TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA VĂN HÓA NGHỆ THUẬT
BỘ MÔN LÝ LUẬN VĂN HÓA
ĐỀ TÀI NCKH CẤP TRƯỜNG
NGHỆ THUẬT CHƠI CHỮ
TRONG CÂU ĐỐ DÂN GIAN
NGƯỜI VIỆT
Chủ nhiệm đề tài: TRƯƠNG CHÍ HÙNG
THÁNG 02 NĂM 2009
LỜI CẢM ƠN
Tôi chân thành cảm ơn:
- Ban Giám hiệu Trường Đại học An Giang;
- Ban Chủ nhiệm Khoa Văn hóa nghệ thuật;
- Phòng Quản lý Khoa học và Hợp tác Quốc tế;
- Quý thầy cô cùng bạn bè đồng nghiệp đã quan tâm hỗ trợ và tạo điều
kiện cho tôi hoàn thành đề tài này.
Tôi đặc biệt bày tỏ lòng biết ơn đối với Thạc sĩ Trần Tùng Chinh,
người đã động viên và có những ý kiến đóng góp quý báu cho tôi trong quá
trình thực hiện đề tài.
Một lần nữa, xin chân thành tri ân.
Long Xuyên, tháng 02/2009
Trương Chí Hùng
NGHỆ THUẬT CHƠI CHỮ TRONG CÂU ĐỐ DÂN GIAN
NGƯỜI VIỆT
Trương Chí Hùng
TÓM TẮT
Đề tại tập trung nghiên cứu nghệ thuật chơi chữ trong câu đố dân gian người Việt. Trên
cơ sở đó, chúng tôi tiến hành so sánh với chơi chữ trong ca dao dân ca và trong văn học viết. Qua
quá trình khảo sát, chúng tôi nhận thấy chơi chữ trong câu đố dân gian người Việt vận dụng hầu
hết các tiềm năng ngôn ngữ đồng thời vận dụng linh hoạt các phương thức chơi chữ dựa vào cứ
liệu ngoài văn bản (cứ liệu văn học). Về mục đích, chơi chữ trong câu đố chỉ nhằm một mục
đích cuối cùng là làm ẩn đi vật đố, đánh lạc hướng tư duy, suy luận logic của đối tượng
giải đố. Tuy nhiên, ở một góc độ khác, có thể xem chơi chữ trong câu đố là một cách thức
thể hiện ý thức thẩm mỹ cộng đồng, sự tôn trọng vốn ngôn ngữ tiếng Việt. Đồng thời, qua
chơi chữ trong câu đố phần nào cho ta thấy rõ hơn tính dí dỏm, óc khôi hài của các tác giả
dân gian. Đóng góp của nghệ thuật chơi chữ đã phần nào tạo nên tính hấp dẫn, thú vị,
chất trí tuệ cho câu đố dân gian.
ABSTRACT
This research focuses on the the art of word play in Vietnamese’s folk puzzles. Basing on
that, we carry out a comparition between Vietnamese’s folk puzzles and that in folks songs, folk
poems and written literature. Through the survey, we notice that Vietnamese folk puzzles use
amost all of the language’s potential as well as make flexible use of word-play techniques which
are based on text-external data (literature data). On one hand, word play in puzzles only aims at
hiding the target of the puzzle or distract people’s logical thought. On the other hand, word play is
also considered a way of expressing aesthetic sense or respect of Vietnamese language. At the
same time, we can have a clearer look at folk authors’ sense of humor. The contribution of word
play art, in certain extent, forms and increases the interest and intelligence to folk puzzles.
1 - ĐẶT VẤN ĐỀ:
Trong kho tàng văn học dân gian người Việt, câu đố dân gian chiếm số lượng khá lớn. Nó
phản ánh một cách phong phú thế giới quan cũng như những nhận thức của nhân dân về các hiện
tượng tự nhiên, xã hội. Ngoài ra, chúng tôi nhận thấy một bộ phận khá lớn câu đố có sử dụng
nghệ thuật chơi chữ. Thiết nghĩ, việc khảo sát, giải mã đặc trưng của nghệ thuật chơi chữ trong
câu đố dân gian chắc hẳn có ý nghĩa trực tiếp đến quá trình tiếp cận, khám phá cái hay, cái đẹp
của thể loại Folklore này. Chính vì vậy, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài “Nghệ thuật chơi chữ
trong câu đố dân gian người Việt”.
2 - MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
- Thứ nhất, tiếp tục làm sáng tỏ các vấn đề liên quan đến khái niệm về câu đố dân gian
người Việt cũng như các khái niệm đề cập đến nghệ thuật chơi chữ.
- Thứ hai, tiến hành tập hợp những câu đố dân gian có sử dụng nghệ thuật chơi chữ trong
kho tàng câu đố dân gian người Việt thành bảng phụ lục. Phân loại, khảo sát những kiểu dạng
chơi chữ một cách hệ thống.
- Thứ ba, tiến hành so sánh về đặc trưng, kiểu dạng chơi chữ trong câu đố dân gian người
Việt với đặc trưng, kiểu dạng chơi chữ trong văn học viết để từ đó có những đúc kết, những nhận
định khoa học về đối tượng nghiên cứu.
3 - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
4 - NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:
4.1 Các hình thức chơi chữ trong câu đố dân gian người Việt:
Qua quá trình khảo sát, chúng tôi đã tập hợp được 312 câu đố dân gian người Việt có sử
dụng nghệ thuật chơi chữ. Chơi chữ trong câu đố dân gian vận dụng hầu hết các tiềm năng ngôn
ngữ tiếng Việt. Tuy nhiên, sự xuất hiện của các kiểu dạng chơi chữ trong từng cấp độ là không
đều. Chúng tôi nhận thấy có 373 lượt chơi chữ trong câu đố với những cấp độ khác nhau (mỗi câu
đố xuất hiện ở một cấp độ được tính là một lượt). Cụ thể:
Cấp độ ngôn ngữ
Số lượt (373)
Tỉ lệ (100%)
Ngữ âm và chữ viết
156
41,8%
Từ vựng, ngữ nghĩa
86
23,1%
Ngữ pháp
23
6,2%
Nói lái
28
7,5%
Cứ liệu ngoài văn bản
80
21,4%
4.1.1 Chơi chữ bằng phương tiện ngữ âm và chữ viết:
Theo số liệu trên, chơi chữ bằng phương tiện ngữ âm và chữ viết có mật độ xuất hiện
khá lớn (156 lượt, chiếm 41,8%). Bao gồm:
- Chơi chữ bằng cách nhại, mô phỏng âm thanh:
Vd: Rù rì, rủ rỉ, rù ri
Chồng chồng, vợ vợ, tù ti tù tì
Thế gian mấy kẻ so bì
Ngẫm mà hổ thẹn tu mi liễu bồ. Là con gì?
(Đáp: Con chim cu)
- Chơi chữ bằng cách điệp âm:
Vd:
Bùng bình bùng bình bầu,
Cái răng ở dưới, cái đầu ở trên. Là cái gì?
(Đáp: Cái nơm)
- Chơi chữ bằng cách dùng từ cùng âm:
Vd: Mồm bò1, không phải mồm bò2 mà là mồm bò3. Là gì?
(Đáp: Con ốc)
- Chơi chữ bằng cách chiết tự:
+ Chơi chữ bằng hình thức chiết tự chữ Hán:
Vd:
Bà thổ đi chợ dã
Không ai rõ mua thứ gì. Là chữ gì?
(Đáp: chữ địa )
+ Chơi chữ bằng cách chiết tự chữ Việt:
Vd:
Hai em cộng với hai anh
Cùng nhau ghép lại thì thành con chim. Là con gì?
(Đáp: Chim manh manh)
- Chơi chữ bằng cách chen lớp từ ngữ thuộc ngôn ngữ khác với ngôn ngữ đang dùng:
Vd: Lưng tròn vành vạnh đít bảnh bao
Mân mân mó mó đút ngay vào
Thủy hỏa âm dương sôi sùng sục
Âm dương nhị khí sướng làm sao. Là gì?
(Đáp: Người hút thuốc lào)
Có thể thấy, việc chơi chữ bằng các phương tiện ngữ âm và chữ viết xuất hiện phong phú
trong câu đố dân gian. Điều này có thể lý giải bởi các nguyên nhân: Thứ nhất, do cấu trúc của câu
đố thường ngắn gọn, súc tích nên thuận tiện cho việc vận dụng phương tiện chơi chữ này. Thứ
hai, hình thức diễn xướng của các tác phẩm Folklore nói chung và câu đố nói riêng là qua truyền
miệng. Do vậy, việc vận dụng các hình thức chơi chữ bằng phương tiện ngữ âm, chữ viết sẽ khai
thác tốt vỏ âm thanh của ngôn ngữ, góp phần làm cho quá trình diễn xướng câu đố trở nên hấp
dẫn, sinh động, thu hút hơn. Mặt khác, các phương tiện ngữ âm, chữ viết khiến cho câu đố trở nên
hóc búa, đánh lạc hướng logic tư duy của đối tượng giải đố. Vì vậy, phương tiện này được tác giả
dân gian vận dụng một cách phổ biến.
4.1.2 Chơi chữ bằng phương tiện từ vựng, ngữ nghĩa: xuất hiện khá nhiều trong câu đố
(86 lượt, chiếm 23,1%). Chúng tôi chia ra thành các tiểu dạng như sau:
- Chơi chữ bằng cách sử dụng từ cùng nghĩa:
Vd:
Một lần mà tởn tới già
Đừng đi nước mặn mà hà ăn chưn. Là gì?
(Đáp: Con kinh)
- Chơi chữ bằng cách sử dụng từ trái nghĩa:
Vd :
Mình lành mà tiếng chẳng lành
Dạ sâu tiếng cạn, thực hành mà xem. Là gì?
(Đáp: Cái bể cạn)
- Chơi chữ bằng cách sử dụng từ cùng trường nghĩa:
Vd:
Đầu đội Giáp Ất
Miệng ngậm Bính Đinh
Cổ đeo Canh Tân
Bụng mang Nhâm Quí
Thân là Mậu Kỷ. Là cái gì?
(Đáp: Cái ống điếu)
- Chơi chữ bằng cách sử dụng từ lệch nghĩa:
Vd :
Hai bảy mười bốn thường mà
Đố anh hai bảy mười ba là gì ?
(Đáp : Năm nhuận hai tháng bảy)
Trong câu đố dân gian, chơi chữ bằng phương tiện từ vựng, ngữ nghĩa cũng xuất hiện
khá nhiều. Có thể thấy, về mặt cấu trúc, câu đố hoàn toàn thuận tiện cho phương tiện chơi chữ
này. Xét về chức năng, chơi chữ bằng phương tiện từ vựng, ngữ nghĩa mang đến cho câu đố
những sắc thái ý nghĩa, những giá trị hết sức thiết thực. Chính vì vậy, mật độ xuất hiện của
phương tiện chơi chữ này khá phổ biến trong câu đố dân gian.
4.1.3 Chơi chữ bằng phương tiện ngữ pháp :
Câu đố có mức độ vận dụng chơi chữ bằng phương tiện ngữ pháp tương đối ít (23 lượt,
chiếm 6,2%). Có thể thấy, trong tất cả các cấp độ chơi chữ mà câu đố có thể vận dụng, cấp độ
chơi chữ bằng phương tiện ngữ pháp ít liên quan đến quá trình ẩn giấu vật đố nhất. Nói cách khác,
vận dụng kiểu chơi chữ này không phục vụ nhiều cho mục đích đố - giải. Hơn nữa, cấu trúc ngắn
gọn câu đố cũng không cho phép vận dụng linh hoạt các kiểu chơi chữ bằng phương tiện ngữ
pháp. Chính vì thế mà chơi chữ dạng này xuất hiện không mấy phổ biến trong câu đố. Chúng tôi
tìm được một số dạng như sau:
- Tách, ghép từ ngữ đặt vào cấu trúc đối xứng:
Vd:
Đã đành đi sớm về trưa
Một mình, mình một bơ vơ một mình. Là gì?
(Đáp: Gái lỡ thì)
- Tách, ghép từ ngữ đặt vào cấu trúc ngẫu nhiên:
Vd: Cây khô thiên hạ đồn khô
Thấy mùi hương đó không cho biết mùi. Là gì?
(Đáp: Ông hương mục)
- Chơi chữ bằng cách đảo trật tự, vị trí từ ngữ:
Vd:
Ốc đậu cọc cầu ao
Cọc cầu ao ốc đậu. Là chữ gì? (Đáp: Chữ “phi” )
4.1.4 Chơi chữ bằng nói lái : Trong câu đố, chơi chữ bằng nói lái có 28 câu, chiếm 7,5%,
gồm ba dạng lái chính: hoán vị vần, hoán vị phụ âm và vần, hoán vị vần và thanh. Chúng tôi đặt
“A” là phụ âm đầu; “B” là phần vần và “x” là thanh điệu trong âm tiết thứ nhất. “C” là phụ âm
đầu; “D” là phần vần và “y” là thanh điệu trong âm tiết thứ hai. Các âm tiết ban đầu sẽ có công
thức: ABx + CDy. Khi lái, ta sẽ khái quát thành những công thức chủ yếu sau đây:
- Hoán vị vần: Ta có công thức: ABx + CDy
ADx + CBy
Vd: Khi đi cưa ngọn, khi về cũng cưa ngọn. Là con gì?
(Đáp: Con ngựa)
- Hoán vị phụ âm và vần: Ta có công thức: ABx + CDy
Vd:
CDx + ABy
Kiển tố vừa đố vừa giảng
Bằng cái nồi ba tha la kiển tố. Là gì?
(Đáp: Tổ kiến)
- Hoán vị vần và thanh điệu: Ta có công thức: ABx + CDy
Vd:
ADy + CBx
Hít vào, hít ra, hít một
Thèm thèm ta đem lùi tro. Là gì ?
(Đáp: hột mít)
4.1.5 Chơi chữ dựa vào cứ liệu ngoài văn bản (cứ liệu văn học): có 80 lượt (chiếm
21,4%). Bao gồm các dạng sau:
- Chơi chữ dựa vào cứ liệu văn học dân gian:
+ Biến ca dao thành câu đố:
Vd : Thương nhau cởi áo cho nhau
Về nhà mẹ hỏi, qua cầu gió bay. Là gì?
(Đáp: Con dấu hoặc con lừa mẹ)
+ Biến thành ngữ, tục ngữ thành câu đố:
Vd: Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài. Là gì?
(Đáp: Nước)
+ Sử dụng ca dao đưa vào câu đố:
Vd: Ở nhà, anh anh, em em
Ra đi lại bỏ, không đem theo cùng.
- Chàng ơi cho thiếp theo cùng
Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam.
(Đáp: Cái gối)
+ Sử dụng thành ngữ, tục ngữ đưa vào câu đố:
Vd : Kẻ ăn ở nhờ,
Tấm thân bé mọn bơ vơ trăm chiều.
Một liều, ba bảy cũng liều
Ai cho, cho được bao nhiêu cũng mừng. Là cây gì?
(Đáp: Tầm gửi)
Chơi chữ bằng cách sử dụng cứ liệu văn học dân gian trong câu đố chủ yếu là vận dụng
các ngữ liệu từ ca dao, tục ngữ, thành ngữ. Một vài câu đố sử dụng ngữ liệu từ truyện kể dân
gian. Điều này có thể giải thích bởi tính gần gũi về mặt cấu trúc của các thể loại câu đố, tục ngữ,
thành ngữ và ca dao. Hầu hết câu đố dân gian có kết cấu giống hình thức kết cấu của ca dao, tục
ngữ. Một số ít câu đố có kết cấu dạng câu đối hoặc tác phẩm văn chương bác học. Ngoài ra, hệ
thống đề tài, hình ảnh được sử dụng trong ca dao, tục ngữ, thành ngữ khá gần gũi với đời sống
người dân lao động, gần gũi với hệ đề tài và hình ảnh mà câu đố dân gian đề cập nên việc vận
dụng qua lại giữa các thể loại này là điều thiết yếu. Cái đặc sắc của những câu đố dạng này là sự
vận dụng khéo léo nét tương đồng giữa nghĩa bóng (của cứ liệu văn học dân gian) và nghĩa đen
(chỉ vật đố). Tuy nhiên, xét về bản chất, câu đố sử dụng cứ liệu văn học dân gian vẫn có nét dị
biệt rõ rệt. Bởi lẽ, bản thân câu đố, mặc dù sử dụng nguyên khối hay một bộ phận cứ liệu văn học
dân gian, thì mục đích chủ yếu của câu đố cũng không nhằm bày tỏ tâm tư tình cảm, phản ánh
những triết lý, kinh nghiệm sống… mà cốt đề cập đến vật đố, để “gọi đúng tên” vật đố.
- Chơi chữ dựa vào cứ liệu văn chương bác học:
Việc vận dụng các cứ liệu văn chương bác học để chơi chữ trong câu đố, chúng tôi nhận
thấy hầu hết các cứ liệu ấy đều xuất phát từ Truyện Kiều của Nguyễn Du. Có 2 cách vận dụng chủ
yếu : Tập Kiều và Lẩy Kiếu.
+ Tập Kiều là chọn một câu lục của đoạn này ghép với một câu bát trong đoạn khác của
Truyện Kiều để diễn đạt một ý mới khác với nguyên bản.
Trong câu đố, việc tập Kiều tạo ra những vế đố hết sức độc đáo.
Vd:
Cánh hồng bay bổng tuyệt vời
Đinh ninh hai miệng một lời song song. Là gì?
(Đáp: Con diều sáo)
+ Lẩy Kiều là chọn và rút ra một vài câu liền nhau trong Truyện Kiều rồi đặt chúng vào
ngữ cảnh mới khác với ngữ cảnh vốn có trong ngôn bản nhằm tạo ra nét nghĩa mới.
Vd:
Người đâu gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không? Là trái gì?
(Đáp: Trái mơ)
4.2 So sánh nghệ thuật chơi chữ trong câu đố dân gian và trong học viết :
Do mục đích, tác dụng khác nhau mà câu đố dân gian và văn học viết (chủ yếu là thơ ca)
có sự vận dụng những tiềm năng ngôn ngữ trong chơi chữ theo từng mức độ khác nhau. Mặt
khác, đặc trưng thể loại câu đố và văn học viết cũng là một vấn đề khiến chúng có sự khác biệt cơ
bản về nghệ thuật chơi chữ. Bởi lẽ, bản thân câu đố dân gian là một thể loại Folklore, chủ yếu
được sáng tác, lưu truyền thông quan con đường truyền miệng. Chính vì vậy mà các phương thức
chơi chữ trong câu đố thường tập trung khai thác vào vỏ âm thanh của ngôn từ. Trong khi đó, bản
chất của tác phẩm văn học viết là lưu truyền và tồn tại trên văn bản bằng chữ viết. Do đó, đối
tượng tiếp cận các tác phẩm văn học viết sẽ có điều kiện đọc, nghiền ngẫm cặn kẽ hơn. Chính vì
vậy mà các phương thức chơi chữ trong văn học viết sẽ phong phú, đặc biệt tập trung vào các
phương thức chơi chữ liên quan đến chữ viết, cấu trúc ngữ pháp, văn bản...
5. PHẦN KẾT LUẬN
Những đặc điểm được khảo sát và đánh giá ở phần nội dung đề tài chỉ là những đặc điểm
cơ bản nhất về nghệ thuật chơi chữ trong câu đố dân gian, một thể loại độc đáo trong kho tàng
văn học dân gian người Việt. Đề tài đã góp phần thừa nhận và khẳng định vai trò của nghệ thuật
chơi chữ trong việc tạo nên tính hấp dẫn của câu đố, tạo nên sự uyên thâm, trí tuệ trong hoạt động
đố - giải. Qua đó, chúng ta có thêm những cơ sở cần thiết để khẳng định giá trị của câu đố dân
gian trong đời sống tinh thần của dân tộc.
Có thể nói, hiện nay quá trình sáng tác và tiếp nhận văn chương theo tính cộng đồng
không còn phổ biến. Các sáng tác dân gian mặc dù được nhiều nhà nghiên cứu tâm huyết đầu tư
sưu tầm, khôi phục lại nhưng kết quả thu được chỉ mang tính tương đối. Việc khám phá, khẳng
định những nét đặc sắc của các di sản văn hóa dân gian sẽ phần nào giúp người dân ý thức rõ hơn
về vị trí, vai trò của các di sản trong đời sống tinh thần mỗi con người. Qua đó, mọi người cùng
góp phần tôn vinh, lưu truyền, thưởng thức. Thực hiện đề tài này, chúng tôi mong muốn khẳng
định giá trị một thể loại Folklore độc đáo của dân tộc – câu đố.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trần Tùng Chinh. 2002. Tài liệu giảng dạy Văn học dân gian Việt Nam. An Giang: Đại
học An Giang.
Nguyễn Đình Chúc, Huệ Nguyễn. 2000. Câu đố Việt Nam. Hà Nội: NXB Văn hóa dân
tộc.
Chu Xuân Diên (chủ biên). 2005. Văn học dân gian Bạc Liêu. Tp. Hồ Chí Minh: NXB
Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh.
Nguyễn Thành Dương. 2004. Nói lái trong câu đố Việt. Kỷ yếu ngôn ngữ học trẻ.
Ninh Viết Giao. 1997. Câu đố Việt Nam. Hà Nội: NXB Khoa học xã hội.
Lê Trung Hoa, Hồ Lê. 2005. Thú chơi chữ. TP. Hồ Chí Minh: NXB Khoa học Xã hội.
Nguyễn Hoàng Huy. 2004. Câu đối trong văn hóa Việt nam. Tp. Hồ Chí Minh: NXB
Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh.
Đinh Gia Khánh (chủ biên). 2006. Văn học dân gian Việt Nam. Hà Nội: NXB Giáo dục.
Ngọc Linh. 2008. Tuyển tập câu đố dân gian Việt Nam. Hà Nội: NXB Văn hóa thông tin.
Nguyễn Bá Lương. 2004. Câu đố dân gian Việt Nam – tài và hóm. Tạp chí Ngôn ngữ và
đời sống. Số 104.
Trần Đức Ngôn. 2005. Tổng tập Văn học dân gian người Việt (tập 3 – Câu đố). Hà Nội:
NXB Khoa học xã hội.
Triều Nguyên. 2000. Nghệ thuật chơi chữ trong ca dao người Việt. Huế: NXB Thuận
Hóa.
Triều Nguyên. 2008. Nghệ thuật chơi chữ trong văn chương người Việt (trọn bộ 4 tập).
Huế: NXB Thuận Hóa.
Nguyễn Văn Trung. 1999. Câu đố Việt Nam. Tp. Hồ Chí Minh: NXB Tp. Hồ Chí Minh.
Cù Đình Tú. 1983. Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt. Hà Nội: Đại học và
trung học chuyên nghiệp.
Khoa Ngữ Văn trường Đại học Cần Thơ. 1999. Văn học dân gian đồng bằng sông Cửu
Long. Tp. Hồ Chí Minh: NXB Giáo dục.
MỤC LỤC
NỘI DUNG
TRANG
A – PHẦN DẪN LUẬN
I – Lý do chọn đề tài
1
II – Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
1
III – Đối tượng nghiên cứu
2
IV – Lịch sử vấn đề
3
V – Phương pháp nghiên cứu
4
VI – Đóng góp của đề tài
5
VI – Kết cấu đề tài
5
B – PHẦN NỘI DUNG
Chương I: Đôi nét về câu đố dân gian và nghệ thuật chơi chữ
I – Câu đố dân gian
II – Nghệ thuật chơi chữ
8
8
12
1. Định nghĩa chơi chữ
12
2. Các hình thức chơi chữ
13
Chương II: Nghệ thuật chơi chữ trong câu đố dân gian người Việt
I – Chơi chữ bằng phương tiện ngữ âm và chữ viết
15
15
1. Chơi chữ bằng cách nhại, mô phỏng âm thanh
15
2. Chơi chữ bằng cách điệp âm
16
3. Chơi chữ bằng cách dùng từ cùng âm
17
4. Chơi chữ bằng cách chiết tự
21
5. Chơi chữ bằng cách chen lớp từ ngữ…
24
II – Chơi chữ bằng phương tiện từ vựng, ngữ nghĩa
25
1. Chơi chữ bằng cách sử dụng từ cùng nghĩa
25
2. Chơi chữ bằng cách sử dụng từ trái nghĩa
28
3. Chơi chữ bằng cách sử dụng từ cùng trường nghĩa
29
4. Chơi chữ bằng cách sử dụng từ lệch nghĩa
30
III – Chơi chữ bằng phương tiện ngữ pháp
31
1. Tách, ghép từ ngữ đặt vào cấu trúc đối xứng
31
2. Tách, ghép từ ngữ đặt vào cấu trúc ngẫu nhiên
32
3. Đảo trật tự, vị trí từ ngữ
33
III – Chơi chữ bằng nói lái
34
1. Hoán vị vần
35
2. Hoán vị phụ âm và vần
36
3. Hoán vị vần và thanh
56
IV – Chơi chữ dựa vào các cứ liệu văn học
38
1. Chơi chữ dựa vào cứ liệu văn học dân gian
38
2. Chơi chữ dựa vào cứ liệu văn chương bác học
41
Chương III: So sánh nghệ thuật chơi chữ…
45
1. Phương tiện ngữ âm và chữ viết
45
2. Phương tiện từ vựng, ngữ nghĩa
46
3. Phương tiện ngữ pháp…
48
4. So sánh về tác dụng của các kiểu dạng chơi chữ
49
C – PHẦN KẾT LUẬN
51
TÀI LIỆU THAM KHẢO
54
PHỤ LỤC
56
Trương Chí Hùng
Nghệ thuật chơi chữ trong câu đố…
A – PHẦN DẪN LUẬN
I - LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Trong kho tàng văn học dân gian người Việt, câu đố dân gian chiếm số lượng
khá lớn. Nó phản ánh một cách phong phú thế giới quan cũng như những nhận thức của
nhân dân về các hiện tượng tự nhiên, xã hội. Nội dung đề cập đến trong câu đố vô cùng
đa dạng. Nó vừa đề cập đến những hiện tượng tự nhiên như mưa, nắng, gió, bão, sấm,
chớp…; vừa đề cập đến các vật thể tự nhiên như sông, núi, mặt trăng, mặt trời, các vì
sao…; những con vật như trâu, bò, mèo, chó, gà, vịt, chim chóc…; cả con người, các
hoạt động của con người, các bộ phận trên cơ thể con người… đều trở thành đối tượng
của câu đố. Chính vì nội dung được đề cập đến trong câu đố là phong phú, đa dạng cho
nên có thể thấy, việc tìm hiểu câu đố sẽ góp phần giúp chúng ta hiểu thêm về thế giới
xung quanh, phần nào hiểu được nếp sống, nếp nghĩ của cha ông ta - những tác giả dân
gian tài hoa đã sáng tác ra câu đố.
Xét về mặt hình thức, câu đố là thể loại văn học dân gian sử dụng rất nhiều các
phương tiện, biện pháp tu từ độc đáo như so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, vật hóa, ngoa dụ…
đặc biệt là sử dụng nghệ thuật chơi chữ. Việc sử dụng các phương tiện, biện pháp tu từ,
trong đó có chơi chữ, đã phản ánh sự thông minh, dí dỏm và tài hoa của các tác giả dân
gian trong hoạt động đố và giải đố. Mặt khác, các phương tiện, biện pháp tu từ này cũng
giúp cho câu đố có những sắc thái riêng, thể hiện được đặc trưng thi pháp thể loại.
Chính những đặc trưng nghệ thuật của câu đố đã góp phần đem đến cho thể loại
này thêm hấp dẫn. Bởi lẽ, quá trình đố và giải đố không chỉ gói gọn trong khuôn khổ của
sự tiếp nhận thông tin đơn thuần về vật đố mà nó còn là một hình thức sinh hoạt thú vị
giữa người đố và người được đố. Nó đem đến sự thư giãn, là món ăn tinh thần trong đời
sống cộng đồng. Để thực hiện được chức năng giải trí, chức năng thực hành sinh hoạt thì
câu đố dân gian, ngoài nội dung phong phú, nhất thiết cần phải đặc sắc về mặt nghệ
thuật. Có như thế mới kích thích tư duy, kích thích óc phán đoán, suy xét, tạo hứng thú
trong nhận thức thực tiễn của con người. Chính điều này cho thấy, khi khảo sát câu đố
dân gian, không thể không đề cập đến khía cạnh nghệ thuật.
Đến với câu đố dân gian người Việt, chúng tôi nhận thấy một bộ phận khá lớn
câu đố có sử dụng nghệ thuật chơi chữ. Thiết nghĩ, việc khảo sát, giải mã đặc trưng của
nghệ thuật chơi chữ trong câu đố dân gian chắc hẳn có ý nghĩa trực tiếp đến quá trình
tiếp cận, khám phá cái hay, cái đẹp của thể loại Folklore này.
Chính những lý do đã nêu, chúng tôi mạnh dạn chọn nghiên cứu đề tài “Nghệ
thuật chơi chữ trong câu đố dân gian người Việt”.
II - MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
Thực hiện đề tài này, chúng tôi sẽ hoàn thành những mục đích và nhiệm vụ cơ
bản sau đây:
1.
Thứ nhất, chúng tôi tiếp tục làm sáng tỏ các vấn đề liên quan đến khái
niệm về câu đố dân gian người Việt. Đây là một bước hết sức quan trọng. Nó góp phần
xác định rõ phạm vi và đối tượng nghiên cứu; trên cơ sở đó chúng tôi sẽ tiến hành tổng
hợp, phân định và khảo sát đối tượng một cách đúng hướng, khoa học.
Trang 1
Trương Chí Hùng
Nghệ thuật chơi chữ trong câu đố…
2.
Thứ hai, chúng tôi sẽ tiến hành làm sáng rõ các khái niệm đề cập đến
nghệ thuật chơi chữ. Đây là việc làm cần thiết giúp chúng tôi có được những nền tảng tư
liệu khoa học để khám phá đối tượng nghiên cứu.
3.
Thứ ba, tiến hành tập hợp những câu đố dân gian có sử dụng nghệ thuật
chơi chữ trong kho tàng câu đố dân gian người Việt thành bảng phụ lục. Phân loại
những câu đố đã được sưu tầm theo từng kiểu dạng, hình thức chơi chữ riêng biệt. Từ
đó, tiến hành khảo sát những kiểu dạng chơi chữ trong câu đố dân gian người Việt một
cách hệ thống.
4.
Thứ tư, tiến hành so sánh về đặc trưng, kiểu dạng chơi chữ trong câu đố
dân gian người Việt với đặc trưng, kiểu dạng chơi chữ trong văn học viết (cụ thể là thơ
ca) để từ đó có những đúc kết, những nhận định khoa học về đối tượng nghiên cứu.
III - ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Đối tượng nghiên cứu chính của công trình này là những câu đố dân gian người
Việt có sử dụng nghệ thuật chơi chữ, không phân biệt thời gian hay địa bàn xuất hiện.
Những câu đố này được lựa chọn từ kho tàng câu đố dân gian người Việt và được chúng
tôi tách ra để tiện xem xét. Cho nên, có thể nói, tổng thể những câu đố dân gian người
Việt chính là phạm vi để chúng tôi tiến hành chọn lọc, nắm bắt đối tượng.
Trong đề tài này, chúng tôi sưu tầm, tổng hợp tư liệu chủ yếu từ công trình Tổng
tập Văn học dân gian người Việt (tập 3 – Câu đố) (Trần Đức Ngôn, 2005). Theo chúng
tôi, đây là công trình tổng hợp câu đố đồ sộ nhất từ trước tới nay, với 4027 đơn vị (tính
cả những dị bản), được xếp theo hệ đề tài, rất thuận tiện cho việc tra cứu. Tuy nhiên,
công trình này chưa cập nhật được một số câu đố phổ biến ở Nam Bộ. Chính vì vậy, bên
cạnh công trình của Trần Đức Ngôn, chúng tôi còn khảo sát và chọn lọc tư liệu từ quyển
Văn học dân gian đồng bằng sông Cửu Long (Khoa Ngữ Văn Đại học Cần Thơ, 1999);
Văn học dân gian Bạc Liêu (Chu Xuân Diên, 2005). Ngoài ra, chúng tôi cũng sưu tầm
được một số câu đố có sử dụng nghệ thuật chơi chữ từ quyển Câu đố Việt Nam (Ninh
Viết Giao, 1997) và công trình Câu đố Việt Nam (Nguyễn Văn Trung; 1999). Từ các
công trình vừa nêu, chúng tôi chọn lọc ra được 312 đơn vị câu đố có sử dụng nghệ thuật
chơi chữ. Trên thực tế, việc nắm bắt một cách đầy đủ về đối tượng là một việc rất khó.
Bởi lẽ, quá trình sưu tầm và tổng hợp các sáng tác Folklore nói chung và câu đố dân
gian nói riêng cho đến thời điểm hiện nay vẫn còn dừng lại ở mức tương đối. Chắc hẳn
còn rất nhiều câu đố vẫn ẩn khuất trong dân gian mà do những điều khách quan và chủ
quan, người nghiên cứu không thể tiến hành điền dã sưu tầm, tổng hợp được. Tuy nhiên,
với những câu đố có sử dụng nghệ thuật chơi chữ được tổng hợp từ các nguồn tư liệu đã
nêu, chúng tôi sẽ khảo sát, phân tích, kiến giải và đối sánh để làm sáng tỏ đối tượng. Số
câu đố đưa vào để làm dẫn chứng phân tích trong đề tài là có hạn, phần còn lại chúng tôi
sẽ sử dụng làm cứ liệu cho các luận giải liên quan.
Bên cạnh đối tượng chính đã nêu, trong đề tài này chúng tôi còn khảo sát một
đối tượng khác, có tính chất bổ trợ cho đối tượng nghiên cứu đó là những tác phẩm văn
học dân gian khác (không phải là câu đố) và những tác phẩm văn học viết có sử dụng
nghệ thuật chơi chữ. Song, đối tượng này là một đối tượng có tính chất phức hợp và vô
cùng phong phú cho nên chúng tôi không thể tập hợp một cách đầy đủ. Chúng tôi chỉ
chọn lọc và khảo sát một bộ phận nhất định để làm cơ sở đối sánh với đối tượng nghiên
cứu của đề tài.
Trang 2
Trương Chí Hùng
Nghệ thuật chơi chữ trong câu đố…
IV - LỊCH SỬ VẤN ĐỀ:
Vấn đề “Nghệ thuật chơi chữ trong câu đố dân gian người Việt” đã được đề cập
đến trong một số công trình, chuyên luận khoa học. Tuy nhiên, mức độ đề cập của các
công trình, chuyên luận khoa học đến thời điểm hiện nay vẫn còn dừng lại ở những nhận
định bước đầu, chưa xem xét đối tượng một cách toàn diện, hệ thống. Cụ thể:
Trong công trình nghiên cứu “Nghệ thuật chơi chữ trong văn chương
người Việt” (trọn bộ bốn tập) (Triều Nguyên, 2008) đã đề cập đến nghệ thuật chơi chữ
trong câu đố ở các dạng cùng nghĩa, trái nghĩa, nhiều nghĩa, trường nghĩa; chơi chữ
theo cách tách ghép từ ngữ, đảo trật tự vị trí từ; chơi chữ dựa vào một tác phẩm trước
để tạo ra một sáng tác mới; chơi chữ dựa vào Truyện Kiều v.v… Tuy nhiên, đối tượng
đề cập đến trong công trình nghiên cứu của tác giả Triều Nguyên là nghệ thuật chơi chữ
trong văn chương người Việt nói chung. Do vậy, nghệ thuật chơi chữ trong câu đố chỉ
được đề cặp đến một cách khái lược, chưa có tính chất toàn diện, tập trung. Mặc dù vậy,
so với các công trình khác có đề cập đến nghệ thuật chơi chữ trong câu đố thì công trình
này tác giả trình bày các kiểu dạng, cách thức lẫn phương tiện chơi chữ một cách phong
phú và đa dạng hơn cả.
Tác giả công trình “Câu đố Việt Nam” (Nguyễn Văn Trung, 1999) có đề
cập đến các kiểu dạng chơi chữ như: chiết tự, nói lái, nói trại, đồng âm dị nghĩa, đồng
nghĩa dị âm, tán chữ. Tuy nhiên, ở mỗi kiểu dạng tác giả cũng chỉ đưa ra những nhận
định, những dẫn chứng khá sơ sài. Điều này khó có thể đem đến cho người tiếp cận một
cái nhìn bao quát về đối tượng. Mặt khác, trong công trình này, việc tác giả xếp các
nhóm hát đố, đố đá, đố nói… chung với câu đố dân gian người Việt để xem xét là một
việc làm khó có thể chấp nhận. Bởi lẽ, từ trước đến nay các loại hình này không được
giới nghiên cứu đặt chung trong thể loại câu đố dân gian. Việc xác định phạm vi, đối
tượng khảo sát của tác giả chắn hẳn có ảnh hưởng không nhỏ đến việc khảo sát nghệ
thuật chơi chữ.
Trong cuốn “Thú chơi chữ” (Lê Trung Hoa, Hồ Lê, 2005) các tác giả
cũng đề cập đến nghệ thuật chơi chữ trong câu đố dân gian người Việt. Cụ thể là chơi
chữ bằng nói lái, chơi chữ bằng hiện tượng đồng âm, đồng nghĩa, chơi chữ bằng cách
sử dụng nghĩa phái sinh thật và giả, chơi chữ bằng cách tả chữ, xáo chữ, chiết tự, tách
từ v.v… Tuy nhiên, cũng tương tự như một số công trình nghiên cứu khác về chơi chữ,
nhóm tác giả này chỉ đề cập đến nghệ thuật chơi chữ trong câu đố một cách sơ sài, thiếu
hệ thống.
“Văn học dân gian Việt Nam” (Đinh Gia Khánh,2006), ở phần viết về câu
đố (từ trang 257 đến trang 269) có đề cập đến nghệ thuật chơi chữ. Tuy nhiên, tác giả
chỉ trình bày một cách ngắn gọn các kiểu dạng chơi chữ như nói lái, đồng âm khác
nghĩa, phản nghĩa, chơi chữ dựa trên cơ sở biến động của các từ. Điều này cũng khó có
thể bao quát hết được đối tượng nghiên cứu.
Tác giả Nguyễn Bá Lương trong bài viết “Câu đố dân gian Việt Nam: tài
và hóm” (Nguyễn Bá Lương, 2004) cũng có đề cập đến một số kiểu chơi chữ trong câu
đố như đồng nghĩa, đồng âm, nói lái, thay đổi dấu thanh, thay đổi chữ nghĩa. Tuy nhiên,
dưới mức độ một bài báo chuyên ngành, tác giả chưa đi sâu vào các kiểu dạng chơi chữ
và cũng chưa khảo sát toàn diện đối tượng nghiên cứu.
Trong tập Câu đố Việt Nam (Ninh Viết Giao, 1997) tác giả có trình bày
một số thủ pháp nghệ thuật được sử dụng trong câu đố. Các thủ pháp này bao gồm: sử
dụng lối nói lái, sử dụng những từ đồng âm khác nghĩa, sử dụng những từ phản nghĩa
Trang 3
Trương Chí Hùng
Nghệ thuật chơi chữ trong câu đố…
và sử dụng lối chơi chữ hóc hiểm tinh vi. Dựa trên những tiêu chí phân chia này thì rõ
ràng tác giả đã đặt các kiểu dạng nói lái, đồng âm khác nghĩa, sử dụng từ phản nghĩa
ngang hàng và biệt lập với chơi chữ. Điều này không phù hợp với quan điểm của các
học giả mà chúng tôi liệt kê ở trên. Việc trình bày về phạm vi và các kiểu dạng chơi chữ
chúng tôi sẽ làm sáng rõ trong chương I của phần nội dung tiếp sau. Ở đây, chúng tôi chỉ
dừng lại với nhận định cuối cùng là công trình của Ninh Viết Giao, tác giả cũng chỉ trình
bày về nghệ thuật chơi chữ trong câu đố người Việt bằng những nét phác thảo khá sơ
sài.
Nhìn chung, tùy theo tính chất, mục đích của từng công trình, các tác giả đã đề
cập đến đối tượng nghiên cứu là “Nghệ thuật chơi chữ trong câu đố dân gian người
Việt” dưới những mức độ khác nhau. Có thể nhận thấy, hầu hết các học giả đều đề cập
đến các kiểu dạng chơi chữ có tính phổ biến, xuất hiện với tần suất cao trong câu đố
như: đồng âm, đồng nghĩa, nói lái, chiết tự. Những công trình đã nêu sẽ là nguồn tư liệu
phong phú cho chúng tôi trong quá trình khám phá, tiếp cận đối tượng thuộc phạm vi đề
tài.
Tuy nhiên, trong thực chất, các kiểu dạng chơi chữ trong câu đố dân gian người
Việt rất đa dạng và phong phú mà đến nay, vẫn chưa có công trình, bài viết nào tập
trung nghiên cứu chuyên biệt đề tài này. Chính vì vậy, trong đề tài, chúng tôi muốn góp
phần tìm hiểu một cách tập trung, hệ thống về “Nghệ thuật chơi chữ trong câu đố dân
gian người Việt”.
V - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
- Mục đích:
• Tìm hiểu các công trình, bài viết có liên quan đến câu đố dân gian,
liên quan đến nghệ thuật chơi chữ để từ đó có những đánh giá, nhận định khách quan,
biện chứng về đối tượng.
•
Thu thập thông tin, số liệu liên quan đến đề tài nghiên cứu.
- Kỹ thuật tiến hành:
• Tập hợp, nghiên cứu tài liệu tham khảo, các công trình nghiên cứu
khoa học có liên quan đến đề tài.
• Ghi chép, đúc kết các nhận định khoa học từ các nguồn tư liệu để làm
cơ sở đối sánh.
2. Phương pháp thống kê:
- Mục đích:
• Hệ thống hoá các phương tiện, hình thức chơi chữ dựa trên cơ sở
những câu đố có sử dụng nghệ thuật chơi chữ được chọn lọc ra từ kho tàng câu đố dân
gian người Việt.
• Thống kê số lượng các câu đố có sử dụng nghệ thuật chơi chữ trong
kho tàng câu đố dân gian Việt Nam sưu tầm được.
- Kỹ thuật tiến hành:
• Thống kê, phân loại các câu đố có sử dụng nghệ thuật chơi chữ
thành các tiểu loại nhỏ hơn, tập hợp các tiểu loại thành bảng phụ lục.
Trang 4
Trương Chí Hùng
Nghệ thuật chơi chữ trong câu đố…
• Đánh giá tần số xuất hiện của các kiểu dạng chơi chữ trên cơ sở các
số liệu thống kê, tổng hợp được.
3. Phương pháp so sánh:
- Mục đích:
• Phương pháp so sánh được vận dụng nhằm tìm ra những nét tương
đồng và khác biệt giữa các kiểu dạng chơi chữ trong câu đố dân gian người Việt.
• Sử dụng phương pháp so sánh cũng nhằm tìm ra sự tương đồng và
khác biệt giữa chơi chữ trong câu đố dân gian và chơi chữ trong văn học bác học cũng
như trong các sáng tác Folklore khác.
- Kỹ thuật tiến hành:
• So sánh dựa trên những cứ liệu đã thống kê, tổng hợp được, từ đó rút
ra những luận cứ, những kết luận khoa học về đối tượng.
4. Phương pháp phân tích, tổng hợp:
- Mục đích:
•
•
câu đố dân gian.
Làm sáng tỏ giá trị câu đố dân gian do nghệ thuật chơi chữ mang lại.
Chỉ ra những nét riêng biệt, độc đáo của nghệ thuật chơi chữ trong
- Kỹ thuật tiến hành:
• Phân tích dựa trên những cứ liệu thống kê, qua đó làm sáng rõ giá trị
của đối tượng nghiên cứu.
VI - ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI:
Thứ nhất, lần đầu tiên chúng tôi tập hợp lại, dù chưa thể đầy đủ tất cả, những
câu đố dân gian người Việt có sử dụng nghệ thuật chơi chữ. Điều này tạo tiền đề cần
thiết cho những công trình nghiên cứu liên quan đến câu đố dân gian người Việt ở cấp
độ cao hơn.
Thứ hai, đề tài tập trung khảo sát một cách hệ thống, toàn diện về nghệ thuật
chơi chữ trong câu đố dân gian người Việt, góp phần làm nổi bật những giá trị nội dung
và nghệ thuật của câu đố dân gian, một thể loại độc đáo trong kho tàng Folklore Việt
Nam.
Thứ ba, trong đề tài này, chúng tôi dành trọn vẹn một chương để so sánh, đối
chiếu nghệ thuật chơi chữ trong câu đố dân gian người Việt với nghệ thuật chơi chữ
trong văn học viết. Từ đó giúp người tiếp cận có cái nhìn khách quan về đối tượng
nghiên cứu.
Thứ tư, đề tài còn có ý nghĩa sư phạm thiết thực. Đề tài hoàn tất sẽ giúp cho sinh
viên chuyên ngành Văn hóa du lịch, sinh viên chuyên ngành Sư phạm Ngữ văn và các
giảng viên chuyên ngành có thêm nguồn tư liệu tuy khiêm tốn nhưng cần thiết để phục
vụ cho công tác giảng dạy và học tập học phần Văn học dân gian Việt Nam.
VII - KẾT CẤU ĐỀ TÀI:
A – PHẦN DẪN LUẬN
I – Lý do chọn đề tài
Trang 5
Trương Chí Hùng
Nghệ thuật chơi chữ trong câu đố…
II – Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
III – Đối tượng nghiên cứu
IV – Lịch sử vấn đề
V – Phương pháp nghiên cứu
VI – Đóng góp của đề tài
VI – Kết cấu đề tài
B – PHẦN NỘI DUNG
Chương I: Đôi nét về câu đố dân gian và nghệ thuật chơi chữ
I – Câu đố dân gian
II – Nghệ thuật chơi chữ
1. Định nghĩa chơi chữ
2. Các hình thức chơi chữ
Chương II: Nghệ thuật chơi chữ trong câu đố dân gian người Việt
I – Chơi chữ bằng phương tiện ngữ âm và chữ viết
1. Chơi chữ bằng cách nhại, mô phỏng âm thanh
2. Chơi chữ bằng cách điệp âm
3. Chơi chữ bằng cách dùng từ cùng âm
4. Chơi chữ bằng cách chiết tự
5. Chơi chữ bằng cách chen lớp từ ngữ thuộc ngôn ngữ khác với ngôn
ngữ đang dùng
II – Chơi chữ bằng phương tiện từ vựng, ngữ nghĩa
1. Chơi chữ bằng cách sử dụng từ cùng nghĩa
2. Chơi chữ bằng cách sử dụng từ trái nghĩa
3. Chơi chữ bằng cách sử dụng từ cùng trường nghĩa
4. Chơi chữ bằng cách sử dụng từ lệch nghĩa
III – Chơi chữ bằng phương tiện ngữ pháp
1. Tách, ghép từ ngữ đặt vào cấu trúc đối xứng
2. Tách, ghép từ ngữ đặt vào cấu trúc ngẫu nhiên
3. Đảo trật tự, vị trí từ ngữ
III – Chơi chữ bằng nói lái
1. Hoán vị vần
2. Hoán vị phụ âm và vần
3. Hoán vị vần và thanh
IV – Chơi chữ dựa vào các cứ liệu văn học
1. Chơi chữ dựa vào cứ liệu văn học dân gian
Trang 6
Trương Chí Hùng
Nghệ thuật chơi chữ trong câu đố…
2. Chơi chữ dựa vào cứ liệu văn chương bác học
Chương III: So sánh nghệ thuật chơi chữ trong câu đố dân gian và văn học viết
1. Phương tiện ngữ âm và chữ viết
2. Phương tiện từ vựng, ngữ nghĩa
3. Phương tiện ngữ pháp
4. So sánh về tác dụng của các kiểu dạng chơi chữ
C – PHẦN KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Trang 7
Trương Chí Hùng
Nghệ thuật chơi chữ trong câu đố…
B – PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: ĐÔI NÉT VỀ CÂU ĐỐ DÂN GIAN VÀ
NGHỆ THUẬT CHƠI CHỮ
I – CÂU ĐỐ DÂN GIAN:
Câu đố là một thể loại đặc biệt trong kho tàng văn học dân gian người Việt, ở đó
vừa có chất triết lý, trí tuệ của ngụ ngôn, tục ngữ; vừa chứa đựng chất trữ tình của ca
dao dân ca; vừa có chất dí dỏm, hài hước của truyện cười, vè…
Về thuật ngữ, thực chất Câu đố dân gian người Việt từ trước tới nay đã trở thành
tên gọi của một thể loại văn học dân gian mà không có sự tranh luận. Mặc dù vậy, trên
thực tế, thuật ngữ này thường dễ bị nhầm lẫn với thể loại hát đố trong dân gian. Hát đố
rất phổ biến trong các loại hình dân ca từ Bắc chí Nam. Trong nhiều cuộc hát, hát đố là
một chặng quan trọng, có khi kéo dài và đầy sức hấp dẫn đối với người tham dự. Ta có
thể dẫn ra một vài mẩu hát đố làm ví dụ:
Hát đố trong hò đối đáp Nam bộ:
Đố:
Hò…ơ… Tiếng đồn anh hay chữ em hỏi thử đôi lời…ờ
Chớ một trăm cái hố, hố nào không nước?
Một trăm cây thước, thước nào không đo?
Một trăm cái cây, cây nào không trái?
Một trăm con gái, gái nào không chồng…ơ?
Trai nam nhơn đối đặng, bứt nhị hồng dâng cho…ơ!
Đáp:
Hò…ơ… Một trăm cái hố, hố khoan đâu có nước,
Một trăm cây thước, thước giấy đây có ai đo,
Một trăm cái cây, cây sào chống ghe đâu có trái,
Một trăm con gái, con gái Ngọc Nữ đâu có chồng,
Trai nam nhơn đối đặng, đáng chồng bậu chưa?
Hát đố đáp trong hát ví phường vải Nghệ Tĩnh:
Đố:
Hỏi anh học sách thánh hiền,
Ai người đi tới non tiên đúc vàng?
Tiếng anh ăn học nhà trường
Trả lời em thử trong vườn mấy cây?
Đáp:
Em nghe anh trả lời đây
Trang 8
Trương Chí Hùng
Nghệ thuật chơi chữ trong câu đố…
Trong vườn chỉ có hai cây nghĩa là
Một cây xanh tốt rườm rà,
Một cây xanh tốt nữa là thung huyên
Sách xưa chép chữ còn nguyên
Người cày núi Lỗ non tiên đúc vàng.
Trời xui anh đặng gặp nàng
Bà Nguyệt cho sợi xích thằng hôm nay.
Hát đố đáp trong hát trống quân:
Đố:
Quả gì năm múi sáu khe?
Quả gì nứt nẻ như da thợ rào?
Quả gì kẻ ước người ao?
Quả gì lấp lánh như sao trên trời?
Quả gì ăn đủ năm mùi?
Quả gì to lớn có người ở trong?
Quả gì khắc chữ chạm rồng?
Quả gì cùi trắng nước trong hỡi chàng?
Quả gì da nó vàng vàng?
Quả gì lăn lóc giữa đàng cái đi?
Quả gì da nó sù sì?
Chàng mà đối được thiếp thì theo không.
Đáp:
Quả khế năm múi sáu khe,
Quả na nứt nẻ như da thợ rào,
Quả mận kẻ ước người ao,
Quả mơ lấp lánh như sao trên trời,
Quả lê ăn đủ năm mùi,
Quả đất to lớn có người ở trong,
Quả chuông khắc chữ chạm rồng,
Quả dừa cùi trắng nước trong đó nàng,
Quả thị da nó vàng vàng,
Bùi yêu lăn lóc giữa đường cái đi,
Quả mít da nó sù sì…
Nay anh đối được, em thì theo anh.
Trang 9
Trương Chí Hùng
Nghệ thuật chơi chữ trong câu đố…
Qua một số ví dụ đã nêu, chúng ta dễ dàng nhận thấy, giữa câu đố và hát đố
cũng có những điểm tương đồng. Thứ nhất, về nội dung, hầu như cả hai loại đều đề cập
đến những nội dung rất phong phú trong đời sống tự nhiên và xã hội. Thứ hai, cả hai đều
thử trí thông minh, óc phán đoán và khả năng nhận thức của đối phương về thế giới
xung quanh; nhằm mục đích giải trí. Tuy nhiên, xét về bản chất thì hai hình thức này có
điểm khác biệt. Trước hết, ở hát đố, chủ thể đố và chủ thể đáp đều xuất hiện. Trong khi
đó, ở câu đố, chủ thể đố thường ít xuất hiện và chủ thể đáp luôn được ẩn đi. Mặt khác, ở
hát đố, tuy có sử dụng nhiều hình thức để thử trí thông minh của đối phương, nhưng
mục đích cuối cùng là để tỏ tình, trao duyên, hẹn ước... Trong khi đó, câu đố thường chỉ
thuần túy kiểm tra trí thông minh, óc suy luận của đối phương. Nói khác đi, hát đố được
xem là những sáng tác trữ tình dân gian còn câu đố có thể xem là trò chơi trí tuệ bằng
ngôn từ.
Một thuật ngữ nữa cũng cần phân biệt với thuật ngữ câu đố dân gian, đó là đố
đá. Đố đá là một thuật ngữ chỉ hoạt động đố và đáp giữa các vai hề trong nghệ thuật
chèo dân gian. Trong sân khấu dân gian, màn đố đá luôn hấp dẫn người xem. Mục đích
chính của đố đá là gây cười. Hiện tượng gây cười này thể hiện ngay trong chất trào lộng
của nội dung và hình thức đố đá.
Giữa đố đá và câu đố đôi khi có chỗ tương đồng (nhiều màn đố đá sử dụng chất
liệu là những câu đố dân gian). Tuy nhiên về cơ bản đố đá và câu đố khác nhau. Cái
khác nhau đầu tiên chính là môi trường diễn xướng của hai hình thức này. Môi trường
diễn xướng của đố đá mang tính biểu diễn nghệ thuật (trong nghệ thuật sân khấu dân
gian) trong khi câu đố có môi trường diễn xướng tự nhiên, gắn với chức năng thực hành
sinh hoạt (có thể đố nhau lúc làm việc ngoài đồng ruộng, lúc học chữ Nho, lúc nhàn rỗi
tụm năm tụm ba ngoài hè, trên sân…). Một đặc điểm nữa có thể phân biệt giữa đố đá và
câu đố đó là mục đích của hai loại hình này. Mặc dù cả hai đều có yếu tố mua vui, giải
trí nhưng nhìn chung, ở câu đố, mục đích chính là thử tài trí, óc suy đoán của đối
phương. Trong khi đó, mục đích chính của đố đá là để mua vui, gây cười và qua những
tiếng cười sảng khoái ấy, dân gian lồng vào những nội dung có tính giáo dục sâu sắc.
Nội dung của đố đá cũng khá phong phú nhưng nhất thiết nó phải gắn với yếu tố hài
hước, trào lộng. Chính vì vậy mà đố đá ít đưa người thưởng thức đến trạng thái phải
trầm tư, căng thẳng. Ta có thể phân tích một trường hợp để thấy được những điểm khác
biệt giữa câu đố và đố đá:
Câu đố:
Thượng thò lò hạ bất thò lò
Hạ thò lò thượng bất thò ló
Thượng hạ thò ló, trung bất thò lò. Là gì?
(Đáp: Người đắp chiếu ngắn)
Đố đá trong Chèo:
Hề 1: Mày hay đố chữ, tao đố chữ cho mày nghe nhá! Nhất định mày không
biết.
Hề 2: Ừ, thì mày đố đi.
Hề 1: Đố nhá:
Thượng hạ bất thò
Hạ thò thượng bất thò
Trang 10
Trương Chí Hùng
Nghệ thuật chơi chữ trong câu đố…
Thượng hạ thò thò
Thượng hạ bất thò thò
Chữ ấy hẳn là mày mít đặc.
Hề 2: Thượng thò hạ bất thò là chữ “do”, hạ thò thượng bất thò là chữ “giáp”,
thưỡng hạ thò thò là chữ “thân”, thượng hạ bất thò thò là chữ “điền”.
Hề 1: Hỏng rồi. Để tao giảng cho mày nghe: nó là chữ thua bạc.
Hề 2: Không đúng.
Hề 1: Nó là anh thua bạc, vì thế này: Giời rét như mấy ngày hôm nọ, giải cái ổ,
chỉ có cái chiếu ngắn đắp lên mình, được thân thì trồi đầu, thế là thượng thò hạ bất thò.
Kéo chiếu đắp đầu thì lại thòi chân ra, thế thì hạ thò thượng bất thò. Khi ngủ mệt, duỗi
chân, duỗi tay là thượng hạ thò thò. Đến khi rét quá, thu chân tay lại, nắm co như con
tôm, thế là thượng hạ bất thò thò.
Qua ví dụ trên ta có thể thấy tính hài hước, châm biếm trong đố đá có phần nổi
trội hơn so với câu đố. Trong trường hợp vừa nêu, câu đố chính là nguồn tư liệu để tạo
ra màn đố đá đầy kịch tính.
Theo tác giả Trần Đức Ngôn, (Trần Đức Ngôn, 2005), “nhìn chung, trên bình
diện thể loại, các từ hát đố và đố đá chưa bao giờ được dùng để chỉ một thể loại của
Folklore. Còn từ câu đố từ lâu đã trở thành một thuật ngữ khoa học được giới nghiên
cứu công nhận là tên gọi của một thể loại văn học dân gian Việt Nam”.
Bên cạnh hai loại hình hát đố và đố đá, thuật ngữ câu đố dân gian đôi khi được
dùng nhầm lẫn với một số khái niệm khác như: đố nói, đố Kiều, đố toán học… Chúng
tôi cũng xin trình bày một số kiến giải về vấn đề này.
Theo học giả Nguyễn Văn Trung, thì “đố nói (hay đố nói xuôi, để phân biệt với
đố nói nhanh) là những “câu đố không có vần”. Lối đố này thường gặp ở ngoài đời, có
cả trên sân khấu hát bội, tuồng chèo, và các buổi văn nghệ lửa trại về sau này” (Nguyễn
Văn Trung, 1999). Qua một số dẫn chứng minh họa của tác giả này, chúng tôi nhận thấy
tác giả sử dụng rất nhiều trường hợp đố đá (trên sân khấu hát bội, tuồng chèo). Ở đây,
tác giả đã có sự nhầm lẫn về đối tượng. Tuy nhiên, bên cạnh đó tác giả cũng đưa ra một
vài dẫn chứng khác với loại hình đố đá (mà chúng tôi đã trình bày) để minh họa cho thể
loại đố nói. Điển hình như:
“Đố: Tại sao khi hành nghề, mọi tên ăn cắp, móc túi, phải nhìn trước rồi nhìn
sau?
Trả lời: Vì hắn không thể nhìn trước rồi nhìn sau cùng một lượt.”
Xét ví dụ vừa nêu ta thấy, đố nói không thể xếp vào thể loại câu đố dân gian.
Bởi lẽ, đố nói chỉ tồn tại như những mẩu đối thoại có tính dí dỏm, lắc léo, gài bẩy giữa
hai đối tượng. Cũng chính vì vậy cho nên bản thân nó thiếu các giá trị nội dung tư
tưởng, các yếu tố nghệ thuật, những đặc điểm thi pháp cần thiết của thể loại Folklore.
Tương tự như đố nói, bộ phận đố toán số cũng là một trường hợp bị nhầm lẫn và
thể loại câu đố dân gian. Mặc dù so với đố nói, có những bài đố toán số thuộc thể loại
văn vần, tuy sự gieo vần đôi chỗ tương đối gượng. Ví dụ:
Đố:
Một con bay trước, bay trước hai con
Trang 11
Trương Chí Hùng
Nghệ thuật chơi chữ trong câu đố…
Một con bay sau, bay sau hai con
Một con bay giữa, bay giữa hai con
Hỏi bầy chim có mấy con?
(Đáp: Ba con)
Hay:
Đám bần có một bầy cò
Sáng ra thấy đậu dư cò một con
Chiều về cũng đậu đều bon
Sao mà lại thấy bần còn một cây?
Xin anh tính thử giùm đây,
Mấy con cò đậu, mấy cây bần này?
(Đáp: Tính ra bần chỉ ba cây
Mà cò tới bốn, đậu bay sớm chiều).
Qua trình bày, phân tích một số trường hợp có liên quan đến thuật ngữ câu đố
dân gian người Việt, chúng ta có thể đúc kết lại định nghĩa về câu đố như sau: Câu đố là
những sáng tác dân gian bằng văn vần; miêu tả, phản ánh đặc điểm của các sự vật hiện
tượng trong tự nhiên và đời sống xã hội bằng phương pháp dấu tên đặc biệt nhằm thử
tài suy đoán, kiểm tra sự hiểu biết (của đối tượng được đố) và mua vui giải trí.
II - NGHỆ THUẬT CHƠI CHỮ:
1. Định nghĩa chơi chữ:
Các nhà ngôn ngữ học đã đưa ra rất nhiều định nghĩa khác nhau về chơi chữ.
Chúng tôi xin phân tích hai khái niệm có tính tiêu biểu của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ
về đối tượng này.
Trước hết, trong “Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt” (Cù Đình Tú,
1983, tr. 321), định nghĩa chơi chữ được nêu lên như sau: “Chơi chữ là cách tu từ vận
dung linh hoạt các tiềm năng về ngữ âm, chữ viết, từ vựng, ngữ pháp của tiếng Việt
nhằm tạo nên phần tin khác loại song song tồn tại với phần tin cơ sở. Phần tin khác loại
này – tức lượng ngữ nghĩa mới – là bất ngờ và về bản chất, không có quan hệ phù hợp
với phần tin – tức thông báo – cơ sở”.
Trong công trình mang tên “99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt” (Đinh
Trọng Lạc, 2003, tr. 176) tác giả cũng đã trình bày định nghĩa chơi chữ: “chơi chữ là
biện pháp tu từ dựa trên sự vận dụng linh hoạt tiềm năng về ngữ âm, chữ viết, từ vựng,
ngữ pháp của tiếng Việt để tạo nên phần tin mới, bất ngờ, khác loại với phần tin cơ sở,
nhằm gây châm biếm, đả kích hoặc đùa vui”.
Qua hai định nghĩa trên, chúng ta nhận thấy có mấy vấn đề cần làm sáng rõ:
Thứ nhất, chơi chữ được thể hiện trên tất cả các cấp độ, đơn vị của tiếng Việt
(ngữ âm, chữ viết, từ vựng, ngữ pháp) trong khi các kiểu tu từ khác chỉ thể hiện ở một
hoặc một vài cấp độ nhất định. Ví dụ, các biện pháp nhân hóa, ẩn dụ, hoán dụ… thể
hiện chủ yếu ở cấp độ từ; điệp ngữ, tăng tiến, tương phản… thể hiện chủ yếu ở cấp độ
Trang 12
Trương Chí Hùng
Nghệ thuật chơi chữ trong câu đố…
ngữ pháp (câu). Điều này cho thấy chơi chữ có phạm vi vận dụng các tiềm năng ngôn
ngữ rộng hơn so với các loại tu từ khác.
Thứ hai, chơi chữ luôn tạo ra lượng ngữ nghĩa, thông tin mới về bản chất không
có quan hệ phù hợp với lượng ngữ nghĩa cơ sở. Trong khi đó, ở các kiểu tu từ khác, ý
nghĩa do chúng tạo ra luôn dựa trên cơ sở những nét tương đồng, liên tưởng về mối quan
hệ gắn bó gần gũi có thực giữa hai đối tượng hoặc bằng quan hệ phối hợp về nghĩa.
Điều này cho thấy, quá trình tạo nghĩa của chơi chữ khác với quá trình tạo nghĩa của các
kiểu dạng tu từ khác.
Tác giả Triều Nguyên đã kế thừa những thành tựu của các nhà ngôn ngữ học
đồng thời phân tích, loại trừ những điểm bất cập trong các định nghĩa trên để từ đó đúc
kết thành một định nghĩa mà chúng tôi cho rằng đã thể hiện một cách xác đáng bản chất
của chơi chữ. Theo Triều Nguyên, “chơi chữ là dùng phương thức diễn đạt đặc biệt, sao
cho ở đó song song tồn tại hai lượng ngữ nghĩa (thông tin) khác hẳn nhau được biểu đạt
bởi cùng một hình thức ngôn ngữ, nhằm tạo nên sự thú vị mang tính chất ngữ nghĩa”
(Triều Nguyên, 2000, tr.15).
Ở định nghĩa này, chơi chữ được xem là “phương thức diễn đạt đặc biệt”, có
nghĩa là tác giả không đặt chơi chữ như một kiểu tu từ trong hệ thống các kiểu tu từ
thường gặp vì chơi chữ, về bản chất không tạo nghĩa như hệ thống tu từ tiếng Việt.
Ngoài ra, ở chơi chữ, hai lượng ngữ nghĩa (thông tin) được tạo ra có mối quan hệ song
song. Điều này giúp phân biệt với các kiểu loại tu từ khác có ngữ nghĩa mới và ngữ
nghĩa cơ sở dựa trên các mối quan hệ tương đồng, gần gũi, gắn bó (ẩn dụ, hoán dụ, đồng
nghĩa kép, tăng tiến, tương phản…). Và sau cùng, “sự thú vị mang tính chất ngữ nghĩa”
chính là tác dụng của chơi chữ đối với người thưởng thức. Điều này được nhận ra qua
cảm xúc thẩm mỹ của chủ thể tiếp nhận chơi chữ.
Trong công trình này, chúng tôi sử dụng khái niệm chơi chữ theo quan điểm của
Triều Nguyên để khảo sát nghệ thuật chơi chữ trong câu đố dân gian người Việt.
2. Các hình thức chơi chữ trong văn chương người Việt:
Như đã trình bày, chơi chữ thể hiện trên tất cả các cấp độ của ngôn ngữ tiếng
Việt được biểu hiện trên văn bản (có trường hợp ngoài văn bản). Do đó, để khảo sát các
kiểu dạng chơi chữ một cách đầy đủ, toàn diện đòi hỏi phải dựa trên từng cấp độ nhất
định.
2.1 Chơi chữ bằng phương tiện ngữ âm và chữ viết:
Trong văn chương, chơi chữ bằng phương tiện ngữ âm và chữ viết khá phổ biến.
Ta có thể liệt kê một số kiểu dạng ở cấp độ này như:
- Chơi chữ bằng cách nhại, mô phỏng âm thanh;
- Chơi chữ bằng cách điệp âm;
- Chơi chữ bằng cách dùng từ cùng âm;
- Chơi chữ bằng cách phiên âm tiếng nước ngoài;
- Chơi chữ bằng cách chiết tự;
- Chơi chữ bằng cách chen lớp từ ngữ thuộc ngôn ngữ khác với ngôn
ngữ đang dùng.
2.2 Chơi chữ bằng phương tiện từ vựng – ngữ nghĩa:
Trang 13
Trương Chí Hùng
Nghệ thuật chơi chữ trong câu đố…
Ở cấp độ chơi chữ này, chúng tôi thấy có kiểu chơi chữ như sau:
-
Chơi chữ bằng cách sử dụng từ cùng nghĩa;
-
Chơi chữ bằng cách sử dụng từ nhiều nghĩa;
-
Chơi chữ bằng cách sử dụng từ trái nghĩa;
-
Chơi chữ bằng cách sử dụng từ cùng trường nghĩa;
-
Chơi chữ bằng cách sử dụng những từ lệch nghĩa;
-
Chơi chữ bằng cách khoán nghĩa;
2.3 Chơi chữ bằng phương tiện ngữ pháp:
-
Chơi chữ bằng cách tách, ghép từ ngữ;
- Chơi chữ bằng cách đảo trật tự, vị trí của từ để làm thay đổi chức
năng ngữ pháp, ngữ nghĩa;
-
Chơi chữ bằng cách ngắt nhịp câu, buông lửng câu;
2.4 Chơi chữ dựa vào phương ngữ và tiếng lóng;
2.5 Chơi chữ dựa vào luật thơ và cấu trúc văn bản;
2.6 Chơi chữ dựa vào phong cách văn bản;
2.7 Chơi chữ bằng nói lái;
2.8 Chơi chữ dựa vào các tiền giả định là dữ liệu văn học, văn hóa dân
gian.
Trên đây là các kiểu dạng chơi chữ trong văn chương người Việt được xếp theo
từng cấp độ ngôn ngữ. Tuy vậy, chúng ta thấy có một số kiểu chơi chữ thoát li khỏi sự
biểu hiện trên ngôn bản. Có nghĩa là nó liên quan đến các nhân tố ngoài văn bản . Các
nhân tố đó chính là các tiền giả định liên quan đến văn hóa, văn chương dân gian. Điều
này một lần nữa cho thấy được phạm vi rộng lớn của chơi chữ.
Trong câu đố dân gian, chúng tôi nhận thấy có sự xuất hiện của hầu hết các kiểu
dạng chơi chữ đã trình bày. Tuy nhiên, do đặc trưng bản chất thể loại Folklore rất độc
đáo này cho nên các kiểu dạng chơi chữ xuất hiện với những tần số không đều nhau. Có
những hình thức chơi chữ xuất hiện với tần suất cao, điển hình như chơi chữ bằng cách
sử dụng từ đồng âm, đồng nghĩa, chiết tự…. Bên cạnh đó cũng có những hình thức chơi
chữ xuất hiện với tần suất thấp hoặc không xuất hiện. Điển hình như chơi chữ dựa vào
phương ngữ, tiếng lóng; dựa vào luật thơ và phong cách văn bản; dựa vào cấu trúc văn
bản…. Để thuận lợi cho việc tiếp nhận, chúng tôi tiến hành khảo sát các kiểu dạng chơi
chữ trong câu đố theo từng cấp độ như chúng tôi vừa liệt kê. Điều này sẽ giúp quá trình
tiếp cận nghệ thuật chơi chữ trong câu đố được hệ thống và dễ dàng hơn.
Trang 14