Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC THỰC HIỆN TRONG DẠY HỌC MODULE TIỆN CƠ BẢN CHO HỌC SINH TRUNG CẤP NGHỀ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (736.18 KB, 90 trang )

MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Với sự bùng nổ tri thức khoa học và công nghệ, kinh tế thế giới phát
triển theo hướng toàn cầu hóa, giáo dục đào tạo ngày càng chứng tỏ được vai
trò quan trọng của mình.
Bước sang cơ chế thị trường, định hướng đào tạo hướng cung đã không
còn phù hợp tình hình thực tế. Ngày nay, với quy luật cung - cầu của thị
trường lao động, đào tạo phải hướng tới đáp ứng tối đa được nhu cầu lao động
kỹ thuật của khách hàng về chất lượng, số lượng cũng như cơ cấu ngành nghề
và trình độ, do vậy để tồn tại và phát triển, các trường dạy nghề phải chuyển
sang đào tạo theo "hướng nhu cầu".
Giáo dục nói chung và đào tạo nghề nói riêng không chỉ dừng lại ở việc
tạo ra nguồn nhân lực đáp ứng cho nhu cầu trong nước mà còn là quá trình tạo
ra những sản phẩm mang tính cạnh tranh giữa các cơ sở đào tạo, cung ứng
nhu cầu của thị trường lao động. Để đáp ứng được yêu cầu đó, trong việc dạy
học, thay vì chú trọng truyền thụ kiến thức, cần quan tâm đặc biệt đến phát
triển năng lực của người học, tạo cho người học có khả năng tự chiếm lĩnh tri
thức, có thể tự phát hiện và giải quyết các vấn đề của nghề nghiệp.
Luật dạy nghề nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã chỉ rõ:
“Dạy nghề trình độ trung cấp nghề nhằm trang bị cho người học nghề kiến
thức chuyên môn và năng lực thực hành các công việc của một nghề, có khả
năng làm việc độc lập và tổ chức làm việc theo nhóm; có khả năng sáng tạo,
ứng dụng kỹ thuật, công nghệ vào công việc”.
Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật (KT – KT) Thái Nguyên ( là một
trong những cơ sở đào tạo nguồn nhân lực nghề của xã hội. Do vậy cần
nghiên cứu đề xuất những biện pháp thích hợp để đảm bảo chất lượng đào tạo
nghề cho nhà trường thông qua môn thực hành nghề tiện. Một trong những

1



giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo là triển khai đào tạo theo module và
theo định hướng phát triển năng lực thực hiện ( NLTH ). Tuy nhiên, đối với
đào tạo nghề Tiện, việc thực hiện giải pháp này hiệu quả chưa được như
mong muốn. Với những lý do trên, tôi đã chọn đề tài “Phát triển NLTH
trong dạy học thực hành nghề tiện cho học sinh trung cấp nghề trường Cao
đẳng KT - KT Thái Nguyên.” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đề xuất biện pháp nhằm nâng cao năng lực thực hiện nghề tiện cho học
sinh khoa nghề tại trường cao đẳng kinh KT - KT Thái Nguyên, góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục dạy nghề của nhà trường nói riêng, và đào tạo
nghề nói chung.
III. KHÁCH THỂ, ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1 Khách thể nghiên cứu
Quá trình dạy học module thực hành nghề tiện ( Cắt gọt kim loại )
3.2 Đối tượng nghiên cứu
Lý luận dạy học theo định hướng phát triển năng lực thực hiện nghề
tiện của học sinh, quá trình dạy học module Tiện cơ bản.
3.3 Phạm vi nghiên cứu
Dạy học module tiện cơ bản tại trường Cao đẳng kinh tế – kỹ thuật
Thái Nguyên.
IV. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Nếu thực hiện những biện pháp phù hợp sẽ nâng cao năng lực thực hiện
nghề tiện cho học sinh trường cao đẳng KT - KT Thái nguyên.
V. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Để đạt được mục đích nghiên cứu, đề tài đặt ra một số nhiệm vụ nghiên
cứu cụ thể như sau:

2



- Nghiên cứu thực trạng và những vấn đề lý luận về năng lực thực hiện
của học sinh nghề
- Vận dụng kết quả nghiên cứu ở trên, thiết kế một số bài dạy về
module thực hành nghề tiện.
- Kiểm nghiệm và đánh giá những biện pháp đề ra trong luận văn để
minh chứng cho giả thuyết khoa học và tính khả thi của việc dạy học module
Tiện cơ bản trình độ trung cấp nghề theo định hướng phát triển NLTH cho HS
VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, tác giả đã sử
dụng các nhóm phương pháp sau đây:


Phương pháp nghiên cứu lý thuyết

- Phân tích cơ sở lý luận khoa học làm cơ sở nghiên cứu của đề tài.
- Nghiên cứu nội dung chương trình, giáo trình kỹ thuật tiện
- Nghiên cứu các tài liệu về các phương pháp dạy học, phát triển
năng lực.


Phương pháp nghiên cứu thực tiễn

- Phương pháp phỏng vấn, điều tra để đánh giá thực trạng về dạy học
module Tiện cơ bản và khả năng vận dụng dạy học theo định hướng phát
triển năng lực thực hiện cho người học tại trường Cao đẳng KT - KT Thái
Nguyên.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm nhằm kiểm định các giáo án được
biên soạn theo định hướng phát triển năng lực thực hiện cho người học để
minh chứng cho giả thuyết khoa học được đề ra và tính khả thi của việc thực
hiện dạy học module Tiện cơ bản

- Phương pháp thống kê toán học để xử lý các số liệu khảo sát và
thực nghiệm .

3


VII. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo, phần nội dung
chính của luận văn được cấu trúc gồm các chương:
Chương I: Cơ sở lí luận và thực tiễn về phát triển năng lực thực hiện
module tiện cơ bản ở trường cao đẳng KT – KT Thái Nguyên.
Chương II: Các biện pháp dạy học module thực hành tiện cơ bản theo
định hướng phát triển năng lực thực hiệncho học sinh trường cao đẳng KT –
KT Thái Nguyên.
Chương III: Kiểm nghiệm và đánh giá.

4


CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC DẠY HỌC THEO
ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC THỰC HIỆN
1.1. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC
THỰC HIỆN
1.1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề về dạy học phát triển năng lực thực
hiện ở nước ngoài
Dạy học theo năng lực thực hiện (NLTH) xuất hiện từ những năm 60
của thế kỷ trước. Các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học như
A.Pojoux đã đề cập đến việc tổ chức huấn luyện các kỹ năng thực hành giảng
dạy cho sinh viên (HS) dựa trên cơ sở các thành tựu tâm lý học hành vi và

tâm lý học chức năng [8]. Nhóm “Phi Delta Kapkar” thuộc Đại học StanFort
(Mỹ) đã đưa ra báo cáo “Khoa học và nghệ thuật đào tạo các thầy giáo”, phân
tích công việc của thầy giáo thành các bộ phận, những hành động có thể dạy
và đánh giá được cho người thầy giáo tương lai [10].
Việc phát triển nguồn nhân lực được rất nhiều giới, ngành, các nhà
chính trị, kinh doanh và giáo dục quan tâm nghiên cứu. Điểm trung tâm của
những nỗ lực phát triển nguồn nhân lực được mọi người nhất trí và chú trọng
tập trung vào “học tập và nâng cao chất lượng và hiệu quả thực hiện nhiệm vụ
nghề nghiệp”. Bằng việc chú trọng vào nâng cao chất lượng và hiệu quả thực
hiện nhiệm vụ, tiếp cận dựa trên năng lực là rất phổ biến trên toàn thế giới.
Tiếp cận năng lực được hình thành và phát triển rộng khắp tại Mĩ vào những
năm 1970. Trong phong trào đào tạo và giáo dục các nhà giáo dục và đào tạo
nghề dựa trên việc thực hiện nhiệm vụ, các tiếp cận về năng lực đã phát triển
một cách mạnh mẽ trên một nấc thang mới năm 1990 với hàng loạt các tổ
chức có tầm cỡ quốc gia ở Mĩ, Anh, Úc, New Zealand, Xứ Wales…

5


Vấn đề quan trọng của phát triển các chương trình giáo dục và đào tạo
theo NLTH là cần phải xác định các tiêu chuẩn năng lực từ các đòi hỏi của
hoạt động nghề nghiệp. Chuẩn năng lực được xác định dựa trên kết quả của
phân tích nghề, phân tích chỗ làm việc, các chuẩn mực này là kết quả đầu ra
của quá trình đào tạo. Chính vì vậy nó cũng chính là những mục tiêu dạy học
của chương trình.
Trong đào tạo theo NLTH, các tiêu chuẩn theo kết quả hay đầu ra
(chính là các NLTH) luôn luôn được sử dụng làm cơ sở để lập kế hoạch, thực
hiện và đánh giá quá trình cũng như kết quả học tập. Đào tạo theo năng lực
thực hiện chứa đựng trong đó những yếu tố cải cách, thể hiện ở chỗ nó gắn rất
chặt chẽ với yêu cầu của chỗ làm việc, của người sử dụng lao động, của các

ngành kinh tế (gọi chung là ngành nghề).
Cuối của thế kỷ 20, đào tạo đào tạo theo NLTH đã trở thành một xu thế
phổ biến trong giáo dục nghề nghiệp trên thế giới và được nhiều nhà khoa học
quan tâm. Ở Anh có công trình "Thiết kế đào tạo theo năng lực thực hiện" của
S. Fletcher. Ở Úc có công trình "Thiết kế chương trình đào tạo theo năng lực
thực hiện" của Bruce Markenzie [20]. Tổ chức Lao động thế giới đã khuyến
cáo đào tạo nghề theo "Mô đun kỹ năng hành nghề" (MES), đã biên soạn gần
100 bộ chương trình đào tạo nghề ngắn hạn theo MES, tích hợp giữa lý thuyết
và thực hành, học xong mỗi module, người học được cấp chứng chỉ để hành
nghề [21], và nhiều công trình khác...
1.1.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề về dạy học phát triển năng lực thực
hiện ở trong nước
Khái niệm về đào tạo nghề theo module và NLTH lần đầu tiên được
Viện Khoa học Dạy nghề đề cập đến vào năm 1986. Sau đó, đào tạo nghề
ngắn hạn theo module kỹ năng hành nghề và NLTH đã được một số nhà
khoa học tiếp tục nghiên cứu. Tác giả Nguyễn Minh Đường đã có các công

6


trình: " Module kỹ năng hành nghề - Phương pháp tiếp cận hướng dẫn biên
soạn và áp dụng" (1993) [6], "Phương pháp đào tạo nghề theo module kỹ
năng hành nghề" (1994) [7], "Đào tạo nghề theo NLTH" (2004) [ 8];. Tác
giả Nguyễn Đức Trí đã có các công trình như: "Đào tạo nghề dựa trên
NLTH khái niệm và những đặc trưng cơ bản" (1995) [17]; "Tiếp cận đào
tạo nghề dựa trên năng lực thực hiện và việc xây dựng tiêu chuẩn nghề
(Báo cáo tổng kết đề tài cấp Bộ năm 1996) [18].
Cũng đã có một số luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ nghiên cứu về đào
tạo theo NLTH như: Luận án tiến sĩ "Các giải pháp đổi mới quản lý dạy học
thực hành theo tiếp cận NLTH cho sinh viên sư phạm kỹ thuật" của Nguyễn

Ngọc Hùng (2005) [10]; luận văn thạc sĩ "Đổi mới dạy học thực hành nghề kỹ
thuật điện tại trường Cao đẳng Công nghiệp Dệt may thời trang Hà Nội theo
NLTH" của Vũ Văn Thảo, v.v..
Trong những năm gần đây, việc áp dụng tiếp cận NLTH vào đào tạo
nghề đã tạo ra những chuyển biến tích cực về chất lượng đào tạo, tuy nhiên
qua đó cũng cho thấy đội ngũ giáo viên dạy nghề (GVDN) còn nhiều hạn chế,
bất cập nhất là trong việc thiết kế dạy học.
Kết quả điều tra, khảo sát 180 GVDN của tác giả tại trường cao đẳng
KT – KT Thái Nguyên cho thấy: Việc thiết kế dạy học (soạn giáo án) còn
thiếu tính khoa học, thuần túy dựa trên nội dung dạy học, rất ít giáo viên quan
tâm đến việc xác định đúng mục tiêu dạy học cũng như phân tích dạy học
(chiếm 21,25%). Giáo án chỉ là một tài liệu liệt kê lại dàn bài và nội dung
chính, kèm theo tên phương pháp giảng dạy mà giáo viên (GV) chọn hoặc
cảm thấy nên chọn, không thể hiện được hoạt động học và các tiêu chí phải
đạt được của hoạt động học. Sự phân bố nội dung, thời gian chưa hợp lý nhất
là trong phần hướng dẫn thực hành. Còn một số GV xác định không đúng
mục tiêu dạy học, nhầm lẫn giữa mục tiêu dạy và mục tiêu học, giữa mục tiêu

7


và yêu cầu; chưa nắm vững các phương pháp dạy học (PPDH), nên lựa chọn
phương pháp không phù hợp với nội dung dạy học và đối tượng học (chiếm
27,5 %).
Như vậy, có thể thấy dạy học theo NLTH ở nước ta chưa được phổ biến
sâu rộng trong các trường dạy nghề, các học phần, module trong đào tạo nghề
vẫn còn gặp khó khăn. Đó cũng là lí do tác giả lựa chọn đề tài nghiên cứu về
dạy học module thực hành tiện cơ bản theo NLTH.
1.1.3. Giáo dục dạy nghề
Hoạt động giáo dục là một bộ phận của đời sống xã hội. Từ khi xã hội

loài

người xuất hiện, các thế hệ loài người đã gắn bó, kết hợp với nhau

trong tất cả các lĩnh vực hoạt động sáng tạo : trong kinh tế, văn hoá, chính trị
và giáo dục…Hoạt động giáo dục (dạy học và giáo dục) luôn luôn phát triển
và không ngừng đổi mới, nâng cao dần cùng với sự phát triển và tiến bộ của
xã hội loài người. Theo tổng kết của UNESCO, trong hơn 50 năm qua giáo
dục “ đã có thể trở thành nhân tố then chốt của phát triển bằng cách thực hiện
ba chức năng kinh tế, khoa học và văn hoá” mà cụ thể là đào tạo đội ngũ lao
động lành nghề, đội ngũ các nhà trí thức tham gia có hiệu quả vào cuộc “cách
mạng trí tuệ” – động lực của các ngành kinh tế; đào tạo nên các thế hệ công
dân “bắt rễ trong chính nền văn hoá của họ và có ý thức hội nhập với các nền
văn hoá khác vì sự tiến bộ của xã hội nói chung”. Mặt khác, giáo dục luôn
không ngừng thích nghi với những thay đổi của xã hội; đồng thời thực hiện sứ
mệnh chuyển giao những thành tựu văn hoá của xã hội loài người từ thế hệ
này đến thế hệ khác, từ thế hệ trước đến thế hệ sau.
Trong giai đoạn hiện nay, đất nước ta đã gia nhập WTO thì việc nâng
cao chất lượng đào tạo nói chung và đào tạo nghề nói riêng là mục tiêu hàng
đầu của ngành giáo dục, các tổ chức, các cơ sở đào tạo và tiến tới nâng cao vị
thế của mình trong xã hội.

8


Giáo dục nói chung và đào tạo nghề nói riêng không chỉ dừng lại ở việc
tạo ra nguồn nhân lực đáp ứng cho nhu cầu trong nước mà nó còn là quá trình
tạo ra những sản phẩm mang tính cạnh tranh giữa các cơ sở đào tạo, cung ứng
nhu cầu của thị trường lao động.
1.1.4. Nhu cầu đào tạo nghề

Việt Nam đang hướng tới mục tiêu trở thành nước công nghiệp hóa vào
năm 2020. Đào tạo nghề (TVET) đóng vai trò trung tâm trong mục tiêu này:
nhu cầu về lao động lành nghề tăng đều đặn do nền kinh tế của đất nước đang
tiếp tục tăng trưởng và yêu cầu tăng khả năng cạnh tranh trong khu vực và
trên toàn cầu. Hiện tại, Việt Nam còn thiếu công nhân lành nghề và kỹ thuật
viên được đào tạo thực tế, mặc dù có khoảng 1,4 triệu người gia nhập thị
trường lao động mỗi năm. Chỉ khoảng 27% lao động hiện đang được đào tạo
phù hợp với công việc họ đảm nhiệm, trong khi chỉ 15% đã hoàn thành đào
tạo nghề chính thức. Do đó, Chính phủ Việt Nam đã coi hoạt động đào tạo
nghề và thúc đẩy việc làm là trọng tâm trong các mục tiêu phát triển. Theo kế
hoạch, đến năm 2020, số lượng công nhân lành nghề được đào tạo sẽ chiếm
55% lực lượng lao động, so với con số hiện tại là 30%, và 30% hiện tại này sẽ
hoàn thành thành công chương trình đào tạo nghề trung hoặc cao cấp. Đồng
thời, với mong muốn điều chỉnh hoạt động đào tạo nghề cho phù hợp với nhu
cầu của cộng đồng doanh nghiệp, vì vậy chính phủ đang thúc đẩy việc mở
rộng đào tạo nghề và cải tiến chất lượng đào tạo theo định hướng nhu cầu.
Nhiệm vụ của nhà trường là: Đào tạo nguồn nhân lực kỹ thuật chất
lượng cao, đáp ứng được những đòi hỏi khắt khe của thị trường lao động
trong và ngoài nước, nhằm thoả mãn nhu cầu học nghề gắn với việc làm của
người dân và phát triển của cộng đồng; Thực hiện nghiên cứu ứng dụng,
chuyển giao tiến bộ KHCN, hội nhập khu vực và quốc tế. Góp phần vào sự
phát triển kinh tế xã hội của địa phương và sự nghiệp CNH – HĐH đất nước.

9


1.1.5. Hoạt động học và tâm lý của học sinh nghề
Để chọn được một nghề không chỉ phù hợp với năng lực, sở trường của
bản thân mà còn đáp ứng được các yêu cầu của nghề và thị trường lao động
không phải là một chuyện đơn giản, nhất là với những bạn trẻ còn đang ngồi

trên ghế nhà trường với vốn hiểu biết còn hạn chế. Thực tế thời gian qua cho
thấy, việc chọn nghề của học sinh trung học phổ thông còn nhiều bất cập,
nhiều em có quan niệm chỉ chọn nghề được đào tạo ở bậc học đại học, bởi đó
là con đường duy nhất để thành công, có địa vị cao trong xã hội. Số khác lại
lấy sự đánh giá, phán xét thiếu căn cứ của dư luận xã hội để lựa chọn nghề mà
không cần quan tâm mình có phù hợp với nghề đó hay không. Vậy đâu là
nguyên nhân của hiện trạng này? Biện pháp nào có thể cải thiện được thực
trạng đó? Câu trả lời chỉ có thể có lời giải khi chúng ta tìm hiểu và phân tích
những đặc điểm tâm lý đã điều khiển họat động chọn nghề của học sinh trong
mối liên quan tới các yếu tố ảnh hưởng khác như gia đình, nhà trường, xã hội.
Vì thế, việc nghiên cứu về các đặc điểm tâm lý trong họat động chọn nghề
của học sinh và đề xuất những biện pháp tác động tâm lý tới họat động này là
một việc làm cấp bách và cần thiết không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà
còn có ý nghĩa thiết thực trong việc tổ chức các họat động hướng nghiệp cho
học sinh trung học phổ thông , giúp các em lựa chọn được nghề, đáp ứng
được nhu cầu, nguyện vọng, năng lực của bản thân và nhu cầu của thị trường
lao động.
Phần lớn sinh viên học nghề là các em không đỗ trong kỳ thi đại
học, không đi học trong một vài năm, đi học do gia đình yêu cầu. Ngoài ra do
còn mang tâm lý học nghề nên nhiều sinh viên còn chưa chú tâm vào việc học
tập. Do vậy việc đảm bảo đào tạo cho ra chất lượng đồng đều là một thách
thức không nhỏ cho cơ sở đào tạo.

10


1.2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.2.1. Năng lực
Năng lực chung là năng lực có ở mọi người bình thường. Bất kỳ một
con người mạnh khỏe nào đều có năng lực chung nhưng mức độ khác nhau.

Đó là năng lực trí tuệ (trí năng, trí thông minh).
Năng lực chuyên biệt là sự thể hiện độc đáo các phẩm chất riêng biệt,
có tính kỹ thuật chuyên môn, nhằm đáp ứng yêu cầu của lĩnh vực hoạt động
chuyên biệt có kết quả cao
Tuy nhiên, năng lực mới chỉ là “tiềm năng” của mỗi người,
được hình dung một cách khái quát chung chung mà chưa được thể hiện
bằng những hành động cụ thể, do vậy cũng chưa thể hiện được trình độ của
năng lực. Để thể hiện được năng lực này, cần được minh chứng bằng
những hoạt động cụ thể.
Trong từ điển Giáo dục học, năng lực được hiểu là: “Khả năng được
hình thành và phát triển, cho phép một con người đạt thành công trong một
hoạt động về thể lực, trí lực hoạt động nghề nghiệp”.
Năng lực là khả năng vận dụng các kiến thức kỹ năng và thái độ vào
thực hiện một công việc có hiệu quả trong những điều kiện nhất định. Năng
lực chính là khả năng mỗi cá nhân có sự phù hợp giữa một tổ hợp các thuộc
tính tâm lý với yêu cầu của một hoạt động nhất định để hoạt động có kết quả.
Mỗi một cá nhân có những khả năng ở mức độ khác nhau. Tuy nhiên theo
quan niệm đào tạo năng lực thì mọi người học nghề đều có thể đạt đến một
trình độ thông thạo cho một nghề nhất định. Do đó trong đào tạo nghề cần tạo
mọi điều kiện về sư phạm và cơ sở vật chất để người học nghề đạt được yêu
cầu của nơi sử dụng lao động.
Năng lực của người lao động kĩ thuật thể hiện ở sự hiểu biết công việc
nghề nghiệp và kết quả thực hiện, hoạt động trong nghề nghiệp đảm bảo

11


chuẩn định mức ở các mức độ khác nhau. Năng lực ấy biểu hiện bằng năng
suất đã và đang thực hiện trong nghề nghiệp hoặc tiềm ẩn trong con người lao
động để có thể sử dụng trong tương lai. Vì vậy năng lực nghề nghiệp được

cấu thành từ kiến thức, kỹ năng, thái độ và thói quen làm việc.
Theo tác giả Nguyễn Trọng Khanh: Một cách khái quát, có thể hiểu
năng lực là phẩm chất tâm lý và sinh lý của con người đảm bảo thực hiện
được một hoạt động nào đó [12, tr 7].
Như vậy có thể thấy việc định nghĩa khái niệm năng lực không hề đơn
giản. Tuy nhiên, có thể hiểu năng lực là tổng hợp các kiến thức, kĩ năng, thái
độ đủ để thực hiện một nhiệm vụ, một hoạt động nào đó đạt được kết quả.
1.2.2. Năng lực thực hiện
Khái niệm về năng lực thực hiện: Năng lực thực hiện (NLTH) là một
thuật ngữ được dùng trong đào tạo, đặc biệt là trong đào tạo nghề. “Năng lực
thực hiện” hay “Năng lực hành nghề” trong một số tài liệu tiếng Việt hiện nay
được dịch từ thuật ngữ tiếng Anh là “Competency”

hoặc tiếng Đức

((Handlungskompetenz) Có nhiều khái niệm khác nhau về NLTH.
NLTH đề cập đến nhóm các kỹ năng, kiến thức được áp dụng để thực
hiện một nhiệm vụ hoặc chức năng, phù hợp với các yêu cầu công việc (Anh)
NLTH còn được hiểu là khả năng thực hiện được các nhiệm vụ hoặc
công việc cụ thể của một nghề theo tiêu chuẩn mong đợi (Úc)
NLTH bao gồm năng lực chuyên môn, năng lực Phương pháp, năng lực
xã hội, năng lực cá nhân và được hình thành trên cơ sở kiến thức, kỹ năng ,
thái độ (Đức)
NLTH được coi như là sự tích hợp của kiến thức – kỹ năng – thái độ
làm thành khả năng thực hiện một công việc sản xuất và được thể hiện trong
thực tiễn sản xuất.

12



Không chỉ là kỹ năng tâm lý vận động hay là kỹ năng lao động tay
chân, những kỹ năng trí tuệ cũng là thành phần kỹ năng tạo nên năng lực thực
hiện. Chẳng hạn kỹ năng nhận biết, kỹ năng phán đoán, kỹ năng xử lý và giải
quyết vấn đề, kỹ năng ra quyết định v.v... Tùy theo loại năng lực cần hình
thành mà thành phần kỹ năng được nhận diện có thể khác nhau. [3]
Ở Việt Nam, khi nghiên cứu về đào tạo nghề theo NLTH cũng có các
định nghĩa khác nhau:
- Theo Nguyễn Đức Trí: NLTH liên quan đến nhiều mặt, nhiều thành
tố cơ bản tạo nên nhân cách con người, nó thể hiện sự phù hợp ở mức độ
nhất định của những thuộc tính tâm, sinh lý cá nhân với một hay một số hoạt
động nào. Nhờ có sự phù hợp như vậy mà con người thực hiện có kết quả các
hoạt động ấy. Chỉ thông qua sự thực hiện có kết quả, người khác mới có
thể công nhận người đó có năng lực về hoạt động ấy. [17]
- Theo Nguyễn Minh Đường: NLTH là những kiến thức, kỹ năng và
thái độ cần thiết mà người lao động cần phải có để có thể thực hiện một công
việc hoặc một nhiệm vụ của nghề đạt chuẩn quy định trong những điều kiện cho
trước. [8]
Như vậy, NLTH có cấu trúc 3 thành tố là: “kiến thức, kỹ năng và thái
độ” có liên quan mật thiết với nhau để có thể “thực hiện một công việc cụ thể
của một nghề”. Chính vì vậy mà nó được gọi là “Năng lực thực hiện”. NLTH
một công việc của nghề có nhiều mức trình độ khác nhau tùy thuộc vào yêu
cầu của sản xuất và trình độ nghề nghiệp của người lao động. Để khẳng định
mức trình độ này, NLTH được đánh giá theo “Chuẩn quy định cho mỗi công
việc cụ thể” của nghề. Để đào tạo đáp ứng được yêu cầu của sản xuất, chuẩn
này cần được căn cứ vào yêu cầu của sản xuất. Mặt khác, để thực hiện được
công việc đạt chuẩn quy định, người lao động cần có những điều kiện cần
thiết như máy móc, công cụ, vật liệu và các điều kiện lao động như ánh sáng,
vệ sinh, môi trường,…

13



NLTH hiểu theo cách này, thể hiện rõ mối quan hệ giữa các yếu tố
nhân cách tạo nên NLTH để cấu trúc chương trình đào tạo theo NLTH cũng
như phương pháp đánh giá kết quả học tập theo tiêu chuẩn của nghề nghiệp.
* NLTH trong đào tạo nghề là khả năng thực hiện được các hoạt động
(nhiệm vụ, công việc) trong nghề theo tiêu chuẩn đặt ra đối với từng nhiệm
vụ, công việc đó. NLTH là tổ hợp các kỹ năng, kiến thức, thái độ đòi hỏi đối
với một người để thực hiện hoạt động có kết quả ở một công việc hay một
nghề nhất định.
1.3. DẠY HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC
THỰC HIỆN
1.3.1. Bản chất của quá trình dạy học
* Quá trình dạy học là quá trình nhận thức
Quá trình dạy học là quá trình nhận thức được tổ chức một cách đặc
biệt. Mục đích của dạy học là giúp HS lĩnh hội được những kinh nghiệm xã
hội mà loài người đã tích lũy được qua nhiều thế kỉ. Quá trình nhận thức học
tập có những điểm đáng lưu ý sau.
- Sự phản ánh các hiện tượng thực tiễn một cách tích cực và chọn lọc.
- Sự phản ánh của con người mang tính vượt trước.
- Cơ chế của quá trình nhận thức tuân theo công thức nhận thức luận
nổi tiếng của Lênin: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy
trừu tượng đến thực tiễn, đó là con đường biện chứng của nhận thức chân lí,
nhận thức hiện thực khách quan” [Bút kí triết học].
- Quá trình vận động từ không có kiến thức đến có kiến thức là một quá
trình vận động biện chứng đầy mâu thuẫn.
* Quá trình dạy học là quá trình tâm lí
Trong những năm gần đây, tâm lí học đã có sự chú ý lớn tới “Dạy học
phát triển” và đã đưa ra các kết luận sau đây:


14


- Dạy học phải đi trước sự phát triển. Dạy học phải tiến hành trong điều
kiện dự kiến được mức độ phát triển của học sinh cao hơn hiện tại. Dạy học
không bị động chờ sự phát triển, mà ngược lại thúc đẩy sự phát triển các chức
năng tâm lí. L.X.Vưgôtxki đã nhận định: “Dạy học chỉ tốt khi đi trước sự phát
triển”. Việc dạy học phải “Khêu gợi hàng loạt các chức năng đang ở giai đoạn
chín muồi, nằm trong vùng phát triển gần nhất…”
- Quá trình phát triển không diễn ra như nhau mà mỗi lứa tuổi có một
hoạt động chủ đạo tương ứng.
- Vấn đề phát triển động cơ học tập có ý nghĩa rất quan trọng đến hiệu
quả của quá trình dạy học.
- Phát triển hứng thú nhận thức cũng là một vấn đề rất quan trọng vì
nó tác động trực tiếp tới kết quả học tập, nó diễn ra ngay trong quá trình
nhận thức và là điều mà thầy giáo có thể điều khiển trực tiếp trong quá
trình dạy học.
* Quá trình dạy học là quá trình xã hội
Thể hiện ở các điểm sau:
- Mục đích dạy học do xã hội đặt ra.
- Dạy học là sự tương tác giữa người với người.
- Phương tiện dạy học là hệ thống kinh nghiệm xã hội mà loài người đã
tích lũy được.
- Điều khiển quá trình dạy học là thầy giáo – Người đại diện do xã hội
phân công làm nhiệm vụ đào tạo thế hệ trẻ [12, tr 2].
1.3.2. Đặc điểm dạy học theo định hướng phát triển năng lực thực hiện
a) Các năng lực thực hiện phải được xác định từ yêu cầu sản xuất và
công bố trước cho người học
Điều này có nghĩa khi xây dựng chương trình đào tạo nghề theo NLTH
cần xác định chuẩn đầu ra của các chương trình đào tạo để xác định mục tiêu


15


đào tạo của các nghề theo yêu cầu của sản xuất. Để làm được điều này, chương
trình đào tạo cần được tiến hành theo phương pháp phân tích nghề để xác định
được các NLTH các công việc của từng nghề theo yêu cầu của thị trường lao
động. Nguyên tắc này cũng nói lên rằng chương trình đào tạo cần được thường
xuyên cải tiến để đáp ứng được yêu cầu của sản xuất luôn phát triển.
Mục tiêu đào tạo của mỗi nghề hay chuẩn đầu ra của chương trình đào
tạo cần được công bố với người học và người sử dụng lao động trước khi tiến
hành thực hiện các khóa đào tạo. Đây là một yêu cầu bức thiết để đào tạo đáp
ứng yêu cầu xã hội [19, tr 19].
b) Các tiêu chí, chuẩn đánh giá và điều kiện thực hiện phải được
công bố công khai trước cho người học
Vấn đề này đòi hỏi người dạy phải công bố rõ ràng, cụ thể mục tiêu của
bài học và các tiêu chí đánh giá kết quả học tập cũng như các điều kiện cần
thiết cho người học trước khi thực hiện quá trình dạy học để người học có
định hướng rõ ràng mục tiêu cần đạt và phấn đấu để đạt được trong quá trình
học tập.
Điều đó có nghĩa là phải cho người học biết cụ thể và chính xác những
năng lực nào họ cần đạt, đạt tới chuẩn nào, trong điều kiện nào và kết thúc mỗi
bài học sẽ được đánh giá như thế nào để họ không bị động mà ngược lại, có thể
phát huy được tính tích cực, chủ động và sáng tạo trong quá trình học tập để đạt
kết quả mong muốn. Việc thực hiện nguyên tắc cơ bản này đòi hỏi GV phải đổi
mới phương pháp dạy, đặc biệt là phương pháp đánh giá, không được đánh giá
theo phương pháp truyền thống không theo chuẩn hoặc dựa vào chuẩn tương
đối, so sánh thành tích giữa những người học với nhau. Thay vào đó, phải đánh
giá theo tiêu chí và chuẩn NLTH từng công việc của nghề [19, tr 19].


16


c) Học thành thạo từng năng lực thực hiện trước khi chuyển qua
học năng lực thực hiện khác
Bản chất của dạy và học theo NLTH là học đến đâu thành thạo công
việc đến đó, không phải học theo kiểu "cưỡi ngựa xem hoa". Điều này đòi hỏi
GV phải học thực hiện từng công việc một, thực hiện cho đến khi có năng lực
làm thành thạo công việc đó đạt chuẩn quy định, nếu chưa thành thạo thì chưa
chuyển sang học công việc khác. Như vậy, sau khi học hết chương trình khóa
học người học sẽ có khả năng thực hiện thành thạo mọi công việc của nghề để
có thể tìm được việc làm.
Nguyên tắc này cũng đòi hỏi phải thay đổi chương trình đào tạo từ cấu
trúc môn học sang cấu trúc module theo NLTH từng nhiệm vụ, từng công
việc của nghề. Mặt khác, dạy học cũng phải chuyển từ dạy học theo môn học
sang dạy học theo NLTH từng công việc của nghề.
d) Quan tâm đến kết quả cuối cùng, ít quan tâm đến thời gian
Trong dạy học theo NLTH, người ta quan tâm đến kết quả mà người
học cần đạt được, kết quả cuối cùng là năng lực cần thiết mà mà người học
cần có để làm thành thạo từng công việc của nghề. Tùy thuộc vào điều kiện
dạy học và năng lực của người học mà thời gian dạy học để người học thành
thạo công việc có thể thay đổi cho phù hợp. Thời gian học tập cho từng công
việc được thiết kế ban đầu chỉ mang tính kế hoạch, tùy thuộc điều kiện cụ thể
của từng lớp học, thời gian dạy học từng NLTH có thể thay đổi cho phù hợp.
e) Tạo điều kiện cho người học học theo nhịp độ riêng và bảo đảm
các điều kiện cần thiết để thực hiện các công việc
Nguyên tắc này đề ra yêu cầu đối với dạy nghề là mỗi người học cần có
đủ phương tiện, thiết bị cần thiết để có thể học tập, đặc biệt là để thực hiện
từng công việc của nghề cho đến khi thành thạo. Nói một cách khác, dạy nghề
không thể "dạy chay". Nguyên tắc cơ bản này cũng đòi hỏi phải phân hóa

trong dạy học, dạy học theo nhóm nhỏ và tiến tới cá thể hóa trong dạy học.

17


f) Đánh giá kết quả học tập theo NLTH
Nguyên tắc này đòi hỏi dạy học theo NLTH phải đánh giá kết quả học
tập theo chuẩn NLTH, không thể đánh giá theo phương pháp truyền thống: Lý
thuyết tách rời thực hành và thái độ, không có chuẩn cụ thể, rõ ràng. Nói một
cách khác, dạy học theo NLTH đòi hỏi phải đổi mới cách đánh giá.
1.3.3. Tiến trình dạy học theo định hướng phát triển năng lực thực
hiện
Tiến trình dạy học định hướng phát triển NLTH có thể coi là một tên
gọi khác hay một mô hình cụ thể hóa của chương trình định hướng kết quả
đầu ra, một công cụ để thực hiện giáo dục định hướng điều khiển đầu ra.
Trong chương trình dạy học định hướng phát triển năng lực, mục tiêu dạy học
được mô tả thông qua các năng lực cần hình thành. Ở mỗi nội dung của môn
học, mỗi nội dung và hoạt động cơ bản được liên kết với nhau nhằm hình
thành các năng lực cho người học. Để mô tả năng lực người học, người ta
thường dùng các động từ chỉ hành động như: phân biệt, giải thích, phân tích,
vận dụng, xây dựng, …
Việc dạy học định hướng phát triển năng lực đòi hỏi những điều kiện thích
hợp về phương tiện, cơ sở vật chất và tổ chức dạy học, điều kiện vể tổ chức, quản
lý, nhân lực cũng như những nhận thức của người dạy và người học, …
Dạy học không chỉ đơn thuần là cung cấp cho người học những tri thức
và kinh nghiệm xã hội mà loài người đã tích lũy được, mà phải góp phần tích
cực vào việc hình thành và phát triển nhân cách theo mục tiêu đào tạo. Người
học càng được tham gia tích cực, chủ động vào các hoạt động học tập thì các
phẩm chất và năng lực của cá nhân càng sớm được hình thành, phát triển và
hoàn thiện.

Phẩm chất và năng lực là hai bộ phận cấu thành nhân cách của mỗi
người. Phẩm chất liên hệ với hệ thống các thuộc tính tâm lý biểu hiện các mối

18


quan hệ xã hội cụ thể của một con người, thường được biểu hiện ở những cảm
xúc, thái độ và hành vi ứng xử. Còn NLTH liên hệ với hệ thống những thuộc
tính tâm lý, sinh lý tạo cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động
nào đó với chất lượng cao. Phẩm chất và NLTH hoà quyện với nhau, chi phối
lẫn nhau. NLTH bao giờ cũng bộc lộ trong hoạt động và gắn liền với một số
kĩ năng tương ứng. NLTH có tính tổng hợp, khái quát, còn kĩ năng có tính cụ
thể, riêng lẻ.
Dạy học định hướng phát triển năng lực cho người học trước hết cần
bắt đầu từ việc soạn giáo án (thiết kế bài dạy) theo định hướng phát triển năng
lực người học. Khi thiết kế bài dạy, cần theo các bước sau:
Bước 1: Xác định mục tiêu
Mục tiêu giáo dục không chỉ giới hạn trong việc truyền thụ hệ thống tri
thức chuyên môn mà nhằm phát triển toàn diện nhân cách của người học,
thông qua việc phát triển các năng lực cho người học.
Trong việc soạn giáo án, ngoài việc xác định các mục tiêu dạy học theo
chuẩn kiến thức, kĩ năng và yêu cầu về thái độ trong chương trình; GV cần
chú ý xác định mục tiêu phát triển năng lực một cách rõ ràng, có thể đạt được
và có thể kiểm tra đánh giá được.
Do đó, khi mô tả mục tiêu dạy học của bài học cần xác định mục tiêu
kiến thức, kĩ năng và mục tiêu năng lực thực hiện của bài học đó.
Ví dụ: Mục tiêu bài 02 : Tiện trụ trơn
- Mục tiêu kiến thức, kĩ năng:
+ Trình bày được phương pháp tiện trụ trơn
+ Thực hiện được các thao động tác tiện trụ trơn

- Mục tiêu năng lực thực hiện:
+ Nhận biết được các kích thước của chi tiết qua bản vẽ.
+ Tính toán chế độ cắt phù hợp với yêu cầu của chi tiết gia công.

19


+ Gá phôi, dao chắc chắn tiếp xúc tốt.
+ Hình thành chi tiết gia công đảm bảo đúng kích thước, độ nhẵn bóng
bề mặt
Bước 2: Chuẩn bị của giáo viên và người học
Dạy học theo định hướng phát triển năng lực cho người học đòi hỏi sự
chuẩn bị kĩ càng của cả GV và người học. Trong mỗi bài dạy, GV cần nghiên
cứu nội dung bài học và tham khảo thông tin có liên quan tới nội dung bài học
trong các tài liệu tham khảo. Bên cạnh đó, GV cần khai thác, lựa chọn, cập
nhật các thông tin trên mạng có liên quan đến nội dung bài học. Ngoài ra, GV
cần giao nhiệm vụ cho người học (từ tiết học trước) để họ có một tâm thế tiếp
thu bài học tốt khi đã có sự chuẩn bị ở nhà.
Đặc biệt, GV cần chuẩn bị những phương tiện dạy học phù hợp với nội
dung bài dạy. trước khi giảng dạy cần chuẩn bị chu đáo, làm thử để nắm chắc
các thao tác, qui trình công nghệ. Tích cực tham gia tự làm các thiết bị dạy
học như các mô hình vật thật, các loại đồ gá …
Việc chuẩn bị đầy đủ các phương tiện dạy học giúp người học hiểu rõ
hơn về bản chất của mọi khái niệm trừu tượng, là cơ sở khoa học minh chứng
có sức thuyết phục, là sự vật trực quan sinh động nhất, giúp việc học trở nên
nhẹ nhàng, hiệu quả... Những phương tiện dạy học thường dùng trong dạy học
môn module tiện cơ bản như: Hình vẽ, mô hình (là phương tiện thay thế đối
tượng thực, thông qua đó giúp người học dễ dàng nhận thức được đặc điểm,
bản chất của đối tượng nghiên cứu); vật thật (dụng cụ, đồ dùng, chi tiết máy,
các máy móc, thiết bị kĩ thuật trong dạy thực hành, …), các phương tiện kĩ

thuật dạy học (máy chiếu đa phương tiện, máy vi tính, …).
Để tăng cường cơ sở vật chất cho môn học, GV bộ môn Tiện có thể đề
xuất mua một số thiết bị dạy học để phục vụ cho bài dạy như máy quay phim,

20


máy ảnh hoặc khuyến khích người học tham khảo một số thiết bị, hình ảnh
trên mạng …
Ví dụ: Trong các bài của module tiện cơ bản có những bài phải nhìn
hình ảnh thực tế thì HS mới có thể hình dung được. Chẳng hạn bài tiện trụ
trơn dài gá trên hai đầu chống tâm, để hiện hiện bài này cần phải gá kẹp
phức tạp, nếu chỉ học bằng lý thuyết và bắt HS phải thực hiện thì rất khó vì
vậy cần có những thiết bị dạy học hỗ trợ.
Bước 3: Thiết kế các hoạt động dạy và học
Việc thiết kế các hoạt động dạy và học phù hợp với kiến thức đã có,
động lực và mức độ quan tâm của HS bằng cách lựa chọn nội dung và
PPDH một cách khoa học và hợp lí. Bên cạnh đó, cần sử dụng các phương
tiện và thiết bị dạy học phù hợp với từng hoạt động học tập nhằm phát triển
NLTH cho HS.
PPDH theo quan điểm phát triển NLTH không chỉ chú ý tích cực hoá
HS về hoạt động trí tuệ mà còn chú ý rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề
gắn với những tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp, đồng thời gắn hoạt
động trí tuệ với hoạt động thực hành, thực tiễn. Tăng cường việc học tập trong
nhóm, đổi mới quan hệ GV và HS theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan trọng
nhằm phát triển năng lực xã hội. Bên cạnh việc học tập những tri thức và kĩ
năng riêng lẻ của các môn học chuyên môn cần bổ sung các chủ đề học tập
phức hợp nhằm phát triển năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp.
Trong hệ thống các PPDH quen thuộc hiện nay, có nhiều phương pháp
tích cực. Về hoạt động nhận thức, các phương pháp thực hành là “tích cực”

hơn phương pháp trực quan, còn các phương pháp trực quan thì lại “tích cực”
hơn các phương pháp dùng lời. Bởi vậy, trong các bài dạy, GV nên sử dụng
các PPDH tích cực như: PPDH trực quan, PPDH nêu vấn đề, PPDH nhóm,….
Có thể khẳng định rằng: Muốn thực hiện dạy học phát triển NLTH cho người

21


học thì không thể chỉ áp dụng một PPDH tích cực cụ thể nào đó mà cần kết
hợp và khai thác những lợi thế, ưu điểm của nhiều PPDH khác nhau.
1.3.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới dạy học theo định hướng phát triển
năng lực thực hiện
a) Chương trình dạy học:
Theo Tery Kernaghan, module là một phần của chương trình đào tạo, tập
trung vào một nhóm kiến thức, kỹ năng và thái độ có những đặc điểm chung [6].
Chương trình đào tạo theo NLTH là dạy hoàn thành từng công việc và
từng nhiệm vụ của nghề. Do vậy yêu cầu tiên quyết là nội dung đào tạo phải
được cấu trúc thành từng module tích hợp giữa lý thuyết và thực hành nghề,
không xây dựng theo các môn học truyền thống bao hàm quá nhiều kiến thức
lý thuyết riêng biệt và tách rời thực hành mà phải được cấu trúc thành module
tích hợp giữa lý thuyết và thực hành.
Chương trình đào tạo cần được thiết kế sao cho kiến thức lý thuyết vừa
đủ và liên quan với thực hành nghề ngay sau đó. Chỉ có như vậy mới có thể
đáp ứng được các mục tiêu của dạy học theo NLTH.
Phần thực hành nghề cần xác định rõ từng bước thực hiện, cách thực
hiện và các chuẩn cần đạt theo yêu cầu của sản xuất. Cuối cùng, khi kết thúc
phần thực hành, cần có khâu kiểm tra đánh giá người học nhằm xác định
NLTH của họ qua đó đúc rút được kinh nghiệm cần thiết và có biện pháp điều
chỉnh kịp thời.
b) Con người:

Dạy học theo NLTH đòi hỏi GV phải có trình độ chuyên môn sâu
rộng, có kỹ năng thực hành, năng lực sư phạm để có thể vừa dạy lý thuyết
vừa dạy thực hành. GV một mặt phải nắm vững nội dung khoa học của
module, mặt khác phải có kỹ năng nghề nghiệp cao đồng thời có khả năng sử
dụng các phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực và có khả năng tổ chức

22


quá trình dạy học, tổ chức các hoạt động học tập của người học một cách có
hiệu quả.
Với chương trình đào tạo được thiết kế tiếp cận NLTH, GV cần nắm
vững PPDH theo NLTH để thực hiện tổ chức dạy học có hiệu quả.
Thực tế, đội ngũ GV dạy nghề ở hầu hết các trường từ trước tới nay đều
quen với PPDH theo chương trình đào tạo truyền thống cấu trúc theo các môn học
lý thuyết và thực hành tách riêng, họ đảm nhiệm hoặc dạy lý thuyết, hoặc dạy thực
hành. Số GV vừa dạy được cả lý thuyết và thực hành còn ít. Đó là một khó khăn
để thực hiện dạy tích hợp theo NLTH. Bởi muốn tổ chức quá trình dạy học theo
NLTH GV cần được bồi dưỡng để vừa có thể dạy lý thuyết vừa dạy thực hành
theo NLTH.
c) Phương tiện và cơ sở vật chất:
Trong dạy học theo NLTH, điều kiện phương tiện, trang thiết bị dạy
học là yếu tố rất quan trọng, không thể thiếu để người học có thể học theo
NLTH và góp phần nâng cao chất lượng dạy học.
Với mỗi nội dung của môn học, GV sẽ sử dụng các phương tiện và
trang bị dạy học cần thiết để thực hiện kế hoạch, nội dung bài giảng cho HS
tiếp thu và luyện tập. Nhờ có phương tiện dạy học, nội dung bài giảng cho
HS sẽ được tiếp thu và luyện tập. Nhờ có phương tiện và trang thiết bị dạy
học tốt mà các nội dung tri thức trở lên sáng rõ, các thao, động tác khó, phức
tạp sẽ được phân tích thành các cử động đơn giản dễ thực hiện. Mặt khác,

phương tiện, trang thiết bị dạy học còn là điều kiện về cơ sở vật chất cho HS
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập, rèn luyện kỹ năng
và nhanh thích ứng với các phương tiện trang thiết bị khoa học - công nghệ
hiện đại của thực tế.
Ngày nay, sự phát triển nhanh chóng của khoa học - công nghệ tiên
tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin làm cho con người tạo ra được khá nhiều

23


phương tiện và phần mềm dạy học. Từ những thiết bị đơn chiếc dần từng
bước phát triển đa dạng thành môi trường phương tiện dạy học. Môi trường
phương tiện dạy học hỗ trợ quá trình dạy học ngày càng có chất lượng hơn,
cho phép con người sớm đạt được tiêu chuẩn dạy học và mục tiêu đào tạo. Vì
vậy, việc khai thác, sử dụng phương tiện trang thiết bị dạy học không chỉ là
nhiệm vụ, yêu cầu trong dạy học kỹ thuật chuyên ngành mà nó còn là điều
kiện không thể thiếu được nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học.
1.4. THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH DẠY HỌC MODULE THỰC
HÀNH NGHỀ TIỆN TRƯỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ - KỸ THUẬT
THÁI NGUYÊN
1.4.1. Sơ lược về quá trình dạy học module Tiện cơ bản
- Module Tiện cơ bản là môn học trong chương trình đào tạo cho các
HS chuyên ngành tiện ( Cắt gọt kim loại ). HS được học module sau khi được
học các môn học cơ sở như vẽ kĩ thuật, cơ kĩ thuật, vật liệu cơ khí…Trước
đây HS được học hết tất cả các phần lý thuyết trước, sau đó mới đến các môn
học thực hành để HS rèn luyện các thao tác vật chất và kiểm chứng những nội
dung lí thuyết đã được học từ rất lâu. Do vậy khi học đến phần thực hành thì
HS đã quên rất nhiều kiến thức lí thuyết nên GV lại phải giảng lại. Điều đó
khiến thời lượng dành cho HS thực hành rèn luyện kĩ năng đã bị giảm.
- Đội ngũ GV dạy học: Đội ngũ GV bộ môn Cắt gọt có một số đặc

điểm như là một số GV dạy lâu năm, có kinh nghiệm nhưng không thành thạo
và ngại sử dụng các phương tiện kĩ thuật hiện đại. Ngược lại, một số GV trẻ,
có khả năng ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học, khá tích cực nhưng
lại thiếu kinh nghiệm giảng dạy.
Về phương pháp, hình thức tổ chức dạy học: Nhìn chung tất cả GV đều
vẫn còn lúng túng trong việc đổi mới PPDH, phần lí thuyết vẫn còn dạy theo
kiểu truyền thống. Đổi mới PPDH mới dừng lại ở tiết giảng có trình chiếu

24


Powpoint, các khái niệm, thuật ngữ về PPDH tích cực, tình huống có vấn đề
(THCVĐ), bài toán kĩ thuật,… chưa hẳn đã được các GV kĩ thuật hiểu thấu
đáo. Phần thực hành thì chủ yếu vẫn chú trọng rèn luyện các thao tác vật chất
chưa chú ý nhiều đến việc phát triển năng lực cũng như tư duy cho HS.
- Cơ sở vật chất: Nhà trường có 01 phòng học chuyên môn cho ngành
tiện và 01 xưởng thực tập với hầu hết các máy móc thiết bị đã có từ rất lâu.
Về giáo trình giảng dạy có đầy đủ các môn về ngành Tiện được nhà trường
sưu tầm rất đầy đủ có cả giáo trình nước ngoài.
1.4.2. Điều kiện thực hiện dạy học module
* Thuận lợi:
- Lãnh đạo nhà trường rất quan tâm và tạo mọi điều kiện cho GV đổi
mới PPDH và thực hiện phương thức đào tạo theo NLTH. Chủ trương này
đang được nhà trường chỉ đạo triển khai thực hiện ở các khoa, bộ môn của
trường. Trường Cao đẳng KT - KT Thái Nguyên đã và đang khuyến khích sự
đổi mới trong công tác giảng dạy ở tất cả các môn học nói chung và module
tiện cơ bản nói riêng. Sự phát triển của công nghệ thông tin và sự bùng nổ của
Internet đã cho ra đời của nhiều phần mềm hỗ trợ việc soạn giáo án và giảng
dạy bằng giáo án điện tử để phục vụ giảng dạy tốt hơn.
- Hiện nay nhà trường cũng đã quy định khuyến khích các giáo viên

soạn giáo án trên máy và khuyến khích việc soạn giáo án dạy theo NLTH để
dạy trên lớp.
- Module tiện cơ bản là môn học liên quan nhiều đến thực tiễn và có
cấu trúc 30 tiết lý thuyết và 106 giờ học thực hành nên rất thuận lợi cho việc
dạy học theo NLTH.
- Số lượng HS trong lớp ít cho nên rất thuận tiện cho việc dạy theo
NLTH.
* Khó khăn:

25


×