Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Đề cương cơ sở văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.04 KB, 12 trang )

Câu 1: Văn hóa là gì? Phân biệt khái niệm văn hóa với học vấn và văn minh.
Nguồn gốc của từ văn hóa:
 Ở phương Đông: từ văn hóa có cội nguồn từ tiếng Hán. Trong ngôn ngữ Hán, chữ
văn và hóa xuất hiện khá sớm, như hai từ đơn có nghĩa riêng biệt. Theo những tài liệu
cổ xưa của Trung Quốc thì “văn” là vẻ đẹp, “hóa” là “biến đổi”, “biến hóa”. Văn hóa
gộp lại theo nghĩa gốc là” làm cho đẹp, trở thành đẹp đẽ”.
 Ở phương Tây: từ văn hóa xuất hiện vào khoảng thế kỉ thứ III TCN, trong tiếng Latinh bắt nguồn từ chữ “cultus” có nghĩa gốc là trồng trọt, cày cấy, vun trồng. Vậy xét
về nguồn gốc văn hóa là khái niệm gắn với sản xuất nông nghiệp. Về sau thuật ngữ
văn hóa mở rộng thành “cultus animi” và được chuyển nghĩa nói về sự vun trồng tinh
thần, trí tuệ, bồi dưỡng tâm hồn con người.
 Văn hóa là khái niệm rất rộng và khá phức tạp.
Theo Trần Ngọc Thêm: Văn hóa là hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh
thần do con người sáng tạo và tích lũy trong quá trình hoạt động thực tiễn trong sự
tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình.
Khái niệm văn hóa theo UNESCO: Văn hóa là tổng thể nét riêng biệt về tinh thần
và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay một nhóm
người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống,
những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và
những tín ngưỡng. Văn hóa đem lại cho con người khả năng suy xét về bản thân.
Chính văn hóa làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý tính,
có óc phê phán và dấn thân một cách có đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà con người tự
thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương án chưa hoàn thành đặt
ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tòi không không biết mệt những ý
nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình mới mẻ, những công trình vượt trội
bản thân.
 Phân biệt văn hóa với học vấn, văn minh:
Giống nhau: Đều là sự sáng tạo của con người và gắn liền với cuộc sống của loài
người.
Khác nhau:
 Văn hóa với học vấn: khái niệm văn hoá và học vấn tuy có sự gắn kết mật thiết với
nhau, song văn hoá là khái niệm cực kỳ rộng không thể lấy nó để thay cho khái niệm


học vấn.
Văn hóa: Là lịch sử rất rộng và khá phức tạp, là toàn bộ những giá trị vật chất và
tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử và tiêu biểu cho trình độ mà
xã hội đã đạt được trong từng giai đoạn về các mặt học vấn, khoa học, kĩ thuật, văn
học, nghệ thuật, triết học, đạo đức, sản xuất... "Văn hóa" là danh từ thể hiện nét đẹp
trong đối nhân xử thế, trong giao tiếp xã hội, trong các hoạt động nói chung của một
con người trong đời sống. Đó là một "đại lượng" không thể cân, đong, đo, đếm...
Học vấn: là một phần nhỏ bé của văn hóa. Học vấn chỉ là phần tri thức mà chúng
ta nhận được từ nhà trường, là cơ sở quan trọng để tiếp thu nhận thức văn hóa; người
có học vấn cao, sẽ có cơ sở để dễ tiếp nhận văn hoá hơn là người có học vấn thấp. Học
vấn chỉ là một bộ phận rất nhỏ thuộc về lĩnh vực tinh thần của con người, là thành tố
khá quan trọng của văn hoá con người.
Phạm Thị Văn Mỹ

Page 1


 Văn hóa với văn minh: Lâu nay, trong đời thường cũng như trong khoa học, không

hiếm khi văn hóa và văn minh được dùng thay thế cho nhau với hàm nghĩa tương
đương. Song thực ra, đây là hai khái niệm rất khác nhau.
Thứ nhất: Văn hóa và văn minh khác nhau ở tính lịch sử. trong khi văn hóa được xác
định bởi bề dài và chiều sâu của quá khứ thì văn minh chỉ là một mặt cắt đồng đại, nó
cho biết trình độ phát triễn của văn hóa ở từng giai đoạn. Một dân tộc lạc hậu vẫn có
thể có một truyền thống văn hóa lâu đời. Ngược lại, một quốc gia văn minh vẫn có thể
nghèo nàn về văn hóa.
Thứ hai: Sự khác nhau ở tính giá trị. Trong khi văn hóa giàu tính nhân bảng, hướng
tới giá trị muôn thuở, chứa đựng cả giá trị vật chất lẫn tinh thần thì văn minh thường
nghiêng về giá trị vật chất, hướng tới sự hợp lý, sắp đặt cuộc sống sao cho tiện ích.
Thứ ba: Khác biệt về giá trị tinh thần và tính lịch sử dẫn đến sự khác biệt về phạm vi.

Văn hóa thì mang tính dân tộc, còn văn minh thì mang tính quốc tế, nó đặc trưng cho
một khu vực rộng lớn hoặc cả nhân loại, bởi lẽ cái vật chất thì dễ phổ biến, lây lan.
Thứ tư: Khác biệt về nguồn gốc, văn hóa gắn bó nhiều hơn với phương Đông nông
nghiệp, còn văn minh gắn bó nhiều hơn với phương Tây đô thị.
Ví dụ: Văn hóa: áo dài. Kimono,…; văn minh: quần áo,…
Câu 6: Cơ cấu bữa ăn và đặc trưng giữa bữa ăn của người Việt?
 Quan niệm về bữa ăn:
 Hiển nhiên để duy trì sự sống ăn luôn là việc quan trọng số 1 tuy nhiên quan niệm
của con người về chuyện này thì ko phải ai cũng giống ai, có những dân tộc coi ăn là
chuyện tầm thường ko đáng nói nhưng người Việt Nam nông nghiệp luôn quan niệm :
"Có thực mới vực được đạo". Nó còn quan trọng đến mức Trời cũng ko dám xâm
phạm " Trời đánh tránh miếng ăn" . Mọi hành động của người Việt đều lấy ăn làm
hàng đầu như: ăn uống, ăn ở, ăn mặc, ăn nói, ăn chơi, ăn tiêu, ăn cắp, ăn trộm...
 Ăn uống còn là một hiện tượng văn hoá. Ví dụ: Ăn trông nồi, ngồi trông hướng,…
 Cơ cấu bữa ăn của người Việt:
 Ăn uống là văn hóa, chính xác hơn đó là văn hóa tận dụng môi trường tự nhiên. Vì
vậy, trong cơ cấu bữa ăn của người Việt Nam bộc lộ rõ dấu ấn của truyền thống văn
hóa nông nghiệp lúa nước:
1. Cơ cấu bữa ăn thiên về thực vật, đứng đầu là lúa gạo. Tục ngữ có câu: Người sống
về gạo, cá bạo về nước; Cơm tẻ mẹ ruột,… Quê hương của cây lúa là vùng Đông Nam
Á thấp ẩm, trong khu vực Đông Nam Á thì Việt Nam là nơi cây lúa rất phát triển . Đó
là lý do không phải ngẫu nhiên mà người Việt Nam gọi bữa ăn là bữa cơm, coi cây lúa
là tiêu chuẩn của cái đẹp và một thời thì mọi giá trị như lương, thuế, học phí…đều
được “quy ra thóc gạo”
2. Rau quả. Nằm ở một trong những trung tâm trồng trọt, Việt Nam có rất nhiều loại
rau quả phong phú: đói ăn rau, đau uống thuốc là chuyện tất nhiên. Ăn cơm không rau
như nhà giàu chết không kèn trống/ Ăn cơm không rau như đánh nhau không có người
gỡ, đối với người Việt Nam thì ăn rau quả là chuyện tất nhiên và không thể thiếu đó là
rau muống và dưa cà: Anh đi anh nhớ quê nhà, Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm
tương. Từ hai loại đó, có thể chế biến ra nhiều loại khác nhau phù hợp với khẩu vị của

người Việt như cà và dưa cải đem muối. Bên cạnh đó các loại gia vị đa dạng từ rau củ
như: hành, gừng, tỏi, ớt,…là những thứ không thể thiếu trong bửa ăn của người Việt.

Phạm Thị Văn Mỹ

Page 2





















Đứng thứ 3 trong cơ cấu bữa ăn và đứng đầu hàng thức ăn động vật của người Việt là
thủy sản. Từ các loài thủy sản, người Việt Nam đã chế tạo ra một thứ đồ chấm đặc biệt
là nước mắm và mắm các loại. Thiếu nước mắm thì chưa trở thành bữa cơm Việt Nam.

Các bà phi tần nhà Nguyễn từng đặt các địa phương làm hàng trăm lọ mắm để tiến
vua.
Cuối cùng trong cơ cấu bữa ăn của người Việt Nam là thịt. Phổ biến là thịt gà, lợn, bò,
trâu…Đặc sản bình dân là thịt chó, có câu: Sống được miếng dồi chó, chết được bó
vàng tâm; sơn hào hải vị thì như gân hổ, yến xào,..
Đồ uống – hút:
 Đồ uống – hút truyền thống thì có trầu cau, thuốc lá, thuốc lào, rượu gạo, nước chè,
nước vối,…Chúng hầu hết đều là những sản phẩm cổ truyền của nghề trồng trọt Đông
Nam Á.
Ăn trầu cau là phong tục cực kì lâu đời ở Việt Nam, nó cũng phổ biến khắp Đông Nam
Á cổ đại. Miếng trầu gồm một miếng cau, một lá trầu quét vôi, người ta nhai trầu nhổ
nước và bả trầu có tác dụng trừ lam sơn chướng khí, chống hôi miệng, sâu rang,…Tục
ăn trầu cau tiềm ẩn triết lý về sự tổng hợp của nhiều chất khác nhau.
Trong khi trầu cau là hướng thú của phụ nữ thì hút thuốc lào là thú vui chủ yếu của
nam giới. Thuốc lào là một thứ cây gần giống như thuốc lá, hái phơi khô sau đó thái
nhỏ rồi cho vào điếu mà hút. Trên thực tế thì cả phụ nữ lẫn đàn ông đều hút.
Rượu Việt Nam làm từ nếp – thứ gạo đặc sản của vùng Đông Nam Á. Gạo nếp được
đem đồ xôi, ủ cho lên men rồi cất ra. Rượu chế tạo như thế gọi là rượu trắng hoặc rượu
đế để phân biệt với rượu có ướp thêm các thứ hoa gọi là rượu mùi hoặc màu. Rượu
ngâm với thuốc gọi là rượu thuốc. Khi cúng ông bà tổ tiên phải có li rượu trắng.
Cây chè và tục uống chè có nguồn gốc từ vùng Nam Trung Hoa và Bắc Đông Dương.
Ban đầu khi mới phát hiện ra chè người ta dùng nó như một thứ thảo dược, rồi nghiền
lá chè thành bột để uống, cuối cùng là cách uống trà như ngày nay. Người Việt Nam
thường uống chè tươi, khô, ướp chè với các loại hoa.
 Đặc trưng bữa ăn của người Việt:
Tính tổng hợp:
Thể hiện trong cách chế biến đồ ăn: Hầu hết các món ăn Việt Nan đều là sản phẩm
của sự pha chế tổng hợp: rau này với rau khác; rau với cá tôm; rau với các loại gia vị,
… Dù là món bình dân, cầu kì hay đơn giản thì tất cả đều được tạo nên từ rất nhiều
nguyên liệu. Chúng tổng hợp lại với nhau, bổ sung lẫn nhau để cho ta những món ăn

có đủ ngũ chất: bột – nước – khoáng – đạm – béo, nó không những có giá trị dinh
dưỡng cao mà còn tạo một hương vị độc đáo, ngon miệng của đủ ngũ vị: chua – cay –
ngọt – mặn – đắng, lại vừa có cái đẹp hài hòa của đủ ngũ sắc: trắng – xanh – vàng – đỏ
– đen.
Tính tổng hợp còn thể hiện ngay trong cách ăn: Mâm cơm của người Việt dọn ra
bao giờ cũng có đồng thời nhiều món: Cơm, canh, rau, dưa, cá, thịt,…Suốt bữa ăn là
cả một quá trình tổng hợp các món ăn cùng một lúc. Điều này khác hẳn cách ăn lần
lượt đưa ra từng món của người phương Tây. Cách ăn tổng hợp của người Việt Nam
tác động vào đủ mọi giác quan: mũi ngửi mùi thơm ngào ngạt từ món ăn, mắt nhìn
màu sắc hài hòa của bàn ăn, lưỡi nếm vị ngon của đồ ăn, tai nghe tiếng kêu giòn tan
của thức ăn và đôi khi ăn bằng tay lại càng ngon hơn (thịt gà và xôi).
Phạm Thị Văn Mỹ

Page 3




















Cái ngon trong bữa ăn của người Việt là tổng hợp cái ngon của mọi yếu tố: thức
ăn, thời tiết, chỗ ăn, bạn bè, không khí bữa ăn…
Tính cộng đồng và tính mực thước:
Tính tổng hợp kéo theo tính cộng đồng. Ăn chung cho nên các thành viên của bữa ăn
liên quan và phụ thuộc chặt chẽ vào nhau. Vì vậy mà bửa ăn của người Việt là nơi sum
họp đông đảo các thành viên trong gia đình chuyện trò và ăn uống. Thú uống rượu cần
của người vùng cao chính là biểu hiện một triết lý thâm thúy về tính cộng đồng sống
chết có nhau.
Tính cộng đồng đòi hỏi ở con người một thứ văn hóa cao trong ăn uống: vì mọi người
đều phụ thuộc lẫn nhau nên phải ý tứ khi ngồi và mực thước khi ăn “ Ăn trông nồi,
ngồi trông hướng”. Tính mực thước là biểu hiện của khuynh hướng quân bình âm –
dương. Nó đòi hỏi người ăn đừng ăn quá nhanh, quá chậm; đừng ăn quá nhiều, quá ít;
đừng ăn hết, đừng ăn còn… Ăn nhanh chứng tỏ là người vội vàng, thô lỗ; ăn ít, ăn còn
là chê thức ăn dở; ăn chậm thì khiến người khác phải đợi. Khi ăn cơm khách phải ăn
cho ngon miệng để tỏ lòng biết ơn và tôn trọng chủ nhà, đồng thời chừa lại một ít đồ
ăn để tỏ rằng mình không chết đói, tham ăn.
Tính cộng đồng và tính mực thước trong bữa ăn thể hiện tập trung qua nồi cơm và
chén nước mắm. Các món ăn khác thì có thể có người ăn, người không, còn cơm và
nước mắm thì ai cũng xơi và ai cũng chấm, đây là hai món không thể thiếu trong bửa
ăn. Vì ai cũng dùng nên chúng trở thành thước đo sự ý tứ, trình độ văn hóa của mỗi
người. Chủ nhà ngồi đầu nồi phải tế nhị và mực thước khi đơm cơm cho khách, không
nên đơm cơm nhiều quá vì dễ rơi vãi, không còn chỗ bỏ thức ăn hoặc quá ít thì ăn
nhanh hết, thấy cơm sắp hết phải giảm tốc độ ăn của mình, tránh không để đũa cái va
vào nồi, phải luôn làm sao cho khách thấy đầy đủ, thoải mái nhất. Chấm nước mắm
phải cho gọn, sạch, không rớt ra ngoài. Nồi cơm ở đầu mâm, chén mắn ở giữa mâm
còn là biểu tượng cho cái đơn giản mà thiết yếu: cơm gạo là tinh hoa của đất; mắm
chiết suất từ cá là tinh hoa của nước – chúng giống như hành Thủy và hành Thổ là cái

khởi đầu và cái trung tâm trong Ngũ Hành.
Tính biện chứng, linh hoạt:
Tính linh hoạt của người Việt Nam thể hiện rất rõ trong cách ăn. Lối ăn của người Việt
Nam là một quá trình tổng hợp các món ăn, nhưng có bao nhiêu người ăn thì có bấy
nhiêu cách tổng hợp khác nhau – đó là cả một khuôn khổ rộng rãi cho sự linh hoạt của
con người.
Tính linh hoạt còn thể hiện trong dụng cụ ăn. Người Việt phần lớn dùng đũa để gắp
những thức ăn không thể cầm, nắm, bốc,…đũa được làm bằng tre. Trong khi người
phương Tây phải dùng một bộ đồ ăn gồm dao, thìa, dĩa,…mỗi thứ thực hiện một chức
năng riêng lẻ thì đôi đũa của người Việt Nam thực hiện một cách tổng hợp và cực kì
linh hoạt nhiều chức năng khác nhau: gắp, xẻ, và, dầm, trộn,…nối cho cánh tay dài ra
để gắp thức ăn xa.
Tuy nhiên, biểu hiện quan trọng hơn cả của tính biện chứng trong bữa ăn của người
Việt Nam đó là việc chú trọng đến quan hệ biện chứng âm – dương, bao gồm ba mặt
liên quan mật thiết với nhau: sự hài hòa âm – dương của thức ăn, sự quân bình âm –
dương trong cơ thể, sự cân bằng âm – dương giữa con người với môi trường tự nhiên.
Để tạo nên những món ăn có sự cân bằng âm – dương, người Việt phân biệt thức ăn
theo năm mức âm – dương, ứng với Ngũ hành: hàn, nhiệt, ôn, lương, bình. Theo đó
Phạm Thị Văn Mỹ

Page 4















+

người Việt tuân thủ nghiêm ngặt luật âm – dương bù trừ và chuyển hóa khi chế biến.
Tập quán sử dụng gia vị còn có tác dụng điều hòa âm – dương, thủy – hỏa của thức ăn.
Để tạo nên sự quân bình âm – dương trong cơ thể, ngoài việc ăn các món chế biến có
tính đến sự quân bình âm – dương, người Việt Nam còn sử dụng thức ăn như những vị
thuốc để điều chỉnh sự mất quân bình âm – dương trong cơ thể. Mọi bệnh tật đều do
mất quân bình âm dương vì vậy mọi người bị ốm do quá ân cần ăn đồ dương và ngược
lại ốm do quá dương cần ăn đồ âm để khôi phục lại sự thăng bằng đã mất.
Để đảm bảo quân bình âm dương giữa con người với môi trường, người Việt có tập
quán ăn uống theo vùng khí hậu, theo mùa. " Mùa hè cá sông, mùa đông cá bể, chim
ngói mùa thu, chim cu mùa hè..."
Việt Nam là xứ nóng (dương) nên phần lớn thức ăn đều thuộc loại bình, hàn (âm), cơ
cấu ăn thiên về thức ăn thực vật (âm) và ít thức ăn động vật (dương) chính là góp phần
quan trọng trong việc tạo nên sự cân bằng giữa con người với môi trường.
Tính biện chứng còn thể hiện ở việc ăn phải chọn đúng bộ phận có giá trị, đúng trạng
thái có giá trị, đúng thời điểm có giá trị. chuối sau, cau trước,đầu chép, mép trôi, môi
mè, lườn trắm..). Thời điểm có giá trị còn là lúc thức ăn đang trong quá trình âm
dương chuyển hóa, đang ở dạng âm dương cân bằng hơn cả và vì vậy mà rất giàu chất
dinh dưỡng ( trứng lộn, nhộng, lợn sữa, ong non..)
Câu 7: Phân tích các đặc điểm của ngôi nhà người Việt Nam?
 Đối với người nông nghiệp Việt Nam, ngôi nhà – cái tổ ấm để đối phó với nóng
lạnh, nắng mưa, gió bão – cũng là một trong những yếu tố quan trọng nhất đảm bảo
cho họ một cuộc sống định cư ổn định, bởi có an cư thì mới lạc nghiệp. Do ngôi nhà
chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong cuộc sống người Việt Nam cho nên trong

tiếng Việt “nhà” – chỗ ở được coi là đồng nhất với “gia đình” – gồm những người
sống trong nhà như ông bà, vợ chồng, ba mẹ, con cháu. Vì vậy mà ngôi nhà của người
việt có rất nhiều nét đặc trưng mà không phải con người ở đâu trên Thế Giới này có
được:
Thứ nhất, do khu vực cư trú là vùng sông nước cho nên ngôi nhà của người Việt Nam
gắn liền với môi trường sông nước. Những người sống bằng nghề sông nước thường
lấy thuyền bè làm nhà ở. Nhiều gia đình như vậy quần tụ lại với nhau lập nên một xóm
chài, làng chài. Những người không sống bằng nghề sông nước cũng làm nhà sàn trên
mặt nước, mặt đất để đối phó với ngập úng, lũ lụt, ngăn cản côn trùng, thú dữ,... Để kỉ
niệm về thiên nhiên sông nước, ngày xưa ngôi nhà của người Việt được làm với chiếc
mái cong hình thuyền. Ngày nay người dân thường làm mái thẳng cho giản tiện, vì vậy
chúng ta chỉ có thể bắt gặp những lối kiến trúc này ở các ngôi chùa, đền đình, cung
điện,...
Thứ hai, để ứng phó với môi trường tự nhiên tiêu chuẩn ngôi nhà Việt Nam về mặt
kiến trúc là “nhà cao, cửa rộng”. Đây là lối kiến trúc mở để tạo không khí thoáng mát,
giao hòa với tự nhiên của người Việt, khác với kiến trúc phương tây đóng, nhà nhỏ,
trần thấp, tường dày, cửa ít để có thể giữ ấm.
Cái “cao” của ngôi nhà người Việt bao gồm hai yêu cầu: sàn nhà cao so với đất và mái
cao so với sàn nhà. Nhà sàn hay nhà đất của người Việt luôn đáp ứng yêu cầu “cao”
thứ nhất là có tác dụng ứng phó với môi trường và thú dữ. Còn yêu cầu “cao” thứ hai –
mái cao so với sàn nhà – là nhằm tạo ra một khoảng trống không gian thoáng mát để
ứng phó với thời tiết nóng, với lượng mưa nhiều và tránh dột nước.
Phạm Thị Văn Mỹ

Page 5


+ Nhà cao nhưng cửa không cao mà phải rộng. Cửa không cao là để tránh nắng chiếu





+

+


+

+

xiên, tránh mưa hắt. Cửa phải rộng là để đón gió mát và tránh nóng, đồng thời tránh
gió độc, gió mạnh tạo nên sự kín đáo cho ngôi nhà.
Thứ ba là chọn hướng nhà, chọn đất. Đó là cách tận dụng tối đa thế mạnh của môi
trường tự nhiên để ứng phó với tự nhiên. Hướng nhà tiêu biểu mà người Việt Nam
chọn để làm nhà là hướng Nam: “Lấy vợ đàn bà, làm nhà hướng nam”. Câu tục ngữ
này nói lên tính hiển nhiên của việc làm nhà hướng nam, cũng như lấy vợ phải là đàn
bà vậy. Vì Việt Nam ở gần biển, lại trong khu vực gió mùa nên trong bốn hướng chỉ
hướng Nam là hướng tốt nhất – vừa tránh được cái nóng từ phía Tây, cái bão của
hướng Đông và gió lạnh tứ hướng Bắc lại vừa tận dụng được gió mát thổi từ Nam về.
Bên cạnh chọn hướng làm nhà, người Việt Nam có chọn đất làm nhà tùy thuộc vào địa
hình, địa vật xung quanh và sự có mặt của núi, sông, con đường. Do vậy từ xa xưa
trong truyền thống nông nghiệp Việt Nam đã hình thành nên nghề chọn đất để làm nhà
gọi là “nghề phong thủy”: “phong” là gió, là “động”, là dương. Còn “thủy” là nước, là
“tĩnh hơn”, là “âm”. Người Việt Nam luôn tuân thủ theo thuật phong thủy để có thể
chọn được cho mình hướng làm nhà, đất làm nhà tối ưu nhất.
Ngoài việc chọn nơi mà ở, người Việt Nam với tính cộng đồng cao rất quan tâm đến
việc chọn hàng xóm, láng giềng: “nhất cận thị, nhị cận lân, tam cận giang, tứ cận lộ,
ngũ cận điền”.
Thứ tư, về cách thức kiến trúc thì đặc điểm của ngôi nhà Việt Nam truyền thống là rất

“động” và “linh hoạt”.
Chất động và linh hoạt đó trước hết thể hiện ở lối kết cấu khung. Cốt lõi của một ngôi
nhà là bộ khung chịu lực được tạo nên bởi các bộ phận liên kết với nhau trong một
không gian ba chiều: Theo chiều đứng, trọng lực của ngôi nhà phân bố đều ở các cột.
Theo chiều ngang, các cột được nối với nhau bằng các kẻ tạo nên các vì kèo. Theo
chiều dọc, các vì kèo được nối với nhau bằng các xà, tất cả chúng tạo nên bộ khung
vững chắc.
Chất động và linh hoạt này còn được thể hiện ở liên kết “mộng”. Đây là cách ghép
theo nguyên lý âm dương, phần lồi ra của bộ phận này với chỗ lõm vào có hình dáng
và kích thước tương đương ở một bộ phận khác... cách liên kết này rất chắc chắn
nhưng lại rất linh động, khi cần di chuyển hoặc thay thế đều có thể tháo ra rất dễ dàng.
Thứ năm, về hình thức kiến trúc thì ngôi nhà là tấm gương phản ánh đặc điểm của
truyền thống văn hóa dân tộc.
Trước hết là môi trường sông nước phản ánh qua cách làm nhà sàn với vách nghiêng
và mái cong hình thuyền. Rồi tính cộng đồng thể hiện ở việc trong nhà không chia
thành nhiều phòng nhỏ, biệt lập từng thành viên mà cả gia đình sống quây quần cùng
nhau trong một không gian chung dưới một mái nhà. Giữa hai nhà thì chỉ cách nhau
một hàng rào bằng cây được xén thấp, để thuận tiện cho việc trò chuyện với nhau và đi
lại.
Người Việt Nam có tục thờ cúng tổ tiên và hiếu khách nên ngôi nhà của người Việt
luôn dành ưu tiên gian giữa cho việc thờ cúng và tiếp khách. Sau nữa là truyền thống
coi trọng bên trái ( phía đông) ,với cái bếp đặt hướng đông, cái đòn nóc cũng đc đặt
phía đông,...

Phạm Thị Văn Mỹ

Page 6


+ Ngoài ra hình thức kiến trúc ngôi nhà Việt Nam còn tuân thủ theo nguyên tắc coi trọng


số lẽ của truyền thống văn hóa nông nghiệp như: cổng tam quan, lên nhà thì phải qua
bậc tam cấp, ngôi nhà thuờng có ba gian, Ngọ môn 5 cửa 9 lầu, cột cờ 3 cấp,
 Cách liên kết theo lối ghép mộng âm dương giúp cho các bộ phận vừa gắn bó chặt
chẽ lại vừa cơ động và linh hoạt. Nhìn chung chỉ trong 1 việc ở, ta cũng thấy nguyên
lý âm dương và ý muốn hướng tới 1 cuộc sống hài hòa chi phối con người Việt Nam 1
cách trọn vẹn.
Câu 8: Nguồn gốc, biểu hiện, ý nghĩa của tín ngưỡng phồn thực?
 Nguồn gốc:











+

 Ngay từ đầu, duy trì và phát triển sự sống đã là một nhu cầu thiết yếu nhất của con
người. Để duy trì sự sống, cần mùa màng tươi tốt. Để phát triển sự sống cần con người
sinh sôi.
 Từ thực tiễn đó, tư duy cư dân nông nghiệp Nam Á đã phát triển theo hai hướng:
Những trí tuệ sắc sảo đi tìm quy luật khách quan để lý giải hiện thực, kết quả là tìm
được triết lý âm dương. Còn những người có trình độ hạn chế thì nhìn thấy ở hiện thực
một sức mạnh siêu nhiên, bởi vậy mà sung bái nó như thân thánh, kết quả là xuất hiện
tín ngưỡng phồn thực (Phồn=nhiều, thực=nảy nở)

 Biểu hiện:
Ở Việt Nam, tín ngưỡng phồn thực từng tồn tại suốt chiều dài lịch sử với hai dạng
biểu hiện: thờ cơ quan sinh dục và thờ hành vi giao phối
 Thờ cơ quan sinh dục
Việc thờ cơ quan sinh dục nam nữ được gọi là thờ sinh thực khí (sinh: đẻ, thực: nảy
nở, khí: công cụ). Đây là hình thái đơn giản của tín ngưỡng phồn thực, phổ biến ở các
nền văn hóa nông nghiệp.
Tượng đá hình nam nữ với bộ phận sinh dục phóng to hàng nghìn năm TCN được tìm
thấy ở Văn Điển (Hà Nội), Sa Pa (Lào Cai). Ở các nhà mồ Tây Nguyên thường có các
tượng người với bộ phận sinh dục phóng to.
Ở Phú Thọ, Hà Tĩnh và nhiều nơi khác có tục thờ cúng nõ nường (nõ=cái nêm tượng
trưng cho sinh thực khí nam; nường=nang, mo nang tượng trưng cho sinh thực khí
nữ).
Ở hội làng Đồng Kị (Bắc Ninh) có tục rước sinh thực khí bằng gỗ rồi đem đốt thành
tro chia cho mọi người đem rắc ra ruộng.
Ở Phú Thọ, Bắc Ninh, Hà Tây… thường có tục rước 18 bộ sinh thực khí vào hội làng.
Khi đám rước kết thúc, mọi người tranh nhau cướp vì tin rằng sẽ đem lại may mắn.
Việc thờ các loại cột đá và các loại hốc. Ở chùa Dạm (Bắc Ninh) có một cột đá hình
sinh thực khí nam có chạm nổi hình rồng thời Lý. Ngư phủ ở Sở đầm Hòn Đỏ thờ một
kẽ nứt trên tảng đá gọi là Lỗ Lường.
 Thờ hành vi giao phối
Bên cạnh việc thờ sinh thực khí, cư dân trồng lúa nước với lối tư duy coi trọng quan hệ
còn có tục thờ hành vi giao phối, tạo nên một dạng tín ngưỡng phồn thực độc đáo, phổ
biến ở khu vực Đông Nam Á.
Trên nắp thạp đồng tìm được ở làng Đào Thịnh, xung quanh hình mặt trời là tượng
bốn đôi nam nữ đang giao phối. Ở chân thạp đồng khắc hình những con thuyền nối
đuôi nhau khiến cho hai con cá sấu – rồng chạm nhau trong tư thế giao hoan.
Phạm Thị Văn Mỹ

Page 7



+ Ở các nhà mồ Tây Nguyên dựng những tượng nam nữ giao phối hòn nhiên với bộ
+
+
+

+
+









phận sinh dục phóng to.
Không chỉ hình người mà hình chim, thú, cóc giao phối tìm thấy khắp nơi
Vào Hội đền Hùng, thanh niên nam nữ múa từng đôi, tay cầm vật biểu trưng cho sinh
thực khí.
Ở Sở đầm Hòn Đỏ, khi không đánh được cá, người cầm đầu tới cầu xin và cầm vật
tượng trưng cho sinh thực khí nam rồi đâm vào Lỗ Lường ba lần…
+ Từ thời xa xưa, chày và cối - bộ công cụ thiết thân của người nông nghiệp Đông
Nam á - đã là những vật tượngtrưng cho sinh thực khí nam và nữ, còn việc giã gạo là
tượng trưng cho hành động giao phối. Không phải ngẫu nhiên mà trong vô vàn cách
khác nhau được tách vỏ trấu khỏi hạt gạo, người Đông Nam á đã chọn cách này; trên
các trống đồng khắc rất nhiều những hình nam nữ giã gạo từng đôi.
Trên các trống đồng khắc rất nhiều hình nam nữ giã gạo từng đôi.

Tục giã cối đón dâu.
 Ý nghĩa:
Vai trò của tín ngưỡng phồn thực trong đời sống người Việt cổ lớn tới mức chiếc
trống đồng – biểu tượng sức mạnh và quyền lực của người xưa, đồng thời cũng là biểu
tượng toàn diện của tín ngưỡng phồn thực.
Trước hết, hình dáng trống đồng phát triển từ chiếc cối giã gạo.
Thứ hai, cách đánh trống mô phỏng động tác giã gạo.
Thứ ba, trên tâm mặt trống là hình mặt trời với những tia sáng biểu hiện cho sinh thực
khí nam, và giữa các tia sáng là một hình lá với khe ở giữa biểu trưng cho sinh thực
khí nữ.
Thứ tư, xung quanh mặt trống thường gắn các tượng cóc, cầu mưa, khiến cho mùa
màng tươi tốt, cũng là một dạng biểu trưng của tín ngưỡng phồn thực.
Cuối cùng, tiếng trống đồng mô phỏng tiếng sấm.
Ngay cả những hiện tượng tưởng chừng rất xa xôi như chùa Một Cột (dương) trong cái
hồ vuông (âm), tháp Bút (dương) và đài Nghiên (âm) ở cổng đền Ngọc Sơn (Hà Nội),
cửa sổ tròn (dương) trên gác Khuê Văn (tượng trưng cho sao Khuê) soi mình xuống hồ
vuông (âm) Thiên Quang Tỉnh trong Văn Miếu vv..., cũng đều liên quan tới tín
ngưỡng phồn thực. Cũng không phải ngẫu nhiên mà ở các nơi thờ cúng thường gặp
thờ ở bên trái là cái mõ và bên phải là cái chuông: Sự việc đơn giản này là biểu hiện
của cả lí luận "Ngũ hành" lẫn tín ngưỡng phồn thực - cái mõ làm bằng gỗ (hành Mộc)
đặt ở bên trái (phương Đông) là dương, cái chuông làm bằng đồng (hành Kim) đặt ở
bên phải (phương Tây) là âm. Tiếng mõ trầm phải hòa với tiếng chuông thanh: nếu
không có nam nữ, âm dương hòa hợp sẽ không có cuộc sống vĩnh hằng.

Phạm Thị Văn Mỹ

Page 8


-


-

-

-

Câu 9: Nguồn gốc, biểu hiện, ý nghĩa của tín ngưỡng sùng bái tự nhiên.
 Nguồn gốc:
Sùng bái tự nhiên là giai đoạn tất yếu trong quá trình phát triển của con người. Với
người Việt Nam sống bằng nghề nông nghiệp lúa nước thì sự gắn bó với tự nhiên lại
càng dài lâu và bền chặt. Việc đồng thời phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau của tự
nhiên dẫn đến hậu quả trong lĩnh vực tư duy là lối tư duy tổng hợp và trong lĩnh vực
tín ngưỡng là “tín ngưỡng đa thần”. Chất âm tính của văn hóa nông nghiệp dẫn đến hệ
quả trong quan hệ xã hội là lối sống thiên về tình cảm, trọng phụ nữ và trong tín
ngưỡng là tình trạng các nữ thần chiếm ưu thế. Và vì cái đích mà người Việt Nam
hướng tới là sự phồn thực cho nên nữ thần của ta không phải là các cô gái trẻ đẹp mà
là các Bà mẹ, các Mẫu.
 Biểu hiện:
Thờ Bà Trời, Bà Đất, Bà Nước – những nữ thần cai quản các hiện tượng tự nhiên quan
trọng và thiết thân nhất đối với cuộc sống của người làm nông nghiệp lúa nước. Về
sau, do ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa nên có thêm Ngọc Hoàng, Thổ Công, Hà
Bá, song tục thờ bộ ba nữ thần này vẫn lưu truyền trong dân gian dưới dạng tín
ngưỡng “Tam Phú” với Mẫu Thượng Thiên (còn gọi là Mẫu Cửu Trùng hay Cửu
Thiên Huyền Nữ). Mẫu Thượng Ngàn và Mẫu Thoải – cai quản ba vùng trời – đất –
nước. Nhiều nhà, ở góc sân vẫn có một bàn thờ lộ thiên gọi là bàn thờ Bà Thiên. Nhiều
vùng, Bà Đất, Bà Nước tồn tại dưới dạng nữ thần khu vực như Bà Chúa Xứ, Bà Chúa
Sông, Bà Chúa Lạch. Bà Đất còn tồn tại dưới tên gọi Mẹ Đất. Bà Nước cũng tồn lại
dưới tên Bà Thuỷ.
Các bà Mây – Mưa – Sấm – Chớp – những hiện tượng tự nhiên có vai trò hết sức to

lớn trong cuộc sống của cư dân nông nghiệp lúa nước. Đến khi đạo Phật vào Việt nam,
nhóm nữ thần này được nhào nặn thành hệ thống Tứ Pháp : Pháp Vân (Thần Mây) thờ
ở chùa Bà Dâu, Pháp Vũ (Thần Mưa) thờ ở chùa Bà Đậu, Pháp Lôi (Thần Sấm) thờ ở
chùa Bà Tướng, Pháp Điện (Thần Chớp) thờ ở chùa Bà Dàn. Lòng tin của nhân dân
vào hệ thống Tứ Pháp mạnh đến nỗi vào thời Lí, nhiều lần triều đình đã phải rước
tượng Pháp Vân về Thăng Long cầu đảo, thậm chí rước theo đoàn quân đi đánh giặc…
Người Việt còn thờ các hiện tượng tự nhiên khái quát như không gian và thời gian.
Thần không gian được hình dung theo Ngũ Hành: Ngũ Hành Nương Nương, Ngũ
Phương Chi Thần coi sóc trung ương và bốn hướng; Ngũ Đạo Chi Thần trông coi các
ngả đường. Theo địa chí, người ta thờ thần thời gian là Thập Nhị Hành Khiển (12 vị
thần, mỗi vị coi sóc một năm thco Tí, Sửu, Dần, Mão,…). Thời gian kéo dài, bảo tồn
sự sống vô tận nên mộthai nữ thần này đồng thời có trách nhiệm coi sóc việc sinh nở –
đó là 12 Bà Mụ.
Trong mảng tín ngưỡng sùng bái giới tự nhiên còn có việc thờ động vật và thực vật.
Chim, rắn, cá sấu chính là những loài phổ biến hơn cả ở vùng sông nước, do vậy thuộc
loại động vật được sùng bái hàng đầu. Người Việt có câu: nhất điểu, nhì xà, tam ngư,
tứ tượng. Thiên hướng nghệ thuật của loại hình văn hóa nông nghiệp còn đẩy các con
vật này lên mức biểu trưng: Tiên, Rồng. Theo truyền thuyết thì tổ tiên người Việt
thuộc “họ Hồng Bàng” và là “giống Rồng Tiên” (thành ngữ : con Hồng cháu Lạc, con
Rồng cháu Tiên). Hồng Bàng chính là một loài chim nước lớn. Tiên Rồng là một cặp
đôi, trong đó Tiên được trừu tượng hoá từ giống chim, còn Rồng được trừu tượng hoá
từ hai loại bò sát rắn và cá sấu có rất nhiều ở vùng nước Đông Nam á.
Phạm Thị Văn Mỹ

Page 9


-

-


Hình tượng Con Rồng vốn xuất phát từ vùng Đông Nam Á – đó là điều đã được giới
khoa học khẳng định. Nếp sống tình cảm hiếu hòa của người nông nghiệp đã biến con
cá sấu ác thành con rồng hiền, con vật phù hộ cho người dân nông nghiệp. Hình cá sấu
là mô típ trang trí khá phổ biến trong các đồ đồng Đông Sơn. Cá Sấu – Rồng được coi
là chúa tể cai quản vùng sông nước với tên gọi Bua Khú (Vua Sấu) ở người Mường,
Long Quân, Long Vương ở người Việt. Con Rồng Việt Nam mang đầy đủ hai nét đặc
trưng cơ bản của tư duy nông nghiệp là tổng hợp và linh hoạt : là kết hợp của cá sấu và
rắn, sinh ra từ nước và bay lên trời, bay lên trời mà không cần phải có cánh, miệng vừa
phun nước vừa phun lửa. Rất nhiều địa danh Việt Nam được đặt tên “rồng”: Hàm
Rồng, Hàm Long, Thăng Long, Hạ Long, Cửu Long, Bạch Long Vĩ, Long Đỗ, Long
Điền, Long Môn, v.v… Biểu tượng Rồng khi được đưa từ Đông Nam Á đến Trung
Hoa và châu Á, con Rồng đã bị dương tính hóa: Ở Trung Hoa: thân hình thì thu ngắn
lại và giống thú, còn tính cách thì ác độc và dữ tợn, khi tới Việt Nam vào thời Hán,
người Trung Hoa lần đầu tiên thấy loài cá xấu thuồng luồng hung dữ nên liền đồng
nhất nó với Rồng, còn gọi là giao long. Đến phương Tây, Rồng được xem là con vật
xấu xa, hung hãn, chuyên canh giữ kho báu và còn gắn thêm cho nó đôi cánh.
Thực vật thì được tôn sùng nhất là cây Lúa : khắp nơi – dù là vùng người Việt hay
vùng các dân tộc – đều có tín ngưỡng thờ Thần Lúa, Hồn Lúa, Mẹ Lúa,…Thứ đến các
loài cây xuất hiện sớm ở vùng này như cây Cau, cây Đa, cây Dâu, quả Bầu,…
 Ý nghĩa:
Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên là một tín ngưỡng dân gian thuần Việt, có lịch sử lâu
đời của người Việt, biến chuyển thích ứng với sự thay đổi của xã hội. Tín ngưỡng thờ
Mẫu hướng đến cuộc sống thực tại của con người với ước vọng sức khỏe, tài lộc, may
mắn, là một nhu cầu trong đời sống tâm linh của người Việt, mang lại cho họ sức
mạnh, niềm tin và có sức thu hút mọi tầng lớp trong xã hội. Tâm là giá trị cốt lõi của
tín ngưỡng thờ Mẫu. Mẫu dạy con người sống hướng thiện, có cái tâm trong sáng, biết
đối nhân xử thế, thờ phụng ông bà tổ tiên và biết ơn những người có công với dân, với
nước.
Câu 10: Nguồn gốc, biểu hiện, ý nghĩa tín ngưỡng sùng bái con người.

 Nguồn gốc chung:
Con người có cái vật chất và tinh thần, cái tinh thần là cái khó nắm bắt và được trừu
tượng hóa, thần thánh hóa gọi là “linh hồn”, và linh hồn trở thành đầu mối của tín
ngưỡng. Người Việt và một vài dân tộc Đông Nam Á đã chia linh hồn thành hồn và
vía. Vía là cái làm hoạt động các quan năng - những nơi có thể tiếp xúc với môi trường
xung quanh. Đàn ông có 7 vía cai quản 7 lỗ trên mặt : hai tai, hai mắt, hai lỗ mũi và
miệng. Phụ nữ thì có thêm hai cái vía cai quản nơi sinh đẻ và nơi cho con bú. Ba hồn,
theo một cách giải thích uyên bác, gồm tinh, khí và thần. Tinh là sự tinh anh trong
nhận thức. Khí là khí lực, là năng lượng làm cho cơ thể hoạt động. Thần là thần thái, là
sự sống nói chung Từ xác đến vía, từ vía đến tinh, từ tinh đến khí, từ khí đến thần là
cả một chuỗi xích với mức độ trừu tượng và tầm quan trọng tăng dần. Hồn và vía giải
thích các hiện tượng như trẻ con hay đau ốm, ngủ mê (hồn lâm thời lìa thể xác để đi
chu du), ngất, chết. (tục gọi hồn, hú hồn). Vía phụ thuộc vào thể xác: có người lành
vía, dữ vía, yếu vía, cứng vía, độc vía, vía nặng, vía nhẹ. Khi gặp người có vía độc thì
phải đốt vía, trừ vía, giải vía,... Khi người chết thì vía hòa vào thể xác mà tiêu tan. Hồn
trừu tượng hơn nên được xem là độc lập với thể xác, khi chết thì hồn lìa khỏi xác mà
Phạm Thị Văn Mỹ

Page 10


ra đi. Hồn của người này (đã chết lâu) có thể nhập vào xác của người kia (mới chết
sinh ra chuyện Hồn Trương Ba, da hàng thịt (truyện cổ tích ).
Thờ cúng tổ tiên: Niềm tin rằng chết là về với tổ tiên, nơi chin suối, tin rằng tuy ở
nơi chín suối ông bà tổ tiên vẫn thường xuyên đi về thăm nom, phù hộ cho con cháu là
cơ sở hình thành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.
Nghĩa hẹp: là sự thờ cúng cha, mẹ, ông, bà, tổ tiên (những người đã chết) cùng
huyết thống, có công ơn to lớn đối với ta, là bậc sinh thành, nuôi sống ta khôn lớn,
điều đó thể hiện lòng biết ơn, tôn trọng của mình đối với họ – những người có công
sinh thành và nuôi dưỡng con cháu .

Nghĩa rộng: thờ cúng tổ tiên không chỉ trong phạm vi huyết thống từ gia đình đến
họ tộc mà con người còn mở rộng ra cả tổ tiên làng xã và đất nước .
 Nguồn gốc của thờ cúng tổ tiên:
Thờ cúng tổ tiên là sản phẩm của sự kết hợp giữa ba yếu tố cơ bản ý thức về linh hồn
bất tử, tổ tiên Tôn Tem, tổ tiên của con người và ý nghĩa là sự che chở cho gia đình.
+ Là đặc trưng của thời kì lịch sử ở chế độ thị tộc phụ quyền. Gắn với sự tồn tại của
linh hồn con người sau khi mất. Coi tổ tiên là động vật, thực vật, sự vật đến việc thừa
nhận tổ tiên đích thực của con người.
+ Bàn thờ tổ tiên bao giờ cũng đặt ở gian giữa, nơi quan trọng nhất. ngoài ngày giỗ thì
việc cúng tổ tiên còn được tiến hành đều đặn vào các ngày Rằm, mồng một, dịp lễ Tết
hay bất kỳ trong nhà có việc gì: để bá cáo tổ tiên (dựng vợ gả chồng, sinh con.... ); để
cầu tổ tiên phù hộ (làm nhà, đi xa, thi cử....); để tạ ân (thi đỗ, đi xa về bình yên....).
Cúng tổ tiên bằng cả đồ ăn, đồ mặc, đồ dùng, vàng mã, hương hoa, trà rượu. Hương
khói bay lên trời, nước (rượu) hòa với lửa mà thấm xuống đất - trước mắt ta là một sự
hòa quyện lửa - nước (âm dương) và trời - đất - nước (tam tài) mang tính triết lí sâu
sắc !
 Biểu hiện của thờ cúng tổ tiên:
+ Mang sắc thái riêng so với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Hán, nó ăn sâu vào
tâm linh của người Việt. Có tính lịch sử, sức sống lâu bền, mang tính phổ quát. Thờ
cúng tổ tiên ở Việt Nam thể hiện ba cấp độ: gia đình thờ tổ tiên, ông bà, cha mẹ và họ
tộc mang tính huyết thống; làng xã thờ Thành Hoàng và quốc gia thờ vua – thần vừa
mang tính huyết thống vừa mang tính xã hội.
 Ý nghĩa:
+ Vừa đáp ứng nhu cầu tâm linh, vừa thể hiện đạo lí làm người. Khơi dậy lòng biết ơn,
giáo dục ý thức hướng về cội nguồn. Ý nghĩa thế tục, nhân dịp giỗ kị anh em xa gần có
dịp gặp gỡ, quay quần bên nhau. Là một nét đẹp văn hóa, một nét đặc trưng vốn có của
người Việt  cần phát huy những mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực.
 Thờ Thổ Công: Trong gia đình ngoài thờ tổ tiên, người Việt Nam còn thờ Thổ
Công – một dạng mẹ đất. Là vị thần coi gia cư , ngăn chặn tà thần, định đoạt phúc họa
cho một gia đình. Sống ở đâu thì Thổ Công ở đó: “đất có Thổ Công, sông có Hà Bá”.

Thổ Công là một hình tượng bộ ba. Mối quan hệ giữa Thổ Công và ông bà tổ tiên
trong gia đình rất thú vị: Thổ Công định đoạt phúc họa cho cả nhà nên là vị thần quan
trọng nhất , nhưng ông bà sinh thành ra gia đình nên được tôn kính nhất. Để không
làm mất lòng ai, người Việt xếp cho ông bà tổ tiên ngự tại bàn thờ tôn kính nhất – gian
giữa. Còn Thổ Công thì gian bên trái. Thổ Công được coi là đệ nhất gia chi chủ, mỗi
khi giỗ cha mẹ đều phải khấn Thổ Công trước rồi xin phép Ngài cho cha mẹ được về.
Phạm Thị Văn Mỹ

Page 11


Đó là ảnh hưởng của truyền thống "lãnh đạo tập thể", thật chẳng khác vua Lê chúa
Trịnh chút nào.
Ở Nam Bộ, Thổ Công được thay bằng Ông Địa với các đặc điểm : bàn thờ đặt ở
dưới đất (thần đất phải trở về với đất!) và nhiều nơi đồng nhất với Thần Tài (mọi của
cải đều từ đất mà ra!). Nhiều tranh tượng Ông Địa với khuôn mặt nữ tính, ngực lớn và
cái bụng chình ình của người sắp đẻ (gọi là ông Địa - Bà Bóng) cho thấy rõ mối liên
hệ với cội nguồn Mẹ Đất và nguyên lí phồn thực.
 Thờ Thành Hoàng: Tín ngưỡng thờ thần ở Việt Nam không chỉ đóng khung trong
phạm vi gia đình , ngoài các vị thần tại gia thì còn có các thần linh chung của thôn xã
hoặc toàn dân tộc. Trong phạm vi thôn xã thì quan trọng nhất là thờ Thành Hoàng,
trong một ngôi làng thì Thành Hoàng là một vị thần cai quản, che chở cho dân làng,
phù hộ dân làng bình yên, thịnh vượng. Thành Hoàng có thể là thiên thần, nhiên thần
hay nhân thần và cũng có khi là người có công lập ra làng xã hoặc là những người chết
bất đắc kì tử, không làng nào là không có Thành Hoàng. Thời xưa nhà vua thường cấp
sắc cho Thành Hoàng các làng thường được thờ ở đền, miếu và thờ vọng ở đình.
Những kẻ có "lí lịch" không hay ho gì; loại này bị gọi là tà thần. Sở dĩ họ được thờ làm
Thành Hoàng là vì những người này, theo niềm tin của dân làng, chết vào giờ thiêng
nên đã ra oai (gây dịch bệnh cho người, gia súc, gây hỏa hoạn. v.v.) khiến cho dân nể
sợ.

Ý nghĩa: Là công cụ tinh thần biểu hiện quyền uy tối thượng của nhà vua. Là một
loại tín ngưỡng đặc sắc nhất, phản ánh rõ đời sống hiện thực của cộng đồng làng, xã.
Là bộ sưu tập văn hóa. Thể hiện chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc. Cần khuyến khích
những yếu tố tích cực, định hướng vào việc bồi dưỡng tình cảm trong sáng, lành mạnh
của con người .
 Tín ngưỡng thờ quốc tổ và quốc mẫu: Trong nhà thờ tổ tiên, trong làng thờ
Thành Hoàng, thì trong nước, người Việt Nam thờ Vua tổ – vua Hùng. Mảnh đất
Phong Châu (Phú Thọ) nơi đóng đô của các vua Hùng thời xưa, được xem là đất tổ.
Ngày 8 – một0/ba là ngày giỗ tổ Hùng Vương.
 Thờ Tứ Bất Tử: Người Việt Nam còn có một tín ngưỡng đặc biệt là tục thờ cúng
Tứ bất tử (bốn người không chết): Thánh Gióng, Tản Viên, Chữ Đồng Tử, Liễu Hạnh.
Tản Viên (Sơn Tinh, Thủy Tinh) và Thánh Gióng là biểu tượng cho sức mạnh đoàn
kết của một cộng đồng cư dân nông nghiệp để một mặt ứng phó với môi trường tự
nhiên là chống lũ lụt và mặt khác là ứng phó với môi trường xã hội là chống giặc
ngoại xâm. Sự phối hợp thần thánh ấy đã dựng lên Đất Nước. Có Đất Nước rồi con
người không mơ ước gì hơn là xây dựng một cuộc sống phồn vinh về vật chất và hạnh
phúc về tinh thần. Chữ Đồng Tử – người nông dân nghèo với hai bàn tay trắng đã cùng
vợ gây dựng nên cơ nghiệp với phố xá sầm uất, mang làng ra biển buôn bán với khách
nước ngoài, chính là biểu tượng cho ước mơ thứ nhất. Liều Hạnh – người con gái quê
ở xã Vân Cát, tương truyền là con gái Trời, ba lần từ bỏ cuộc sống sung sướng trên
Thiên Đường, xin vua cha xuống trần gian sống cuộc sống của người phụ nữ bình dị.

Phạm Thị Văn Mỹ

Page 12



×