MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Hàng ngàn năm qua, mối liên hệ mật thiết giữa bộ ba ngôn ngữ văn hóa - tư duy đã thu hút được sự quan tâm rất lớn không chỉ của những
chuyên gia trong lĩnh vực ngôn ngữ mà còn ở rất nhiều lĩnh vực khác. Humbolt
đã khẳng định rằng: “Ngôn ngữ là linh hồn của dân tộc, linh hồn của dân tộc là
ngôn ngữ”. Còn F. Saussure cho rằng ngôn ngữ là công cụ và vỏ bọc tư duy và
Sapir và Whorf đồng thuận nghiên cứu ngôn ngữ là một bộ phận không thể
tách rời của việc nghiên cứu tâm lí các dân tộc trên thế giới… ngôn ngữ là một
địa hạt thuận lợi nhất để nghiên cứu các biểu tượng đạo lí. Ngôn ngữ là quá
trình con người tri nhận thế giới và biểu đạt ra bằng vỏ ngôn từ của mình. Cùng
trong một nền văn học nhưng do quan niệm về giá trị của ngôn ngữ ở mỗi thời
khác nhau và do ảnh hưởng văn hóa xã hội mỗi giai đoạn mà sự biểu hiện ngôn
từ về cùng một đối tượng có sự khác nhau giữa các thời kì của một nền văn
học. Với sự lựa chọn đề tài “ Sự tri nhận ngôn ngữ biểu hiện thân thể con người
trong văn xuôi Việt Nam đầu thế kỉ XX và văn xuôi cuối thế kỉ XX” , luận văn
muốn tìm hiểu sâu sắc hơn về mối quan hệ mật thiết giữa bộ ba Ngôn ngữ - văn
hóa – tư duy.
1.2. Trong xu thế phát triển chung của ngành nghiên cứu ngôn ngữ,
hiện nay Ngôn ngữ học tri nhận được coi là một trào lưu có sự phát triển
mạnh mẽ và thu được nhiều thành tựu đáng chú ý, thậm chí nó xứng đáng
được coi là “nét đặc trưng của ngôn ngữ học thế giới trong giai đoạn hiện
nay” (Frumkina 1995). Vì thế, việc vận dụng lí thuyết ngôn ngữ học tri nhận
vào nghiên cứu các vấn đề tiếng Việt không chỉ giúp ngôn ngữ học tri nhận
thể hiện được nét đặc trưng của mình trong xu hướng nghiên cứu mà nó sẽ
cho ta những cách nhìn mới về những vấn đề tưởng chừng đã quá quen thuộc
trong đời sống.
1
1.3. Văn học là sự phản ánh nhận thức của con người về thế giới xung
quanh, và về chính bản thân mình. Trong đời sống sinh hoạt của con người
thường ngày từ cổ xưa đến nay, con người nhận thức về bản thân và các bộ
phận trên cơ thể mình đầu tiên rồi mới tiến tới nhận thức các sự vật, hiện tượng
xung quanh. Như ý kiến của các nhà triết học phương Đông và phương Tây từ
xưa đến nay đều nhận định con người là trung tâm lấy mình để nhận thức thế
giới (chủ nghĩa “Dĩ nhân vi trung”). Người viết chọn khảo sát các bộ phận cơ
thể con người diện kiến được vì bộ phận cơ thể người rất quan trọng và đóng
vai trò to lớn trong quá trình con người hình thành nhận biết về thế giới và mài
sắc tư duy ngôn ngữ. Trong phạm vi luận văn, người viết xin khảo sát ba bộ
phận cơ thể diện kiến xuất hiện nhiều nhất, là cách con người sử dụng nhiều
nhất để nhận biết và tác động tới thế giới, đó là “ Mắt”, “tay”, “chân”.
Từ những lí do trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài “ Sự tri nhận ngôn
ngữ biểu hiện thân thể con người trong văn xuôi Việt Nam đầu thế kỉ XX và
văn xuôi cuối thế kỉ XX” để thực hiện nghiên cứu cho luận văn của mình.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử lí thuyết ngôn ngữ học tri nhận và quá trình ứng dụng
lí thuyết ngôn ngữ học tri nhận trong nghiên cứu ngôn ngữ
2.1.1. Trên thế giới
Thời điểm ra đời chính thức của ngôn ngữ học tri nhận thường được
tính là năm 1989, năm mà tại Duiburg (Đức) các nhà khoa học tham dự hội
thảo đã thông qua và quyết định thành lập hội ngôn ngữ học tri nhận và sau
đó bắt đầu ra tạp chí Cognitive Linguistics [23;15]. Nhưng trong thực tế, ngôn
ngữ học tri nhận đã manh nha từ thập niên 60 của thế kỉ XX. Hai tiền đề cơ
bản và trực tiếp thúc đẩy ngôn ngữ học tri nhận hình thành là Ngữ pháp tạo
sinh (Generative gramar) cuả nhà toán học, ngôn ngữ học Chomsky và những
thành tựu của khoa học tri nhận (Cognitive Science) thế hệ 2 [George Lakoff
và một số vấn đề về lí luận ngôn ngữ học tri nhận – tạp chí ngôn ngữ
5/2007;69-71].
2
Vấn đề trọng tâm của ngôn ngữ học tri nhận xoay quanh thuật ngữ tri
nhận (cognition). Nó chứa đựng hai nghĩa của những từ Latin kết hợp lại:
cognitio có nghĩa là nhận thức và cogitatio có nghĩa là tư duy, suy nghĩ. Đó là
tất cả những quá trình trong đó các dữ liệu cảm tính được cải biến khi truyền
vào trong não dưới dạng những biểu tượng tinh thần để có thể lưu lại trong trí
nhớ con người.
Khoảng những năm 60 – 70 và đầu 80 thế kỉ trước, ban đầu các nghiên
cứu chính tập trung ở nhóm học giả vùng ven biển phía tây nước Mĩ (Đại học
California phân hiệu Berkely) chủ yếu khảo sát trên ngữ liệu Tiếng Anh. Bởi
vậy, cho đến nay vẫn tồn tại cách hiểu ngôn ngữ học tri nhận theo nghĩa hẹp
là ngữ nghĩa học tri nhận Mĩ của Lakoff và Johnson và ngữ pháp học tri nhận
Mĩ (Langacker) và một số nghiên cứu khác của các học giả Châu Âu như
Rudzka – Ostyn, Taylor, Geeraerts, Haiman… Tuy nhiên, càng ngày, ngôn
ngữ học tri nhận càng mở rộng phạm vi và thu hút được sự quan tâm quả các
nhà ngôn ngữ trên thế giới. Do đó, phạm vi ngữ liệu chuyển từ tiếng Anh sang
ngữ liệu của các ngôn ngữ khác trên thế giới (trong đó có tiếng Việt) để cùng
so sánh và đối chiếu. Điều đó làm cho ngôn ngữ học tri nhận được hiểu rộng
hơn và số lượng công trình nghiên cứu cùng kết quả thu được phong phú hơn.
Ngôn ngữ học tri nhận có hai hướng nghiên cứu chính, đó là: Ngữ
nghĩa học tri nhận với các tác giả tiêu biểu như Lakoff, Johnson, Rosch,
Fillmore, Fauconnier, Turner… và Ngữ pháp học tri nhận của nhóm tên tuổi
như : Talmy, Langacker, Goldberg…
2.1.2. Ở Việt Nam
Ngôn ngữ học tri nhận đã được giới thiệu ở Việt Nam trong những năm
gần đây nhờ cống hiến lớn của các tác giả: Lý Toàn Thắng, Trần Văn Cơ,
Nguyễn Văn Hiệp, Lê Quang Thiêm…
Tác giả Lý Toàn Thắng là một trong những tác giả đi tiên phong và trở
thành chuyên gia của Việt Nam về ngôn ngữ học tri nhận với công trình Ngôn
3
ngữ học tri nhận – Từ lí thuyết đến thực tiễn tiếng Việt. Trong cuốn sách này,
ông đã giới thiệu và trình bày về sự hình thành và phát triển của ngôn ngữ học
tri nhận cũng như những hệ thống luận điểm về những nguyên lí cơ bản nhất
của trường phái này như : Phạm trù hóa, ý niệm hóa, điển mẫu, ẩn dụ ý
niệm… Cho đến nay, công trình nghiên cứu của ông vẫn được coi là nguồn
tài liệu có tính hệ thống, khoa học, và đáng tin cậy hàng đầu về ngôn ngữ học
tri nhận ở Việt Nam. Đặc biệt, tác giả đã ứng dụng lí thuyết ngôn ngữ học tri
nhận vào thực tiễn tiếng Việt thông qua nghiên cứu công phu về đặc điểm tri
nhận không gian của người Việt.
Cũng năm 2006, tác giả Nguyễn Văn Hiệp đã dịch hoàn chỉnh cuốn
Ngữ nghĩa học dẫn luận (Semantic – An introduction) của John Lyons, trong
đó có một số đoạn trình bày về điển mẫu ngữ nghĩa và một số vấn đề khác của
tri nhận được đặt trong quan hệ với ngữ nghĩa.
Tác giả Lê Quang Thiêm góp phần truyền bá lí thuyết ngôn ngữ học tri
nhận qua các bài giảng về ngữ nghĩa học và được tập hợp thành sách Ngữ nghĩa
học xuất bản 2005. Trong đó, bài số 5: Ngữ nghĩa học tri nhận đã cho thấy, ông
đã giới hạn cách hiểu về ngôn ngữ học tri nhận là ngữ nghĩa học tri nhận.
Trần Văn Cơ với hai cuốn sách Ngôn ngữ học tri nhận (ghi chép và
suy nghĩ) và Khảo luận ẩn dụ tri nhận đã cung cấp những hiểu biết cơ bản
nhất về vấn đề trọng tâm của ngữ nghĩa học: Ẩn dụ ý niệm. Đặc biệt, tác giả
còn trích dịch và giới thiệu công trình Ẩn dụ mà chúng ta đang sống
(Metaphor we live by) của Lakoff và chia sẻ những cảm nhận, gợi ý của chính
tác giả để tiếp cận lí thuyết dễ dàng hơn.
Những công trình, những đề tài nghiên cứu đã và đang trong quá trình
thực hiện đã tiếp cận lí thuyết ngôn ngữ học tri nhận ở những góc độ khác nhau
và có những kiến giải phù hợp để lí thuyết có thể ứng dụng hiệu quả vào thực
tiễn Tiếng Việt. Trong những năm gần đây, số lượng những công trình nghiên
cứu về lĩnh vực ngôn ngữ học tri nhận vào ngữ liệu tiếng Việt ngày càng nhiều
4
và thu được kết quả khá phong phú. Có hai xu hướng vận dụng lí thuyết để
nghiên cứu đó là: xu hướng vận dụng ngôn ngữ tri nhận vào vào bình diện ngữ
nghĩa và xu hướng vận dụng lí thuyết nghiên cứu bình diện ngữ pháp.
Hướng nghiên cứu vận dụng lí thuyết trên bình diện ngữ pháp có
các công trình: Câu điều kiện trong tiếng Việt (LATS, 2008) của Nguyễn
Khánh Hà, Bước đầu áp dụng lí thuyết điển mẫu vào nghiên cứu thành
phần chủ ngữ của câu tiếng Việt của Đỗ Hồng Dương…
Ở xu hướng vận dụng lí thuyết nghiên cứu lí thuyết trên bình diện
ngữ nghĩa gồm có các công trình: Ẩn dụ tri nhận trong ca dao (LVThS,
2008) của Bùi Thị Dung, Bước đầu tìm hiểu cách thức tri nhận thế giới
của người Việt (trên ngữ liệu câu đố) (LVThS, 2008) của Nguyễn Thanh
Huyền, Đặc điểm tri nhận của người Việt qua trường từ vựng chim chóc
(LVThS, 2009) của Lê Thị Thanh Huyền, (LVThS, 2010), Ý niệm hương
thơm và đặc trưng tư duy văn hóa của người Việt của Nguyễn Thị Hà
(LVThS, 2011), Ẩn dụ ý niệm trong tiếng Việt (LATS, 2009) của Phan
Thế Hưng.
Ngoài ra, ở không ít công trình, các tác giả đã tiếp cận vấn đề theo
hướng tri nhận dù không đề cập đến lí thuyết tri nhận trong tác phẩm công bố,
chẳng hạn: Đặc điểm trường từ vựng - ngữ nghĩa tên gọi động vật (trên tư
liệu đối chiếu tiếng Việt với tiếng Nga) (1996) của Nguyễn Thúy Khanh,
Tiến tới xác lập vốn từ vựng văn hóa Việt (2003) của Nguyễn Văn Chiến,
Sự phát triển ý nghĩa của hệ biểu tượng trang phục trong ngôn ngữ thơ ca
Việt Nam (2005) của Nguyễn Thị Ngân Hoa…
Mới đây có một số công trình nghiên cứu ngôn ngữ biểu hiện thân
thể con người như Thành ngữ tiếng Anh và thành ngữ tiếng Việt có yếu
tố chỉ bộ phận cơ thể người dưới góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận
(LATS, 2008) của Nguyễn Ngọc Vũ, Nghiên cứu so sánh đối chiếu ẩn dụ
trong tiếng Hán và Tiếng Việt dưới góc độ ngôn ngữ học tri nhận trên tư
5
liệu gọi tên bộ phận cơ thể người của Trịnh Thị Thanh Huệ (LATS, 2012)
... cùng nhiều bài báo, tạp chí. Các công trình này tập trung chủ yếu vào
một số ẩn dụ ý niệm gắn với các phạm trù cơ bản: phạm trù tình cảm, cảm
xúc; phạm trù không gian; phạm trù thực vật; phạm trù động vật (phạm trù
chim); phạm trù bộ phận cơ thể người trên cơ sở đối chiếu ngôn ngữ tiếng
Việt với các thứ tiếng khác. Nhưng chưa đề tài nào đề cập sâu sắc tới hệ
thống biểu tượng thân thể con người trong văn xuôi Việt Nam.
Sơ lược về quá trình nghiên cứu lí thuyết Ngôn ngữ học tri nhận và
việc vận dụng lí thuyết vào thực tiễn Tiếng Việt, chúng tôi nhận thấy kết quả
từ các công trình khá phong phú và khẳng định đây là một địa hạt giàu tiềm
năng để có thể khám phá mối quan hệ giữa ngôn ngữ - văn hóa – tư duy của
người Việt.
Với những hiểu biết về lí thuyết sự tri nhận ngôn ngữ về con người soi
chiếu trong các tác phẩm văn học hiện đại, người viết mạnh dạn triển khai đề
tài “ Sự tri nhận ngôn ngữ biểu hiện thân thể con người trong văn xuôi Việt
Nam đầu thế kỉ XX và văn xuôi cuối thế kỉ XX”.
2.2. Lịch sử nghiên cứu trường từ vựng và trường từ vựng bộ phận
thân thể người trong Tiếng Việt
2.2.1. Về trường từ vựng
Trường từ vựng là lĩnh vực được nghiên cứu từ lâu trên thế giới cũng
như ở Việt Nam.
Trên thế giới, vào khoảng những năm 20 - 30 của thế kỉ XX, Jos Trier
là người đầu tiên nêu ra khái niệm trường dựa vào lý thuyết ngôn ngữ của F.
de Saussure. Sau đó, Porzig và Ipsen cùng nhiều tác giả đã đưa ra các quan
niệm khác nhau về vấn đề này. Lý thuyết trường từ vựng dần được hình thành
và nhanh chóng thu hút sự tìm hiểu của giới nghiên cứu ngôn ngữ học.
Ở Việt Nam, nhiều nhà ngôn ngữ học cũng quan tâm và trình bày về
trường từ vựng trong các công trình của mình. Có thể kể đến một số công trình
6
có vai trò nền tảng quan trọng như: Từ và vốn tiếng Việt hiện đại (1976) của
Nguyễn Văn Tu, Từ vựng tiếng Việt (1978) của Nguyễn Thiện Giáp, Từ vựng
ngữ nghĩa tiếng Việt (1981) của Đỗ Hữu Châu, Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng
(1986) của Đỗ Hữu Châu, Nhập môn ngôn ngữ học (2007) của Mai Ngọc
Chừ, Nguyễn Thị Ngân Hoa, Đỗ Việt Hùng, Bùi Minh Toán...
Trong những công trình trên, các tác giả đã đưa ra những vấn đề cơ bản
của trường từ vựng như: khái niệm, tiêu chí xác lập, phân loại các trường từ
vựng… Đây là những nội dung lý thuyết rất cần thiết, có chức năng định
hướng cho việc tìm hiểu về trường từ vựng.
Bên cạnh đó phải kể đến số lượng không nhỏ các công trình luận án
tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, khóa luận tốt nghiệp vận dụng lý thuyết trường từ
vựng vào các trường nghĩa cụ thể. Một số tác giả đã triển khai theo hướng
nghiên cứu ngôn ngữ tự nhiên, với nguồn ngữ liệu là các đơn vị, các biểu thức
ngôn ngữ đang được sử dụng trong đời sống sinh hoạt của người Việt như:
Nguyễn Thúy Khanh (Đặc điểm trường từ vựng ngữ nghĩa tên gọi động vật
(trên tư liệu đối chiếu tiếng Việt với tiếng Nga), LAPTS, 1996), Phạm Thị
Hòa (Hiện tượng nhiều nghĩa trong trường từ vựng chỉ người, LATS,
2000), Lê Thị Lệ Thanh (Trường từ vựng ngữ nghĩa các từ ngữ biểu thị
thời gian của tiếng Việt trong sự so sánh với tiếng Đức, LATS, 2001),
Nguyễn Thị Yến (Hiện tượng chuyển trường từ vựng trong các bài báo viết
về bóng đá (Khảo sát trên báo Bóng đá và báo Thể thao và Văn hóa,
LVThS, 2008), Hoàng Ái Vân (Trường nghĩa mùi vị và các hình thức biểu
hiện trong tiếng Việt, LVThS, 2008)…
Nhiều tác giả lại vận dụng lí thuyết trường từ vựng vào nghiên cứu
ngôn ngữ nghệ thuật với ngữ liệu là các tác phẩm của các nhà thơ, nhà văn
nổi tiếng để giải mã về nội dung – nghệ thuật của văn bản cũng như phong
cách tác giả. Có thể kể tới: Nguyễn Chí Trung (Trường từ vựng chỉ người
trong thơ Chế Lan Viên, LVThS, 2004), Phạm Thị Lệ Mỹ (Trường nghĩa và
7
việc phân tích tác phẩm văn học (qua tác phẩm "Thân phận tình yêu" Bảo Ninh), LVThS, 2008), Phùng Thị Cảnh Trang (Khảo sát một số tín hiệu
thẩm mĩ tiêu biểu thuộc trường nghĩa thiên nhiên trong thơ Xuân Diệu và
Hàn Mặc Tử trước cách mạng, LVThS, 2008), Nguyễn Thị Thu Trang
(Trường nghĩa hiện tượng khí tượng trong “Truyện Kiều”, LVThS, 2009),
Hà Thị Mai Thanh (Trường từ vựng ngữ nghĩa thực vật với hai Thu-Đông
trong thơ Nôm Đường luật (thế kỉ XV - XVII), LVThS, 2010)…
Với số lượng những công trình nghiên cứu phong phú, trường từ vựng
là một đối tượng nghiên cứu có sức hấp dẫn, lôi cuốn được nhiều người tham
gia tìm hiểu. Nó trở thành cơ sở để nghiên cứu nhiều vấn đề ngôn ngữ khác
và là một con đường quan trọng đến với thế giới nhận thức, tư duy, văn hoá
của một dân tộc
2.2.2 Trường từ vựng về bộ phận thân thể con người.
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam từ lâu đã rất chú trọng đến việc
nghiên cứu hình ảnh con người. Có rất nhiều công trình nghiên cứu trên thế
giới về ý nghĩa ngôn ngữ cơ thể được gọi là lĩnh vực phi ngôn ngữ vô cùng
thú vị. Cuốn sách gần đây nhất đã được dịch ra Tiếng Việt là Allan &Barbana
Pease (2010), Cuốn sách hoàn hảo về ngôn ngữ cơ thể, NXB tổng hợp TP
Hồ Chí Minh và một số cuốn sách tâm lý nghiên cứu về các dấu hiệu cơ thể.
Nhưng nghiên cứu về bộ phận cơ thể người dưới góc độ từ vựng Tiếng Việt
chủ yếu đều là đối chiếu ngôn ngữ Tiếng Việt với các thứ tiếng Anh, Pháp,
Nga, tiếng Hán... Có thể kể tới công trình nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Vũ
(2008), Thành ngữ Tiếng Anh và thành ngữ Tiếng Việt có yếu tố chỉ bộ phận
cơ thể con người dưới góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận (luận án tiến sĩ),
Trịnh Thị Thanh Huệ (2012), Nghiên cứu, đối chiếu, so sánh ẩn dụ trong
ngôn ngữ Tiếng Việt và tiếng Hán dưới góc độ các bộ phận cơ thể người
(Luận văn tiến sĩ), và một số bài báo như Nguyễn Đức Tồn (2008), Ngữ
nghĩa các từ chỉ bộ phận cơ thể người trong Tiếng Việt và tiếng Nga, TC
Ngôn ngữ số 4... Các công trình này bước đầu đã xác lập một số trường nghĩa
8
chung về các bộ phận cơ thể người trong Tiếng Việt nói chung. Đây là cơ sở
để người viết đi sâu nghiên cứu sự tri nhận ngôn ngữ cơ thể trong văn xuôi
hai giai đoạn văn học thế kỉ XX.
3. Mục đích nghiên cứu
- Củng cố và nắm vững lí thuyết về ẩn dụ, sự tri nhận các đặc điểm đặc
trưng của văn học Việt Nam thế kỉ XX.
- Tìm hiểu các lớp ý nghĩa của biểu tượng thân thể con người trong
văn xuôi Việt Nam đầu và cuối thế kỉ XX trên mối quan hệ giữa bình diện
văn hóa – bình diện ngôn ngữ và bình diện chủ thể sáng tạo.
- Đối chiếu các lớp nghĩa của ẩn dụ tri nhận bộ phận cơ thể người
trong hai giai đoạn văn học để tìm nét đồng nhất và khác biệt ở hai thời kì
văn học.
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
4.1 Phạm vi nghiên cứu:
Trong phạm vi nghiên cứu của khóa luận, chúng tôi chỉ khảo sát văn
xuôi hiện thực với truyện ngắn và tiểu thuyết
+ Truyện vừa và Truyện dài của Hồ Biểu Chánh, Hoàng Ngọc Phách,
“ tiểu thuyết “Nửa chừng xuân” của Khái Hưng, tiểu thuyết “Hồn bướm mơ
tiên” của Nhất Linh (tiêu biểu của văn học giao thời đầu thế kỉ XX)
+ Tập truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, tập truyện ngắn “Bóng đè” của
Đỗ Hoàng Diệu, tiểu thuyết “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư,
truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ… (những tác phẩm gây sóng gió nhiều
nhất trong văn học Việt Nam cuối thế kỉ XX)
4.2 Đối tượng nghiên cứu:
Bộ phận thân thể con người bao gồm nhiều bộ phận. Trong phạm vi
nghiên cứu của luận văn, người viết chỉ tập trung vào nghiên cứu, đôi sánh sự
vận động, phát triển của các đơn vị từ ngữ chỉ bộ phận mắt, bộ phận bàn tay
và bộ phận bàn chân à ba bộ phận diện kiến quan trọng giúp con người tri
nhận vạn vật xung quanh.
5. Phương pháp nghiên cứu
9
5.1 Phương pháp phân tích – thống kê: Thống kê có định hướng, phân
loại các đơn vị từ vựng khảo sát.
Trên cơ sở khảo sát các yếu tố ngôn ngữ, chúng tôi phân loại thống kê
được các yếu tố chỉ miêu tả biểu tượng mắt, tay, chân của con người để
nghiên cứu.
Từ đó tổng hợp các dữ liệu khái quát nên những nét đặc trưng của biểu
tượng mắt, tay, chân của con người trong mỗi giai đoạn văn học.
5.2 Phương pháp phân tích ngữ nghĩa: Phân tích từ ngữ gắn ngữ
cảnh, chú ý mối quan hệ bình diện hệ thống cấu trúc với bình diện hoạt động
của ngôn ngữ, chỉ ra nghĩa bản thể, nghĩa biểu trưng, nghĩa liên hội…
5.3 Phương pháp phân tích lượng – tính : Dựa trên các đặc điểm định
lượng và định tính của các biến thể trong từng thời kì văn học để tìm hiểu quy
luật biến đổi ngữ nghĩa của hệ biểu tượng cơ thể con người trong văn xuôi
hiện thực Việt Nam thế kỉ XX.
5.4 Phương pháp tiếp cận kí hiệu học: Phân tích mối quan hệ giữa cái
biểu trưng và cái được biểu trưng, các cấp độ của cái được biểu trưng
5.5 Phương pháp so sánh văn hóa – văn học: So sánh các hướng
nghĩa và giá trị thẩm mĩ của hệ biểu tượng thân thể con người trong văn hóa
và văn xuôi Việt Nam thế kỉ XX với một số tác giả tiêu biểu để thấy được sự
mở rộng hay giữ nguyên, thu hẹp ý nghĩa biểu tượng. So sánh để thấy được
tính kế thừa và tính sáng tạo, phát triển của các giai đoạn văn học.
6. Đóng góp của luận văn
Nghiên cứu đề tài này, người viết dự kiến có những đóng góp sau:
- Hệ thống hóa lại các khái niệm chung nhất về ẩn dụ tri nhận
- Từ kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ giúp chúng ta có thể phần nào đó
nhận diện thế giới ngôn ngữ thân thể con người trong văn xuôi.
- Thấy được sự vận động, phát triển của ngôn ngữ thân thể trong quá
trình phát triển của văn xuôi Việt Nam thế kỉ XX
7. Dự kiến nghiên cứu
10
Qua việc khảo sát và giải mã hệ thống biểu tượng ta có thể rút ra sơ
khai một số nhận xét sau:
- Sự chuyển hóa các biến thể văn hóa về thân thể con người vào văn
học nghệ thuật nói chung và văn xuôi nói riêng có một độ chênh, độ khúc xạ
rõ rệt. Tỉ lệ giữa các biến thể cho ta thấy một số đặc trưng trong quan niệm
thẩm mĩ cũng như trong ý thức xã hội của từng thời kì văn học.
- Sự tri nhận ngôn ngữ thân thể con người trong văn xuôi hiện đại có
sự kế thừa các tầng lớp ý nghĩa của biểu tượng văn hóa. Nhưng con người
buổi giao thời đầu thế kỉ XX vẫn là con người đạo đức phong kiến. Yếu tố
chuẩn mực chi phối mọi hành vi, cử chỉ, trạng thái cũng như cách miêu tả,
cách hiện diện của con người. Tuy nhiên ở giai đoạn chịu ảnh hưởng của văn
hóa phương Tây này, hình ảnh con người bắt đầu có những bước bứt phá mới,
con người bắt đầu trở về đời thường với một chút âu yếm, tình tứ.
- Sang đến giai đoạn văn xuôi hậu hiện đại cuối thế kỉ XX, hệ thống
biểu tượng về con người đa dạng hơn, phong phú hơn và sự xuất hiện trực
tiếp một cách đậm đặc những bộ phận phía dưới của con người và hành vi cử
chỉ thể hiện ham muốn bản năng. Con người được miêu tả trần tục như đời
sống thực, không chút che đậy. Thậm chí trong hệ ngôn ngữ thân thể con
người văn học giai đoạn này còn xuất hiện những biểu tượng về bộ phận kín
mà trước đây, văn học các giai đoạn trước đều e dè né tránh.
8.Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, và tài liệu tham khảo, luận văn triển khai
theo ba chương nội dung chính:
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
Chương 2: SỰ TRI NHẬN GIỐNG NHAU VỀ BỘ PHẬN THÂN THỂ
CON NGƯỜI TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM ĐẦU VÀ CUỐI THẾ KỈ XX.
Chương 3: SỰ TRI NHẬN KHÁC NHAU VỀ BỘ PHẬN THÂN THỂ
CON NGƯỜI TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM ĐẦU VÀ CUỐI THẾ KỈ XX.
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT
11
Trong phần cơ sở lí thuyết, chúng tôi trình bày khái quát những nội
dung lí thuyết cơ bản sẽ được áp dụng để giải quyết vấn đề mà luận văn đặt
ra: tìm hiểu đặc điểm tri nhận của người Việt thông qua trường từ vựng về bộ
phận cơ thể người trong văn xuôi đầu và cuối thế kỉ XX. Với định hướng triển
khai đề tài dựa trên mối quan hệ giữa ngôn ngữ - văn hóa - tư duy, chúng tôi
lựa chọn hai cơ sở lí luận là cơ sở ngôn ngữ học và cơ sở văn hóa học.
1.1. Cơ sở ngôn ngữ học
1.1.1. Nghĩa của từ và trường từ vựng ngữ nghĩa
1.1.1.1. Nghĩa của từ
a. Khái niệm
Nghĩa của từ là đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học từ rất sớm. Đó
là toàn bộ những nội dung tinh thần có khi tiếp xúc với vỏ âm thanh của từ.
Hay như giáo sư Đỗ Hữu Châu đã nhận định: “Nghĩa của từ là một thực thể
tinh thần có quan hệ ổn định với hình thức từ”, cùng với hình thức từ lập
thành một thể thống nhất gọi là từ. Nghĩa của từ là một hợp điểm, là kết quả
của tác động giữa những nhân tố trong ngôn ngữ (toàn bộ hệ thống ngôn ngữ)
và ngoài ngôn ngữ (sự vật hiện tượng của thế giới bên ngoài và những hiểu
biết về sự vật hiện tượng đó). (Tam giác ngữ nghĩa của Rechard và Ogden,
Zvenghinsen, Đỗ Hữu Châu được trình bày trong sách Nhập môn ngôn ngữ
học và Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng).
b. Các thành phần nghĩa của từ
Từ vừa mang ý nghĩa cấu trúc (là những ý nghĩa được cố định hóa, có
tính bền vững trong hệ thống và được ghi chép giải nghĩa trong từ điển), lại
vừa mang ý nghĩa lâm thời, ý nghĩa liên hội (ý nghĩa không cố định, biến đổi,
nảy sinh trong hoạt động hành chức của ngôn ngữ và chưa được ghi chép giải
nghĩa trong từ điển). Trong ý nghĩa cấu trúc của từ bao gồm hai loại ý nghĩa
lớn là ý nghĩa ngữ pháp và ý nghĩa từ vựng. Nếu ý nghĩa ngữ pháp mang tính
đồng loạt, chung cho nhiều từ thì ý nghĩa từ vựng là ý nghĩa riêng của từng từ.
12
Luận văn sẽ tập trung chú ý tới ý nghĩa từ vựng của từ với ba thành phần
nghĩa: ý nghĩa biểu vật, ý nghĩa biểu niệm và ý nghĩa biểu thái.
“Ý nghĩa biểu vật là phần nghĩa của từ liên quan đến sự vật hoặc phạm
vi sự vật trong thế giới mà từ gợi ra khi ta tiếp xúc với nó”. Khi nhận thức
được ý nghĩa biểu vật cũng là lúc trong ngôn ngữ học có sự khu biệt giữa hai
khái niệm bức tranh ngôn ngữ về thế giới và bức tranh hiện thực thế giới. Hai
khái niệm này không bao giờ trùng khớp với nhau, và ở mỗi cộng đồng dân
tộc thì bức tranh ngôn ngữ cũng có sự khác nhau. Ý nghĩa biểu vật của từ
chính là chính là phương tiện quan trọng để chúng tôi xác lập cụ thể số lượng
các đơn vị trong trường từ vựng hương thơm tiếng Việt cũng nhưu tái hiện
bức tranh ngôn ngữ về hương thơm của người Việt.
“Ý nghĩa biểu niệm là phần nghĩa của từ liên quan đến hiểu biết về ý
nghĩa biểu vật của từ” tức là phản ánh hiểu biết về cách sử dụng từ. Ý nghĩa
biểu niệm là một cấu trúc bao gồm một số thành tố được sắp xếp theo một trật
tự nhất định, ví dụ, từ ngón trong ngón tay, ngón chân có cấu trúc biểu niệm:
- Ngón 1: Phần cử động được của bàn tay, bàn chân.
Ngón 2: Tài nghệ, sở trường ( Ngón võ, ngón đàn, ngón nghề...)
Ngón 3: Mánh khóe, thủ đoạn riêng ( Giở ngón bịp bợm...)
Để tìm hiểu cấu trúc các nét nghĩa của từ, trong ngôn ngữ học có phương
pháp phân tích thành tố nghĩa. Ứng với mỗi từ loại khác nhau (danh từ, động từ,
tính từ, hư từ) các thao tác ngữ nghĩa sẽ được điều chỉnh cho phù hợp.
“Ý nghĩa biểu thái là phần ý nghĩa của từ liên quan đến thái độ, cảm
xúc, cách đánh giá”. Nó có vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn cách dùng
từ. Hiểu biết về ý nghĩa biểu thái giúp chúng ta lựa chọn từ một cách chính
xác trong hàng loạt những từ gần nghĩa, đồng nghĩa khi sử dụng. Trong luận
văn này, sắc thái của các từ thuộc trường từ vựng bộ phận cơ thể người, nhất
là những từ chỉ ý nghĩa tượng trưng được đặc biệt quan tâm bởi chúng cho
biết thái độ, tâm lí, cảm quan cá nhân của người nói đối với đối tượng được
13
nói tới. Từ đó, chúng ta có thể tìm ra một số đặc điểm tâm lí cũng như quan
niệm của người Việt về các vấn đề trong cuộc sống.
Thành phần ý nghĩa liên hội được các nhà nghiên cứu xác lập để tạo thế
cân bằng với ý nghĩa cấu trúc. Sự có mặt của thành phần nghĩa này được kiểm
chứng khi từ được sử dụng trong hoạt động hành chức, tức là khi nó được
chuyển từ trạng thái tĩnh sang trạng thái động. Ngoài những ý nghĩa đã được
cố định trong từ điển, những ý nghĩa có khả năng nảy sinh trong tâm trí người
sử dụng những liên tưởng, đánh giá, ấn tượng mang đậm dấu ấn cá nhân. Thói
quen sử dụng những ý nghĩa phát sinh này sẽ phản ánh nhận thức của cá nhân,
của cộng đồng. Điều đó, nó giúp cho người sử dụng ngôn ngữ nhuần nhuyễn,
tự tin và tránh phạm húy trong tập quán, văn hóa của người bản ngữ. Có thể
nói, ý nghĩa liên hội phần nào chứa đựng những lớp tư duy của cộng đồng
cũng như những cảm nhận cá nhân, khám phá những thói quen mang tính chất
phong tục trong thế ứng xử của con người đối với thế giới tự nhiên và xã hội.
Vì thế, trong luận văn này, chúng tôi đi vào nghiên cứu ý nghĩa liên hội của
những từ chỉ bộ phận thân thể diện kiến của con người để tìm hiểu một số đặc
điểm tâm lí của người Việt hiện đại đối với vấn đề này.
c. Hiện tượng nhiều nghĩa và sự chuyển nghĩa của từ
Từ xa xưa, ngôn ngữ học đã quan tâm lí giải hiện tượng tính đa trị ở
một tín hiệu ngôn ngữ: một hình thức tín hiệu có thể mang nhiều nội dung,
khi nghiên cứu về nghĩa của từ và sự chuyển biến ý nghĩa của từ trong sử
dụng. Nhưng hiện tượng này bao gồm hai nhóm khác nhau đó là hiện tượng
đồng âm và hiện tượng nhiều nghĩa, và để phân biệt hai hiện tượng này ngôn
ngữ học lấy tiêu chuẩn ngữ nghĩa để soi chiếu. Kết quả cho thấy hiện tượng
nhiều nghĩa là sự chuyển biến ý nghĩa trong nội bộ một từ, còn từ đồng âm lại
là hiện tượng các từ khác nhau nhưng có sự trùng nhau về hình thức âm
thanh. Khi có sự phân biệt như vậy, luận văn sẽ chỉ chú ý tới hiện tượng
14
chuyển biến ý nghĩa mà thực chất là quá trình di chuyển từ ý niệm bộ phận
con người sang các ý niệm khác của người Việt.
Hiện tượng nhiều nghĩa có thể xuất hiện ở cả ý nghĩa biểu vật, ý nghĩa
biểu niệm và ý nghĩa biểu thái. Có thể thấy có nhiều nghĩa biểu vật như sau:
- Vai 1: Phần cơ thể nối liền hai cánh tay và thân
Vai 2: Biểu trư ng cho thứ bậc trên dưới trong quan hệ gia đình, làng
xóm, xã hội (vai vế, vai anh, vai chị...)
Vai 3: Biểu trưng cho sức lực ( Chung vai gánh vác, Sức dài vai rộng,
vai u thịt bắp...)
Vai 4: Bộ phận của áo, che hai vai (vai áo)
Vai 5: Bộ phận của một số vật giống cái vai, có chức năng gánh, đỡ
(vai cày, vai lọ...)
Vai 6: Nhân vật trong kịch bản được diễn viên thể hiện (Vai chính, vai hề...)
Hiện tượng nhiều nghĩa của ý nghĩa biểu vật và ý nghĩa biểu niệm có
mối quan hệ mật thiết với nhau, và thường chia thành nhóm, xoay quanh một
một cấu trúc nghĩa biểu niệm nào đó. Do đó, hệ quả dẫn đến một từ có thể có
thể thuộc nhiều trường từ vựng khác nhau.
1.1.1.2. Trường từ vựng ngữ nghĩa
a. Khái niệm trường từ vựng ngữ nghĩa
Về khái niệm, trường từ vựng ngữ nghĩa còn được được gọi là trường
từ vựng, trường nghĩa. Hiểu theo một cách ngắn gọn, khái niệm trường từ
vựng được được hiểu là “các đơn vị từ vựng đồng nhất với nhau về nghĩa”.
Việc tập hợp những từ ngữ để tạo lập nên những diễn ngôn chính xác là quá
trình xác lập trường từ vựng.
Trong tiếng Việt, học giả Đỗ Hữu Châu xác định có các trường từ vựng
như: trường nghĩa biểu vật, trường nghĩa biểu niệm, trường nghĩa tuyến tính,
trường nghĩa liên tưởng… Trong luận văn này, chúng tôi sẽ đề cập tới các
15
kiểu trường từ vựng để đưa ra cách lí giải hợp lí về sự tri nhận của người Việt
qua trường từ vựng mắt, tay và chân của con người.
b. Các loại trường từ vựng ngữ nghĩa
Từ những đặc điểm chung của tập hợp từ, Đỗ Hữu Châu đã trình bày
những quan niệm của mình về các kiểu trường nghĩa và tiêu chí xác lập
trương nghĩa: Trường nghĩa biểu vật, trường nghĩa biểu niệm, trường nghĩa
liên tưởng, trường nghĩa tuyến tính.
Trường nghĩa biểu vật “là một tập hợp các từ ngữ đồng nhất với nhau
về nghĩa biểu vật (về phạm vi biểu vật)” . Để xác lập trường nghĩa biểu vật
người ta chọn một danh từ biểu thị sự vật làm gốc, danh từ này phải có ý
nghĩa khái quát cao. Từ điểm xuất phát đó, ta có thể xác lập được một tập hợp
những từ ngữ có ý nghĩa xoay quanh từ trung tâm. Khi tìm hiểu trường nghĩa
biểu vật cần lưu ý những điểm sau:
- Về số lượng đơn vị và tổ chức: các trường nghĩa có sự khác nhau về
số lượng cũng như tổ chức và nếu có chung tên gọi thì trường nghĩa ở các
ngôn ngữ khác nhau thì có sự khác nhau.
- Về vị trí: một từ có thể nằm trong nhiều trường biểu vật khác nhau hay
trong nhiều trường nhỏ khác nhau tùy theo số lượng các ý nghĩa biểu vật của nó.
- Về mối quan hệ: các trường biểu vật có thể “thẩm thấu”, “giao thoa”
với nhau. Bên trong các trường nghĩa, các từ ngữ quan hệ với trường biểu vật
có thể chặt chẽ hoặc lỏng lẻo.
Một điểm rất đáng chú ý là trường nghĩa biểu vật không phải chỉ có
danh từ tức là những từ dùng để gọi tên sự vật, hiện tượng. Trường nghĩa biểu
vật có thể bao gồm động từ, tính từ, trạng từ… Các từ này có thể biểu hiện
các phương diện khác nhau (mang các nét nghĩa khác nhau) nhưng đều liên
quan đến phạm vi sự vật, thuộc về trường biểu vật đó.
Trường biểu niệm “là tập hợp các từ có chung một cấu trúc nghĩa biểu
niệm’. Để xác lập trường biểu niệm ta chọn một cấu trúc biểu niệm làm gốc,
16
rồi trên cơ sở đó thu thập các từ ngữ có chung cấu trúc biểu niệm. Các trường
biểu niệm lớn có thể phân chia thành các trường nhỏ và cũng có những miền
với mật độ khác nhau.
Còn trường nghĩa tuyến tính được xác lập căn cứ vào mối quan hệ
trên trục ngữ đoạn của các đơn vị ngôn ngữ. Để tạo lập trường nghĩa tuyến
tính, thao tác đầu tiên là chọn một từ làm gốc, sau đó tìm tất cả những từ có
thể kết hợp với nó thành những chuỗi tuyến tính (cụm từ, câu) chấp nhận
được trong ngôn ngữ. Vì vậy các từ trong một trường tuyến tính là những từ
thường xuất hiện với từ trung tâm trong các loại ngôn bản. Phân tích ý nghĩa
của chúng có thể phát hiện ra những nội dung ngữ nghĩa của các quan hệ cú
pháp và tính chất của các quan hệ đó.
Cùng với các trường nghĩa dọc, trường nghĩa biểu vật và trường nghĩa
biểu niệm, các trường nghĩa tuyến tính góp phần làm sáng tỏ những quan hệ
và cấu trúc ngữ nghĩa của từ vựng, phát hiện những đặc điểm nội tại và những
đặc điểm hoạt động của từ.
Trường nghĩa liên tưởng “là tập hợp các từ biểu thị các sự vật, hiện
tượng, hoạt động, tính chất,… có quan hệ liên tưởng với nhau”. Theo nhà ngôn
ngữ học người Pháp Ch. Bally, tác giả đầu tiên của khái niệm trường nghĩa liên
tưởng, mỗi từ có thể là trung tâm của một trường liên tưởng. Nghiên cứu về
trường liên tưởng cần nắm được ý nghĩa liên hội – ý nghĩa được hình thành do
liên tưởng trong quá trình sử dụng, có tính lâm thời, chưa đi vào hệ thống cấu
trúc của từng đơn vị ngôn ngữ.
Các từ trong một trường liên tưởng là sự hiện thực hóa, sự cố định bằng
từ các ý nghĩa liên hội có thể có của từ trung tâm. Trường liên tưởng tập hợp
các từ cùng nằm trong một trường biểu vật, trường biểu niệm và trường tuyến
tính. Ngoài ra, trường liên tưởng còn chấp nhận những từ khác được liên
tưởng tới do xuất hiện với từ trung tâm trong những ngữ cảnh có chủ đề tương
17
đối đồng nhất, thường xuyên lặp đi lặp lại. Chính vì thế, các trường liên tưởng
“có tính dân tộc, tính thời đại và tính cá nhân” .
c. Hiện tượng chuyển trường
Tại mục 1.1.1.1. Nghĩa của từ, khi trình bày về “hiện tượng nhiều nghĩa
của từ”, một từ có thể có một hoặc nhiều nghĩa biểu vật, biểu niệm và biểu thái.
Hiện tượng này không tồn tại ngay khi từ vừa xuất hiện mà hình thành do
những cải biến của con người trong quá trình sử dụng: “Từ (đơn hoặc phức) lúc
mới xuất hiện đều chỉ có một nghĩa biểu vật. Sau một thời gian được sử dụng,
nó có thể có thêm những nghĩa biểu vật mới. Các nghĩa biểu vật mới xuất hiện
ngày càng nhiều thì nghĩa biểu niệm của nó càng có khả năng biến đổi”. Sự
chuyển nghĩa của từ chính là cơ sở dẫn đến sự chuyển trường.
Những biến đổi về nghĩa của từ diễn ra tùy theo từng hoàn cảnh giao
tiếp cụ thể. Các nghĩa mới nảy sinh có thể chỉ mang tính chất nhất thời, dễ
dàng bị tiêu biến song cũng có những nghĩa được sử dụng rộng rãi trong cộng
đồng ngôn ngữ, trở nên ổn định và được ghi vào từ điển. Điểm chung của sự
biến đổi ngữ nghĩa là chúng luôn diễn ra theo những cách thức và quy tắc
chung. Ngữ nghĩa học truyền thống quan niệm hai phương thức chuyển nghĩa
cơ bản là ẩn dụ và hoán dụ. “Ẩn dụ là phương thức lấy tên gọi A của x để gọi
tên y (để biểu thị y), nếu như x và y giống nhau. Còn hoán dụ là phương thức
lấy tên gọi A của x để gọi y nếu x và y đi đôi với nhau trong thực tế” .
Khi có hiện tượng chuyển nghĩa, một từ sẽ có thêm ý nghĩa mới. Hầu
hết các đơn vị ngôn ngữ, khi chuyển sang một nghĩa khác thì đồng thời nó
cũng chuyển sang một trường nghĩa mới. Xem xét các ví dụ dưới đây:
• Bàn tay mỏng tanh, diệu kỳ, không trọng lượng... (Đỗ Hoàng Diệu)
• Giao hết tiền bạc trong nhà về tay nó thảy (Hồ Biểu Chánh)
• Tay viết văn có tiếng (Hồ Biểu Chánh)
18
Các đơn vị ngôn ngữ: tay thuộc trường nghĩa bộ phận cơ thể người đã
được chuyển sang trường nghĩa chỉ sự sở hữu, hoặc sự giỏi giang, thông thạo
Như vậy, khi từ chuyển trường, chúng mang theo nghĩa của trường cũ
sang trường mới. Sự cộng hưởng ngữ nghĩa của cả trường cũ và trường mới
sẽ tạo cho nghĩa của từ được chuyển trường.
Sự chuyển nghĩa thường mang tính đồng loạt giữa các từ trong cùng một
nhóm từ - tức là giữa các đơn vị thuộc cùng một trường nghĩa - “các từ có ý
nghĩa biểu vật cùng thuộc một phạm vi hoặc có ý nghĩa biểu niệm cùng một
cấu trúc thì chuyển biến ý nghĩa theo cùng một hướng giống nhau”, do đó, sự
chuyển trường cũng thường diễn ra đồng loạt, theo cùng hướng. Tuy “tính
đồng hướng” này không phải là “tuyệt đối” song nó là một căn cứ quan trọng
để tìm hiểu hoạt động của các đơn vị ngôn ngữ: khi nghiên cứu sự chuyển
trường của một nhóm từ ngữ, cần xem xét sự chuyển trường của từng thành
viên trong nhóm cũng như xu hướng biến đổi chung của chúng.
1.1.2. Ẩn dụ ý niệm
1.1.2.1. Ẩn dụ
a. Khái niệm
Ẩn dụ, theo truyền thống văn học và tu từ học, thường được coi là một
trong hai kiểu chính của phép dùng từ theo nghĩa bóng, được xây dựng trên
những khái niệm về sự tương tự và sự so sánh giữa nghĩa đen và nghĩa bóng
bóng của từ ngữ. Các nhà ngôn ngữ học đã tìm ra sợi dây liện hệ từ việc ẩn dụ
là một sự trang trí cho lời nói đến ẩn dụ là một thuộc tính của tư duy. Và Lí
thuyết về ẩn dụ ý niệm (conceptual metaphor) gắn liền với tên tuổi George
Lakoff qua các công trình Ẩn dụ mà chúng ta đang sống (Metaphor we live
by, 1980) viết chung với nhà triết học Mark Johnson; Phụ nữ, lửa và những
vật nguy hiểm (Women, fire and Dangerous things, 1987); Lí thuyết hiện
đại về ẩn dụ (The contemporary theory of metaphor, 1992)… Đây được coi
là những đóng góp quan trọng nhất của ngôn ngữ học tri nhận và tạo nên một
19
cuộc cách mạng nhận thức cho nhân loại. Bản chất của ẩn dụ chính là “hiểu
và trải nghiệm một vấn đề trong thuật ngữ của một loại vấn đề khác”, “ẩn dụ
là một thao tác tinh thân cơ bản của con người, theo các đó chúng ta hiểu
biết về thế giới”. Hay nói cách khác, thao tác tinh thần được hiểu cụ thể chính
là quá trình đồ họa hoặc chuyển di của tư duy tâm trí, tâm lí, nhận thức của
con người từ lĩnh vực/ miền nguồn tới lĩnh vực/ miền đích còn chưa biết.
Trong Metaphor we live by, Lakoff có đưa ra một số ví dụ:
- Anh đừng tốn/ lãng phí thời gian (waste time) vào việc đó nữa.
- Tôi đã học được cách tiết kiệm thời gian (save time) khi làm việc tại
ngân hàng.
- Chị ta luôn dành thời gian (spend time) cho việc đọc sách.
Theo quan điểm truyền thống, gần như ẩn dụ không xuất hiện trong các
phát ngôn trên. Các động từ được gạch chân được dùng đúng với nghĩa từ
điển. Tuy nhiên, dưới sự phân tích của Lakoff, ẩn sau những phát ngôn hết
sức đời thường lại hàm chứa một quá trình tư duy của con người: dùng những
từ ngữ gắn với lĩnh vực tiền bạc để nói đến lĩnh vực khác là thời gian. Và
những hành động của con người tác động đối với thời gian không khác gì sự
tác động của con người đối với tiền bạc. Cách nói như vậy được chấp nhận là
bởi trong tâm trí của cả người nói và người nghe đều tự động thực hiện quá
trình chuyển di ý niệm từ lĩnh vực tiền bạc (miền nguồn) sang lĩnh vực thời
gian (miền đích). Sự di chuyển ý niệm được gọi là ánh xạ. Vì thế, Lakoff đã
khái quát thành công thức: Thời gian là tiền bạc và coi đó là một một ẩn dụ tri
nhận/ ẩn dụ ý niệm.
Một số ẩn dụ ý niệm được Lakoff đưa ra như: Tình yêu là hành trình,
Tranh luận là chiến tranh, Hạnh phúc hướng lên trên, Buồn hướng xuống
dưới… Ngoài ra, ở Việt Nam, đặc điểm của ẩn dụ ý niệm được Phan Thế
Hưng khái quát trong luận án tiến sĩ của mình như sau:
(1) ẩn dụ là hiện tượng ý niệm, không chỉ là hiện tượng ngôn từ;
20
(2) chức năng của ẩn dụ là nhằm giúp con người hiểu rõ hơn các ý
niệm, không chỉ là biện pháp tu từ;
(3) ẩn dụ không chỉ căn cứ vào sự giống nhau;
(4) ẩn dụ được sử dụng tự nhiên trong đời sống hàng ngày từ những
con người bình thường, chứ không chỉ từ những người có khả năng đặc biệt;
(5) ẩn dụ không chỉ là phương thức tu từ của ngôn ngữ, mà còn là quy
trình tự nhiên của nhận thức và tư duy.
b. Cấu trúc của ẩn dụ
Cấu trúc của ẩn dụ bao gồm ba thành tố: miền nguồn, miền đích và ánh
xạ. Trong đó, ánh xạ là yếu tố quan trọng nhất làm nên ẩn dụ tri nhận, là quan
hệ quy chiếu liên vùng, là sự chuyển di từ miền nguồn sang miền đích có sự
tương ứng giữa các điểm của của hai miền. Sự phóng chiếu này tuân thủ
nguyên tắc bất biến: các miền nguồn được phóng chiếu vào miền đích theo
một phương thức nhất quán và cố định với cấu trúc có sẵn của miền nguồn.
Chẳng hạn, với ẩn dụ ý niệm: Tranh luận là tay, về sơ bộ chúng ta có thể thấy
một số điểm tương ứng ở miền nguồn với các điểm ở miền đích như sau:
- Bộ phận tay của các hình tượng con người trong văn học
-
Bộ phận có hình dạng, chức năng, vị trí giống tay trong các đồ vật
- Một số ý nghĩa tương đồng khác: vị trí trong một tập thể, đoàn thể, tổ
chức...
Để hiểu và nhận biết được những nội dung như trên, người phát ngôn
và người tiếp nhận dựa vào kinh nghiệm, nhận thức, hiểu biết về thế giới
khách quan để ý niệm hóa các phạm trù ở miền nguồn cụ thế hướng tới miền
đích với các phạm trù trừu tượng.
1.1.2.2. Ý niệm
a. Khái niệm
Thuật ngữ Ý niệm cũng được các nhà ngôn ngữ học tri nhận quan tâm
và cắt nghĩa. Tuy có chung thuật ngữ tiếng Anh là Concept nhưng các nhà
21
ngôn ngữ học có sự phân biệt khá rõ ràng về Khái niệm và Ý niệm. Khái niệm
là đơn vị nhỏ nhất của quá trình nhận thức với hai giai đoạn cảm tính (cảm
giác và tri giác) và lí tính (biểu tượng và khái niệm). Khác hẳn với quá trình
nhận thức, quá trình tri thức không chia thành những giai đoạn rạch ròi mà là
sự tổng hợp những kết quả thu nhận được bắt đầu từ tri giác cảm tính thông
qua năm giác quan của con người để rồi cuối cùng tạo nên những Ý niệm –
đơn vị nhỏ nhất của quá trình tri nhận. Yu.X.Stepanov cho rằng Khái niệm là
thuật ngữ của logic học và triết học, còn Ý niệm thuộc về toán học và văn hóa
học. Và ông đưa ra định nghĩa: Ý niệm tựa như một khối kết đông của nền văn
hóa trong ý thức của con người; dưới dạng của nó nền văn hóa đi vào thế
giới ý thức (tư duy) của con người, và mặt khác, ý niệm là cái mà nhờ đó con
người – con người bình thường, không phải con người sáng tạo ra những giá
trị văn hóa – chính con người đó đi vào văn hóa, và trong một số trường hợp
nhất định, nó tác động đến văn hóa. [9 ;26]. G.G. Slyshkin cũng nghiên cứu
các quan điểm về Ý niệm và bản thân ông coi đó là một khâu không trung gian
không thể thiếu trong việc nghiên cứu mối quan hệ qua lại giữa ngôn ngữ và
văn hóa. Slyshkin cho rằng: Ý niệm là đơn vị của tư duy, là yếu tố của ý thức.
Bàn về thuật ngữ Ý niệm, tác giả Trần Trương Mĩ Dung đã tổng hợp và phân
tích những điểm phân biệt giữa hai thuật ngữ Khái niệm và Ý niệm và nhấn
mạnh: Ý niệm tạo ra một lớp văn hóa trung gian giữa con người và thế giới…
Nó được cấu thành từ tri thức tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo lí, luật pháp,
phong tục tập quán và một số thói quen mà con người tiếp thu được với tư
cách là thành viên của xã hội. Như vậy, Ý niệm chứa ba thành tố: thành tố
khái niệm, thành tố cảm xúc - hình tượng và thành tố văn hóa. Trong đó, hai
Văn hóa
thành tố sau mang tính dân tộc sâu sắc.
dân tộc
Văn hóa
b. Cấu trúc của ý niệm
các tộc
VH
người
Khái
Xét
về
cấu
trúc,
Ý
niệm
có
cấu
trúc
nội
tại
bao
gồm
hai
thành
tố,
đó là:
Ý
nhóm
niệm
Niệm
nội dung
thông tin về thế
giới tâm
hiện thực và thế giới tưởng tượng, mang
Trung
xãnhững
hội
VH
vùng
VH cá
Ngoại vi
thể
22
nét phổ quát và tất cả những gì làm nó trở thành sự kiện của văn hóa, nghĩa là
nó chứa đựng những nét đặc trưng văn hóa dân tộc. Cở sở của Ý niệm chính là
những kinh nghiệm cảm tính trực tiếp mà con người thu nhận được thông qua
quá trình tri giác thế giới bằng các cơ quan cảm giác, thông qua hoạt động tư
duy và hoạt động giao tiếp dưới hình thức ngôn ngữ. Ý niệm có cấu trúc
trường – chức năng được tổ chức theo mô hình trung tâm (hạt nhân) và ngoại
vi. Trong cấu trúc đó, hạt nhân là khái niệm mang tính phổ quát toàn nhân loại
và ngoại vi bao gồm các nét đặc thù văn hóa dân tộc mà yếu tố hàng đầu là
yếu tố giá trị (nói đến văn hóa là nói đến những giá trị văn hóa tinh thần và
vật chất). Mô hình cấu trúc Ý niệm được thể hiện như sau:
Ý
Niệm
Văn hóa
các tộc
người
Trung tâm
VH
vùng
Ngoại vi
Văn hóa
dân tộc
Khái
niệm
VH
nhóm
xã hội
VH cá
thể
Như vậy, mô hình Cấu trúc ý niệm đã cho thấy: Ý niệm là cái chứa
đựng sự hiểu biết của con người về thế giới, được hình thành trong ý thức,
trong quá trình tri nhận và hiện thân trong ngôn ngữ. Trong Ý niệm có cái phổ
quát (Khái niệm) và cái đặc thù (văn hóa thể hiện ở nhiều dạng khác nhau)
Vì gắn với đời sống và văn hóa giao tiếp nên các ý niệm trong sự tri
nhận của con người khi có sự chuyển di ý niệm giữa các phạm trù dựa trên sự
cơ chế của ẩn dụ. Trong ba thành tố cấu thành cấu trúc của ẩn dụ là Miền
nguồn (Sourse domain), Miền đích (Target domain) và Ánh xạ (Mapping)
23
thì Ánh xạ là yếu tố quan trọng nhất tạo nên ẩn dụ tri nhận. Tác giả Phan Thế
Hưng đã khái quát một số ẩn dụ bản thể qua mô hình như sau:
Miền nguồn
Miền đích
VẬT CHẤT
KHÁI NIỆM TRỪU TƯỢNG/PHI VẬT CHẤT
(ví dụ: tâm trí)
CHẤT LIỆU
VẬT CHỨA
CÁC HỌAT ĐỘNG (ví dụ: chạy, chảy,…)
VẬT CHẤT KHÔNG ĐỊNH RÕ (ví dụ: lối mòn
trong rừng)
BỀ MẶT VẬT CHẤT VÀ PHI VẬT CHẤT
(ví dụ: địa điểm, tầm nhìn,…)
TRẠNG THÁI (ví dụ: đang yêu)
(ví dụ: địa điểm, tầm nhìn,…)
Cụ thể, theo tác giả Phan Thế Hưng dịch và tổng thuật, một số miền
nguồn và miền đích thông trong ẩn dụ ý niệm được trình bày như sau:
- Các cơ sở miền nguồn thông dụng: Cơ thể con người; Sức khỏe và
bệnh tật; Động vật; Thực vật; Nhà cửa và xây dựng; Máy móc và công cụ;
Trò chơi và thể thao; Tiền bạc và giao dịch kinh tế; Nấu ăn và thực phẩm;
Nóng và lạnh; Ánh sáng và bóng tối; Lực và sức mạnh; Chuyển động và
chiều hướng.
- Các cơ sở miền đích thông dụng: Cảm xúc; Ham muốn; Đạo đức; Tư
duy; Xã hội/ Quốc gia; Chính trị; Kinh tế; Quan hệ con người; Giao tiếp; Sự
sống và cái chết; Sự kiện và hành động. (Ẩn dụ ý niệm trong Tiếng Việt , 53-65)
1.2. Cơ sở văn hóa học
1.2.1. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ với tư duy và văn hóa
1.2.1.1 Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy
Trong lịch sử nhân loại, về cơ bản các nhà triết học và khoa học đều
thống nhất sự tồn tại giữa ngôn ngữ và tư duy. Karl Mark nói: Hiện thực trực
tiếp của tư tưởng là ngôn ngữ. Nhà tâm lí Vư gôt xki từng nói: Nghĩa của từ
24
đồng thời là ngôn ngữ và tư duy vì nó là đơn vị của tư duy bằng ngôn ngữ.
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng bậc nhất của con người, nó vừa
là hình thức tồn tại, là phương tiện vật chất để biểu đạt tư duy, vừa là “công
cụ của hoạt động tư duy. Ngôn ngữ tham gia trực tiếp vào quá trình hình
thành và phát triển tư duy”.
Thông qua ngôn ngữ và nhờ vào ngôn ngữ, mọi suy nghĩ và vốn tri
thức của con người được tiến hành và tích lũy qua quá trình tác động vào bản
thân, vào tự nhiên và xã hội “được ghi lại, được tàng trữ, được bảo toàn trong
bộ não người chủ yếu nhờ ngôn ngữ; và cũng nhờ ngôn ngữ mà con người có
thể truyền đạt những tri thức, những sự hiểu biết ấy của mình cho người khác,
sang địa phương khác”. Ngôn ngữ và tư duy luôn có sự tác động qua lại và
ảnh hưởng lẫn nhau. Không có ngôn ngữ thì không có tư duy, ngược lại
không có tư duy cũng không thể có ngôn ngữ bởi lúc ấy “ngôn ngữ” chỉ là thứ
âm thanh trống rỗng và vô nghĩa.
Trong xu phát triển chung, càng ngày ngành ngôn ngữ học càng quan
tâm nhiều hơn tới mối quan hệ biện chứng giữa ngôn ngữ và tư duy, thậm chí
nó trở thành “trung tâm của tâm lí ngôn ngữ học tộc người” hiện nay (dt Đặc
trưng văn hóa dân tộc của ngôn ngữ và tư duy – Nguyễn Đức Tồn). Các nhà
nghiên cứu ngôn ngữ như Sapir và Whorf cho rằng “tư duy của con người bị
quy định bởi ngôn ngữ mà anh ta nói và anh ta không thể vượt thoát ra khỏi
phạm vi ngôn ngữ này, bởi vì toàn bộ sự hiểu biết của một con người về thế
giới đều được biểu hiện bằng tiếng mẹ đẻ của người đó” (dt Đặc trưng văn
hóa dân tộc của ngôn ngữ và tư duy – Nguyễn Đức Tồn). Các tác giả này
trình bày thuyết tương đối ngôn ngữ của mình với hai biến thể mạnh và yếu:
“Biến thể mạnh: ngôn ngữ quyết định cái cách thức một dân tộc suy nghĩ,
cảm thụ và chia cắt thế giời khách quan (thành các phạm trù). Ngôn ngữ khác
nhau thì tư duy khác nhau. Biến thể yếu: ngôn ngữ phản ánh những giới hạn
ràng buộc về văn hóa đối với lối suy nghĩ của dân tộc, thể hiện cách mà ngôn
25