Tải bản đầy đủ (.docx) (108 trang)

PHÁP LUẬT VỀ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (451.71 KB, 108 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ THỊ HẢI NHƯ

PHÁP LUẬT VỀ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật
Mã số

: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS VŨ TRỌNG HÁCH

Hà Nội – 2015
1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh
toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.


Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

2


MỤC LỤC

3


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
LS

: Luật sư

VPLS

: Văn phòng luật sư

LXLVPHC : Luật xử lý vi phạm hành chính

4

LLS

: Luật luật sư

LĐLS


: Liên đoàn luật sư Việt Nam

UBND

: Ủy ban nhân dân

TP/ tp

: Thành phố


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Luật sư và vai trò của luật sư trong đời sống xã hội
Luật sư là một chức danh tư pháp độc lập, chỉ những người có đủ điều
kiện hành nghề chuyên nghiệp theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện
việc tư vấn pháp luật, đại diện theo ủy quyền, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho cá nhân, tổ chức và nhà nước trước tòa án và thực hiện các dịch vụ
pháp lý khác. Sứ mệnh xã hội của luật sư là góp phần bảo vệ công lý, công
bằng xã hội và pháp chế xã hội chủ nghĩa.
1.2. Sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với nghề luật sư
Ở nước ta, từ khi Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính ra đời cùng các
văn bản pháp luật liên quan khác luôn chứa các quy định về lĩnh vực luật sư,
từ những quy định nhỏ lẻ cho đến việc hình thành một mục riêng biệt cho
thấy cách nhìn nhận vị trí và vai trò của hoạt động hành nghề Luật sư ngày
càng được Đảng và Nhà nước quan tâm.
1.3. Những đóng góp và tác động của nghề luật sư
Có thể nói, Luật sư với tư cách là người có kiến thức sâu, rộng về pháp
luật có chức năng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, tham

gia tích cực trong việc bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, cần phải khẳng định
mình hơn nữa trong công cuộc xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh ở Việt Nam.
1.4. Những hạn chế, vi phạm trong hành nghề luật sư
Bên cạnh những đóng góp tích cực, trong hoạt động hành nghề Luật sư
còn có mặt hạn chế và nhiều lỗ hổng cần được khắc phục.
Thực tế thời gian qua cho thấy, không ít những luật sư vi phạm các quy
định pháp luật và quy tắc đạo đức nghề nghiệp, làm phát sinh nhiều vụ việc
khiến dư luận ngày càng mất lòng tin vào nền tư pháp nước nhà. Những hành

5


vi sai phạm này không những làm thay đổi cái nhìn về giới luật sư từ phía
người dân, mà còn làm phát sinh các tiêu cực trong chính các cơ quan Nhà
nước, đặc biệt là Bộ máy tư pháp của nước ta.
1.5. Sự cần thiết phải nghiên cứu đề tài
Với vị trí và vai trò của luật sư trong ngành Tư pháp và đời sống xã hội
như đã nói ở trên, nghiên cứu pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong
hành nghề luật sư là công việc cần thiết để tìm được hướng khắc phục sai sót
và hoàn thiện chất lượng ngành tư pháp nói riêng và hệ thống pháp luật về xử
lý vi phạm hành chính nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Nhận thức được vai trò quan trọng của luật sư trong xã hội và triển
vọng của nghề luật sư nên đã có nhiều tổ chức và cá nhân nghiên cứu về vấn
đề này. Có thể kể ra một số đề tài đã được nghiên cứu như:
- Đề tài cấp bộ “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp
luật về tổ chức luật sư và hành nghề luật sư trong điều kiện mới ở Việt Nam”,
Chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Văn Thảo – Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp;
- Bài viết “Nhiều điểm mới về xử phạt vi phạm hành chính góp phần

tăng cường trật tự, kỷ cương quản lý nhà nước trong các hoạt động tư pháp” Nguyễn Thắng Lợi, Phó Chánh Thanh tra Bộ Tư pháp – ngày 26/09/2013.
- Bài viết “Vai trò của Luật sư trong tố tụng hành chính” của luật sư
Nguyễn Thành Vĩnh;
- Sách pháp luật “Một số vấn đề về luật sư và nghề luật sư” (2013) TS.Nguyễn Văn Tuân - Nhà xuất bản Tư pháp;
Tuy nhiên các đề tài, chuyên đề và bài viết nêu trên mới chỉ cụ thể hóa
một khía cạnh hay một cách khái quát về hành nghề luật sư ở Việt Nam. Chưa
có đề tài nào đi sâu vào pháp luật về các hành vi và biện pháp xử lý vi phạm
hành chính trong hành nghề luật sư với tư cách cá nhân ở Việt Nam. Đề tài

6


“Pháp luật về vi phạm hành chính trong hành nghề Luật sư ở Việt Nam hiện
nay” là một vấn đề mới cần nghiên cứu để bổ sung vào hệ thống tài liệu về
Pháp luật hành chính để có những góc nhìn đa dạng và hoàn thiện toàn bộ hệ
thống quy định pháp luật của nước ta.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Mục đích:
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về vi phạm hành chính, phân tích,
đánh giá thực trạng về các hành vi, hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực hành nghề Luật sư, cụ thể là những luật sư hành nghề với tư cách cá
nhân ở nước ta hiện nay. Từ đó đưa ra những biện pháp hoàn thiện cả về cơ sở
pháp lý và thực tiễn áp dụng pháp luật.
- Nhiệm vụ:
Từ mục đích chung nêu trên, trong nội dung luận văn cần phải làm rõ
một số vấn đề như sau:
+ Nghiên cứu nội hàm của khái niệm vi phạm hành chính trong hành nghề Luật
sư, xem xét quá trình phát triển của chế định này trong hệ thống pháp luật
Việt Nam, tham khảo một số quy định của pháp luật quốc tế về xử lý vi phạm
hành chính trong hành nghề Luật sư.

+ Hệ thống hóa, phân tích, đánh giá ưu nhược điểm các quy định về pháp luật
về xử lý vi phạm hành chính trong hành nghề Luật sư và thực tiễn thực thi các
quy định này ở Việt Nam hiện nay.
+ Đưa ra một số giải pháp hoàn thiện về pháp luật, đảm bảo quá trình thực thi
các chế định về xử lý vi phạm hành chính trong hành nghề Luật sư.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật về vi
phạm hành chính trong hành nghề Luật sư đối với các luật sư Việt Nam . Cụ
thể trong hoạt động luật sư hành nghề với tư cách cá nhân, chỉ có những hành

7


vi được quy định tại Điều 6 Nghị định 110/2013/NĐ-CP, mới bị xem xét, xử
phạt theo quy định của pháp luật.
- Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi về không gian: Quy định pháp luật củaViệt Nam liên quan đến
vi phạm hành chính của người hành nghề Luật sư với tư cách cá nhân.
Phạm vi về thời gian: Thông qua lịch sử hình thành các quy định pháp
luật đầu tiên về xử lý vi phạm hành chính ở Việt Nam từ năm 1995 cho đến
các lần sửa đổi, bổ sung, thay thế các văn bản pháp luật để rút ra những điểm
kế thừa và điểm mới từ các văn bản pháp luật đang có hiệu lực hiện hành, đặc
biệt là trong hành nghề Luật sư.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận:
Luận văn nghiên cứu các nội dung sau: Những vấn đề lý luận về hành
nghề luật sư; Thực trạng pháp luật về vi phạm hành chính trong lĩnh vực hành
nghề luật sư ở Việt Nam; Định hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật
hành nghề luật sư ở Việt Nam.

- Phương pháp nghiên cứu:
Các phương pháp nghiên cứu của Luận văn được xây dựng trên cơ sở
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch
sử, và đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Các phương pháp mà luận văn sử dụng bao gồm: phương pháp phân
tích quy phạm, phân tích vụ việc, và phân tích lịch sử; phương pháp tổng hợp,
thông kê, tập hợp các thông tin, số liệu và vụ việc; phương pháp điển hình
hoá, mô hình hóa các quan hệ xã hội; phương pháp hệ thống hóa các quy
phạm pháp luật; phương pháp so sánh pháp luật; và phương pháp đánh giá
thực trạng pháp luật.
6. Những điểm mới của luận văn
Vấn đề vi phạm hành chính không còn mới lạ nhưng khi xem xét trên
nhiều phương diện, nhiều khía cạnh và các lĩnh vực khác nhau, có không ít đề

8


tài về xử lý vi phạm hành chính hay các hành vi vi phạm hành chính nhưng
chưa có một đề tài nào chuyên sâu phân tích về các hành vi và hình thức xử lý
vi phạm hành chính trong hành nghề Luật sư, cụ thể đối với luật sư hành nghề
với tư cách cá nhân.
Đề tài “Pháp luật về vi phạm hành chính trong hành nghề Luật sư ở
Việt Nam hiện nay” là một vấn đề mới cần nghiên cứu, phân tích và đưa ra
phương hướng hoàn thiện cho phù hợp với công cuộc cải cách tư pháp ở Việt
Nam hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận
Đề tài giúp người nghiên cứu và những người đọc có được cái nhìn
thực tế trong thực trạng vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư ở Việt
Nam và thực tiễn áp dụng pháp luật trong lĩnh vực này.

- Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn đi vào phân tích các vấn đề lý luận về hành vi và thủ tục,
cách thức xử phạt vi phạm hành chính đối với người hoạt động với tư cách cá
nhân trong lĩnh vực luật sư. Ngoài ra còn đánh giá thực tiễn áp dụng các quy
định pháp luật về vi phạm hành chính trong hành nghề Luật sư ở Việt Nam, từ
đó kiến nghị và hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến vấn đề này.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có
03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật vi phạm hành chính
trong hành nghề luật sư;
Chương 2: Thực trạng pháp luật về vi phạm hành chính trong hành
nghề luật sư ở Việt Nam;
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về vi phạm
hành chính trong hành nghề luật sư.

9


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT VI PHẠM
HÀNH CHÍNH TRONG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ

1.1. Những khái niệm có liên quan đến đề tài luận văn
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của Luật sư và nghề luật sư
1.1.1.1. Khái niệm luật sư, nghề luật sư
a. Luật sư
Theo quy định của pháp luật về luật sư của nhiều nước thì luật sư là
người được một cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp chứng chỉ hành nghề
luật sư hoặc công nhận tư cách luật sư. Cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp
Chứng chỉ hành nghề luật sư hoặc công nhận tư cách luật sư đa số là cơ quan

Tư pháp (Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp), Tòa án Tối cao, Tòa án tiểu bang, Tòa án
Liên bang.
Đa số các nước trên thế giới không có sự phân biệt về luật sư tranh tụng
và luật sư tư vấn. Trong khi đó, nước Anh và Úc thì vẫn còn đang phân chia
luật sư thành hai loại là luật sư tranh tụng và luật sư tư vấn. Luật sư ở
Singapore, Pháp và Hoa Kỳ có mối liên hệ chặt chẽ với cơ quan Toà án, tồn
tại song song hoặc trực thuộc các toà án.
Luật sư ở Singapore thuộc Toà án tối cao Singapore; các luật sư Pháp
thành lập mỗi đoàn luật sư bên cạnh mỗi toà án thẩm quyền rộng. Luật sư ở
Hoa Kỳ, ở Úc được công nhận và cho phép hành nghề theo lãnh thổ từng
bang, trong phạm vi thẩm quyền tài phán của tòa án từng bang hoặc liên bang.
Một luật sư có thể được phép hành nghề tại nhiều bang và phải tuân theo quy
chế của từng bang đặt ra. Luật sư hành nghề tại tòa án tiểu bang cũng có thể
xin công nhận và được phép hành nghề tại các Tòa án tối cao của liên bang.
Luật sư hành nghề bằng kiến thức pháp luật, kỹ năng nghề nghiệp của
cá nhân luật sư. Nói cách khác, phẩm chất và năng lực cá nhân của luật sư là

10


yếu tố quyết định trong nghề luật sư. Người muốn hành nghề luật phải được
công nhận là luật sư. Pháp luật các nước trên thế giới thường không đưa ra
khái niệm luật sư mà chỉ quy định về tiêu chuẩn để trở thành luật sư. Tùy theo
quy định mỗi nước khác nhau về tiêu chuẩn luật sư và điều kiện hành nghề
luật sư mà xác định cơ quan hay tổ chức có thẩm quyền công nhận một người
là luật sư, cũng như thời điểm nào một người được công nhận là luật sư và
giấy tờ gì chứng minh một người là luật sư ở mỗi nước là khác nhau.
Tuy nhiên, nhìn chung, tiêu chuẩn phổ biến để được công nhận luật sư
là: Là công dân ở nước sở tại; Có bằng cử nhân luật; Có phẩm chất đạo đức
tốt. Ngoài các tiêu chuẩn trên, muốn trở thành luật sư phải qua đào tạo nghề,

tập sự hành nghề luật sư hoặc chỉ cần đỗ kỳ thi quốc gia để được công nhận
luật sư, điều đó còn phụ thuộc vào quy định pháp luật mỗi nước. Thẩm quyền
công nhận có thể là Tòa án tối cao hay Bộ Tư pháp hoặc chỉ cần đăng ký gia
nhập một Đoàn luật sư thì trở thành luật sư.
Như vậy, ta có thể rút ra khái niệm luật sư như sau: Luật sư được hiểu
là một chức danh bổ trợ tư pháp, có tư cách pháp lý độc lập, có đủ tiêu chuẩn
và điều kiện hành nghề luật chuyên nghiệp thep quy định của pháp luật, cung
cấp dịch vụ pháp lý bao gồm tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện
ngoài tố tụng và các dịch vụ pháp lý khác nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của khách hàng trước Tòa án, các cơ quan Nhà nước và các chủ thể khác
theo quy định của pháp luật.
b. Nghề luật sư và hành nghề Luật sư
Trước hết, để tìm hiểu về nghề luật sư, cần hiểu khái niệm Nghề luật
nói chung. Nghề luật là một khái niệm mang tính tương đối, được sử dụng để
chỉ nghề nghiệp của những người có kiến thức pháp luật nhất định, đang thực
hiện các công việc liên quan đến các mặt khác nhau của đời sống pháp lý tại
tòa án, viện kiểm sát, văn phòng luật sư, cơ quan công an, cơ quan thi hành

11


án, cơ quan công chứng và một số bộ phận trong các cơ quan hành chính nhà
nước, các tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước v.v... Do đó, nếu dùng
cụm từ “nghề luật” thì theo cách biểu hiện của ngôn ngữ Việt là quá rộng,
cụm từ này ý chỉ không phải chỉ là việc bào chữa, biện hộ trước Tòa án và
làm tư vấn pháp luật (cung cấp dịch vụ pháp lý) của luật sư mà bao hàm toàn
bộ hoạt động của ngành Tư pháp, của cả các chức danh tư pháp được Nhà
nước trao quyền và cá nhân hoạt động tự do không phải là công chức, cán bộ
Nhà nước.
Ở Việt Nam lâu nay vẫn sử dụng các cụm từ “nghề luật sư”, “hành

nghề luật sư”. Thực ra như vậy không hoàn toàn chính xác về mặt ngôn ngữ.
Bởi vì “luật sư” là một danh từ chỉ người, chứ không phải dùng để chỉ một
nghề. Vì vậy trong tiếng Anh người ta dùng “Lawyer” (luật sư) và “Practice
law” (hành nghề luật). Tuy nhiên, theo chúng tôi việc sử dụng các cụm từ
“nghề luật sư” và “hành nghề luật sư” là phù hợp với thực tiễn của nước ta, có
thể chấp nhận được.
Khi bàn tới khái niệm nghề luật sư, về phương diện lý luận, cần đặt nó
trong bối cảnh so với các nghề nghiệp khác của xã hội, các giá trị, chuẩn mực
nghề nghiệp và vị trí, vai trò của nó trong sự phát triển của xã hội. Nghề Luật
sư là một nghề xuất hiện từ xa xưa và đang ngày càng phát triển, trở thành
nghề có phương thức hành nghề tự do, được các văn bản pháp luật của Nhà
nước quy định. Lịch sử nghề Luật sư ở mỗi nước gắn liền với chế độ chính trị
ở nước đó và phục vụ quyền lợi của giai cấp thống trị nước đó.
Vai trò của Luật sư có sự khác nhau trong các nền văn minh khác nhau,
tuy nhiên đều có chung một điểm cho rằng, Luật sư là một nghề trong xã hội ,
là công cụ hữu hiệu góp phần đảm bảo công lý. Hoạt động Luật sư trong cơ
chế thị trường được coi là một loại hình dịch vụ nghề nghiệp, được điều chỉnh
bằng các đạo luật về hành nghề Luật sư và các luật lệ về kinh doanh. Nghề

12


Luật sư được phát triển và giữ vai trò quan trọng trong các nước dân chủ phát
triển, và là một hoạt động chịu sự quản lý của Nhà nước. Nghề Luật sư rất
chú ý đến vai trò cá nhân, uy tín nghề nghiệp của Luật sư và tính chất của
nghề tự do trong tổ chức hành nghề Luật sư.
Về hành nghề Luật sư: Cụm từ “hành nghề luật sư” phải hiểu là việc
luật sư tham gia hoạt động tố tụng, thực hiện tư vấn pháp luật, các dịch vụ
pháp lý khác theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của họ theo quy định của pháp luật.

Tóm lại, hành nghề Luật sư là một nghề mà trong đó Luật sư – một
chức danh bổ trợ tư pháp – có quyền tự do trong phương thức hành nghề của
mình, cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng theo quy định của pháp luật
và quy tắc đạo đức nghề nghiệp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
khách hàng, góp phần bảo vệ công lý, phát triển kinh tế và xây dựng xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
Các luật sư được hành nghề tự do, tự do lựa chọn hình thức hành nghề
là hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư , ip lawyer được thực hiện bằng
việc thành lập hoặc tham gia thành lập tổ chức hành nghề luật sư; làm việc
theo hợp đồng cho tổ chức hành nghề luật sư hoặc hành nghề với tư cách cá
nhân. Các luật sư hành nghề theo quy định của pháp luật. Hiện nay, có hai
hình thức hành nghề Luật sư được pháp luật Việt Nam công nhận và nêu rõ
trong các văn bản pháp luật là: luật sư hành nghề theo tư cách cá nhân và luật
sư làm việc trong các tổ chức hành nghề Luật sư. Tổ chức hành nghề Luật sư
hiện nay gồm hai hình thức là Văn phòng luật sư và Công ty Luật
Luật sư hành nghề theo tư cách cá nhân còn được gọi là luật sư nội bộ
(In-house Councel), hình thức này được hiểu là một hoặc một nhóm Luật sư
làm việc theo Hợp đồng lao động cho các tổ chức, doanh nghiệp mà không
làm việc cho các Công ty Luật hoặc Văn phòng Luật sư. Phạm vi hành nghề

13


của Luật sư nội bộ là giải quyết các vấn đề pháp lý theo nhu cầu của chính tổ
chức, doanh nghiệp nơi mình làm việc. Đặc biệt, do chủ yếu hoạt động trong
các Doanh nghiệp nên luật sư nội bộ chủ yếu tập trung trong lĩnh vực pháp
luật doanh nghiệp, thương mại và các văn bản pháp luật chuyên ngành có liên
quan khác.
Luật sư hành nghề trong một tổ chức hành nghề Luật sư (Công ty Luật,
hoặc Văn phòng luật sư) thường chịu trách nhiệm thực hiện dịch vụ pháp lý

cho khách hàng theo sự phân công của tổ chức hành nghề.
Có thể thấy rõ nếu so sánh hai hình thức hoạt động hành nghề trong
lĩnh vực Luật sư này thì luật sư hành nghề theo tư cách cá nhân ngoài có mối
quan hệ giữa luật sư với khách hàng như Luật sư hành nghề trong một tổ chức
hành nghề Luật sư, thì họ còn tồn tại một mối quan hệ nữa là Người lao động
với Người sử dụng lao động. Cũng vì vậy mà Luật sư hành nghề trong một
Văn phòng Luật sư hay Công ty Luật có tính độc lập về các tư vấn pháp lý
của mình hơn so với luật sư hành nghề theo tư cách cá nhân do còn bị rành
buộc bởi các quy định về nghĩa vụ của người lao động.
Dù có những điểm khác nhau nhưng mục đích chung của các luật sư dù
hoạt động dưới hình thức nào cũng đều là đưa ra lời khuyên về mặt pháp lý và
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng.
1.1.1.2. Đặc điểm của luật sư và hành nghề Luật sư
Luật sư là những người được trọng vọng trong xã hội bởi vai trò quan
trọng của họ trong việc góp phần bảo vệ quyền cơ bản của công dân và phát
triển xã hội. Cũng vì vậy mà nghề luật sư không giống như những nghề bình
thường khác vì ngoài những yêu cầu về kiến thức và trình độ chuyên môn thì
người luật sư còn phải tuân thủ theo quy chế đạo đức nghề nghiệp.
Nghề Luật sư có đặc thù riêng của nó, đây là một nghề mang tính trí tuệ
rất cao, đòi hỏi kiến thức luật, vốn sống, suy nghĩ độc lập, bản lĩnh, sự nhanh

14


nhạy để tìm hiểu vụ việc, bảo vệ quyền lợi thân chủ và đấu trí với các đối
tượng liên quan đến vụ việc. Bởi vậy, người hành nghề Luật sư, bên cạnh kỹ
năng nghề nghiệp và kiến thức pháp luật, còn phải hiểu biết sâu sắc về cuộc
sống, nói cách khác là giàu vốn sống và có tinh thần nhân đạo. Luật sư thông
qua hoạt động nghề nghiệp của mình để đưa pháp luật vào cuộc sống, góp
phần vào việc quản lý Nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật, nâng cao ý

thức chấp hành pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Tóm lại, nghề luật sư gồm có những đặc điểm như sau:
Thứ nhất, Nghề luật sư là nghề tự do: Luật sư trước hết hình thành từ
nhu cầu, yêu cầu minh oan, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người
khác. Hoạt động này do người có trình độ, uy tín, lòng trắc ẩn, vị tha, hào
hiệp và tự nguyện đứng ra thực hiện. Dần dần nó phát triển thành một nghề tự
do có điều lệ, có quy chế do Nhà nước quy định hoặc thừa nhận.
Đây là nghề tự do bởi người hành nghề cũng như các tổ chức hành
nghề không phải các tổ chức Nhà nước, không phải là cán bộ, công chức của
Nhà nước. Người và tổ chức hành nghề hoạt động trong một chuyên môn và
với một loại hình đặc biệt dịch vụ pháp lý.
Đây là nghề có chức năng xã hội là bảo vệ công lý, phát triển kinh tế và
xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Thứ hai, Nghề luật sư cung cấp các dịch vụ pháp lý: Luật sư tham gia
tố tụng để bào chữa cho các bị can, bị cáo, bảo vệ cho người bị hại, nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự trong vụ án hình sự, làm người đại diện hoặc bảo
vệ cho các đương sự trong vụ án dân sự, hành chính; Tư vấn pháp luật, tư vấn
giao dịch và hợp đồng cho cá nhân, cơ quan, tổ chức; Làm đại diện ngoài tố
tụng cho cá nhân, cơ quan, tổ chức; Thực hiện các dịch vụ pháp lý khác theo
yêu cầu của khách hàng.

15


Thứ ba, Nghề luật sư là nghề góp phần tích cực duy trì công lý và bảo
vệ pháp luật: Về duy trì công lý, tham gia góp phần bảo vệ và giải phóng con
người vì tự do của con người, vì các giá trị tự nhiên và phẩm chất xã hội của
con người trên cơ sở tôn trọng chân lý khách quan, dựa vào các quy luật tự
nhiên xã hội, dựa vào lợi ích của cộng đồng, của dân tộc và vì hoà bình trên
thế giới. Về bảo vệ pháp luật, tôn trọng và tuân thủ pháp luật, góp phần tuyên

truyền pháp luật, hướng cho mọi người thực hiện các hành vi ứng xử trên cơ
sở các quy định của pháp luật;chống mọi biểu hiện vi phạm pháp luật.
Thứ tư, Nghề luật sư là nghề liên quan đến lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, của cá nhân, tổ chức: Các hoạt động
của luật sư trước hết hướng tới bảo vệ các giá trị vật chất và tinh thần của Nhà
nước lợi ích của dân tộc, tránh mọi biểu hiện xâm phạm độc lập, chủ quyền,
tự do và an ninh của Nhà nước, chống mọi biểu hiện và hành vi xâm phạm
đến tài sản của Nhà nước cũng như luôn luôn bảo vệ các giá trị Quốc thể.
Hoạt động nghề nghiệp của luật sư là bảo vệ các quyền, lợi ích chân
chính của mọi công dân, cá nhân như tài sản, danh dự, nhân phẩm… Hoạt
động của luật sư cũng liên quan đến việc bảo vệ quyền, lợi ích của các tổ chức
đặc biệt là các doanh nghiệp, các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh thuộc
mọi thành phần khác nhau trong nền kinh tế quốc dân…
Thứ năm, Nghề luật sư là nghề cao quý bởi hàm chứa những mục đích
và phẩm chất cao đẹp đòi hỏi có trình độ và năng lực cao, có văn hoá và đạo
đức trong sáng: Mọi hoạt động hành nghề của luật sư hướng tới mục đích bảo
vệ công lý, bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ
chức và cá nhân. Về phẩm chất, Luật sư là người có tư cách phẩm chất đạo
đức trong sáng, có ý thức tổ chức kỷ luật và xã hội cao; Người hành nghề luật
sư đòi hỏi phải có trình độ cao về kiến thức chuyên môn, thành thạo, chuyên
sâu về nghiệp vụ, có năng lực độc lập giải quyết các tình huống phát sinh

16


trong quá trình thực hiện hoạt động nghề nghiệp; Luật sư cũng phải là người
có văn hoá ở trình độ chuyên môn, mọi hành vi ứng xử đều chứa đựng các giá
trị về chân thiện mỹ.
Qua các đặc điểm nêu trên, có thể thấy vị thế và chức năng xã hội của
nghề luật sư là rất quan trọng thể hiện đậm nét trong cả lĩnh vực truyền thông,

phổ biến pháp luật và tham gia tố tụng cũng như trong phát triển kinh tế, hội
nhập quốc tế như vậy, cần thiết phải có những quy định riêng điều chỉnh hoạt
động hành nghề Luật sư. Theo đó, cũng cần phải có Bộ quy tắc riêng cho hoạt
động hành nghề Luật sư để chuẩn hóa về mặt đạo đức của luật sư.
Bộ quy tắc đạo đức này phải dựa trên tiêu chí Luật sư là người ở vị trí
hướng dẫn pháp luật và đạo lý cho người khác, luôn luôn lấy việc bảo vệ công
lý, bảo vệ lẽ phải và công bằng xã hội làm mục tiêu cao quý. Trước khi là một
luật sư thì chính bản thân phải rèn luyện được đức tính độc lập, trung thực,
khách quan, nhiệt tình trong công việc, không ngại khó, ngại khổ, không dồn
trách nhiệm cho đồng nghiệp, cho người khác. Luật sư phải độc lập, trung
thực, tôn trọng sự thật khách quan, không vì lợi ích vật chất, tinh thần hoặc
bất kỳ áp lực nào khác để làm trái pháp luật và đạo đức nghề nghiệp. Luật sư
có nghĩa vụ phát huy truyền thống tốt đẹp của nghề luật sư, thường xuyên học
tập nâng cao trình độ chuyên môn, giữ gìn phẩm chất và uy tín nghề nghiệp;
thái độ ứng xử đúng mực, có văn hóa trong hành nghề và lối sống để xứng
đáng với sự tin cậy, tôn trọng của xã hội đối với luật sư và nghề luật sư.
Việc quản lý, theo dõi, kiểm tra, xử lý vi phạm đối với luật sư được các
Nhà nước quy định tùy theo mức độ tự quản của các tổ chức xã hội - nghề
nghiệp của luật sư mà nước đó đặt ra. Có những nước việc xử lý kỷ luật luật
sư đều do các tổ chức xã hội - nghề nghiệp đảm nhiệm; lại có những nước
việc xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm đều do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
thực hiện, nếu không đồng ý với quyết định đó thì luật sư có thể kiện ra Toà

17


án. Ở một số nước khác, việc này lại được thực hiện bằng sự kết hợp giữa nhà
nước với cơ quan tự quản của luật sư. Tùy theo hệ thống pháp luật và hệ
thống tư tưởng, văn hóa, lịch sử, ở mỗi nước có những quy định khác nhau
đối với nghề Luật sư.

Ở Việt Nam, tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư, đồng thời là
thành viên của Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Liên Đoàn Luật sư Việt Nam có
nhiệm vụ phối hợp với Bộ Tư pháp trong công tác quản lý luật sư và hành
nghề luật sư theo nguyên tắc kết hợp quản lý nhà nước với phát huy vai trò tự
quản của tổ chức xã hội – nghề nghiệp, nhằm nâng cao chất lượng của đội
ngũ luật sư cũng như chất lượng dịch vụ pháp lý của Luật sư, đảm bảo việc
tuân theo pháp luật, quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của Luật sư với
phương châm:“Đoàn kết – hợp tác – dân chủ – kỷ cương – lương tâm và
trách nhiệm”.
Tổ chức luật sư toàn quốc đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của luật sư, các Đoàn luật sư trong phạm vi cả nước; ban hành và giám sát
việc tuân theo Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư; tổ chức bồi
dưỡng thường xuyên về kiến thức pháp luật; đào tạo và bồi dưỡng nâng cao
kỹ năng hành nghề cho luật sư; tham gia xây dựng pháp luật, nghiên cứu khoa
học pháp lý, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; thực hiện công tác trợ
giúp pháp lý và các hoạt động hợp tác quốc tế về luật sư...
Với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của nghề Luật sư trong xã hội,
cần phải có một tổng thể các quy phạm và chế định pháp luật dành cho luật
sư, do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận với nội dung điều chỉnh mối quan
hệ của Luật sư với khách hàng, với các cơ quan Nhà nước, cơ quan tiến hành
tố tụng và người tiến hành tố tụng, với tổ chức xã hội nghề nghiệp của Luật
sư và cơ quan, tổ chức khác, phát sinh trong quá trình tổ chức và hoạt động
nghề nghiệp Luật sư; quản lý Nhà nước đối với nghề nghiệp Luật sư và tự

18


quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp của Luật sư, được Nhà nước đảm bảo
thực hiện bằng các biện pháp cưỡng chế Nhà nước.
Trong quá trình phát triển và hòa nhập với thế giới, hoạt động hành

nghề Luật sư được Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan tâm và chú trọng, ngoài
các văn bản pháp luật điều chỉnh được ban hành và đã có hiệu lực, luật sư
cũng chịu sự điều chỉnh và giám sát, kiểm tra của các điều lệ, quy tắc của
Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Đoàn Luật sư tỉnh/ thành phố nơi luật sư hành
nghề, Tổ chức hành nghề luật (Văn phòng luật sư, Công ty Luật).
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm pháp luật vi phạm hành chính trong hành nghề
luật sư
1.1.2.1. Pháp luật vi phạm hành chính
Trong pháp luật Việt Nam, khái niệm “vi phạm hành chính” lần đầu
tiên được định nghĩa một cách chính thức tại Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành
chính ngày 30/11/1989, Điều 1 của Pháp lệnh này quy định “vi phạm hành
chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm
phạm quy tắc quản lý Nhà nước mà không phải là tội phạm hình sự và theo
quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính”.
Định nghĩa này sau đó đã được áp dụng rộng rãi trong thực tiễn thi
hành pháp luật và đưa vào các giáo trình giảng dạy về pháp luật. Theo Pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995 và sau đó là Pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính năm 2002 thì khái niệm vi phạm hành chính không được
định nghĩa riêng biệt nữa mà được đưa “lẩn” vào trong khái niệm “xử lý vi
phạm hành chính”, nếu trích dẫn từ định nghĩa về “xử lý vi phạm hành chính”
được quy định tại khoản 2 Điều 1 xử lý vi phạm hành chính năm 2002 thì vi
phạm hành chính được hiểu là “hành vi cố ý hoặc vô ý của cá nhân, tổ chức,
vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội
phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính”.

19


Về ngôn ngữ thể hiện, có thể thấy có đôi chút khác nhau giữa định
nghĩa về vi phạm hành chính được quy định trong các Pháp lệnh về xử

phạt/xử lý vi phạm hành chính 1989, 1995 và 2002, tuy nhiên về bản chất
hành vi vi phạm hành chính thì các định nghĩa trong các văn bản pháp luật
này, về cơ bản, không có gì khác nhau.
Theo đó, định nghĩa “vi phạm hành chính” có 04 dấu hiệu cơ bản sau đây:
Thứ nhất, vi phạm hành chính là hành vi trái pháp luật, vi phạm các
quy định của pháp luật về quản lý nhà nước; tác hại (tính nguy hiểm) do hành
vi gây ra ở mức độ thấp, chưa hoặc không cấu thành tội phạm hình sự và hành
vi đó được quy định trong các văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính. Đây chính là dấu hiệu “pháp định” của vi phạm.
Thứ hai, hành vi đó phải là một hành vi khách quan đã được thực hiện
(hành động hoặc không hành động), phải là một việc thực, chứ không phải chỉ
tồn tại trong ý thức hoặc mới chỉ là dự định, đây có thể coi là dấu hiệu “vật
chất” của vi phạm.
Thứ ba, hành vi đó do một cá nhân hoặc pháp nhân (tổ chức) thực hiện,
đây là dấu hiệu xác định“chủ thể” của vi phạm.
Thứ tư, hành vi đó là một hành vi có lỗi, tức là người vi phạm nhận
thức được vi phạm của mình, hình thức lỗi có thể là cố ý, nếu người vi phạm
nhận thức được tính chất trái pháp luật trong hành vi của mình, thấy trước hậu
quả của vi phạm và mong muốn hậu quả đó xảy ra hoặc ý thức được hậu quả
và để mặc cho hậu quả xảy ra; hình thức lỗi là vô ý trong trường hợp người vi
phạm thấy trước được hậu quả của hành vi nhưng chủ quan cho rằng mình có
thể ngăn chặn được hậu quả hoặc không thấy trước hậu quả sẽ xảy ra dù phải
thấy trước và có thể thấy trước được hậu quả của vi phạm. Đây có thể coi là
dấu hiệu “tinh thần” của vi phạm.
Hành vi vi phạm hành chính là hành vi vi phạm các quy định của pháp
luật về quản lý nhà nước do cá nhân, tổ chức thực hiện và vi phạm này không

20



phải là tội phạm, tức là chưa đủ các yếu tố cấu thành tội phạm, trong đó yếu
tố có tính chất quyết định là mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi
phạm hành chính.
Cho đến hiện nay, nhiều người vẫn hiểu sai về bản chất của hai cụm từ
“Xử lý vi phạm hành chính” và “Xử phạt vi phạm hành chính”, để làm rõ hai
khái niệm này, luận văn xin đưa ra một số phân tích để làm rõ như sau:
Trước tiên, cần hiểu bản chất của hoạt động “xử lý vi phạm hành
chính” là việc áp dụng một số loại biện pháp cưỡng chế hành chính do pháp
luật quy định. Cưỡng chế hành chính được xác định là biện pháp cưỡng chế
nhà nước do cơ quan hoặc người có thẩm quyền quyết định áp dụng theo thủ
tục hành chính đối với cá nhân có hành vi vi phạm hành chính hoặc đối với
một số cá nhân nhất định với mục đích ngăn chặn, phòng ngừa hoặc thực hiện
công vụ vì lí do an ninh, quốc phòng và vì lợi ích quốc gia.
Xử phạt vi phạm hành chính là việc áp dụng xử phạt đối với cá nhân, tổ
chức có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý
nhà nước mà không phải tội phạm theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt
hành chính. Theo đó, Xử phạt vi phạm hành chính là việc người có thẩm
quyền áp dụng các hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục đối với cá nhân, tổ
chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử
phạt vi phạm hành chính.
Xử phạt vi phạm hành chính bao gồm các chế tài hành chính thông
thường, áp dụng đối với chủ thể là cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm hành
chính, bao gồm hình thức xử phạt chính (cảnh cáo, phạt tiền, trục xuất), hình
thức phạt bổ sung (tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề, tịch
thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, trục xuất khi không áp dụng là
hình phạt chính) và các biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm hành chính gây
ra nhằm lập lại trật tự quản lý bị xâm hại.

21



Các biện pháp xử lý hành chính khác là những biện pháp hành chính có
tính đặc thù và tính cưỡng chế cao hơn các hình thức xử phạt hành chính
thông thường, chỉ áp dụng đối với chủ thể vi phạm là cá nhân, căn cứ vào
nhân thân và quá trình vi phạm pháp luật của đối tượng; bao gồm giáo dục tại
xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục, đưa
vào cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính.
Nhìn chung, xử lý vi phạm hành chính, xử phạt vi phạm hành chính, áp
dụng các biện pháp xử lý hành chính khác có thể hiểu chung là việc áp dụng
các biện pháp, chế tài mang tính cưỡng chế hành chính của Nhà nước đối với
chủ thể có hành vi vi phạm hành chính.
1.1.2.2. Pháp luật vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư
Đối với các chế định chính điều chỉnh hành vi của luật sư, trong đó có
cả hành vi vi phạm hành chính, bao gồm: Pháp lệnh luật sư năm 1995; Pháp
lệnh luật sư năm 2001; Luật luật sư năm 2006; Luật luật sư 2006 được sửa
đổi, bổ sung một số điều năm 2012. Ngoài các Pháp lệnh và Bộ luật nói trên,
các quy định pháp luật còn được hướng dẫn chi tiết tại các Nghị định, thông
tư do Chính phủ và Bộ tư pháp thông qua nhằm làm rõ hơn việc áp dụng pháp
luật vào thực tiễn đời sống. Mỗi giai đoạn lịch sử lại có những chế định điều
chỉnh phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội.
Nghị định số 76/2006/NĐ-CP ngày 02/08/2006 quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp. Căn cứ Pháp lệnh Xử lý vi phạm
hành chính năm 2002 và Pháp lệnh Luật sư năm 2001; Nghị định 76 quy định
quy định các hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, mức phạt, thẩm
quyền xử phạt, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Tư pháp,
trong đó có hoạt động luật sư. Cụ thể, quy định về Hành vi vi phạm quy định
trong hoạt động hành nghề của luật sư nằm tại Điều 21 của Nghị định.

22



Căn cứ Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002; Pháp lệnh sửa
đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2008;
được ban hành nhằm thay thế Nghị định số 76/2006/NĐ-CP, Nghị định số
60/2009/NĐ-CP ngày 23/07/2009 quy định về xử phạt các hành vi vi phạm
hành chính và hình thức xử phạt những hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh
vực tư pháp. Cụ thể, hành vi vi phạm quy định trong hoạt động hành nghề của
luật sư quy định tại Điều 24 của Nghị định số 60/2009/NĐ-CP. Đây là những
hành vi vi phạm do luật sư, bao gồm cả luật sư đăng ký hành nghề với tư cách
cá nhân, luật sư nước ngoài hành nghề tại Việt Nam thực hiện trong quá trình
hành nghề luật sư. Các hành vi này được xây dựng chủ yếu dựa trên cơ sở
Luật luật sư và có nhiều điểm được sửa đổi, bổ sung mới (27 hành vi) so với
07 hành vi vi phạm theo Nghị định số 76/2006/NĐ-CP, các hành vi được bổ
sung mới là những hành vi liên quan đến trách nhiệm báo cáo của luật sư
trong quá trình tổ chức và hoạt động hành nghề cho cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền, các hành vi liên quan đến hoạt động hành nghề của luật sư… Điều 24
Nghị định số 60/2009/NĐ-CP chia làm 4 mức phạt trên cơ sở tính chất của
hành vi vi phạm. Theo đó, hành vi vi phạm hành chính trong hoạt động luật
sư được quy định xử lý bằng cách áp dụng hình thức xử phạt tiền (thấp nhất
là 500.000 đồng và cao nhất là 30.000.000 đồng), hình thức xử phạt bổ sung
và biện pháp khắc phục hậu quả.
Căn cứ Luật Xử lý vi phạm hành chính ngày 20/06/2012; cùng Luật
Luật sư năm 2006 và Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư năm
2012; Chính phủ ban hành Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/09/2013
quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành
chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh
nghiệp, hợp tác xã. Các nội dung về vi phạm hành chính trong hành nghề
Luật sư được quy định tại Điều 6 của Nghị định này.

23



Hiện nay, các hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt và biện
pháp khắc phục hậu quả trong hoạt động luật sư được quy định cụ thể từ Điều
5 đến Điều 8 thuộc Mục 1 Chương II tại Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày
24/09/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong một
số lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp.
Từ các dữ liệu nêu trên, ta có thể thấy hiện nay, trải qua nhiều sự thay
đổi, bổ sung và ngày càng hoàn thiện, văn bản pháp luật có hiệu lực điều
chỉnh các hành vi và hoạt động của luật sư, cũng như quy định biện pháp xử
lý các hành vi vi phạm của luật sư tại thời điểm này là: Luật xử lý vi phạm
hành chính năm 2012; Luật luật sư 2006 được sửa đổi, bổ sung một số điều
năm 2012 (LLS 2012); Nghị định 110/2013/NĐ-CP.
1.1.2.3. Đặc điểm của pháp luật vi phạm hành chính trong hành nghề luật sư
Cũng như bất cứ hoạt động nghề nghiệp nào khác, nền tảng hoạt động
của nghề luật sư phải dựa trên pháp luật và các quy chế trách nhiệm nghề
nghiệp. Pháp luật về luật sư được coi là hệ thống các quy phạm pháp luật xác
định vị trí, vai trò của luật sư trong xã hội, quy định các quyền và nghĩa vụ
của luật sư trong hành nghề, phạm vi quản lý Nhà nước đối với hoạt động luật
sư và tính tự quản trong tổ chức nghề nghiệp luật sư; xử lý vi phạm trong hoạt
động nghề nghiệp…
Tuy đối tượng và phạm vi điều chỉnh của pháp luật và quy chế trách
nhiệm nghề nghiệp luật sư có khác nhau, nhưng giữa chúng có mối liên hệ
mật thiết và chi phối lẫn nhau. Pháp luật về luật sư có tác dụng như “hành
lang”, “khuôn mẫu chung” cho luật sư hoạt động với các quyền và nghĩa vụ
cụ thể trước pháp luật, còn quy chế trách nhiệm nghề nghiệp luật sư lại chủ
yếu điều chỉnh hành vi ứng xử của luật sư trong hoạt động nghề nghiệp và
trong xã hội, tuy không hoàn toàn mang tính bắt buộc nhưng cũng đòi hỏi
phải được sự tôn trọng từ phía các luật sư.


24


Trong nhiều trường hợp, đối với nghề nghiệp luật sư, các quy tắc ứng
xử thuộc về phạm trù đạo đức lại chi phối và có tác động lớn lao đến uy tín,
danh dự của luật sư và ảnh hưởng chi phối rất nhiều đến chất lượng dịch vụ
cung cấp cho khách hàng. Sự cộng hưởng qua lại giữa pháp luật và quy tắc
trách nhiệm nghề nghiệp trong hoạt động của luật sư là một trong những minh
chứng cho mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức nói chung.
Nghề luật sư rất chú ý đến vai trò cá nhân, uy tín nghề nghiệp của luật
sư và phương thức tự do trong hành nghề luật sư. Nhiều ý kiến quan Nghề
luật sư đòi hỏi tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp cao. Luật sư mang trên vai
gánh nặng niềm tin mà xã hội và khách hàng ủy thác cho họ. Đối tượng của
nghề nghiệp luật sư, vì thế không đơn thuần mang tính dịch vụ và chỉ nghĩ
đến việc kiếm lời từ dịch vụ đó, mà trước hết chính là nhằm đáp ứng nhu cầu
chính đáng của người dân cần được sự trợ giúp về mặt pháp lý. Do đó, các
quy định về hành vi bị coi là vi phạm hành chính trong hành nghề Luật sư
luôn gắn liền với vai trò và sứ mạng của luật sư như đã nêu ở trên.
1.2. Nội dung, vai trò của pháp luật vi phạm hành chính trong hành nghề
luật sư ở Việt Nam
1.2.1. Nội dung
- Quy định hành vi vi phạm hành chính và hình thức xử phạt trong
trong hành nghề luật sư:
Hiện nay, các nội dung về vi phạm hành chính trong hành nghề Luật sư
được quy định tại của Chương II Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày
24/09/2013 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư
pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản
doanh nghiệp, hợp tác xã. Điều 6 Nghị định đã đưa ra 24 hành vi vi phạm
hành chính trong lĩnh vực hành nghề Luật sư.


25


×