Tải bản đầy đủ (.docx) (80 trang)

Áp dụng phương pháp công tác xã hội cá nhân trong việc trợ giúp người già bị ảnh hưởng bởi HIVAIDS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (798.57 KB, 80 trang )

LỜI CẢM ƠN!
Được học tập và rèn luyện dưới mái trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội là
vinh dự lớn đối với chúng tôi. Theo học ngành Công tác xã hội trong trường Đại
Học Sư Phạm Hà Nội là một lựa chọn đúng đắn. Trong quá trình học tập trên
lớp chúng tôi được thầy cô trong khoa tận tình dạy dỗ và chỉ bảo.Ngoài việc học
trên lớp chúng tôi được tham gia nhiều hoạt động ngoại khóa và trong từng hoạt
động thầy cô luôn bên cạnh ủng hộ chúng tôi. Trong thời gian vừa qua chúng tôi
tham gia hoạt động sinh viên nghiên cứu khoa học do trường Đại Học Sư Phạm
Hà Nội phát động và thầy cô trên khoa đã triển khai tới sinh viên . Là sinh viên
năm thứ 3 và nhận thấy sự cần thiết cũng như lợi ích khi tham gia nghiên cứu
khoa học, nhóm sinh viên chúng tôi là Nguyễn Thị Ngái – Vũ Thị Xuân Nhất đã
đăng kí tham gia nghiên cứu khoa học với tên đề tài “Áp dụng phương pháp
công tác xã hội cá nhân trong việc trợ giúp người già bị ảnh hưởng bởi
HIV/AIDS”(điển cứu trường hợp tại huyện Gia Lâm – Hà Nội).
Để hoàn thành bài nghiên cứu này chúng tôi đã nhận được sự hướng dẫn ,
chỉ bảo nhiệt tình của quý thầy cô khoa Công tác xã hội.
Lời đầu tiên chúng tôi xin được gửi lời cảm ơn tới quý thầy cô Khoa
Công Tác Xã Hội và đặc biệt gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Th.S. Nguyễn Lê Hoài
Anh là người đã nhiệt tình hướng dẫn chúng tôi trong suốt thời gian làm đề tài
nghiên cứu.
Trong quá trình xuống địa bàn nghiên cứu chúng tôi nhận được sự giúp
đỡ của các cán bộ y tế công tác tại Trung tâm y tế huyện Gia Lâm và các cán bộ
công tác tại trạm y tế xã Yên Viên trong việc tìm kiếm số liệu cũng như quá
trình tiếp cận thân chủ.
Chúng tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các vị cán bộ y tế huyện Gia
Lâm và trạm y tế xã Yên Viên
Đồng thời chúng tôi gửi lời cảm ơn tới 3 thân chủ mà chúng tôi đã chọn
để điển cứu trường hợp trong đề tài nghiên cứu.
Cuối cùng chúng tôi xin gửi lời cảm ơn tới Trường Đại Học Sư Phạm Hà
Nội đã tạo điều kiện cho chúng tôi học tập và rèn luyện trong một môi trường
mô phạm


Chúc toàn thể quý vị sức khỏe, công tác tốt!


PHẦN1: MỞ ĐẦU
1.

Lí do chọn đề tài
Việt Nam đã và đang thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
bên cạnh những thành tựu đạt được có ý nghĩa trên nhiều phương diện, nhiều
lĩnh vực của đời sống xã hội thì nảy sinh không ít các vấn đề xã hội cần giải
quyết như sự phân hóa giàu nghèo, tệ nạn xã hội, ô nhiễm môi trường, sự suy
giảm, lệch lạc, tha hóa đạo đức lối sống, sự phức tạp về tội phạm xã hội,…Trong
những vấn đề xã hội đó thì tình trạng người nghiện hút ma túy và mại dâm cùng
với sự thiếu hiểu biết và yếu kém về kỹ năng sống dẫn đến hậu quả lây nhiễm
HIV/AIDS ngày càng gia tăng ảnh hưởng tới tất cả các tầng lớp xã hội và cộng
đồng dân cư.
HIV/AIDS là đại dịch toàn cầu của nhân loại ngày nay. Căn cứ vào tốc độ
lây lan , tính chất của bệnh và hậu quả khủng khiếp với tính mạng con người ,
sự tồnvong của giống nòi , nhân loại và thiệt hại to lớn về kinh tế - xã hội nên
HIV/AIDS được xác định là “ căn bệnh xuyên thế kỷ” , là “đại dịch của thế
giới” ( trích trang 22/Tập bài giảng Công tác xã hội với người có HIV/AIDS,
Th.S. Phạm Thị Thanh Thúy, 2014)
Trên thế giới đã có nhiều tổ chức quan tâm và hỗ trợ cho những người có
HIV như WHO, Tổ chức phòng chống AIDS của Liên Hợp Quốc ( UNAIDS) .
Và ở Việt Nam đã có nhiều chương trình trợ giúp cho các đối tượng có HIV
như “Chương trình trợ giúp trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS giai đoạn
2011- 2015” , Các can thiệp phòng lây truyền mẹ con giúp giảm rõ rệt nguy cơ
một phụ nữ nhiễm HIV truyền bệnh cho con mình, chương trình “ Tháng hành
động quốc gia phòng, chống HIV/AIDS năm 2014 cho đồng bào dân tộc thiểu
số và miền núi” của Bộ Y Tế- Viện kiểm sát nhân dân tối cao.Tuy nhiên có

một nhóm đối tượng chịu ảnh hưởng sâu sắc từ HIV/AIDS nhưng rất ít được
quan tâm đó là người già. Họ là những người không bị nhiễm HIV/AIDS
nhưng có nguy cơ cao bị lây nhiễm bởi họ chung sống và chăm sóc người có
HIV/AIDS.Họ bị kì thị, phân biệt đối xử ,xa lánh . Ở lứa tuổi người già cần
phải được chăm sóc , nuôi dưỡng , giải trí…Tuy nhiên đối với những người già
bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS họ không có được các quyền đó, vì họ có con,
cháu hoặc cả con cả cháu nhiễm HIV/AIDS nên họ gặp nhiều khó khăn về kinh
tế, kỹ năng chăm sóc người có HIV/AIDS, nhiều mặc cảm, tự ti, sức khỏe yếu.
2


Họ không những không có khả năng tạo ra kinh tế mà lại phải chi trả các khoản
tiền trong gia đình.
“Công tác xã hội là một hoạt động chuyên nghiệp được thực hiện dựa trên
nền tảng khoa học chuyên ngành nhằm hỗ trợ đối tượng có vấn đề xã hội(cá
nhân, nhóm, cộng đồng) giải quyết vấn đề gặp phải , cải thiện hoàn cảnh, vươn
lên hòa nhập xã hội theo hướng tích cực, bền vững”(Trích trang 41/Gíao trình
nhập môn công tác xã hội, Th.S. Nguyễn Duy Nhiên, 2008).
Nhận thấy tính cấp thiếp của vấn đề trong cuộc sống hiện nay. Bên cạnh
đó bản thân chúng tôi là sinh viên đang theo học chuyên ngành Công tác xã hội
chúng tôi đã lựa chọn đ ề tài “ Áp dụng phương pháp công tác xã hội cá nhân
trong việc trợ giúp người già bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS” (qua điển cứu trường
hợp ở huyện Gia Lâm- Hà Nội ) để thấy được thực trạng người già bị ảnh

2.

hưởng bởi HIV/AIDS, những vấn đề mà họ gặp phải để từ đó đề xuất biện pháp
trợ giúp.
Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề người già với HIV/AIDS đã được quan tâm , nghiên cứu rất nhiều

ở nước ngoài với mức độ và quy mô khác nhau.
* Các tác động của HIV / AIDS đối với người lớn tuổi
Trong thập kỷ qua, đại dịch HIV / AIDS đã tàn phá kinh tế,
xã hội, y tế và tác động tâm lý đối với phụ nữ lớn tuổi và những
người đàn ông, đặc biệt là ở châu Phi cận Sahara. Báo cáo quốc
tế như Tuyên bố của LHQ cam kết về HIV / AIDS và Kế hoạch
Hành động Quốc tế Madrid về người cao tuổi một cách rõ ràng
cam kết chính phủ để giải quyết các nhu cầu cụ thể của người
cao tuổi bị ảnh hưởng bởi HIV / AIDS. Tuy nhiên, tác động của
HIV / AIDS đối với những người lớn tuổi vẫn chưa được báo cáo,
và đã không được giải quyết thích hợp.
HIV / AIDS ảnh hưởng đến những người lớn tuổi trong hai
cách chính: nó đặt một gánh nặng đối với họ như những người
chăm sóc, và nó đặt ra một nguy cơ lây nhiễm trực tiếp. Một
nghiên cứu được tiến hành bởi Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) tại
Zimbabwe thấy rằng hơn 70% của người chăm sóc người bị
bệnh liên quan đến HIV trên 60 tuổi. Nghiên cứu của HelpAge

3


International ở Thái Lan phát hiện ra rằng 70% số người sống
chung với HIV là trong sự chăm sóc của cha mẹ lớn tuổi hoặc
người thân ngay trước khi chết. Người lớn tuổi cũng có trách
nhiệm hơn cho việc chăm sóc trẻ em mồ côi do HIV / AIDS; ở
Sub-Saharan Châu Phi, có đến chín trong mười trẻ mồ côi AIDS
được chăm sóc cho gia đình lớn của mình, trong nhiều trường
hợp ông bà của họ. Xét về tính dễ tổn thương của riêng mình để
lây nhiễm, người già yếu vô hình trong dữ liệu quốc tế về HIV /
AIDS. Số liệu về tỷ lệ lây nhiễm không bao gồm trên 50 tuổi,

mặc dù thực tế rằng những người đàn ông lớn tuổi và phụ nữ
tiếp tục tham gia vào quan hệ tình dục vào tuổi già. Tuy nhiên,
sự hiểu biết của họ về tính chất, nguyên nhân và lây truyền HIV
có thể bị giới hạn, vì họ ít khi được tiếp cận với thông tin về nó,
và các chiến dịch nâng cao nhận thức thường nhắm vào trẻ
HelpAge International cam kết làm việc trực tiếp hỗ trợ
người cao tuổi bị ảnh hưởng bởi HIV / AIDS, và những người ủng
hộ cho sự bao gồm của những người lớn tuổi trong ứng phó với
căn bệnh này. Khi dịch bệnh đã tiến triển, HelpAge International
và các tổ chức đối tác của mình đã đưa ra một phản ứng thông
qua các chương trình kết hợp phòng, chăm sóc và hỗ trợ để đáp
ứng nhu cầu của những người lớn tuổi. Các lĩnh vực cốt lõi mà
người già cần hỗ trợ là:
• Trong vai trò là người chăm sóc cho những người sống
chung với AIDS, và cho trẻ em mồ côi và trẻ em dễ bị tổn
thương.
• Tiếp cận thông tin về nguy cơ HIV / AIDS, để họ có thể tự
bảo vệ mình và những người khác chống lại nhiễm trùng
• Hỗ trợ về tình cảm giúp người già đối phó với sự kỳ thị và
phân biệt đó là kết quả của việc sinh con hoặc cháu với HIV /
AIDS.
• Cơ chế khắc phục tâm lý để đối phó với sự căng thẳng,
bệnh tật và đau buồn.
• Điều trị và hỗ trợ cho những người già với HIV / AIDS.

4


+ Cảm thấy sự căng thẳng: người chăm sóc lớn tuổi và HIV
/ AIDS

Tác động chính của HIV / AIDS đối với người già ở hầu hết
các nước bị ảnh hưởng bởi AIDS là trong vai trò của họ như là
những người chăm sóc cho những người sống chung với AIDS,
người trong hầu hết các trường hợp là con trai lớn và con gái, và
trẻ em mồ côi hoặc bị tổn thương do AIDS. Ở tiểu vùng Sahara
châu Phi, khoảng 13 triệu trẻ em đã bị mất một hoặc cả hai cha
mẹ đến HIV / AIDS. Trong Namibia, Nam Phi, Botswana, Malawi,
Tanzania và Zimbabwe, lên đến 60% trẻ em mồ côi sống trong
các hộ gia đình ông bà đầu. Nhiều ông bà chăm sóc cho nhiều
cháu. Phụ nữ có nhiều khả năng hơn nam giới là người chăm sóc
chính.
Nghiên cứu Châu Phi và châu Á chỉ ra một loạt các vấn đề
kinh nghiệm của những người chăm sóc lớn tuổi. Những kiệt
sức, khó khăn tài chính, đau buồn và biến động về tình cảm,
thiếu kiến thức và nguồn lực để đối phó với trẻ em người lớn
với HIV, các cuộc xung đột với các cháu, kỳ thị xã hội và phân
biệt đối xử và không được thông tin và hỗ trợ dịch vụ. Sự căng
thẳng của việc chăm sóc cho những người sống chung với AIDS
trong giai đoạn cuối của căn bệnh cũng có thể là đau đớn và
mệt mỏi, và có số điện thoại của nó đối với sức khỏe của người
lớn tuổi. Một nghiên cứu ở Campuchia thấy rằng nhiều người
lớn tuổi trong các hộ gia đình bị ảnh hưởng HIV-bị kém sức
khỏe thể chất và tinh thần thông qua việc tăng khối lượng công
việc chăm sóc cho. Cha mẹ lớn tuổi cũng có thể bị cảm xúc của
đổ lỗi, xấu hổ và tội lỗi về tình trạng của con em họ.
Trách nhiệm chăm sóc cũng chính xác chi phí kinh tế. Ở
Tanzania, nhiều người lớn tuổi cho biết họ phải bán tài sản (bao
gồm cả đất và tài sản) hoặc sử dụng tiền tiết kiệm để hỗ trợ
người dân dưới sự chăm sóc của họ. Việc thiếu điều trị miễn phí
và giá cả phải chăng, thuốc có thể truy cập thêm vào gánh

nặng tài chính người chăm sóc. Người chăm sóc lớn tuổi cũng

5


đáp ứng các chi phí của sự sống còn của gia đình, bao gồm cả
việc cung cấp thức ăn và nơi trú ẩn. Họ chịu trách nhiệm của họ
rất nghiêm túc, và thường nhận đau khổ về việc không thể cung
cấp đủ thực phẩm và quần áo, hoặc là có thể đáp ứng nhu cầu
giáo dục của trẻ em. Thậm chí nếu người chăm sóc lớn tuổi
quản lý để tìm thấy tiền học phí, họ thường không thể cung cấp
các mặt hàng thiết yếu khác như đồng phục, sách vở và chi phí
vận chuyển đến và đi từ trường. Gánh nặng tài chính lên người
già, người chăm sóc cho các cháu là, trong ngắn hạn, bao la.
+ Người lớn tuổi có nguy cơ bị nhiễm trùng
Các chiến dịch phòng chống và nhận thức về HIV/AIDS hầu
như chỉ hướng vào những người trẻ và thanh thiếu niên, mặc dù
thực tế rằng những người lớn tuổi vẫn còn hoạt động tình dục.
Phân tích các dữ liệu thu thập được trong nhiễm Uganda giữa
năm 1992 và 2002 cho thấy những người trên 50 tuổi đã tăng
4,6% của những người tham dự tư vấn xét nghiệm tự nguyện
trung tâm. Trong số này, một trong số năm đã xét nghiệm HIV
dương tính (23,9% phụ nữ và 18% nam giới). Bởi và lớn, nguy
cơ nhiễm trùng và lây lan HIV trong nhóm tuổi lớn hơn đi không
bị phát hiện và không được báo cáo. Trình độ văn hoá giữa
những người lớn tuổi là thấp, hạn chế truy cập của họ tới những
thông tin bằng văn bản có sẵn. Phụ nữ lớn tuổi người chăm sóc
tham gia vào một nghiên cứu ở Tanzania xác định các nguồn
chính của các thông tin như nhà giáo dục đồng đẳng, chăm sóc
khách nhà và các đài phát thanh. Ở Campuchia, người lớn tuổi

xác định truyền hình, đài phát thanh và các nước láng giềng,
đặc biệt là người lớn trẻ tuổi, là nguồn cơ bản của thông tin về
HIV/AIDS.
+ Nhắm mục tiêu các chương trình HIV/AIDS cho người lớn
tuổi
Chìa khóa để hỗ trợ rất nhiều những thách thức phải đối
mặt với những người lớn tuổi hơn như là kết quả của đại dịch
HIV/AIDS nằm trong can thiệp ở cấp cộng đồng, và một cách

6


tiếp cận giữa các thế hệ. Để có hiệu quả, đòi hỏi phải có sự hợp
tác giữa các chính phủ, các tổ chức quốc tế và phi chính phủ.
HelpAge International làm việc với các tổ chức dựa vào cộng
đồng như các hiệp hội người cao tuổi để xác định và hỗ trợ bị
ảnh hưởng và lây nhiễm sang người lớn tuổi tại một cơ sở. Các
chương trình ở các nước như Kenya, Mozambique, Nam Phi,
Sudan, Thái Lan, Uganda và Zimbabwe kết hợp tạo thu nhập với
sự hỗ trợ và tư vấn cho những người chăm sóc cũ của người
sống chung với HIV/AIDS, và các trẻ em mồ côi và trẻ em dễ bị
tổn thương.
Ở Campuchia, HelpAge International đang chạy một dự án
thí điểm ở 15 thôn để hỗ trợ các hiệp hội những người lớn tuổi
để giúp các gia đình bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS. Các thành viên
được lựa chọn bởi cộng đồng của họ để trở thành tình nguyện
viên HIV/AIDS. Những người tình nguyện đến các gia đình bị ảnh
hưởng bởi HIV/AIDS, mang thực phẩm, tiền và các vật dụng y tế,
chẳng hạn như muối uống bù nước, găng tay, bông len và xà
phòng chống nấm. Tiền đi theo hướng chi phí tang lễ và chăm

sóc y tế, và quần áo cho trẻ em để giúp họ ở lại trường. Các tình
nguyện viên cũng giúp những công việc thực tế, và cung cấp hỗ
trợ tinh thần. Các tình nguyện viên cũng nâng cao nhận thức về
HIV/AIDS, và làm việc để giảm kỳ thị liên kết với nó.
Kinh nghiệm HelpAge International cho thấy rằng, một khi
những người lớn tuổi đều được thông báo và đưa vào các dự án
phòng chống HIV/AIDS, họ đều mong muốn là một phần của nỗ
lực để cứu gia đình và cộng đồng của họ. Các chương trình đào
tạo và hỗ trợ người lớn tuổi là 'nghe' và 'tư vấn' được chứng
minh có hiệu quả. Trong Juba, Sudan, HelpAge International đã
phát triển và củng cố một hệ thống tuyên truyền của ủy ban
nhân dân lớn tuổi, quảng bá sức khỏe và nhân viên xã hội, đảm
bảo rằng dễ bị tổn thương nhất được xác định và được hỗ trợ.
Tận dụng những kỹ năng quan trọng và tình trạng của những
người lớn tuổi, chương trình cung cấp cho họ những công cụ để

7


trở thành nhà giáo dục cộng đồng, nâng cao nhận thức về
HIV/AIDS thông qua việc sản xuất các chương trình phát thanh,
phim, sách và áp phích. HIV/AIDS trong các chương trình giáo
dục Nam Phi đang khuyến khích đối thoại giữa các chuyên viên
y tế thông thường và những người chữa bệnh truyền thống, làm
cho nó dễ dàng hơn cho những người lớn tuổi để có được các
dịch vụ y tế thích hợp.
+ Bảo trợ xã hội cho người dễ bị tổn thương nhất
Để nhắm mục tiêu can thiệp thành công tại hộ gia đình ,
điều quan trọng là nhìn vào các nguồn tài nguyên mà họ có, và
cung cấp cho họ với sự hỗ trợ tài chính đầy đủ. Một số quốc gia

ở Châu Phi đang thực hiện hoặc phát triển các cơ chế bảo trợ xã
hội cho người già, trẻ em mồ côi và các nhóm yếu khác. Trong
Botswana, Namibia và Nam Phi, ví dụ, lương hưu được cung cấp
cho những người lớn tuổi, giúp những người chăm sóc trẻ mồ côi
cũ để đối phó với gánh nặng tài chính họ phải chịu.
Chính phủ Zambia, được tài trợ bởi Cơ quan Phát triển GTZ
của Đức, đã đưa ra một hai năm chương trình chuyển tiền nhắm
mục tiêu các hộ gia đình nghèo nhất, nhưng trong đó có một số
lượng lớn các hộ gia đình do người già và bị ảnh hưởng bởi AIDS,
và với trẻ em mồ côi. Mỗi hộ gia đình nhận được 6,20 $ một
tháng. Hầu hết trong số này được chi cho thực phẩm, quần áo,
xà phòng và nuôi đầu vào. Sáu mươi phần trăm của các thành
viên của hộ gia đình thụ hưởng là trẻ em dưới 19 tuổi. Trường
học và dinh dưỡng ở trẻ em đã được cải thiện kể từ sự ra đời
của việc chuyển giao tiền mặt. Ở Nam Phi, nuôi dưỡng chăm
sóc và trợ giúp trẻ em tài trợ có sẵn cho lứa tuổi đủ điều kiện
đồng cư dân cháu. Tuy nhiên, cất lên giá vào các khoản tài trợ
đã được thấp, một phần do nhận thức chung của họ là người
nghèo. Là một phần của một dự án ba năm với Hội Muthande
cho Người Cao Niên (Musa) tại khu vực đô thị KwaZulu-Natal của
Durban, người già được tư vấn về tiếp cận quyền lợi an sinh xã
hội.

8


Ủy ban cộng đồng tín dụng được điều hành bởi những
người lớn tuổi và các thành viên cộng đồng tại tỉnh Tete, đã giúp
hỗ trợ hơn 300 người chăm sóc lớn tuổi và những người trẻ tuổi,
hai phần ba trong số họ là phụ nữ. Quỹ đã được sử dụng để

thiết lập các doanh nghiệp nhỏ, bao gồm cả buôn bán động vật
nhỏ, quần áo cũ, truyền thống bia làm và sản xuất các loại thực
phẩm địa phương. Ban tín dụng phân bổ kinh phí cho các dự án
có lợi cho cộng đồng. Tiền lãi trên số tiền được sử dụng để hỗ
trợ các hộ gia đình lớn tuổi hơn và dễ bị tổn thương nhất của
cộng đồng. Hầu hết các người chăm sóc người cao tuổi nhận
được tiền mua vật học cho trẻ em mồ côi và thực phẩm cơ bản
và quần áo cho các hộ gia đình, và trả tiền bệnh viện hoặc điều
trị chi phí.


Phần kết luận
Để tóm tắt, những người lớn tuổi bị ảnh hưởng bởi
HIV/AIDS cần sự hỗ trợ có mục tiêu sau đây:
• Hỗ trợ về tình cảm để giúp một đứa trẻ đối phó với cái
chết của cha mẹ
• Để đối phó với nỗi đau của riêng mình với cái chết của
con trai, con gái hay con cháu của họ
•Hỗ trợ để tránh bị cô lập.

-

Giáo dục về HIV/AIDS
• Về cách lây truyền HIV và ngăn chặn
• Nhận biết các triệu chứng của HIV trong một thành viên
gia đình
• Làm thế nào để chăm sóc cho một thành viên trong gia
đình với HIV (bao gồm điều trị nhiễm trùng thông thường)
• Truy cập cho các nhóm và các dịch vụ hỗ trợ HIV/AIDS.
Hỗ trợ kinh tế

• Để đáp ứng các hộ gia đình chi phí bao gồm thực phẩm
và chăm sóc sức khỏe;
• Cung cấp giáo dục và quần áo cho các cháu;

9


• Để điều trị và đi đến phòng khám để chăm sóc cho trẻ
em bị bệnh; và
• Để bù đắp cho mất thu nhập hoặc trợ giúp gia đình.
-

Hỗ trợ thực tế và pháp lý
• Hỗ trợ với cha mẹ
• Chấp thuận của các cơ quan chức năng như nuôi hoặc
cha mẹ nuôi
• Tiếp cận thông tin về dinh dưỡng và tiêm chủng
• Hỗ trợ vận động, chẳng hạn như bảo vệ các quyền của
góa phụ và trẻ em để thừa kế đất đai.
(Nguồn: Link: />*Tác động của HIV/AIDS đối với người lớn tuổi ở châu Phi
HIV/AIDS ảnh hưởng đến những người lớn tuổi trong hai
cách:
+ Nguy cơ lây nhiễm HIV
Những người già đang ngày càng bị nhiễm HIV, tuy nhiên
dữ liệu có sẵn không thường bao gồm cách dịch đều ảnh hưởng
đến nhóm dân số này. Như một hệ quả, những người lớn tuổi
tiếp tục bị loại khỏi chương trình phòng chống và điều trị HIV.
UNAIDS ước tính 2,8 triệu người trong độ tuổi từ 50 trở lên đang
sống với HIV vào năm 2006 và tỷ lệ hiện nhiễm HIV ở Nam Phi
trong số người ở độ tuổi 50-54 là 10,8%, 4,5% ở những người

trong độ tuổi 55-59, và 3,9% trong số những người ở độ tuổi 60
và hơn.
+ Những người chăm sóc
HIV/AIDS làm thay đổi cấu trúc gia đình: khi con cái trưởng
thành của họ chết người cũ một lần nữa trở thành người đứng
đầu của các hộ gia đình, chăm sóc cho trẻ em mồ côi. Số ông
bà chăm sóc cho trẻ em mồ côi AIDS ở các nước đang phát triển
đã tăng gấp đôi trong mười năm qua và lên đến một nửa của
thế giới 15 triệu trẻ em mồ côi AIDS đang được chăm sóc bởi

10


một ông bà. Đa số những người chăm sóc lớn tuổi là những
người phụ nữ phải đối mặt với căng thẳng tài chính, vật chất và
tinh thần nghiêm trọng do trách nhiệm chăm sóc muộn màng
của họ.
WHO khuyến nghị để giảm thiểu tác động của HIV/AIDS đối
với người lớn tuổi là:
• Cung cấp hỗ trợ cụ thể cho những người lớn tuổi hơn (ví
dụ như lương hưu xã hội)
• Dịch vụ y tế và các nhà cung cấp HIV/AIDS đào tạo về
các vấn đề gerontological
• Cung cấp hỗ trợ tâm lý và y tế cho người cao tuổi sống
chung với các thành viên trong gia đình bị bệnh
• Bao gồm cả những người lớn tuổi trong các chương trình
giáo dục / đào tạo HIV/AIDS.
(Nguồn:Link: />Ở Việt Nam đã có nhiều dự án, đề tài nghiên cứu về HIV/AIDS:
- “Tình hình các gia đình và trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS ở Việt
Nam”. Tài liệu được công bố vào tháng 4/2005. Tài liệu được xây dựng, thực

hiện với sự hợp tác và hỗ trợ của Bộ Lao động và Thương binh- Xã hội và Hội
Phụ nữ do Tiến sỹ Susan Hunter và các cộng sự thực hiện.
- “ Hướng dẫn các nhà quản lý và giám sát công tác chăm sóc sức khỏe về
HIV/AIDS và nuôi dưỡng trẻ nhỏ” dưới sự tài trợ của UNICEF, 2006.
-“Đánh giá tình hình trẻ em và HIV/AIDS ở Việt Nam:Suy nghĩ của trẻ
sống chung với HIV, trẻ chịu ảnh hưởng do HIV/AIDS và người chăm sóc trẻ”
do Uỷ ban dân số, gia đình và trẻ em Việt Nam thực hiện trong thời gian từ
12/2005-12/2007.
-“Báo cáo quốc gia lần thứ ba về việc thực hiện tuyên bố cam kết về
HIV/AIDS”
Báo cáo thu thập số liệu trong hai năm 2006-2007.Với nỗ lực và sự đồng
thuận cao của không chỉ các bộ ngành đoàn thể, các tổ chức quốc tế làm việc
trong lĩnh vực HIV/AIDS, báo cáo còn nhận được sự nhiệt tình ủng hộ của tất cả
các tổ chức dân sự xã hội trong suốt thời gian xây dựng báo cáo từ 08/200701/2008.

11


Công tác xã hội ở Việt Nam tuy còn non trẻ nhưng đã khẳng định được vai
trò trong trợ giúp nhóm yếu thế, đã có nhiều tài liệu, nghiên cứu của Công tác xã
hội về HIV/AIDS như “ Công tác xã hội với trẻ em nhiễm HIV/AIDS” , “ Công tác
xã hội với phụ nữ nhiễm HIV/AIDS”.Tuy nhiên chưa có một nghiên cứu nào chỉ
riêng về người già bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS hiên nay ở Việt Nam.
3. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
3.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu góp phần làm rõ khái niệm Công tác xã hội với người
già bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
3.2.Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu cung cấp những thông tin cơ bản , cần thiết về thực
trạng người già bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS hiện nay ở Việt Nam;vấn đề,

nguyên nhân và những thách thức mà họ gặp phải để từ đó áp dụng phương
pháp công tác xã hội cá nhân trong việc trợ giúp người già bị ảnh hưởng bởi
HIV/AIDS tại huyện Gia Lâm- Hà Nội
4. Mục đích và mục tiêu nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng tình hình người già bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS hiện
nay ở huyện Gia Lâm- Hà Nội với những vấn đề , thách thức mà họ đang gặp
phải; xác định nguyên nhân, hậu quả của những vấn đề đó để áp dụng phương
pháp công tác xã hội cá nhân trong việc điển cứu trợ giúp trường hợp người già
bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS tại huyện Gia Lâm - Hà Nội.
4.2 Mục tiêu nghiên cứu
- Tổng quan tình hình người già bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS ở Việt Nam.
- Tìm hiểu thực trạng HIV/AIDS hiện nay ở huyện Gia Lâm- Hà Nội
- Tìm hiểu thực trạng người già bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS hiện nay ở
huyện Gia Lâm- Hà Nội
- Tìm hiểu vấn đề người già bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS ở huyện Gia

Lâm- Hà Nội đang gặp phải trong cuộc sống của mình.
- Phân tích những nguyên nhân, hậu quả của những vấn đề mà người già
bị ảnh hưởng bởi HIV gặp phải tại huyện Gia Lâm – Hà Nội.
- Tìm hiểu nhu cầu, mong muốn và nguyện vọng của người già bị ảnh
hưởng bởi HIV/AIDS ở huyện Gia Lâm- Hà Nội
12


- Áp dụng phương pháp công tác xã hội cá nhân trong việc điển cứu trợ
giúp 3 trường hợp người già bị ảnh hưởng bởi HIV tại huyện Gia Lâm – Hà Nội.
5. Giả thuyết nghiên cứu
- Tình hình người già bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS ngày càng nghiêm trọng
- Người già bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS đang gặp rất nhiều khó khăn về

tâm lý, kinh tế, sức khỏe…
- Nguyên nhân những người già bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS là do họ có
con hoặc cháu hoặc cả con và cháu có HIV/AIDS,họ phải sống chung và chăm
sóc cho con và cháu có HIV/AIDS, do sự thiếu hiểu biết, sự kỳ thị và phân biệt
đối xử của xã hội, cộng đồng.
- Nhu cầu của người già bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS là được cung cấp
những kiến thức về HIV/AIDS, trang bị kỹ năng chăm sóc người có HIV/AIDS
và không bị kỳ thị, phân biệt đối xử, xa lánh của cộng đồng, nhận được trợ giúp
để duy trì đời sống của gia đình.
- Áp dụng phương pháp công tác xã hội cá nhân mang lại hiệu quả trong
việc trợ giúp trường hợp người già bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
6. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
6.1. Đối tượng nghiên cứu
Vận dụng phương pháp công tác xã hội cá nhân trong việc trợ giúp người
già bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS ở huyện Gia Lâm- Hà Nội.
6.2. Khách thể nghiên cứu
Người già bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS:
- Người già có con có HIV/AIDS và chăm sóc con có HIV/AIDS;
- Người già có cháu có HIV/AIDS và chăm sóc cháu có HIV/AIDS;
- Người già có cả con và cháu có HIV/AIDS và chăm sóc con và cháu có
HIV/AIDS.
- Họ hàng, con cái của người già bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS
- Cán bộ lãnh đạo, cán bộ y tế, hội phụ nữ, hội người cao tuổi, cán bộ xã
hội( nếu có) tại địa phương.
6.3. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: huyện Gia Lâm- Hà Nội
-Thời gian: Từ tháng 12/ 2014- tháng 3/2015
- Giới hạn nội dung nghiên cứu: Tập trung vào đối tượng người già không
nhiễm HIV/AIDS, có con cháu nhiễm HIV/AIDS.


13


-

-

-

-

7. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng một số phương pháp thu thập thông tin cơ bản sau:
Phương pháp quan sát: quan sát điều kiện sinh hoạt, đời sống của những người
già bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS tại gia đình và tại cộng đồng, quan sát thái độ
của những người xung quanh họ.
Phương pháp phân tích tài liệu: phân tích các tài liệu có liên quan đến đề tài như
báo cáo của địa phương(báo cáo tổng kết năm, các số liệu thống kê về kinh tế,
văn hóa xã hội, y tế của các xã trong huyện đã lựa chọn…), các nghiên cứu, các
đề tài, các bài viết, các bài báo, tạp chí liên quan về những người già bị ảnh
hưởng bởi HIV/AIDS, các văn bản, nghị định của chính phủ, các chương trình
hỗ trợ chính sách lien quan tới những người già bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
Phương pháp phỏng vấn sâu: tiến hành phỏng vấn sâu 05 khách thể nghiên cứu:
+ Bác sĩ Tiến công tác tại Trung tâm y tế huyện Gia Lâm
Mục đích: tìm hiểu tình hình HIV/AIDS trên địa bàn huyện Gia Lâm – Hà
Nội, công tác quản lý, phòng chống lây truyền HIV/AIDS tại huyện Gia Lâm –
Hà Nội.
+ Y tá Đinh Gia Lợi công tác tại trạm y tế xã Yên Viên huyện Gia Lâm –
Hà Nội
Mục đích: tìm hiểu tình hình HIV/AIDS, công tác quản lý, phòng chống

HIV/AIDS tại xã Yên Viên huyện Gia Lâm – Hà Nội; xác định thông tin về đối
tượng điển cứu trường hợp người già bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
+ Ba đối tượng điển cứu trường hợp người già bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS
Mục đích: thu thập thông tin, xác định vấn đề gặp phải của đối tượng.
Phương pháp công tác xã hội cá nhân: Công tác xã hội cá nhân là phương pháp
của công tác xã hội thông qua tiến trình giúp đỡ khoa học và chuyên nghiệp,
nhằm hỗ trợ cá nhân tăng cường năng lực tự giải quyết vấn đề của mình.Trong
tiến trình này, nhân viên xã hội cần biết vận dụng nền tảng kiến thức khoa học
tâm lý, xã hội học và các khoa học xã hội liên quan khác, đồng thời sử dụng kỹ
năng, tuân thủ đạo đức nghề nghiệp, sát cánh cùng đối tượng, hỗ trợ họ tự giải
quyết vấn đề của bản thân và có khả năng vượt qua những vấn đề khác có thể
xảy ra trong tương lai(trích trang 18/tập bài giảng Công tác xã hội cá nhân –
2013 – Th.S.Nguyễn Thị Mai Hương)
Áp dụng phương pháp công tác xã hội cá nhân trong việc điển cứu trợ giúp:
+ Người già có con và chăm sóc con nhiễm HIV/AIDS.
+ Người già có cháu và chăm sóc cháu nhiễm HIV/AIDS.
+ Người già có cả con, cháu và chăm sóc cả con,cháu nhiễm HIV/AIDS.
8. Kết cấu của đề tài
14


Đề tài gồm 3 phần: mở đầu, nội dung và kết luận. Trong đó, phần nội
dung gồm có 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
Chương 2: Thực trạng người già bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS ở huyện

Gia Lâm- Hà Nội
Chương 3: Điển cứu trường hợp người già bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS ở
huyện Gia Lâm- Hà Nội thông qua áp dụng phương pháp công tác xã hội cá
nhân.


PHẦN 2: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1

Các khái niệm công cụ sử dụng trong đề tài nghiên cứu
1.1.1 Người già
+ Khái niệm người già(hay còn gọi là người cao tuổi)
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về người già. Trước đây, người ta
thường dùng thuật ngữ người già để chỉ những người có tuổi , hiện nay “ người
cao tuổi” ngày càng sử dụng nhiều hơn. Hai thuật ngữ này tuy không khác nhau
về mặt khoa học song về mặt tâm lý, “ người cao tuổi “ là thuật ngữ mang tính
tích cực về thể hiện thái độ tôn trọng.
Theo quan điểm y học : người già là người ở giai đoạn già hóa gắn liền
với việc suy giảm các chức năng cơ thể.
Về mặt pháp luật : Luật người cao tuổi(NCT) Việt Nam năm 2000 quy
định người cao tuổi là “ tất cả các công dân Việt Nam từ 60 tuổi trở lên “.
Theo WHO : Người cao tuổi phải từ 70 tuổi trở lên.
Một số nước phát triển như Đức, Hoa Kỳ…lại quy định NCT là những
người từ 65 tuổi trở lên. Quy định ở mỗi nước có sự khác biệt là do sự khác
nhau về lứa tuổi có các biểu hiện về già của người dân ở các nước đó khác nhau.
Những nước có hệ thống y tế, chăm sóc sức khỏe tốt thì tuổi thọ và sức khỏe của
15


-

-


người dân cũng được nâng cao. Do đó, các biểu hiện của tuổi già thường đến
muộn hơn. Vì vậy, quy định về tuổi của các nước đó cũng khác nhau.
Theo quan điểm của CTXH : Với đặc thù là 1 nghề trợ giúp xã hội,
CTXH nhìn nhận về NCT như sau : NCT với những thay đổi về tâm lý, lao động
– thu nhập, quan hệ xã hội sẽ gặp nhiều khó khăn, vấn đề trong cuộc sống. Do
đó, NCT là 1 đối tượng yếu thế, đối tượng cần sự trợ giúp của CTXH. (GS.TS
Trần Thị Minh Đức-Đại Học KHXH & NV)
+ Người già bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS:
Hiện nay chưa có khái niệm về người già bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.Nhưng
đã có khái niệm về trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS hiện nay là:
+ Ảnh hưởng trực tiếp: các trẻ bị nhiễm HIV/AIDS
+ Ảnh hưởng gián tiếp: các trẻ có cha hoặc mẹ hoặc cả cha và mẹ nhiễm
HIV/AIDS nhưng bản thân không mắc (trích vn.answers.yahoo.com/question/index).
Từ khái niệm trên có thể hiểu người già bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS là
những người già không trực tiếp nhiễm HIV nhưng lại là những người có con và
cháu nhiễm HIV/AIDS nên ít nhiều chịu ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
1.1.2 Khái niệm HIV/AIDS
Khái niệm HIV: HIV là vi rút gây suy giảm miễn dịch ở người, viết tắt từ tiếng
Anh: Human Immunodeficiency Viruts. Có hai loại vi rút là HIV1 và HIV2, cả
hai đều gây bệnh cho người.
Người mang HIV trong máu thường được gọi là người nhiễm HIV( hiện
nay để tránh kỳ thị người ta gọi là người có HIV).
Khái niệm về AIDS: Là hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải, do vi rút HIV
gây ra.
AIDS viết tắt từ tiếng Anh: Acquyred Immuno Deficiency Syndrom
Trước đây bệnh này được gọi là SIDA( viết tắt từ tiếng Pháp: Syndrome
d”Immuno Deficience Acquyse) ,nhưng do tên này trùng với tên của Tổ chức
phát triển Quốc tế Thụy Điển SIDA và tên của Tổ chức CIDA( Canada) nên sau
đó thống nhất gọi là AIDS.
AIDS là một bệnh mãn tính do HIV gây ra. HIV phá hủy các tế bào của

hệ miễn dịch, cơ thể không còn khả năng chống lại các vi rút, vi khuẩn và nấm
gây bệnh. Do đó cơ thể bị một số loại ung thư và nhiễm trùng cơ hội mà bình
thường có thể đề kháng được.
AIDS được coi là giai đoạn cuối của quá trình nhiễm HIV. Tuy nhiên,
mỗi người khi mắc AIDS sẽ có những triệu chứng khác nhau, tùy theo loại bệnh
nhiễm trùng cơ hội và khả năng chống đỡ của hệ miễn dịch mỗi người.
16


1.1.3

Một người nhiễm HIV được gọi là HIV+ ( HIV dương tính hoặc huyết
thanh dương tính), đôi khi cũng được gọi là PWH( person With HIV).Người
không nhiễm được gọi là HIV-( HIV âm tính hoặc huyết thanh âm tính). Trong
những năm gần đây thuật ngữ có tính lạc quan và tính kỳ thị hơn “ người sống
chung với HIV/AIDS” được các nhóm hoạt động chống AIDS và cả những
người mắc AIDS thích dùng.
Nhiễm HIV nguyên phát được gọi là chuyển đổi huyết thanh và đi kèm
với nó là “bệnh chuyển đổi huyết thanh “. Triệu chứng của bệnh chuyển đổi
huyết thanh bao gồm các biểu hiện giống cúm như: sốt đau cơ khớp, đau họng
và nổi hạch, nhưng cũng có thể có những triệu chứng khác như phát ban. Không
phải ai có chuyển đổi huyết thanh đều trải qua bệnh chuyển đổi huyết thanh và
cũng có những người không biểu hiện triệu chứng gì ở trong giai đoạn này.
Người mới nhiễm có khả năng gây nhiễm cao nhất ở giai đoạn bệnh chuyển đổi
huyết thanh vì khi đó lượng vi rút trong máu cao nhất.
Dù có hay không các triệu chứng ban đầu, tất cả người mới nhiễm đều trải
qua giai đoạn không biểu hiện triệu chứng. Vào giai đoạn này, vi rút tiếp tục
tăng sinh nhanh chóng và không bị kiểm soát vì cơ thể chưa tạo đủ kháng thể
chống vi rút để đạt tới trạng thái cân bằng.
Trong giai đoạn không triệu chứng, hàng tỉ hạt HIV được sản sinh mỗi

ngày kèm theo giảm ở các mức đọ khác nhau số lượng tế bào TCD4+ . Vi rút
không hiện diện trong máu, nhưng lại có trong khắp cơ thể, đặc biệt là ở hạch
bạch huyết, não và chất tiết dục. Trong giai đoạn này, hệ miễn dịch tích cực
chống lại HIV, nhưng vì đại đa số những người mắc bệnh không được điều trị,
đáp ứng miễn dịch không đủ mạnh vì vi rút tấn công trực tiếp vào hệ miễn dịch
và đột biến nhanh chóng.
Thời gian từ lúc nhiễm HIV đến lúc chuẩn đoán AIDS khá thay đổi. Một
số bệnh nhân biểu hiện triệu chứng sau vài tháng nhiễm, trong khi một số khác
lại không biểu hiện triệu chứng đến 20 năm. Những người không triệu chứng từ
7 – 12 năm và duy trì số lượng TCD4 trên 600, không mắc bệnh liên hệ tới HIV
và không nhận điều trị kháng retrovi rút thường được gọi là những người nhiễm
HIV không tiến triển trong thời gian dài. Tại sao những người này không biểu
hiện AIDS và tại sao tốc độ chuyển sang giai đoạn AIDS khác nhau hiện vẫn
chưa rõ và là đề tài cho các nghiên cứu đang được thực hiện.
Khái niệm Công tác xã hội

17


Công tác xã hội là một hoạt động chuyên nghiệp được thực hiện dựa trên
nền tảng khoa học chuyên ngành hỗ trợ đối tượng có vấn đề xã hội( cá nhân,
nhóm, cộng đồng) giải quyết vấn đề gặp phải, cải thiện hoàn cảnh,vươn lên hòa
nhập xã hội theo hướng tích cực, bền vững(trích trang 41/Gíao trình nhập môn
công tác xã hội – 2008, Th.S.Nguyễn Duy Nhiên)
1.1.4 Khái niệm Phương pháp công tác xã hội cá nhân
Nhiều học giả , nhà khoa học trong nước và ngoài nước đưa ra khái niệm
và định nghĩa về công tác xã hội cá nhân.Sau đây là một số khái niệm công tác
xã hội cá nhân.
Theo Farley và các tác giả khác( 2000), công tác xã hội cá nhân là “ Hệ
thống giá trị và phương pháp được các nhân viên xã hội chuyên nghiệp sử dụng,

ở đó các khái niệm về tâm lý xã hội, hành vi và hệ thống được chuyển thành các
kỹ năng giúp đỡ cá nhân và gia đình giải quyết những vấn đề nội tâm, quan hệ
giữa các cá nhân kinh tế xã hội và môi trường thông qua các mối quan hệ “ mặt
đối mặt”.
Theo tác giả Nguyễn Thị Oanh(1998), công tác xã hội cá nhân được định
nghĩa rất ngắn gọn và tập trung vào can thiệp những vấn đề nhân cách của đối
tượng: “ Công tác xã hội cá nhân là một biện pháp can thiệp quan tâm đến
những vấn đề về nhân cách mà một đối tượng cảm nghiệm”
Như vậy có thể khái quát ông tác xã hội cá nhân là phương pháp của công
tác xã hội thông qua tiến trình giúp đỡ khoa học và chuyên nghiệp, nhằm hỗ trợ
cá nhân tăng cường năng lực tự giải quyết vấn đề của mình.Trong tiến trình này,
nhân viên xã hội cần biết vân dụng nền tảng kiến thức khoa học tâm lý, xã hội học
và các khoa học xã hội liên quan khác, đồng thời sử dụng kỹ năng, tuân thủ đạo
đức nghề nghiệp, sát cánh cùng đối tượng, hỗ trợ họ tự giải quyết vấn đề của bản
thân và có khả năng vượt qua những vấn đề khác có thể xảy ra trong tương lai
1.1.5. Khái niệm nghiên cứu/điển cứu trường hợp
Nghiên cứu điển hình hay điển cứu tức nghiên cứu dựa trên những trường
hợp(còn gọi là“ca”, tiếng Anh là “case”)đặc trưng mang tính là một phương pháp
được sử dụng rất phổ biến trong các ngành giáo dục học, xã hội học, quản trị học,
luật học và y học. Mục tiêu cơ bản của phương pháp này là tìm hiểu rõ về trường
hợp nghiên cứu bằng cách theo dõi sát sao và toàn diện trường hợp đã chọn trong
một thời gian đủ dài và ngay tại môi trường tự nhiên của nó.Kết quả nghiên cứu
điển hình cho phép nhà nghiên cứu đưa ra lời giải thích tại sao mọi việc xảy ra như
18


1.2

đã xảy ra và thông qua đó xác định các vấn đề quan trọng cần được tiếp tục nghiên
cứu rộng rãi hơn trong tương lai(trích từ bloganhvu.blogspot.com)

Cơ sở thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Theo kết quả giám sát hiện thường xuyên năm 2013(được công bố trên Tạp chí
Y học dự phòng, phụ bản số 2/2014)
Tính đến hết 30/11/2013, số lũy tích các trường hợp báo cáo hiện nhiễm HIV là
216.254 trường hợp, số bệnh nhân AIDS là 66.533 và đã có 68.977 trường hợp tử
vong do AIDS. Riêng trong 11 tháng đầu năm 2013, cả nước xét nghiệm phát hiện mới
11.567 trường hợp nhiễm HIV, trong đó 5.493 bệnh nhân AIDS và 2.097 người tử
vong do AIDS (biểu đồ 1). Tỷ lệ nhiễm HIV toàn quốc theo báo cáo giám sát là
248/100.000 dân. Điện Biên vẫn là tỉnh có tỷ lệ nhiễm HIV trên 100.000 dân cao nhất
cả nước (1029), tiếp đến là Thành phố Hồ Chí Minh (682), thứ 3 là Thái Nguyên
(632). So sánh tỷ lệ nhiễm HIV/100.000 dân theo khu vực thấy tỷ lệ tại miền Đông
Nam Bộ cao nhất cả nước (408/100.000), tiếp đến là khu vực miền núi phía Bắc:
357/100.000 dân (biểu đồ 2)

Phân bố người nhiễm HIV theo giới: nam giới chiếm 67,5%, nữ giới chiếm
32,5%, không thay đổi so với cùng kỳ năm trước (biểu đồ 3). Theo dõi qua các năm tỷ
lệ nhiễm HIV tăng dần trong nhóm nữ (biểu đồ 4)

Phân bố nhiễm HIV mới phát hiện trong năm 2013 chủ yếu vẫn tập trung ở
nhóm tuổi từ 20-39, chiếm tới 79% tổng số người nhiễm. So sánh qua các năm, tỷ lệ
nhiễm HIV trong nhóm tuổi từ 30-39 có xu hướng tăng dần (biểu đồ 5).

19


Tỷ lệ người nhiễm HIV được phát hiện lây truyền qua đường tình dục ngày
càng gia tăng trong khi lây truyền qua đường máu có xu hướng giảm. Trong năm 2013
số người lây truyền qua đường tình dục chiếm tỷ lệ cao nhất 45% tiếp đến số lây
truyền qua đường máu chiếm 42,4%, tỷ lệ nhiễm HIV lây truyền từ mẹ sang con 2,4%,
vẫn có 10,1% tỷ lệ người nhiễm HIV không rõ đường lây truyền.


+ Kết quả giám sát trọng điểm năm 2013
Hệ thống giám sát trọng điểm (GSTĐ) HIV được triển khai từ năm 1994 tại 10
tỉnh/thành phố. Hệ thống này đã được mở rộng, tới năm 2013 có 41 tỉnh/thành phố tham
gia. Chương trình GSTĐ được thực hiện trên nhóm phụ nữ bán dâm (PNBD), người tiêm
chích ma túy (TCMT), nam quan hệ tình dục đồng giới (MSM), bệnh nhân nam mắc STI,
bệnh nhân lao, phụ nữ mang thai và thanh niên khám tuyển nghĩa vụ quân sự.
* Nhóm nghiện chích ma túy:

20


Chiều hướng nhiễm HIV trong nhóm NCMT giảm dần qua các năm. Tỷ lệ
nhiễm HIV trong nhóm nam NCMT tại khu vực miền Bắc có xu hướng giảm dần qua
các năm nhưng vẫn cao hơn so với tỷ lệ chung của toàn quốc.

* Nhóm phụ nữ bán dâm
Tỷ lệ hiện nhiễm HIV trong nhóm phụ nữ bán dâm năm 2013 là 2,6% (giảm 0,1%
so với năm 2012). Tỷ lệ này tại khu vực miền Bắc mặc dù có xu hướng giảm nhưng vẫn ở
mức cao so với tỷ lệ chung của toàn quốc. Phân tích chiều hướng nhiễm HIV trong nhóm
phụ nữ bán dâm qua các năm cho thấy tỷ lệ tăng lên nhanh chóng từ 0,6% năm 1994 lên
5,9% năm 2012. Trong giai đoạn 2002 đến 2010, tỷ lệ có sự biến động không ổn định, tuy
nhiên trong 3 năm trở lại đây, tỷ lệ này có xu hướng giảm dần.

* Nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới nam (MSM)
Kể từ năm 2011 nhóm MSM chính thức được đưa vào là một trong những
nhóm giám sát trọng điểm HIV hàng năm và được triển khai tại 9 tỉnh/thành phố tập
trung nhiều MSM đang cư trú trên địa bàn bao gồm các tỉnh/thành phố: Hà Nội, Hải
Dương, Đà Nẵng, Khánh Hòa, TP. Hồ Chí Minh, An Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng và
Kiên Giang.

Năm 2013 thực hiện giám sát trọng điểm nhóm MSM ở 16 tỉnh, kết quả cho
thấy tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm MSM là 3,3% (cao hơn so với năm 2012).

21


+ Nhận xét chung về tình hình dịch HIV/AIDS
- Hình thái lây truyền HIV qua đường tình dục tiếp tục có xu hướng ngày càng
tăng dần. Người nhiễm HIV nhóm tuổi từ 30-39 chiếm tỷ lệ cao nhất. Tỷ lệ nhiễm HIV
được phát hiện ở nữ giới tiếp tục gia tăng trong những năm gần đây.
- Tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm nghiện chích ma túy và phụ nữ bán dâm đang giảm dần.
Tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới có xu hướng tăng nhẹ.
- Hình thái lây nhiễm HIV ở Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn dịch tập trung:
tỷ lệ cao trong các nhóm NCMT, PNBD và MSM. Tỷ lệ thấp ở các nhóm PNMT và
thanh niên khám tuyển NVQS. Có sự khác biệt về hình thái lây nhiễm HIV giữa các
khu vực địa lý dân cư: tại khu vực Tây Bắc dịch tập trung chủ yếu trong nhóm NCMT,
tại khu vực miền Tây Nam Bộ lây nhiễm HIV chủ yếu qua đường tình dục.
- Nhận định về hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV qua một số nghiên cứu cho
thấy, tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm NCMT chủ yếu do hành vi dùng chung BKT và
không sử dụng BCS thường xuyên với PNBD, tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm PNBD có
TCMT cao hơn nhiều so với PNBD không TCMT. Đối với nhóm nam quan hệ tình
dục đồng giới lây nhiễm HIV chủ yếu qua bán dâm không an toàn và TCMT

Từ những số liệu trên cho thấy tình hình nhiễm HIV/AIDS ở Việt Nam
vẫn gia tăng.Như vậy đồng nghĩa với việc số người già bị ảnh hưởng bởi
HIV/AIDS ngày càng nhiều. Chúng tôi không thể đưa ra được con số chính xác
vì chưa có tài liệu nào cung cấp số liệu về người già bị ảnh hưởng bởi
HIV/AIDS ở Việt Nam. Hằng ngày trên đất nước Việt Nam bên cạnh những
người già được vui vẻ, sống an nhàn bên con cháu thì tồn tại không ít người già
phải gánh chịu những hệ lụy từ HIV/AIDS bởi họ không phải là người nhiễm

HIV/AIDS nhưng họ lại có con, cháu nhiễm HIV/AIDS và phải chăm sóc, sống
cùng con, cháu của họ. Có thể họ bị kỳ thị, phân biệt đối xử, bị xa lánh hay phải
lao động để kiếm tiền nuôi sống bản thân, gia đình.
1.3 Tổng quan về địa bàn nghiên cứu

22


Huyện Gia Lâm nằm ở phía đông của thủ đô Hà Nội. Phía Bắc của huyện
là quận Long Biên; phía Tây Nam có địa giới là dòng sông Hồng, bên kia bờ là
huyện Thanh Trì và quận Hoàng Mai; phía Đông Bắc và Đông giáp với các
huyện Từ Sơn, Tiên Du, Thuận Thành của tỉnh Bắc Ninh; phía Nam giáp với
huyện Văn Lâm tỉnh Hưng Yên.
Diện tích: 114,79 km2
Dân số: 243.957 người(2011).
Huyện Gia Lâm ngày nay gồm 20 xã, 2 thị trấn. Đó là các xã: Bát
Tràng, Cổ Bi, Dương Hà, Dương Quang, Dương Xá, Đặng Xá, Đa Tốn, Đình
Xuyên, Đông Dư, Kiêu Kỵ, Kim Lan, Kim Sơn, Lệ Chi, Ninh Hiệp, Phù
Đổng, Phú Thị, Trung Mầu, Yên Viên, Yên Thường, Văn Đức và hai thị trấn:
Yên Viên, Trâu Qùy.
Trụ sở cơ quan lãnh đạo huyện đóng tại thị trấn Trâu Quỳ.
Trên địa bàn huyện có nhiều khu đô thị, khu công nghiệp và các trung tâm
thương mại được hình thành; nhiều làng nghề nổi tiếng, thu hút đông khách thập
phương trong và ngoài nước như làng gốm sứ Bát Tràng, dát vàng, may da Kiêu
Kỵ, chế biến thuốc bắc Ninh Giang. Đây chính là động lực và tiềm năng to lớn
để phát triển kinh tế thương mại, du lịch, dịch vụ giao thông, giao lưu hàng hóa
hiện nay và trong tương lai.
(gialam.gov.vn/gialam).

23



CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG NGƯỜI GIÀ BỊ ẢNH HƯỞNG BỞI HIV/AIDS
Ở HUYỆN GIA LÂM- HÀ NỘI
2.1.







Thực trạng HIV/AIDS ở huyện Gia Lâm – Hà Nội
Theo Báo cáo hoạt động chương trình phòng chống HIV/AIDS huyện Gia
Lâm – Hà Nội trong 3 năm trở lại đây:
Năm 2012:
- Tính đến 30/11/2012 đã phát hiện được: 1182 trường hợp. Trong đó có
827 trường hợp được quản lý có địa chỉ rõ ràng chiếm 80%.
- Số trường hợp chuyển sang giai đoạn AIDS tính đến tháng 11/2012 là:
438 bệnh nhân.
- Số người tử vong do HIV/AIDS tính đến tháng 11/2012 là: 293 người.
- Nhiều người nhiễm HIV/AIDS được khám sức khỏe và cấp thuốc điều
trị nhiễm trùng cơ hội miễn phí, tổng số người nhiễm được khám sức khỏe và
cấp thuốc điều trị nhiễm trùng cơ hội là: 185 lượt.
- Huyện Gia Lâm có 22/22 xã, thị trấn có người nhiễm HIV và 20/22 xã,
thị trấn có bệnh nhân AIDS.
- Hàng tháng khám và cấp thuốc điều trị ARV miễn phí cho bệnh nhân AIDS,
hiện tại có 99 trường hợp AIDS còn sống đang nhận thuốc ARV tại PKNT
Năm 2013:

- Tính đến hết tháng 11/2013 đã phát hiện được: 1190 trường hợp. Trong
đó có 884 trường hợp được quản lý có địa chỉ rõ ràng chiếm 80%.
- Số trường hợp chuyển sang giai đoạn AIDS tính đền tháng 11/2013 là:
448 bệnh nhân.
- Số người tử vong do HIV/AIDS tính đến tháng 11/2013 là: 296 người.
- Nhiều người hiễm HIV/AIDS được khám sức khỏe và cấp thuốc điều trị
nhiễm trùng cơ hội miễn phí, tổng số người nhiễm được khám sức khỏe và cấp
thuốc điều trị nhiễm trùng cơ hội là: 245 lượt.
- Hàng tháng khám và cấp thuốc điều trị ARV miễn phí cho bệnh nhân
AIDS, hiện tại có 102 trường hợp AIDS còn sống đang nhận thuốc ARV tại PKNT.
Năm 2014:
- Tính đến hết tháng 10/2014 đã phát hiện được 1204 trường hợp. Trong
đó có 969 trường hợp được quản lý có địa chỉ rõ ràng chiếm 80%.
- Số trường hợp chuyển sang giai đoạn AIDS tính đến tháng 10/2014 là
441 bệnh nhân.
- Số người tử vong do HIV/AIDS tính đến tháng 10/2014 là 352 người.

24






2.2

- Nhiều người nhiễm HIV/AIDS được khám sức khỏe và cấp thuốc điều
trị nhiễm trùng cơ hội miễn phí, tổng số người nhiễm được khám sức khỏe và
cấp thuốc điều trị nhiễm trùng cơ hội là: 216 lượt.
- Hàng tháng khám và cấp thuốc điều trị ARV miễn phí cho bệnh nhân

AIDS, hiện tại có 104 trường hợp còn sống đang nhận thuốc ARV tại PKNT.
Nhận xét: Nhìn chung tình hình nhiễm HIV/AIDS ở huyện Gia Lâm – Hà
Nội có xu hướng tăng, biểu hiện:
Số trường hợp nhiễm HIV đến hết 2012 là 1182 trường hợp
Số trường hợp nhiễm HIV đến hết 2014 là 1204 trường hợp
tăng 22 trường hợp trong vòng 2 năm
Số trường hợp chuyển sang giai đọan AIDS tính hết 2012 là 293 người
Số trường hợp chuyển sang giai đoạn AIDS tính hết 2014 là 441 người
tăng 148 người trong vòng 2 năm
Như vậy, nhìn vào thực trạng trên ta có thể thấy số người già bị ảnh
hưởng bởi HIV/AIDS ở huyện Gia Lâm – Hà Nội ngày càng nhiều, mặc dù họ
không là người trực tiếp nhiễm HIV/AIDS nhưng hằng ngày họ phải chăm sóc,
sống cùng con, cháu nhiễm HIV/AIDS
Những vấn đề người già bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS ở huyện Gia Lâm-

Hà Nội gặp phải
Qua điển cứu trợ giúp 3 trường hợp người già chịu ảnh hưởng bởi
HIV/AIDS trên địa bàn huyện Gia Lâm – Hà Nội chúng tôi thấy được những
vấn đề người già bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS ở huyện Gia Lâm – Hà Nội gặp
phải là những vấn đề về tâm lý, sức khỏe, kinh tế.
*Trường hợp 1: Bà Trần Thị T 67 tuổi:
+ Về tâm lý :
Thân chủ là người mẹ rất thương con, gia đình hiếm muộn chỉ có được 1
mình T nên khá là nuông chiều, vì thế T mới bị bạn bè rủ rê tiêm chích…Khi
nghe tin con trai nhiễm H, gia đình bà hoảng loạn, chồng bà đau ốm liên miên
và sau 6 năm thì mất, một mình bà chăm sóc lo lắng cho bản thân cùng con trai
hằng ngày.
Khi được hỏi về những khó khăn vất vả, bà nghẹn ngào lấy tay lau nước
mắt kể :” Tình mẫu tử không thể bỏ rơi được, trồng cây ai cũng mong có ngày
hái trái ngọt, bây giờ trái có chua có chát cũng phải chấp nhận vì thương con…”

Đôi lúc nghĩ về tương lai của 2 mẹ con, thương mình cũng có, nhưng
thương con thì nhiều lắm, bà không cho con trai lấy vợ vì sợ lại lây sang con

25


×