng vận động tinh cho trẻ Mẫu

12


Giáo 5 – 6 tuổi thông qua trò chơi dân gian”. Qua đề tài, tác giả đã khẳng định
vai trò của trò chơi dân gian đối với trẻ Mẫu giáo trong việc rèn luyện kỹ năng
vận động tinh. Từ đó, tác giả đưa ra một số biện pháp cụ thể nhằm phát triển kỹ
năng vận động tinh cho các trẻ 5 – 6 tuổi thông qua trò chơi dân gian. Những biệ
pháp này đã được thực nghiệm và đạt hiệu quả cao [21].
- Năm 2011, tác giả Trần Thu Hương đã nghiên cứu đề tài “Sưu tầm
và tổ chức một số trò chơi dân gian đã sưu tầm cho trẻ Mẫu giáo 5 – 6 tuổi
ở trường mầm non”. Qua đề tài, tác trình tổ chức các trò chơi đó. Từ đó, tác
giả càng khẳng định vai trò và tầm quan giả đã đưa ra một số trò chơi dân
gian phù hợp với trẻ Mẫu giáo 5 – 6 tuổi và quy trọng của trò chơi dân gian
đối với trẻ Mẫu giáo [8].
- Năm 2007, tác giả Nguyễn Thị Mỹ Dung cũng đã nghiên cứu đề tài
“Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng vận dụng cơ bản cho trẻ mẫu giáo 4 – 5

tuổi thông qua trò chơi dân gian”. Đề tài tập trung vào khai thác vai trò của
trò chơi dân gian trong việc rèn luyện kỹ năng vận dụng cơ bản cho trẻ Mẫu
giáo 4 – 5 tuổi. Từ đó, tác giả đề xuất một số biện pháp nhằm phát triển kỹ
năng vận dụng cơ bản thông qua trò chơi dân gian cho trẻ Mẫu giáo 4 – 5
tuổi. Các biện pháp này cũng đã có những hiệu quả to lớn trong việc giáo dục
trẻ Mẫu giáo khi tổ chức trò chơi dân gian [3].
Hầu hết các nghiên cứu trên đều sử dụng trò chơi dân gian để phát triển
những mặt còn hạn chế của trẻ, đó là: ngôn ngữ, giao tiếp, vận động tinh…và
đều đạt những kết quả mong muốn. Như vậy, có thể nói trò chơi dân gian có tác
dụng rất to lớn đối với sự phát triển của trẻ em nói chung và trẻ KTTT nói riêng
về mọi mặt. Tuy nhiên, một trong các mặt cần thiết cho trẻ KTTT là KNXH thì
chưa được các tác giả chú trọng.

13


1.2. Lí luận về trẻ KTTT, KNXH của trẻ KTTT, trò chơi dân gian
nhằm phát triển KNXH cho trẻ
1.2.1. Lí luận về KTTT
1.2.1.1. Khái niệm KTTT
Có rất nhiều quan điểm khác nhau khi đưa ra khái niệm trẻ KTTT. Tuy
nhiên, khái niệm trẻ KTTT được sử dụng rộng rãi trên thế giới và ở Việt Nam
hiện nay đó là khái niệm KTTT theo bảng phân loại DSM – IV và theo bảng
phân loại AAMR do Hội KTTT Mỹ thông qua [18].
Theo Sổ tay chẩn đoán và thống kê những rối nhiễu tinh thần – IV (viết
tắt là DSM – IV), tiêu chí KTTT bao gồm:
A. Chức năng trí tuệ dưới mức trung bình: Là chỉ số thông minh đạt
gần 70 hoặc thấp hơn 70 trên một lần thực hiện trắc nghiệm cá nhân (đối với
trẻ nhỏ, người ta dựa vào các đánh giá lâm sàng để xác định).
B. Bị thiếu hụt hoặc khiếm khuyết ít nhất là hai trong số những hành vi

thích ứng sau: Giao tiếp, tự chăm sóc, sống tại gia đình, kỹ năng xã hội/liên
cá nhân, sử dụng các tiện ích trong cộng đồng, tự định hướng, kỹ năng học
đường chức năng, làm việc, giải trí, sức khỏe và độ an toàn (hành vi thích ứng
là toàn bộ những kỹ năng mà những người có cùng nhóm văn hoá đòi hỏi ở
một cá nhân tuỳ thuộc theo lứa tuổi của cá nhân đó).
C. Tật xuất hiện trước 18 tuổi.
Theo Hiệp hội KTTT Mỹ - 1992 (viết tắt là AAMR) thì KTTT là
những hạn chế lớn về khả năng thực hiện chức năng. Tật có những đặc điểm,
dấu hiệu sau:
- Hoạt động trí tuệ dưới mức trung bình.
- Hạn chế về hai hoặc nhiều hơn những lĩnh vực kỹ năng và thích ứng sau:
Giao tiếp, tự phục vụ, sống tại gia đình, sử dụng các tiện ích công cộng, tự định
hướng, sức khoẻ, an toàn, kỹ năng học đường chức năng, giải trí, lao động.
14


- Hiện tượng KTTT xuất hiện trước 18 tuổi.
Nhìn chung, hai khái niệm trên đều tập trung vào dấu hiệu chính sau:
- Chỉ số trí tuệ;
- Khả năng thích ứng;
- Độ tuổi sinh học.
Nói tóm lại, khái niệm KTTT của DSM - IV và AAMR đã cung cấp
những hướng dẫn cụ thể cho việc xác định các dấu hiệu khá đặc trưng của tật
KTTT và trên thực tế chúng có thể dùng làm cơ sở để chẩn đoán và phân loại
trẻ KTTT.
Các khái niệm trên sử dụng các dấu hiệu về cơ bản là giống nhau bao
gồm: Chỉ số trí tuệ, khả năng thích ứng, độ tuổi sinh học. Tuy nhiên cũng có
sự khác biệt cơ bản đó là: Bảng phân loại DSM – IV sử dụng tiêu chí là trí tuệ
để xác định mức độ KTTT, còn bảng phân loại của AAMR sử dụng tiêu chí là
khả năng thích ứng xã hội để xác định mức độ KTTT.

1.2.1.2. Phân loại mức độ khuyết tật trí tuệ
Để xác định mức độ KTTT của một trẻ cụ thể, phải dựa vào các dấu
hiệu tâm vận động, về khả năng tự phục vụ, khả năng thích nghi với cuộc
sống của trẻ. Tuy nhiên về mặt hành chính, cần có tiêu chí nào đó dễ thống
nhất. Đa số các nhà nghiên cứu chấp nhận dựa vào điểm trí tuệ được thực
hiện qua các trắc nghiệm. Theo cách này hiện nay có nhiều bảng phân loại
(bảng của tổ chức Y tế thế giới, bảng DSM của hiệp hội tâm thần Mỹ,
bảng của các học giả Pháp năm 1993). Thông thường (tính theo trắc
nghiệm Stanford- Binet và theo Wechsler), những trẻ có chỉ số IQ<70
được coi là KTTT [26]; [18].
Cố bác sĩ Nguyễn Khắc Viện (1913 – 1997) dùng phương pháp đo trí
tuệ để phân loại mức độ KTTT, có 4 loại:

15


-Chỉ số trí tuệ từ 70 – 80: KTTT nhẹ;
-Chỉ số trí tuệ từ 50 – 60: KTTT vừa;
-Chỉ số trí tuệ từ 30 – 40: KTTT nặng;
-Chỉ số trí tuệ dưới 30: KTTT rất nặng.
DSM – IV sử dụng chỉ số trí tuệ làm tiêu chí phân loại mức độ KTTT là:
-KTTT nhẹ: Chỉ số trí tuệ từ 50 – 55 tới xấp xỉ 70;
-KTTT trung bình: Chỉ số trí tuệ từ 35 – 40 tới 50 – 55;
-KTTT nặng: Chỉ số trí tuệ từ 20 – 25 tới xấp xỉ 35 – 40;
-KTTT rất nặng: Chỉ số trí tuệ dưới 20 hoặc 25;
AAMR sử dụng tiêu chí thích ứng để phân loại mức độ KTTT, tương
ứng với 4 mức độ hỗ trợ:
- Hỗ trợ không thường xuyên : Hỗ trợ dựa trên nhu cầu. Hình thức hỗ
trợ này có đặc điểm là không liên tục, một người không phải lúc nào cũng cần
được hỗ trợ hoặc chỉ cần sự hỗ trợ ngắn hạn trong suốt cuộc đời. Hỗ trợ

không thường xuyên có thể ở mức độ cao hoặc thấp.
- Hỗ trợ có giới hạn: Mức độ hỗ trợ tuỳ theo thời điểm, hạn chế về thời
hạn nhưng không giống với hình thức hỗ trợ không thường xuyên, hình thức
hỗ trợ này cần ít nhân viên hơn và kinh phí cũng thấp hơn.
- Hỗ trợ mở rộng: Hỗ trợ diễn ra đều đặn ví dụ như là hỗ trợ hàng ngày
tại những môi trường nhất định có thể là ở nhà hoặc tại nơi làm việc.
- Hỗ trợ toàn diện: Hỗ trợ thường xuyên và ở mức độ cao; hỗ trợ trong
nhiều môi trường và trong suốt cuộc đời. Hỗ trợ toàn diện đòi hỏi sự tham gia
của nhiều người, hình thức hỗ trợ này mang tính chất xâm nhập nhiều hơn so
với hỗ trợ mở rộng và hạn chế hoặc hỗ trợ hạn chế về thời gian.
Nói tóm lại, cách phân loại mức độ KTTT thường được sử dụng hiện
nay là cách phân loại theo DSM – IV và theo AAMR. Việc phân loại mức độ
KTTT giúp có cơ sở để đoán biết và đặt kì vọng ở mức độ hành vi của trẻ, xác
định được mức độ, hình thức chăm sóc, giáo dục cần thiết và phù hợp cho trẻ.
16


1.2.1.3. Tiêu chí chẩn đoán khuyết tật trí tuệ
Bảng 1.1. Tiêu chí chẩn đoán khuyết tật trí tuệ
Các tiêu chí chẩn đoán KTTT
theo DSM – IV và AAMR
1. Chức năng trí tuệ dưới mức
trung bình

2. Bị thiếu hụt hoặc khiếm
khuyết ít nhất là hai trong số
những lĩnh vực hành vi thích
ứng
3. Tật xuất hiện


Nội dung
Chỉ số thông minh đạt gần 70 hoặc thấp
hơn 70 trên một lần thực hiện trắc nghiệm
cá nhân (đối với trẻ nhỏ người ra dựa trên
những đánh giá lâm sàng để xác định).
Giao tiếp, tự chăm sóc, sống tại gia đình, kĩ
năng xã hội/liên cá nhân, sử dụng các tiện
ích công cộng, tự định hướng, kĩ năng học
đường chức năng, làm việc, giải trí, sức
khoẻ và an toàn.
Trước 18 tuổi

Chức năng trí tuệ tổng quát là chỉ số thông minh (có thể gọi là IQ hoặc
các thuật ngữ tương đương với IQ) được qua đánh giá bằng một hoặc hơn một
trắc nghiệm trên cá nhân về trí thông minh. Chức năng trí tuệ dưới mức trung
bình là chỉ số thông minh đạt khoảng từ 70 hay thấp hơn (chỉ khoảng 2 điểm
so với điểm chuẩn này).
Khả năng thích nghi có nghĩa là mức độ theo kịp yêu cầu của cuộc sống
chung của cá nhân và khả năng độc lập, kiến thức văn hoá và xã hội và khả năng
hoà nhập cộng đồng ở một lứa tuổi nào đó so với mức độ chuẩn mực.
Khả năng thích nghi có thể bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác nhau,
chẳng hạn như giáo dục, động cơ, cá tính, cơ hội về xã hội và dạy nghề, hội
chứng tinh thần và những vấn đề sức khoẻ có thể xuất hiện cùng với KTTT.
Những khó khăn về khả năng thích nghi có thể cải thiện đáng kể nhờ sự can
thiệp của các nỗ lực giáo dục, còn chỉ số trí tuệ thì khó hơn.
Theo DSM – IV ở những người KTTT, hành vi thích nghi để cải thiện

17



hơn năng lực trí tuệ. Đây là một gợi ý quan trọng trong quá trình giáo dục cho
những trẻ KTTT.
Vấn đề cuối cùng cần nhấn mạnh đến là mục tiêu quan trọng của quan
niệm này là: Xã hội có trách nhiệm hỗ trợ, đáp ứng nhu cầu để người khuyết
tật có khả năng hoà nhập tốt hơn.
Hệ thống hỗ trợ có nghĩa là phải có nhiều loại hình dịch vụ và điều ứng
phù hợp với nhu cầu của những người khuyết tật. Nếu người càng khuyết tật
nặng thì mức độ hỗ trợ lại càng phải cao để giúp người đó hoà nhập vào xã
hội ở mức độ tối đa.
Theo AAMR, 10 lĩnh vực sau đây được coi là quan trọng để chẩn đoán
trẻ KTTT
Bảng 1.2. Các lĩnh vực quan trọng để chẩn đoán trẻ KTTT
Các lĩnh vực

Diễn giải và ví dụ

Giao tiếp

- Khả năng lĩnh hội và thể hiện thông tin thông qua các hành vi
có tính chất biểu tượng ví dụ như từ nói, từ viết,..., biểu tượng
bằng hình vẽ, ngôn ngữ dấu hình,...v..v.
- Các hành vi phi biểu tượng ví dụ như là biểu hiện nét mặt, cử
động của cơ thể, xúc giác, điệu bộ...

Tự chăm sóc

Những kỹ năng đại, tiểu tiện, ăn uống, mặc quần áo, vệ sinh và
giữ đầu tóc gọn gàng.

Cuộc sống tại

gia đình

Những kỹ năng về cuộc sống tại gia đình như chuẩn bị và mặc
quần áo, giữ gìn nhà cửa, chuẩn bị thức ăn và nấu nướng, dự
trù về chi tiêu, an toàn trong nhà, kế hoạch hàng ngày,....

Xã hội

Những kỹ năng giao lưu với mọi người,...

Cộng đồng

Những kỹ năng sử dụng các tiện ích trong cộng đồng như đi
lại,...

Tự định hướng

Những kỹ năng lựa chọn; là khả năng cá nhân lựa chọn cách
sống với những phẩm giá, sở thích và khả năng của mỗi cá nhân.

Sức khoẻ và sự Những kỹ năng giữ gìn sức khoẻ trong các hoạt động như ăn
18


an toàn

Học tập

Giải trí


uống, phát hiện ra bệnh tật, chữa trị và phòng bệnh, hỗ trợ cơ
bản, giới thính, sự phù hợp về hình thức và thể chất, khả năng
cân nhắc về sự an toàn ở mức độ cơ bản,...
Khả năng nhận thức và những kỹ năng tiếp thu ở trường học và
ứng dụng trong cuộc sống. Khả năng học tâph là việc học các
môn học ở trường từ người dạy để áp dụng trong cuộc sống
hàng ngày của mình, đặc biệt là những kỹ năng mà người học
sẽ cần đến sau khi ra trường.
Phát triển các hoạt động giải trí chẳng hạn như các hoạt động giải
trí cá nhân và tập thể, phản ảnh sở thích và sự lựa chọn cá nhân, và
các hoạt động tổ chức ở nơi công cộng, đúng lứa tuổi và theo
nhóm văn hoá,...
Những kỹ năng để có thể làm một việc nào đó trong cộng đồng,
đó có thể là những công việc theo ca kíp hoặc kéo dài cả buổi.

Công việc

Những kỹ năng này là kỹ năng cụ thể để làm được một việc nào
đó, có hành vi xã hội thích hợp và những kỹ năng liên quan đến
công việc.

Những kỹ năng này có tầm quan trọng ảnh hưởng đến sự thành công
trong cuộc sống của một người. Sự kết hợp của những kỹ năng này cho phép
từng cá nhân có thể hội nhập vào cuộc sống của cộng đồng.
1.2.1.4. Đặc điểm tâm lý của trẻ KTTT 4 – 5 tuổi
Dựa vào đặc điểm tâm lý của trẻ Mẫu giáo 4 – 5 tuổi [1] và đặc điểm
tâm lý của trẻ KTTT trong cuốn “Đại cương giáo dục trẻ khuyết tật trí tuệ”
của tác giả Nguyễn Thị Hoàng Yến và Đỗ Thị Thảo [26], chúng tôi đưa ra đặc
điểm tâm lý của trẻ KTTT 4 – 5 tuổi như sau:
a. Đặc điểm cảm giác tri giác

Đặc điểm cảm giác tri giác của trẻ KTTT 4 – 5 tuổi thường có các biểu
hiện: Chậm chạp và hạn hẹp; Phân biệt màu sắc, dấu hiệu, chi tiết sự vật kém,
dễ lẫn và thiếu chính xác; Thiếu tính tích cực khi tri giác: Quan sát sự vật hiện
19


tượng đại khái, qua loa, khó quan sát các chi tiết, khó hiểu nội dung. Cảm
giác, xúc giác trẻ KTTT 4 – 5 tuổi kém, phối hợp các thao tác vụng về , phân
biệt âm thanh kém.
b. Đặc điểm tư duy
Các công trình nghiên cứu khác nhau về hoạt động nhận thức của trẻ
KTTT 4 – 5 tuổi đã đưa ra ba đặc điểm nổi bật về tư duy: Tư duy mang tính
cụ thể - trực quan; Thiếu tính liên tục trong tư duy; Yếu vai trò điều chỉnh
của tư duy
c. Đặc điểm trí nhớ
Các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhận xét chung là trẻ KTTT 4 – 5 tuổi
thường rất khó khăn trong việc ghi nhớ tài liệu. Nếu không có sự luyện tập,
củng cố thường xuyên thì trẻ sẽ quên kiến thức đã học. Đó là hiện tượng chậm
nhớ, mau quên ở những trẻ này.
d. Đặc điểm chú ý
Trẻ KTTT 4 – 5 tuổi khó có thể tập trung trong một thời gian dài, dễ bị
phân tán. Đỉnh cao chú ý và thời gian chú ý của trẻ KTTT kém hơn nhiều so
với trẻ bình thường. Nguyên nhân là do quá trình hưng phấn và ức chế ở trẻ
không cân bằng, lệch pha. Nghĩa là có khi hưng phấn quá gia tăng, có khi bị
ức chế, kìm hãm kéo dài làm cho trẻ chóng mệt mỏi và giảm đáng kể khả
năng chú ý.
e. Đặc điểm ngôn ngữ- giao tiếp
Ngôn ngữ của trẻ KTTT 4 – 5 tuổi phát triển chậm hơn trẻ bình thường
cùng độ tuổi. Những trẻ này có vốn từ rất nghèo nàn. Trẻ không dùng các liên
từ, động từ, tính từ… mà chỉ nói cộc lốc các danh từ. Trẻ không nắm được

các quy tắc ngữ pháp, phát âm không chuẩn, hay nói ngọng, chỉ nói được câu
đơn giản…
- Vốn từ ít, nghèo nàn, từ tích cực ít, từ thụ động nhiều.

20


- Phát âm: thường sai, phân biệt âm kém.
- Ngữ pháp: nói sai ngữ pháp nhiều, ít sử dụng tính từ, động từ….
- Trong quá trình giao tiếp, trẻ rất khó đáp ứng các yêu cầu của người
khác. Trẻ không có khả năng ghi nhớ hết những câu nói của người khác với
trẻ. Và trẻ cũng rất khó tìm được từ để diễn đạt ý của mình…
g. Đặc điểm hành vi
- Trẻ thường có những hành vi bất thường của bản thân như: Thu mình
lại; Phàn nàn về sức khỏe; Lo lắng, âu sầu; Các vấn đề xã hội; Chú ý tập trung
kém; Hành vi sai trái; Hành vi thái quá; Ý nghĩ khác biệt.
h. Đặc điểm kỹ năng xã hội
Trẻ KTTT 4 – 5 tuổi thường có những đặc trưng sau đây về sự phát
triển KNXH:
- Khó xây dựng các mối quan hệ gắn bó: Trẻ KTTT 4 – 5 tuổi thường
không biết cách chủ động tạo mối quan hệ với người khác, kể cả với những
người thân quen. Các giai đoạn phát triển KNXH của trẻ KTTT 4 – 5 tuổi
cũng chậm hơn so với trẻ bình thường, trẻ cần kích thích hơn trẻ bình thường.
- Không hứng thú tham gia vào các tương tác xã hội: Do tính thụ động
của trẻ kéo dài trong giai đoạn phát triển đầu tiên nên trẻ KTTT 4 – 5 tuổi có
thể không có hứng thú tham gia vào các tương tác xã hội với môi trường.
- Trẻ KTTT 4 – 5 tuổi kém nhạy cảm trong việc nắm bắt thái độ của
người xung quanh: Trẻ khó có thể nhận biết được cảm xúc của người khác, vì
thế trẻ cũng gặp khó khăn trong việc chia sẻ và đồng cảm với người khác.
- Trẻ KTTT 4 – 5 tuổi cũng gặp khó khăn trong việc hiểu và chờ đợi

đến lượt mình khi chơi hay tham gia một hoạt động nào đó.
1.2.2. Lí luận về phát triển kỹ năng xã hội cho trẻ KTTT 4 – 5 tuổi
1.2.2.1. Kĩ năng
Theo từ điển tiếng Việt: Kĩ năng là giai đoạn trung gian giữa kĩ xảo
và trí thức trong quá trình nắm vững một số phương thức hành động. Đặc
21


×