MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc và việc giữ gìn bản sắc
văn hóa dân tộc là mối quan tâm của nhiều quốc gia trong bối cảnh toàn
cầu hóa. Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, Việt Nam đang mở rộng quan
hệ, giao lưu hợp tác quốc tế, đây là cơ hội lớn để chúng ta phát huy những
giá trị truyền thống của dân tộc ; đồng thời học hỏi, tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại, đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn. Trong quá trình đó, chúng
ta phải chủ động tiếp thu những cái hay, cái mới từ bên ngoài có lợi cho sự
phát triển đất nước và biết lọc bỏ những gì bất lợi, không phù hợp với
truyền thống đạo lý của dân tộc. Tuy nhiên, trong quá trình mở rộng quan
hệ giao lưu, hợp tác quốc tế, sẽ không tránh khỏi sự va chạm, thậm trí là
đụng độ giữa các giá trị truyền thống của dân tộc với các giá trị bên ngoài,
cho nên đòi hỏi chúng ta phải bảo tồn, giữ gìn, phát huy các giá trị truyền
thống mà còn phải đưa chúng lên trình độ cao hơn trong hoàn cảnh mới ;
đồng thời phải sáng tạo những giá trị phù hợp với thời đại. [10;tr5]
Chính sự cần thiết đó nên bên cạnh nền giáo dục quốc dân cần quan
tâm, trú trọng đến vấn đề văn hóa dân tộc của một đất nước. Nhà nước ta
đã đầu tư rất nhiều cho việc bảo tồn các di sản văn hóa, khôi phục lại các
làng nghề truyền thống, khẳng định dân tộc Việt Nam có nền văn hóa
riêng, độc đáo lâu đời, thu hút du khách nước bạn đến tham quan.
Phú Thọ - Đất tổ Vua Hùng, nguồn cội của dân tộc, nơi nhân dân
cả nước hướng về. Thực tế trong tỉnh Phú Thọ những nét văn hóa dân gian
mang đậm tính chất vùng miền như: Hát xoan, Nghi lễ truyền thống, làng
nghề truyền thống của tỉnh Phú Thọ đang cần được giữ gìn và cần được
quan tâm hơn nữa từ mỗi người dân, mỗi tổ chức, cơ quan Ban Ngành.
Hát xoan (điệu hát mùa xuân) là loại hình nghệ thuật dân gian có
từ lâu đời ở Phú Thọ. Hát Xoan là điệu hát nghi lễ, hầu hết các làng hát
1
Xoan đều hát thờ vua Hùng. Có thể nói hát Xoan là hát thờ tín ngưỡng
Quốc tổ Hùng Vương, cũng là biểu hiện cho tín ngưỡng thờ tổ tiên của
người Việt. Vì vậy, về mặt nghi lễ đây là nghi lễ thiêng liêng nhất. Hiện có
4 phường xoan, trong đó có 3 phường Xoan cổ và phường An Thái mới
thành lập. Thống kê của Sở Văn hóa thể thao và Du lịch Phú Thọ cho thấy
hiện còn 69 nghệ nhân hát Xoan (từ 60 tuổi trở lên), 49 người (từ 60 tuổi
trở lên) biết hát Xoan, 81 người tham gia các phường Xoan, trong đó chỉ có
tám nghệ nhân còn khả năng trình diễn và truyền dạy. Hồ sơ hát Xoan ở
Phú Thọ được hoàn thành vào tháng 3/2010 đến tháng 8/2011 nhận được ý
kiến đánh giá của các chuyên gia quốc tế kèm khuyến nghị UNESSCO ghi
nhận đề cử của Việt Nam và 24/11/2011 từ Bali (Indonesia) tiến sĩ Lê Thị
Minh Lý (Phó cục trưởng Cục Di sản văn hóa) cho biết UNESSCO chính
thức công bố đã ghi danh hát Xoan của Việt Nam vào di sản văn hóa phi
vật thể nhân loại cần được bảo vệ khẩn cấp. [7]
Bên cạnh đó có rất nhiều các làng nghề truyền thống nhưng có một
thực tế đáng buồn là các làng nghề này gần như không phát triển được và
dần bị mai một, như làng ấm ủ - Sơn Vi, làng nón - Sai Nga, làng sơn mài –
Thị xã Phú Thọ, làng mây tre đan – Đỗ Sơn.v.v.v.. Do nhiều yếu tố dẫn tới
những làng nghề mang đậm bản sắc quê hương Phú Thọ đang dần bị quên
lãng, thực tế cho thấy các làng nghề sinh ra để phục vụ đời sống cho dân,
nhưng ngày nay kinh tế thị trường hàng hóa công nghiệp phát triển người
dân không thích dùng những đồ thủ công, thô xơ nữa, bởi vậy sản phẩm
làng nghề làm ra ế ẩm, mà xuất khẩu để làm hàng thủ công mỹ nghệ trưng
bày thì chưa đạt tiêu chuẩn, số người yêu nghề ngày một giảm sút. Ngoài ra
những sinh viên tốt nghiệp trường ở các trường Đại học như Đại học Mỹ
thuật Đông Dương, Đại Học Mỹ thuật Công nghiệp Hà Nội.v.v.v...là thế hệ
có đủ năng lực nhiệt huyết để góp phần vào công cuộc bảo tồn nét văn hóa
truyền thống của đất nước thì do kinh tế thị trường, do nhiều yếu tố khác đã
2
không về quê hương lập nghiệp, mà ở lại thủ đô hoặc các thành phố lớn.
Chính vì vậy mà các làng nghề ở vùng nông thôn thiếu những người trẻ có
trình độ và nhiệt huyết, chỉ còn lại những nghệ nhân lớn tuổi, và những
người yêu nghề không được đào tạo qua trường lớp về nghệ thuật, kỹ thuật
thì rất tốt nhưng khả năng sáng tạo thẩm mỹ chất lượng lại không cao, bởi
vậy nên sản phẩm làm ra không cạnh tranh được trên thị trường công
nghiệp cũng như trên thị trường hàng thủ công mỹ nghệ.
Đứng trước thực tế đó, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Biện pháp quản lý
giáo dục văn hóa dân gian cho học sinh trường trung cấp Văn hóa Nghệ
thuật tỉnh Phú Thọ” nơi đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực nghệ thuật
cho tỉnh. Là người quản lý tôi nhận thấy tầm quan trọng trong việc giáo dục
cho học sinh trường trung cấp Văn hóa Nghệ thuật tỉnh Phú Thọ tư tưởng bảo
tồn và phát huy nét văn hóa dân gian quê hương là nhiệm vụ cao cả.
Để thực hiện được nhiệm vụ trên đòi hỏi phải có sự nỗ lực đồng lòng
của cán bộ giáo viên trong trường cùng học sinh tham gia, đặc biệt là cán bộ
phòng Đào tạo, bộ phận trực tiếp tham mưu cho lãnh đạo, kiểm tra, đánh giá,
nắm bắt tình hình, hiệu quả của vịêc thực hiện công việc, tôi đưa ra đề án bổ
sung thêm kiến thức về nghệ thuật dân gian, nghệ thuật hiện đại, bảo tồn di
sản văn hóa, dạy cho học sinh biết cách kết hợp giữa nghệ thuật dân gian và
nghệ thuật hiện đại, ứng dụng để tạo ra những tác phẩm nghệ thuật cao về
hình thức và nội dung, đậm đà bản sắc dân tộc. Bên cạnh đó cần phải giáo dục
cho học sinh phải biết trân trọng những giá trị văn hóa quê hương, thấy được
cái hay, cái đẹp, cái độc đáo, tinh hoa văn hóa của tỉnh và tầm quan trọng của
việc giữ gìn bản sắc dân tộc. Từ đó xây dựng và phát huy bản sắc văn hóa dân
gian của qê hương Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, thực trạng và đề xuất các biện pháp quản
lý giáo dục văn hóa dân gian cho học sinh trường trung cấp văn hóa nghệ
3
thuật nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường đồng thời góp phần
bảo tồn những nét văn hóa dân gian vùng miền của tỉnh Phú Thọ nói riêng, cả
nước nói chung.
3. Đối tượng, khách thể nghiên cứu
3.1 Khách thể nghiên cứu:
Quá trình giáo dục văn hóa dân gian cho học sinh trường trung cấp
Văn hóa Nghệ thuật tỉnh Phú Thọ.
3.2 Đối tượng nghiên cứu:
Biện pháp quản lý giáo dục văn hóa dân gian cho học sinh trường
trung cấp Văn hóa Nghệ thuật tỉnh Phú Thọ.
4. Giả thuyết khoa học
Giáo dục văn hóa dân gian cho học sinh trường văn hóa nghệ thuật tỉnh
Phú Thọ là một trong những mục tiêu đào tạo của nhà trường. Hiện nay công
tác giáo dục văn hóa dân gian cho học sinh trường văn hóa nghệ thuật tỉnh
Phú Thọ đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, vẫn còn những điều
bất cập do các nguyên nhân chủ quan và khách quan trong đó có nguyên nhân
về quản lý, nếu đề xuất và thực thi được các biện pháp quản lý giáo dục văn
hóa dân gian cho học sinh phù hợp thì sẽ góp phần nâng cao chất lượng, hiệu
quả đào tạo của nhà trường.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1 Nghiên cứu cơ sở lý luận của quản lý giáo dục văn hóa dân gian
của tỉnh Phú Thọ cho học sinh
5.2 Nghiên cứu thực trạng quản lý giáo dục văn hóa dân gian tỉnh
Phú Thọ cho học sinh
5.3 Xây dựng các biện pháp quản lý giáo dục văn hóa dân gian của
tỉnh Phú Thọ cho học sinh
4
6. Phạm vi giới hạn đề tài
* Đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu biện pháp quản lý các hoạt động
giáo dục văn hóa dân gian cho học sinh trường trung cấp Văn hóa Nghệ thuật
tỉnh Phú Thọ.
* Khách thể khảo sát gồm: cán bộ QL, GV, HS của trường trung cấp
Văn hóa Nghệ thuật tỉnh Phú Thọ.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1 Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận ;
- Phân tích tài liệu
- Phương pháp phân tích tổng hợp khái quát hóa, hệ thống hóa l ý
luận đề tài.
7.2 Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn ;
Phương pháp điều tra bằng phiếu về thực trạng quản lý giáo dục tư
tưởng giữ gìn và phát huy nét văn hóa dân gian cho học sinh trường trung
cấp Văn hóa Nghệ thuật tỉnh Phú Thọ.
7.3 Phương pháp quan sát
Phương pháp quan sát các hoạt động giáo dục tư tưởng giữ gìn và
phát huy nét văn hóa dân gian gian cho học sinh trường trung cấp Văn hóa
Nghệ thuật tỉnh Phú Thọ.
7.4 Phương pháp phỏng vấn
Phương pháp phỏng vấn giáo viên, cán bộ quản lý, học sinh.
7.5 Phương pháp chuyên gia
- Mời các nghệ nhân của các làng nghề đến giảng về cái hay, tinh túy
của văn hóa dân gian.
- Giảng viên các trường chuyên ngành.
8. Cấu trúc luận văn
- Mở đầu
- Nội dung
5
Chương 1. Cơ sở lý luận của quản lý giáo dục văn hóa dân gian cho
học sinh các trường trung cấp Nghệ thuật.
Chương 2. Thực trạng công tác quản lý giáo dục văn hóa dân gian
cho học sinh trường trung cấp Văn hóa Nghệ thuật tỉnh Phú Thọ.
Chương 3. Các biện pháp quản lý giáo văn hóa dân gian cho học sinh
trường trung cấp Văn hóa Nghệ thuật tỉnh Phú Thọ.
- Kết luận – Khuyến nghị
Danh mục tài liệu tham khảo
Phụ lục
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ GIÁO DỤC VĂN HÓA DÂN GIAN
CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG CẤP VĂN HÓA NGHỆ THUẬT
1.1 Tổng quan vấn đề nghiên cứu
* Văn hóa dân gian Việt Nam
Văn hóa dân gian (VHDG) Việt Nam bắt nguồn từ xã hội nguyên
thủy và vẫn giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển của văn hóa ngày
hôm nay. Theo Tiến sĩ Ngô Đức Thịnh (Viện Nghiên cứu văn hóa dân
gian) nếu cho rằng VHDG là cội nguồn của văn hóa dân tộc và VHDG
chứa đựng, thể hiện bản sắc dân tộc, thì hoạt động bảo tồn và làm giàu văn
hóa dân tộc cần được bắt đầu từ bảo tồn và làm giàu VHDG.
Việt Nam là một trong các quốc gia ở khu vực lịch sử - văn hóa
Đông -Nam Á, trong đó một trong những nét đặc trưng là vai trò rất to lớn
của VHDG. Đó là truyền thống văn hóa truyền miệng, khác với Trung
Quốc và Ấn Độ là truyền thống văn hóa chữ viết.
VHDG Việt Nam có truyền thống hình thành và phát triển từ rất lâu
đời, bắt nguồn từ xã hôi nguyên thủy. Đến thời kỳ phong kiến tự chủ, cùng
với sự ra đời và phát triển của văn hóa bác học, chuyên nghiệp, cung đình,
thì VHDG vẫn tồn tại và giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển của
văn hóa cũng như xã hội Việt Nam, nhất là với quần chúng lao động.
Truyền thống lịch sử và XH Việt Nam đã quy định những nét đặc trưng
của VH Việt Nam. Đó là văn hóa làng xóm trội hơn VH đô thị, văn hóa
truyền miệng lấn át VH chữ nghĩa, ứng xử duy tình nặng hơn duy lý, chủ
nghĩa yêu nước trở thành cái trục của hệ ý thức Việt Nam, nơi sản sinh và tích
hợp các giá trị VH Việt Nam...
7
* Giáo dục Văn hóa dân gian ở Việt Nam
Đưa GDVHDG vào trường học là vấn đề hết sức mới mẻ, thực tế cho
thấy chúng ta trú trọng đầu tư cho công nghệ - khoa học hiện đại là chủ
yếu, chỉ có ít trường đề cập tới vấn đề GDVHDG cho HS tại cơ sở.
Trong bài phát biểu của Đồng chí Nguyễn Khoa Điềm - Uỷ viên Bộ
Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tư tưởng - Văn hóa Trung
ương - tại Đại hội Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam lần thứ V, tổ chức tại
Hà Nội, ngày 26/5/2005 đã nói “Dân tộc ta trong tiến trình dựng nước và
giữ nước, đã hình thành và phát triển nền VH Việt Nam hết sức giàu có,
phong phú, nhân văn. Trong nền văn hóa dân tộc, bộ phận văn hóa - văn
nghệ dân gian có vai trò cực kì to lớn, quan trọng. Đặc biệt với nhiều dân
tộc thiểu số thì VH, nghệ thuật dân gian là thành phần chủ yếu. VHDG
không chỉ xuất hiện trong lịch sử mà đang tiếp tục phát triển trong xã hội
đương đại, góp phần không nhỏ vào đời sống VH tinh thần của nhân dân,
có tác động nhất định đến sinh hoạt kinh tế, có triển vọng phát triển lớn
hơn nếu nhà nước có chính sách thích đáng. VH, văn nghệ dân gian quả là
bộ gien của VH dân tộc, góp phần làm nên sức sống dân tộc ta cả hôm qua,
hôm nay và ngày mai.”
Ngày 23-4, Trường Đại học Bình Dương tổ chức hội thảo “Vị thế
văn hóa dân tộc trong GD-ĐT đại học”. Hội thảo có trên 20 tham luận của
các nhà nghiên cứu như GS Trần Văn Khê, GS Trần Văn Giàu... Nội dung
hội thảo xoay quanh các vấn đề như xây dựng nền GD mở với bảo tồn và
phát triển VH dân tộc trong quá trình toàn cầu hóa; thực trạng, giải pháp
góp phần cho VH dân tộc phát huy trong sự nghiệp GD-ĐT...Theo các đại
biểu, việc bảo tồn phát triển VH dân tộc có ý nghĩa to lớn nhằm thực hiện
mục tiêu của nền GD là đào tạo con người toàn diện nhưng đến nay vấn đề
này vẫn mang tính tự phát trong các trường.
8
Tại Trường phổ thông DTNT huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông, thầy
giáo Nguyễn Quang Dũng, hiệu trưởng nhà trường đã tổ chức thực hiện các
hoạt động như thành lập đội cồng chiêng, dạy tiếng M’nông không chỉ góp
phần nâng cao ý thức cho HS trong việc giữ gìn và phát huy các bản sắc
dân tộc mà còn tạo được không khí thoải mái cho HS khi học, góp phần
tích cực vào việc đẩy mạnh phong trào “xây dựng trường học thân thiện,
học sinh tích cực”. Cũng nhờ thực hiện tốt công tác GD ý thức giữ gìn và
phát huy những bản sắc VH dân tộc nên hầu hết HS của trường khi tốt
nghiệp đều trang bị cho mình những kiến thức nhất định về những nét đẹp
VH của dân tộc mình cũng như dân tộc anh em khác.
. Bà Nguyễn Thị Thu Hà, Giám đốc Sở GD-ĐT Thừa Thiên Huế cho
biết, ngành GD tỉnh đã đưa các loại hình VHDG như trò chơi, hát dân ca,
quan họ... vào tất cả cấp học. Sở GD-ĐT tỉnh đã hoàn tất biên soạn sách
dạy về văn hóa truyền thống như ca Huế, dân ca, quan họ và một số vở
kịch… để dạy trong giờ ngoại khóa. Hiện các cấp học trên toàn tỉnh đã
triển khai đưa VHDG vào trường học và thu hút sự tham gia của đông đảo
HS, tiêu biểu như Trường trung học cơ sở Nguyễn Chí Diểu - thành phố
Huế, luôn duy trì 2 lớp tập hát quan họ, dân ca; thường xuyên tổ chức hội
thi hát quan họ, dân ca giữa các khối lớp...Việc tăng cường giáo dục HS
qua việc đưa các loại hình văn hóa truyền thống vào học đường tại Thừa
Thiên-Huế đã mang lại môi trường học thân thiện, hướng học sinh tìm đến
văn hóa truyền thống của dân tộc, quê hương, góp phần GD nhân cách cho
HS, đẩy lùi các trò chơi bạo lực từ game đang thâm nhập học đường.
(TTXVN/Vietnam+)
Theo PGS.TS Nguyễn Văn Huy thì ai cũng thấy giáo dục truyền
thống trong nhà trường là cần thiết nhưng cách tiếp cận GD truyền thống
hiện nay còn nhiều khiếm khuyết, một chiều, khô cứng, thiếu sinh động.
Nó ít hấp dẫn nên làm cho HS không hứng thú, không hào hứng tham gia
9
hoặc có thì chỉ lấy lệ, hình thức. Tình trạng này diễn ra nhiều năm và phổ
biến ở khắp các vùng miền, cả ở nông thôn và thành phố. Các chuyên gia
GD, GV, nhiều nhà nghiên cứu VH và lịch sử ở trong và ngoài ngành GD
đều nhận thấy và đang muốn thay đổi cách GD truyền thống này để thích
ứng với tâm lý và nhu cầu của HS. Thông qua hoạt động trải nghiệm di
sản, các em học sinh sẽ được rèn luyện nhiều kỹ năng sống. Đây là một
môi trường rèn luyện kỹ năng sống một cách bổ ích, thiết thực, hấp dẫn và
sinh động nhất.
Nghị quyết 27-NQ/TW ngày 06-08-2008 Hội nghị lần thứ 7 Ban
chấp hành Trung ương khóa X về xây dựng đội ngũ tri thức trong thời kỳ
đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước đã khẳng định: “Trong mọi thời đại, trí thức
là lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá trí thức. Đội ngũ trí thức được
đào tạo bằng nhiều con đường khác nhau đang hoạt động trong các lĩnh vực
của đời sống kinh tế và XH, các trường Đại học trong nước chính là nơi
đào tạo một lực lượng trí thức đông đảo và chủ yếu phục vụ cho cho quá
trình phát triển đất nước. Đội ngũ trí thức mà chúng ta kỳ vọng ở họ không
chỉ giỏi về chuyên môn mà phải mang trong họ bản sắc và truyền thống VH
để họ mãi xứng đáng là trí thức của một dân tộc với một bề dày lịch sử về
VH và truyền thống.
1.2 Một số khái niệm công cụ
1.2.1 Khái niệm quản lý và quản lý giáo dục
* Quản lý
Khi nghiên cứu về lý luận quản lý, các nhà nghiên cứu với các cách
tiếp cận khác nhau đã đưa ra nhiều quan niệm về quản lý:
Với W. Taylor, người đầu tiên nghiên cứu quá trình lao động trong
từng bộ phận của nó, nêu ra các hệ thống tổ chức lao động, sử dụng hợp lý
nhất công cụ và phương tiện lao động nhằm tăng năng suất lao động, thì cho
10
rằng: " Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần làm và làm cái
đó thế nào bằng phương pháp tốt nhất và rẻ nhất". [1, tr9].
Nhà lý luận quản lý kinh tế người Pháp A. Fayon, cho rằng :
"Quản lý là đưa xí nghiệp tới đích, cố gắng sử dụng tốt nhất các nguồn
lực của nó".[2, tr30]
Trong khi đó, nhà điều khiển học Berg A.I lại cho rằng : " Quản lý là
quá trình chuyển một hệ động lực phức tạp từ trạng thái này sau trạng thái
khác nhờ tác động vào các phần tử biến thiên của nó". [3, tr30].
Theo K Mark. "Quản lý là chức năng được sinh ra từ tính chất xã hội
hoá lao động. Nó có tầm quan trọng đặc biệt vì mọi sự phát triển của xã hội
đều thông qua hoạt động của con người và thông qua quản lý".
" Quản lý là chức năng tất yếu của lao động xã hội, nó gắn liền với sự
phân công và phối hợp, nhưng khi nói đến sự phân công và phối hợp thì sự
chỉ huy, thống nhất để đảm bảo sự đồng bộ, ăn khớp trong hoạt động của các
bộ phận cấu thành hệ thống, điều chỉnh hoạt động của các bộ phận này trên cơ
sở mục tiêu chung là yêu cầu tất yếu khách quan hết sức cân thiết. Xét đến
cùng thì điều đó chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở tổ chức. Chức năng chủ
yếu của quản lý là phối hợp các mặt hoạt động của tổ chức và của người trong
tổ chức đó thành một chỉnh thể" [20, tr89].
Theo quan điểm của lý thuyết hệ thống thì : " Quản lý là phương thức
tác động có chủ đích của chủ thể quản lý lên hệ thống, bao gồm các quy tắc
ràng buộc về hành vi đối với mọi đối tượng ở các cấp trong hệ thống nhằm
duy trì tính trội hợp lý của cơ cấu và đưa hệ thống sớm đạt được mục tiêu".
[12; tr25].
Với cách hiểu như vậy, ta thấy : Quản lý tồn tại với tư cách là một hệ
thống, trong đó sự tác động của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý là sự
tác động có mục tiêu, có tổ chức, có các tác động tương ứng, phù hợp nhằm
hướng dẫn, điều khiển những đối tượng quản lý để đạt tới những mục tiêu
11
định sẵn. Quản lý là khoa học, là nghệ thuật sử dụng các nguồn lực sao cho có
hiệu quả nhất. Ở Việt Nam các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều khái niệm
khác nhau về quản lý:
Các tác giả Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt cho rằng : " Quản lý là một
hệ thống, là quá trình tác động đến nó nhằm đạt được những mục tiêu nhất
định. Những mụ tiêu này đặc trưng cho trạng thái mới của hệ thống mà nhà
quản lý muốn" [12; tr25].
" Quản lý là sự tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý
đến tập thể những người lao động nói chung là khách thể quản lý nhằm thực
hiện những mục tiêu dự kiến" [21; tr26].
" Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của chủ thể
quản lý (người quảnlý, tổ chức quản lý) lên khách thể (đối tượng quản lý) về
các mặt chính trị, VH, XH, kinh tế... bằng một hệ thống các luật lệ, các chính
sách, nguyên tắc, các phương pháp và các biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi
trường và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng" [15; tr9].
Từ các khái niệm trên ta có thể hiểu khái niệm quản lý như sau :
Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý lên đối
tượng quản lý nhằm đạt được những mục tiêu nhất định trong điều kiện biến
động của môi trường.
- Quản lý bao giờ cũng tồn tại với tư cách là một hệ thống bao gồm các
thành phần:
+ Chủ thể quản lý : đề ra mục tiêu, dẫn dắt điều khiển các đối tượng
quản lý để đạt tới mục tiêu định sẵn.
+ Khách thể quản lý : Con người (được tổ chức thành một tập thể, một
xã hội...); thế giới vô sinh (các trang thiết bị kỹ thuật...) thế giới hữu sinh (vật
nuôi, cây trồng).
12
+ Cơ chế quản lý : Là những phương thức mà nhờ nó hoạt động quản lý
được thực hiện và tương tác qua lại giữa chủ thể quản lý và khách thể quản lý
được vận hành điều chỉnh.
+ Mục tiêu chung : Cho cả đối tượng và chủ thể quản lý, là căn cứ để
chủ thể quản lý tạo ra các tác động quản lý.
- Tác động quản lý thường mang tính tổng hợp bao gồm nhiều giải
pháp khác nhau.
- Mục tiêu cuối cùng của quản lý là chất lượng, sản phẩm vì lợi ích
phục vụ con người.
Như vậy, quản lý là quá trình tác động có định hướng, có tổ chức của
chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý thông qua cơ chế quản lý, nhằm sử
dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực trong điều kiện môi trường biến động để
hệ thống ổn định, phát triển đạt được những mục tiêu đã định.
* Khái niệm quản lý giáo dục
QLGD là những tác động có hệ thống có ý thức hợp quy luật của chủ
thể quản lý ở các cấp khác nhau lên tất cả các mắt xích của hệ thống giáo
dục nhằm đảm bảo cho hệ thống GD vận hành bình thường và liên tục phát
triển, mở rộng cả về số lượng cũng như chất lượng.Hay nói cách khác:
QLGD là hệ thống những tác động có chủ đích có kế hoạch hợp quy luật
của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên, nhân viên học sinh cha mẹ học
sinh và các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm thự hiện có
chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục.
Nhiều tài liệu khoa học cho rằng QLGD được xem xét dưới 2 góc độ:
- Quản lý giáo dục ở cấp độ vĩ mô:
Ở cấp độ này, QLGD được hiểu “là những tác động tự giác, có ý
thức, có mục đích, kế hoạch, có hệ thống và hợp quy luật của công tác
QLGD đến tất cả các mắt xích của hệ thống GD nhằm thực hiện có chất
lượng và hiệu quả việc tổ chức, huy động, điều phối, giám sát, điều chỉnh
13
các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực và thông tin) để đạt được mục tiêu
phát triển GD”[14;tr24].
- Quản lý giáo dục ở cấp độ vi mô:
Ở cấp độ này, QLGD được hiểu “là những tác động tự giác, có ý
thức, có mục đích, kế hoạch, có hệ thống và hợp quy luật của công tác quản
lý một cơ sở GD đến tập thể GV, công nhân viên, tập thể người học và các
lực lượng tham gia GD khác trong và ngoài cơ sở GD đó, nhằm thực hiện
có chất lượng và hiệu quả mục tiêu đào tạo”[11;tr16].
1.2.2 Khái niệm Văn hóa và Văn hóa dân gian
* Văn hóa là từ Việt gốc Hán. Theo những tài liệu cổ xưa nhất của
Trung Quốc thì văn có nghĩa là “vẻ đẹp”, hóa có nghĩa là “thay đổi, biến
đổi”, “làm cho thay đổi, biến đổi”; “giáo hóa” .v.v…, văn hóa hiểu theo
nghĩa gốc là “làm cho trở nên đẹp đẽ, văn vẻ”. Nghĩa gốc này dựa trên một
câu trong Kinh Dịch.[16;tr15]
Vậy văn hóa là gì? Hiện nay vẫn đang còn có nhiều định nghĩa về
văn hóa, bởi lẽ văn hóa là sản phẩm do lao động của con người tạo ra mà
hoạt động lao động của con người rất đa dạng, thuộc nhiều lĩnh vực khác
nhau. Văn hóa là hệ thống giá trị vật chất và tinh thần do lao động của
người sáng tạo ra, được cộng đồng khẳng định tích lũy lại, tạo ra bản sắc
riêng của từng tộc người, từng xã hội. Trong Nghị quyết Trung ương 5
( Khóa VIII), Đảng ta khẳng định: Văn hóa Việt Nam là tổng thể những giá
trị vật chất và tinh thần do cộng đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra
trong quá trình dựng nước và giữ nước…, là kết quả giao lưu và tiếp thu
tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để không ngừng hoàn thiện mình.
Văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam,
làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc.
14
Quan niệm về văn hóa của một số nhà nhân học tiêu biểu:
Văn hóa hiểu theo nghĩa rộng là toàn bộ phức thể bao gồm hiểu biết,
tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và những khả năng
và tập quán khác mà con người có được với tư cách là một thành viên của
xã hội. (Theo E.B.Tylor)[16;tr18]
“Văn hóa bao quát các mô thức hành vi hiển hiện ra bên ngoài hoặc
tiềm ẩn bên trong, thông qua việc vận dụng kí hiệu, người ta học tập và truyền
thụ chúng. Chúng cấu thành những thành tựu rõ rệt của nhân loại, bao gồm cả
những thành tựu thể hiện trong lĩnh vực các chế phẩm do con người làm ra.
Hạt nhân cơ bản của văn hóa là những quan niệm truyền thống, đặc biệt là
quan niệm giá trị hình thành do sự diễn sinh và lựa chọn lịch sử. Hệ thống văn
hóa tuy được coi là sản phẩm do hoạt động của con người tạo ra nhưng nó
cũng có thể được coi là những nhân tố hiệu chỉnh, hạn chế hoạt động của con
người”. (Theo A.Kroeber và C.Kluckhohn)[16;tr28]
Vậy văn hóa có thể hiểu đại thể như sau: “Văn hóa là tổng thể những
hành vi và suy tư mà những người cùng sống trong một cộng đồng cần phải
chia sẻ, thực hiện, mô phỏng, học tập, sáng tạo. Dựa vào văn hóa, có thể
phân biệt các cộng đồng khác nhau. Văn hóa cũng chính là ranh giới phân
chia loài người với các loài sinh vật khác. Về đại thể, văn hóa bao gồm:
niềm tin, quy tắc ứng xử, ngôn ngữ, tập tục, lễ nghi, nghệ thuật, kĩ thuật,
trang phục, cách sản xuất và chế biến thức ăn, các hệ thống chính trị, kinh
tế, tôn giáo tín ngưỡng v.v…”[16;tr29]
* Khái niệm Văn hóa Dân gian
VHDG là bao gồm toàn bộ các giá trị VH vật chất và tinh thần của
dân chúng liên quan đến mọi lĩnh vực trong đời sống. Bao gồm việc sản
xuất ra của cải vật chất, chế tác công cụ lao động, là phong tục tập quán
gắn liền với tổ chức cộng đồng từ nhỏ tới lớn, là mọi mặt sinh hoạt như thị
hiếu, tín ngưỡng, hội hè, là tư tưởng tình cảm của dân chúng nhận thức về
15
thế giới, nhân sinh, mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con
người với thế giới xung quanh, môi trường tự nhiên, xã hội.
Văn hóa dân gian – cội nguồn của văn hóa dân tộc:
Người ta thường nói VHDG là cội nguồn của VH dân tộc là "văn hóa
gốc", "văn hóa mẹ". Điều đó hàm nghĩa VHDG gắn với lịch sử lâu đời của
dân tộc, là nguồn sản sinh và tiếp tục nuôi dưỡng VH dân tộc. Nói VHDG
là "văn hóa gốc", "văn hóa mẹ" còn là vì VHDG nảy sinh, tồn tại dưới dạng
nguyên hợp, các bộ phận gắn bó chặt chẽ với nhau. Theo Hoài Thanh thì
"Từ thuở sơ sinh, nhạc, thơ, múa và kịch đều chung một mâm. Đến khi lớn
lên thì các loại hình tách bạch ra, nhưng vẫn phải nương tựa vào nhau. Thơ
dân gian tồn tại, phát triển và lưu truyền bằng hát đối đáp. Nếu bỏ nhạc thì
múa khó thành. Mất sự tích văn học, mất làn điệu, mất múa thì chèo cũng
mất. Tranh Đông Hồ cũng phải đi liền với hội tết".
Có con người là có VH, có dân tộc là có VH dân tộc. Trước nhất là
VHDG, VH của quần chúng nhân dân. Qua VHDG, nhân dân lao động "tự
biểu hiện mình, tự phản ánh cuộc sống của mình". Các nền văn hóa khảo cổ
thuộc xã hội nguyên thủy, như Hòa Bình, Bắc Sơn tuy không phải là
VHDG, nhưng lại là nguồn cội để hình thành VHDG.
Đến thời kỳ Hùng Vương, hình thành nền VH dân tộc, thì trước hết
đó là VHDG, VH của nhân dân lao động, họ "tự biểu hiện mình, tự phản
ánh cuộc sống của mình" ở thời kỳ khởi nguồn của đất nước.
Thời kỳ Đại Việt (thế kỷ10 đến thế kỷ 19), cùng với sự phát triển xã
hội, VH dân tộc không còn thuần nhất mà bên cạnh VHDG đã xuất hiện
VH chuyên nghiệp, bác học, cung đình. Tuy nhiên, giữa chúng vẫn có mối
quan hệ tác động qua lại: VHDG vẫn là cội nguồn nuôi dưỡng VH bác học,
chuyên nghiệp; và VH bác học, chuyên nghiệp, VH cung đình tác động trở
lại, góp phần nâng cao và định hình VHDG. Hiện tượng Truyện Kiều của
Nguyễn Du... là thể hiện sự tác động qua lại đó.
16
Từ quan điểm cho rằng văn hóa dân gian là cội nguồn của văn hóa
dân tộc, thì trong hoạt động thực tiễn nhằm bảo tồn và chấn hưng văn hóa
dân tộc, chúng ta phải bắt đầu từ VHDG.
Có thể hiểu bản sắc văn hóa như là yếu tố cốt lõi tạo nên bản sắc dân
tộc, và tới lượt nó, bản sắc dân tộc góp phần tạo nên bản lĩnh dân tộc, tức là
sức sống và sự từng trải của dân tộc, nhờ đó mà dân tộc có thể vững vàng
và trường tồn trước thử thách khắc nghiệt của lịch sử.
Nếu cho rằng VHDG chứa đựng và thể hiện bản sắc văn hóa dân
tộc, thì trong thực tiễn việc bảo tồn, làm giàu và phát huy BSVH dân tộc
trước nhất phải từ việc bảo tồn, làm giàu và phát huy văn hóa dân gian.
Văn hóa dân gian - hệ giá trị và biểu tượng của văn hóa dân tộc :
Trong văn hóa học, giá trị và biểu tượng làm nên những cái cơ bản
của VH, nó là nội hàm của khái niệm VH. Nói cách khác, văn hóa không
phải là tất cả những gì mà con người tạo ra, mà chỉ những cái đã được chắt
lọc, kết tinh, thăng hoa thành các giá trị và biểu tượng.
Hệ giá trị của văn hóa dân tộc, trước nhất tiềm ẩn trong VHDG.
Chúng thể hiện trên nhiều bình diện, như ứng xử của con người với môi
trường tự nhiên theo hướng nặng về thích ứng và hòa hợp hơn là chế ngự
và biến đổi. Cách ứng xử này còn thấy ở cách ăn, mặc, ở, đi lại, quan hệ
cộng đồng... Còn biết bao những giá trị văn hóa dân tộc mà ta có thể tìm
thấy trong kho tàng tri thức dân gian liên quan tới môi trường, dưỡng sinh
trị bệnh, tri thức về sản xuất và quản lý cộng đồng.
Ta có thể nói tới biểu tượng "đất nước" trong VH Việt Nam vừa
mang tính nội sinh: "đất" và "nước" - hai yếu tố cơ bản tạo nên nông
nghiệp lúa nước; vừa mang tính ngoại sinh: "quốc gia" - mô hình của văn
minh Trung Hoa.
Quốc Tổ các Vua Hùng - biểu tượng về cội nguồn, về tâm thức "uống
nước nhớ nguồn", mà cội rễ của nó là tục thờ cúng tổ tiên ở mỗi gia đình,
dòng họ.
17
Như vậy là, VHDG với hệ giá trị và biểu tượng của nó, đã làm nên
tâm thức dân gian, tâm hồn dân tộc. Đó cũng chính là bản sắc, cốt cách và
bản lĩnh của dân tộc, trường tồn cùng sự trường tồn của dân tộc.
1.2.3 Khái niệm Giáo dục và giáo dục Văn hóa Dân gian
* Giáo dục : Đề tồn tại và phát triển, con người phải trải qua quá trình
lao động. Trong lao động và cuộc sống hàng ngày con người nhận thức thế
giới xung quanh, tích luỹ kinh nghiệm từ đó nảy sinh nhu cầu truyền đạt
những hiểu biết ấy cho nhau và phát sinh hiện tượng giáo dục.
Lúc đầu GD xuất hiện như là một hiện tượng tự phát, sau đó trở thành
một hoạt động có ý thức. Ngày nay GD đã trở thành một hoạt động được tổ
chức đặc biệt, đạt tới trình độ cao, có nội dung, chương trình, kế hoạch và
phương pháp hiện đại thúc đẩy sự phát triển của XH loài người.
Như vậy: GD là một hiện tượng xã hội, bản chất là sự truyền đạt và lĩnh
hội kinh nghiệm lịch sử - XH của các thế hệ loài người, nhờ có GD mà các
thế hệ nối tiếp nhau phát triển, tinh hoa VH dân tộc, nhân loại được kế thừa,
bổ sung và trên cơ sở đó XH loài người không ngừng tiến lên.
* Giáo dục văn hóa dân gian: Với chức năng sư phạm, VHDG đề
xuất những qui tắc hành động thích hợp thì với chức năng kiểm tra XH, nó
nhấn mạnh sự cần thiết phải ứng xử xã hội thích hợp, nó ngăn ngừa những
xu hướng lệch chiều XH bằng cách: bộc lộ sự khinh bỉ, tức giận và chê
cười những gì xa rời các chuẩn mực đã được nhân dân thừa nhận.
GDVHDG là GD nền tảng tinh thần của XH, đồng thời là mục tiêu
của sự phát triển. Xét cho cùng, mọi sự phát triển đều do con người quyết
định mà VH thể hiện trình độ vun trồng ngày càng cao, càng toàn diện con
người và XH, điều đó nghĩa là ngày một xa rời trạng thái nguyên sơ, mông
muội để tiến tới một cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc và văn minh.
Trong đó, bản chất nhân văn, nhân đạo của mỗi cá nhân cũng như của cả
cộng đồng được bồi dưỡng; phát huy trở thành giá trị cao quý và chuẩn
mực tốt đẹp của toàn XH.
18
1.2.4 Khái niệm quản lý Giáo dục Văn hóa Dân gian
Chính vì GDVHDG là giáo dục nền tảng tinh thần của XH, đồng thời
là mục tiêu của sự phát triển. Trong đó, bản chất nhân văn, nhân đạo của
mỗi cá nhân cũng như của cả cộng đồng được bồi dưỡng; phát huy trở
thành giá trị cao quý và chuẩn mực tốt đẹp của toàn XH.
Quản lý GDVHDG là quá trình quản lý thông qua các hoạt động
GDVHDG cho HS là những tác động tự giác, có ý thức, có mục đích, kế
hoạch, có hệ thống và hợp quy luật của công tác quản lý một cơ sở GD đến
tập thể GV, công nhân viên, tập thể người học và các lực lượng tham gia
GD khác trong và ngoài cơ sở giáo dục đó, nhằm thực hiện có chất lượng
và hiệu quả mục tiêu đào tạo.
1.3 Hoạt động giáo dục Văn hóa Dân gian cho học sinh trường
trung cấp văn hóa nghệ thuật
1.3.1 Đặc điểm học sinh trường trung cấp
* Những đặc điểm nhân cách chủ yếu của lứa tuổi thanh niên
- Sự phát triển tự ý thức là một đặc điểm nổi bật trong sự phát
triển nhân cách của thanh niên mới lớn
+ Sự phát triển tự ý thức diễn ra mạnh mẽ, sôi nổi và có đặc thù
riêng, có nhu cầu tìm hiểu và đánh giá những đặc điểm tâm lý của mình
theo quan điểm về mục đích cuộc sống và hoài bão của mình, quan tâm sâu
sắc tới đời sống tâm lý, phẩm chất nhân cách và năng lực riêng.
+ Sự tự ý thức của TN mới lớn xuất phát từ yêu cầu cuộc sống và
hoạt động hàng ngày. Chính địa vị mới mẻ trong tập thể và những quan hệ
mới với thế giới xung quanh buộc thanh niên mới lớn phải ý thức được
những đặc điểm nhân cách của mình.
+ Nội dung tự ý thức của lứa tuổi này cũng khá phức tạp. Các em
không chỉ nhận thức về cái tôi hiện tại của mình như thiếu niên mà còn
nhận thức về vị trí của mình trong xã hội và tương lai.
19
+ Lứa tuổi này ý thức rõ ràng hơn về cá tính của mình, về những
khác biệt của mình so với người khác. Các em có thể hiểu rõ những phẩm
chất phức tạp biểu hiện mối quan hệ nhiều mặt của nhân cách như lòng tự
trọng, tình cảm nghĩa vụ, tinh thần trách nhiệm …
+ Thanh niên mới lớn không chỉ có khuynh hướng độc lập khi đánh
giá những cử chỉ, hành vi riêng lẻ, phẩm chất nhân cách của cá nhân mà
còn của người khác.
+ Tuy nhiên, thanh niên mới lớn thường cường điệu khi tự đánh giá.
Hoặc các em đánh giá thấp cái tích cực, tập trung phê phán cái tiêu cực;
hoặc đánh giá quá cao nhân cách của mình, tự cao, tự đại coi thường nhân
cách của người khác.
+ Tự giáo dục là thực sự cần thiết, nó làm cho vị trí của các em thay
đổi: các em từ chỗ là đối tượng của GD dần trở thành vừa là đối tượng, vừa
là chủ thể của GD. Biểu hiện đặc trưng là TN nhận thức được những đặc
điểm và những phẩm chất của mình trong XH, cộng đồng. Ở mức cao hơn,
đó là khả năng tự đánh giá, tự GD bản thân theo những chuẩn mực của XH
trên bình diện thể chất, tâm lý và đạo đức.
- Sự hình thành thế giới quan
Thế giới quan là hệ thống quan điểm về tự nhiên, xã hội, các nguyên
tắc quy tắc cư xử và định hướng giá trị của con người. Nó có ý nghĩa chỉ
đạo đối với hoạt động, hành động, cách ứng xử của cá nhân trong những
hoàn cảnh và điều kiện cụ thể.
Ở lứa tuổi này, do có sự tích luỹ một hệ thống kiến thức, kỹ năng, lối
sống, hành vi …, do có sự phát triển tương đối cao về mặt trí tuệ nên các
em đã hiểu được và hệ thống hoá những khái niệm trừu tượng, những quy
luật trong tự nhiên, XH. Nhìn chung có khuynh hướng sống một cuộc sống
tích cực vì XH, muốn mang lại lợi ích cho người khác.
20
+ Đời sống tình cảm của TN mới lớn rất phong phú và đa dạng.
Trong đó nổi bật nhất là mức độ ngày càng bình đẳng, độc lập trong giao
tiếp với người lớn và bạn bè cùng độ tuổi. Đây là một trong những yếu tố
rất quan trọng để tạo nên sự phát triển nhân cách của TN mới lớn.
+ Giao tiếp trong nhóm bạn Tuổi học sinh TC là lứa tuổi mang tính
chất tập thể nhất, được sinh hoạt với các bạn cùng tuổi, là cảm thấy mình
cần cho nhóm, có uy tín, có vị trí nhất định trong nhóm. Cùng với sự
trưởng thành về nhiều mặt, quan hệ dựa dẫm, phụ thuộc vào cha mẹ dần
dần được thay thế bằng quan hệ bình đẳng, tự lập.
* Đặc điểm tâm lý cơ bản của lứa tuổi thanh niên
Bước chân vào trường chuyên nghiệp, một cuộc sống học tập và XH
mới ngày càng mở rộng ra trước mắt HS. Trong môi trường mới này, để
hoạt động học tập có kết quả đòi hỏi các em phải có sự thích nghi với các
hoạt động diễn ra trong trường chủ yếu tập trung ở các mặt:
- Nội dung học tập mang tính chuyên ngành;
- Phương pháp học tập mới mang tính nghiên cứu khoa học;
- Môi trường sinh hoạt mở rộng;
- Nội dung và cách thức giao tiếp phong phú và đa dạng;
- ….
Các công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng, HS cần có thời gian nhất
định để thích ứng với tất cả những vấn đề trên. Sự thích ứng này ở mỗi HS
không hoàn toàn như nhau, tuỳ thuộc vào đặc điểm tâm lý cá nhân và môi
trường sống cụ thể của các em quy định. Sau một thời gian học tập ở
trường đa số HS thích ứng khá nhanh chóng với môi trường XH mới. Các
em gặp phải một loạt các mâu thuẫn cần giải quyết như:
- Mâu thuẫn giữa ước mơ, mong muốn của mình với khả năng thực
hiện ước mơ đó.
21
- Mâu thuẫn giữa mong muốn học tập, nghiên cứu sâu môn học mà
mình yêu thích với yêu cầu phải thực hiện toàn bộ chương trình học theo
thời gian biểu nhất định.
- Mâu thuẫn giữa lượng thông tin nhiều trong xã hội với khả năng và
thời gian có hạn. Việc giải quyết các mâu thuẫn trên một cách hợp lý tạo
điều kiện thuận lợi cho sự phát triển.
- Đặc điểm về nhận thức
+ Sự phát triển hoạt động nhận thức
Một trong những quá trình tâm lý cao cấp diễn ra trong hoạt động
học tập của HS và nói lên đặc trưng căng thẳng, mạnh mẽ của hoạt động trí
óc là quá trình nhận thức. Đa số HS lĩnh hội nhanh nhạy, sắc bén những
vấn đề mà GV trình bày. Họ thường ít thoả mãn với những gì đã biết, luôn
mong muốn đào sâu suy nghĩ để nắm vững vấn đề hơn. Quá trình tư duy
diễn ra rất căng thẳng trong suốt quá trình học tập của HS. Các em biết
vượt ra khỏi giới hạn những tài liệu cơ bản, tìm thấy mối liên hệ mới giữa
các đối tượng. Biết huy động hợp lý, rộng rãi các tri thức và kinh nghiệm
để giải quyết vấn đề. Điều này góp phần quan trọng trong việc lĩnh hội kiến
thức, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp tương lai và giúp các em thích ứng với
môi trường XH mới đang rộng ra trước mắt.
+ Sự phát triển động cơ học tập
Động cơ học tập là nội dung tâm lý của hoạt động học tập. Động cơ
học tập bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác nhau. Có thể đó là những yếu tố
tâm lý của chính bản thân mình như hứng thú, lý tưởng, niềm tin … hay là
những yếu tố nằm bên ngoài bản thân chủ thể như nội dung, phương pháp
dạy học, bạn bè … Lĩnh vực động cơ học tập của học sinh TC rất phong
phú, đa dạng và thường bộc lộ rõ tính hệ thống. Trong đó, việc học tập của
họ không chỉ bị chi phối bởi một động cơ mà thường là một số động cơ nào
đó. Dựa vào mục đích học tập, người ta chia động cơ học tập ra thành 5
22
loại: động cơ xã hội, động cơ nhận thức khoa học, động cơ nghề nghiệp,
động cơ tự khẳng định mình và động cơ vụ lợi. Ngoài ra còn có những
động cơ mang tính chất đồng nhất xã hội do ảnh hưởng trực tiếp của bố mẹ
hay bạn bè. Cụ thể là:
- Động cơ xã hội thể hiện ở ý thức về nhu cầu, các lợi ích xã hội, các
chuẩn mực và mục đích xã hội.
- Động cơ nhận thức khoa học biểu hiện ở thái độ đối với chính quá
trình nhận thức, với nội dung các vấn đề được nghiên cứu.
- Động cơ nghề nghiệp thể hiện ở trình độ học vấn cao là cơ sở chuẩn
bị cho nghề nghiệp.
- Động cơ tự khẳng định mình là ý thức về những năng lực và mong
muốn được thể hiện các năng lực đó.
- Động cơ vụ lợi hay những động cơ trội về cái lợi cho cá nhân.
* Tiếp nhận vấn đề giáo dục Văn hóa Dân gian
Toàn cầu hóa là xu thế phát triển tất yếu, khách quan của XH, tác
động mạnh mẽ đến đời sống kinh tế, chính trị, VH của tất cả các quốc gia,
dân tộc trên thế giới. Mở ra nhiều cơ hội phát triển nhưng cũng đặt ra
những thách thức không nhỏ cho các nước đang phát triển. Một trong
những thách thức đó là sự nhạt nhòa mai một dần nét VHDG. Hội nhập mà
bị hòa tan, hợp tác mà bị lệ thuộc chẳng khác nào tự đánh mất chính mình.
Một dân tộc khi trở thành cái bóng và phụ thuộc vào dân tộc khác thì sẽ
không thể có độc lập, tự do và phát triển ổn định.
Trong những năm qua, các phong trào tìm về cội nguồn dân tộc, nhớ
về quê cha đất tổ…đã phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
Các phong trào thi đua xây dựng khu phố, làng, bản văn hóa thông qua việc
khôi phục và xây dựng lại những nội quy, hương ước góp phần duy trì
những nét đẹp truyền thống của con người Việt Nam.
23
Công tác tuyên truyền, GD nhằm nâng cao nhận thức về tầm quan
trọng của các giá trị truyền thống trong sự phát triển của đất nước, khẳng
định thêm các giá trị truyền thống quý báu của dân tộc được tạo nên qua
hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, góp phần hình thành
những chuẩn mực đạo đức, tư tưởng lối sống, khơi dậy niềm tự hào dân tộc
trong thời kỳ hội nhập và phát triển.
Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng để tuyên truyền về ý
nghĩa những ngày lễ, dịp kỷ niệm của đất nước, tổ chức các phong trào
hoạt động gắn với chủ đề mang ý nghĩa truyền thống của dân tộc, nhân
rộng và phát động học tập các mô hình điển hình, các tấm gương tiêu biểu,
phát triển các di sản văn hóa cả về vật thể và phi vật thể.
1.3.2. Mục tiêu đào tạo
Đổi mới căn bản, toàn diện nền GD Việt Nam theo hướng chuẩn hoá,
hiện đại hoá, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế.
Nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, phát triển nguồn nhân lực nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu xã hội; nâng cao chất lượng
GD toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống lịch
sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác
phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội.
Phát triển quy mô, cơ cấu GD hợp lý, hài hòa, đảm bảo công bằng xã
hội tương ứng với chất lượng GD và cơ hội học tập suốt đời.
Đẩy mạnh đào tạo theo nhu cầu XH. Đổi mới, nâng cao chất lượng GD
TC chuyên nghiệp để đến năm 2015 thu hút được 15% số HS tốt nghiệp trung
học cơ sở vào học TC chuyên nghiệp và đảm bảo 95% HS tốt nghiệp TC
chuyên nghiệp có việc làm được doanh nghiệp và cơ quan sử dụng lao động
đánh giá đáp ứng yêu cầu công việc.
24
1.3.3 Ý nghĩa của hoạt động GDVHDG cho học sinh
*Chức năng của văn hóa dân gian
+ Chức năng tìm nguồn gốc
Huyền thoại bao giờ cũng nói cái gì đó sinh ra như thế nào. Trong
khi thực hiện chức năng tìm nguồn gốc, huyền thoại đồng thời phát hiện
những phạm trù XH cũng tự nhiên. Bằng những biểu tượng về nguồn gốc,
huyền thoại đem đến cho con người của mọi thời kỳ lịch sử những cảm
thức về quá khứ, ý thức về tính đồng nhất, tính thống nhất XH.
Sau huyền thoại, các loại thể văn chương tiếp tục trên con đường ấy,
nhưng không phải sự tìm nguồn gốc ban sơ nữa, mà những nguồn gốc của
sự tiếp tục: tìm nguồn gốc xã hội và tự nhiên của thế giới bên trong cũng
như của những hành vi người.
+ Chức năng tưởng tượng
Tưởng tượng là sự suy tưởng, mà điểm tựa là hiện thực của đời sống
đang diễn ra, nhằm vượt thoát khỏi tình trạng hiện thời, vượt khỏi những
quy định tự nhiên và xã hội đang hạn chế sự thỏa mãn các nhu cầu sống.
Trong các thể loại văn chương truyền miệng hay nghệ thuật sân
khấu, nhất là những tác phẩm được sản sinh trong các thời kỳ xã hội có giai
cấp, người ta luôn bắt gặp con người được đem tới thế giới thần tiên, một
thế giới ít khổ lụy, nhiều hạnh phúc. Người con gái quê mùa lấy hoàng tử
giàu sang phú quý và đầy tốt bụng, lòng nghĩa hiệp khoan dung của thần,
Phật, nhưng ông quan công bằng bác ái…, đó là những vượt thoát khỏi tình
trạng xã hội hiện hành. Những mưa thuận gió hòa, hài ngàn dặm, thuốc
tràng sinh, hạt “kim đan” bằng hạt vừng đủ để sống mạnh khỏe và không
phải cặm cụi làm việc suốt đêm ngày…vv…, là những vượt thoát về đời
sống tự nhiên.
25