Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

Phát triển kinh tế huyện Thanh Ba (tỉnh Phú Thọ) giai đoạn 2001 2011 và định hướng đến 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (584.44 KB, 98 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thực lực kinh tế được coi là yếu tố cấu thành cơ bản sức mạnh tổng hợp
quốc gia. Kinh tế hậu thuẫn cho xây dựng nền quốc phòng, là nhân tố đảm bảo vị
thế của mỗi quốc gia trên trường quốc tế cũng như giải quyết các vấn đề văn hóa,
xã hội, môi trường. Vì thế trong bất cứ giai đoạn nào, phát triển kinh tế vẫn là
nhiệm vụ hàng đầu của mỗi quốc gia nói chung và mỗi địa phương nói riêng. Nhất
là trong những năm gần đây, nền kinh tế thế giới có nhiều biến động phức tạp.
Tuy không nằm trong tiêu điểm của cơn lốc khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn
cầu nhưng kinh tế Việt Nam cũng chịu tác động không nhỏ. Vì vậy, hơn bao giờ
hết, trong giai đoạn hiện nay cả nước cũng như mỗi địa phương đều có nhiệm vụ
là phải đẩy nhanh phát triển kinh tế - xã hội (KT - XH) tạo ra những tiền đề quan
trọng để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa (CNH-HĐH) và nâng cao chất
lượng cuộc sống của nhân dân.
Phú Thọ nằm ở cửa ngõ phía Bắc của thủ đô Hà Nội, cách sân bay quốc tế
Nội Bài hơn 50 km, có hệ thống hạ tầng giao thông đường bộ, đường sắt và đường
thủy nối liền giữa thủ đô Hà Nội với các tỉnh miền núi phía Bắc và nằm trên trục
hành lang kinh tế Bắc Nam. Tỉnh đã được Chính phủ xác định là trung tâm của
vùng Trung du miền núi phía Bắc về khoa học, công nghệ, giáo dục, đào tạo, y tế,
văn hóa, thể thao, du lịch. Những năm qua, Phú Thọ đã đạt được nhiều thành quả
quan trọng trên nhiều lĩnh vực. Sau 15 năm tái lập tỉnh, Phú Thọ luôn có tốc độ
tăng trưởng kinh tế năm sau cao hơn năm trước, bình quân giai đoạn 2005 - 2011
đạt trên 10% năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Phú Thọ đã và
đang nỗ lực tạo nền tảng để đến năm 2020 trở thành tỉnh công nghiệp. Có được
những thành tựu đó không thể không kể đến những đóng góp to lớn, quan trọng
của huyện Thanh Ba cho phát triển KT - XH chung của tỉnh.
Thanh Ba là huyện miền núi nằm ở phía Tây Bắc tỉnh Phú Thọ, cách không
xa thành phố Việt Trì: trung tâm chính trị - kinh tế - văn hóa của tỉnh và tuyến
hành lang kinh tế Côn Minh - Hà Nội - Hải Phòng. Huyện có điều kiện khá thuận

1




lợi trong giao lưu kinh tế, văn hóa và thu hút đầu tư. Trong những năm qua, nền
kinh tế của huyện đã có những chuyển biến mạnh mẽ. Kinh tế dần phát triển ổn
định với mức tăng trưởng bình quân cả giai đoạn 2000 - 2010 là 17,88%/năm cao
hơn so với mức tăng trưởng chung của tỉnh (10,76%). Cơ cấu kinh tế có sự chuyển
dịch theo hướng tiến bộ, tỷ trọng ngành nông - lâm - thủy sản giảm, tỷ trọng ngành
công nghiệp, dịch vụ tăng. Đặc biệt tỉ trọng ngành công nghiệp tăng nhanh đưa
Thanh Ba trở thành một trong ba trung tâm công nghiệp của tỉnh Phú Thọ. Tuy
nhiên những kết quả đạt được chưa xứng tầm với tiềm năng và lợi thế của huyện.
Do đó đẩy mạnh phát triển KT - XH một cách toàn diện không chỉ là xu
hướng tích cực mà còn là vấn đề tất yếu, mang tính quyết định đến sự phát triển
kinh tế bền vững của huyện Thanh Ba trong thời gian tới. Nhằm khơi dậy tiềm
năng và thế mạnh của huyện, phát triển hài hòa, cân đối, toàn diện các lĩnh vực
kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường; cần phải đánh giá, tổng kết thực tiễn phát
triển trong những năm qua rút ra bài học kinh nghiệm cho phát triển kinh tế những
năm tiếp theo.
Là người con của quê hương Phú Thọ thân thương, có quá trình gắn bó với
con người và mảnh đất Thanh Ba, hơn bao giờ hết tác giả muốn vận dụng những
kiến thức đã được học về chuyên ngành Địa lí KT - XH để góp phần làm rõ bức
tranh phát triển kinh tế nơi đây. Qua đó nâng cao trình độ chuyên môn, phục vụ tốt
hơn cho công tác giảng dạy và nghiên cứu của mình. Vì những lí do trên, dưới sự
hướng dẫn tận tình của PGS.TS Ông Thị Đan Thanh, tác giả quyết định lựa chọn
nghiên cứu đề tài “Phát triển kinh tế huyện Thanh Ba (tỉnh Phú Thọ) giai đoạn
2001 - 2011 và định hướng đến 2020” làm luận văn tốt nghiệp cho mình.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ, giới hạn của đề tài
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Tổng quan các vấn đề lí luận và thực tiễn nghiên cứu về phát triển KT nói
chung và tìm hiểu điều kiện phát triển KT huyện Thanh Ba, thực trạng phát triển
KT của huyện, từ đó đề xuất một số giải pháp để phát triển KT nhanh và bền vững

trong thời gian tới.

2


2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Đúc kết cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế đối với cấp huyện.
- Đánh giá tiềm năng, thế mạnh các nguồn lực phát triển kinh tế của huyện
Thanh Ba.
- Phân tích thực trạng phát triển kinh tế huyện Thanh Ba giai đoạn 2001 2011 dưới góc độ địa lý và rút ra những đặc trưng cơ bản về phát triển kinh tế
huyện Thanh Ba.
- Đề xuất các giải pháp góp phần phát triển kinh tế huyện Thanh Ba đến
năm 2020 theo hướng phát triển nhanh và bền vững.
2.3. Giới hạn của đề tài
- Về nội dung:
+ Đánh giá các nguồn lực phát triển kinh tế huyện Thanh Ba
+ Phân tích thực trạng phát triển kinh tế huyện về tốc độ tăng trưởng, cơ cấu và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành, thành phần và lãnh thổ giai đoạn 2001-2011.
- Về phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu trong phạm vi địa giới hành chính lãnh
thổ huyện Thanh Ba, có phân tới cấp xã, có so sánh với các huyện khác trong tỉnh.
- Về thời gian nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu trong giai đoạn 2001- 2011.
3. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu quá trình phát triển KT - XH là đề tài không mới song lại có ý
nghĩa quan trọng với mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ. Trên phương diện lí luận và
thực tiễn có một số công trình tiêu biểu.
3.1. Các công trình cơ sở lí luận chung về phát triển kinh tế
Vấn đề về tăng trưởng và phát triển kinh tế đã được các nhà tư tưởng Hi lạp,
La Mã, Ấn Độ, Trung Quốc ... nghiên cứu rất sớm ngay từ thời cổ đại với các tác
phẩm như “Bàn về kinh tế”, và “Thu nhập của Athen” của Xenophon(430 – 345
TCN) thời Hi Lạp. [6]

Tuy nhiên việc nghiên cứu một cách có hệ thống vấn đề này chỉ được tiến
hành đồng thời với quá trình hình thành và phát triển của kinh tế học cổ điển. Lý
thuyết tăng trưởng và phát triển kinh tế cố điển gồm các tư tưởng, học thuyết và mô

3


hình lý thuyết về tăng trưởng kinh tế mà các nhà kinh tế học cổ điển như
F.Quesnay, A.Smith, D.Ricacrdo ... nêu ra.
Tuy nhiên đến những năm 50 của thế kỉ XX, giới nghiên cứu kinh tế học
ở Mỹ Latinh cho rằng thuyết thương mại tự do để phát huy lợi thế so sánh cho phát
triển kinh tế theo lý luận của David Ricardo không phù hợp nữa. Ricardo cho rằng
các nước giàu tài nguyên có thể phát triển kinh tế bằng cách xuất khẩu nguyên liệu
thô. Theo các nhà kinh tế học Mỹ Ltinh, Ricardo đưa ra thuyết đó vì
nước Anh không có lợi thế về tài nguyên thiên nhiên và nông nghiệp, song có lợi
thế về khu vực chế tạo; và vì vậy nước Anh cần theo đuổi thương mại tự do để có
thể nhập khẩu nguyên liệu và xuất khẩu hàng chế tạo. Song, đầu thế kỷ
20, Mỹ vươn lên thành nền kinh tế lớn nhất thế giới. Nước này có gần như đủ loại
tài nguyên thiên nhiên, có nền nông nghiệp và khu vực chế tạo phát triển. Mỹ đã
không đi theo đường lối thương mại tự do; và chính sự bảo hộ nông nghiệp của Mỹ
đã làm cho xuất khẩu nông sản - đầu tàu phát triển kinh tế của Mỹ Latinh bị đình trệ
trong thập niên 1920 và thập niên 1930.
Xuất phát từ lập luận như vậy các nhà kinh tế học Mỹ Latinh chủ trương
rằng: muốn phát triển kinh tế thì phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tiêu biểu cho
quan điểm này là “Mô hình hai khu vực cổ điển” của Athur Lewis nhà kinh tế học
người Mỹ gốc Giamaica được đề cập đến trong tác phẩm “Lí thuyết về phát triển
kinh tế”. Mô hình này xác định một hướng giải quyết mối quan hệ giữa công nghiệp
và nông nghiệp trong quá trình thực hiện mục tiêu tăng trưởng và phát triển trên cơ
sở khả năng chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và nhu cầu thu
hút lao động theo khả năng tích lũy vốn của khu vực này. Kế thừa quan điểm của

A.Lewis, các nhà kinh tế học tân cố điển đã khẳng định: trong quá trình chuyển dịch
cơ cấu đó, công nghệ là thiết yếu. Sau đó, Harry T. Oshima nhà kinh tế người Nhật
Bản đã nghiên cứu mối quan hệ giữa hai khu vực dựa trên những đặc điểm khác biệt
của các nước châu Á so với các nước Âu – Mĩ, đó là nền nông nghiệp có tính thời
vụ cao, vào thời gian cao điểm của mùa vụ vẫn có hiện tượng thiếu lao động và lại
dư thừa nhiều trong mùa nhàn rỗi do đó sự phát triển được bắt đầu từ việc vẫn giữ

4


lao động trong nông nghiệp nhưng cần tạo thêm nhiều việc làm trong thời kì nhàn
rỗi. Oshima cho rằng quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế phải dựa trên động
lực tích lũy về vồn và đầu tư đồng thời ở cả hai khu vực kinh tế bắt đầu từ nông
nghiệp. [9]
Trên thực tế, quan sát mô hình phát triển kinh tế của Phổ, theo đó trong khi
nông nghiệp còn đang là khu vực chủ đạo của nền kinh tế, thì công nghiệp nặng đã
được Nhà nước ưu tiên phát triển làm động lực cho công nghiệp hóa, các nhà kinh
tế học theo trường phái cơ cấu chủ trương rằng phát triển kinh tế cần phải có sự can
thiệp của Nhà nước. Trường phái cơ cấu còn cho rằng quan hệ kinh tế quốc tế (thập
niên 1940 đến 1960) là quan hệ các nước đang phát triển cung cấp nguyên liệu thô,
còn các nước phát triển cung cấp hàng hóa chế tạo. Vì vậy, các nước đang phát triển
muốn phát triển nền công nghiệp trong nước phải dựa vào như cầu trong nước. Kết
quả của lý thuyết nói trên về phát triển kinh tế đã làm ra đời chiến lược công nghiệp
hóa thay thế nhập khẩu được áp dụng rộng rãi ở các nước đang phát triển từ thập
niên 1950.
Từ thành công của Kế hoạch Marshall sau Chiến tranh thế giới thứ hai, các
nhà kinh tế học phát triển ở các nước phát triển cho rằng các nước đang phát triển
có thể đẩy mạnh phát triển kinh tế nếu họ nhận được nhiều vốn và nếu Nhà nước
can thiệp hợp lý. Tiêu biểu cho tư tưởng đó là “lí thuyết cất cánh” của Walter
Wiliam Rostow và lí thuyết về “cái vòng luẩn quẩn” và “cú huých từ bên ngoài”

của A.Samuelson.
Lí thuyết cất cánh của Rostow cho rằng để trở thành một nước công nghiệp
tiên tiến, cần phải trải qua bốn giai đoạn: (1) xã hội truyền thống; (2) chuẩn bị các
tiền đề để cất cánh; (3) cất cánh; (4) trưởng thành; và (5) chuyển sang xã hội tiêu
dùng quy mô lớn. Các nước đang phát triển ở vào các giai đoạn thứ nhất và thứ hai.
Muốn cất cánh, các nước đang phát triển cần phải thỏa mãn ba điều kiện, đó là: tăng
tỷ lệ đầu tư lên không dưới 10% thu nhập quốc dân thông qua tăng tỷ lệ tiết
kiệm hoặc nhận viện trợ của nước ngoài, có một hoặc một số ngành chế tạo tăng
trưởng nhanh chóng, và có một khung chính trị, xã hội, thể chế cho phép ngành

5


kinh tế hiện đại phát triển. Có thể nói, mô hình của Rostow mặc dù có nhiều hạn
chế về cơ sở của sự phân đoạn trong phát triển kinh tế cũng như sự nhất quán về đặc
trưng của mỗi giai đoạn so với thực tế, nhưng đứng trên góc độ mối quan hệ giữa
sự chuyển dịch cơ cấu với quá trình phát triển thì mô hình đã chỉ ra một sự lựa chọn
hợp lý về dạng cơ cấu ngành tương ứng với mỗi giai đoạn phát triển nhất định của
mỗi quốc gia.
Theo quan điểm của Samuellson một quốc gia muốn đạt được tới sự tăng
trưởng & phát triển cần phải có 4 nhân tố: nhân lực, tài nguyên, tư sản, kĩ thuật.
Trong điều kiện cụ thể của các quốc gia nghèo thi cả 4 nhân tố này đều ở trong tình
trạng khan hiếm & chất lượng thấp. Samuellson cho rằng các quốc gia này đang ở
trong cái vòng luẩn quẩn: Tiết kiệm & đầu tư thấp, tốc độ tích lũy vốn thấp, năng
suất thấp, thu nhập bình quân thấp, tiết kiệm & đầu tư thấp.. Các nước nghèo không
thể tự thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn này, phải có một cú huých từ bên ngoài. Cú
huých có tính đột phá này là cú huých đầu tư FDI. Điều này có nghĩa là phải có đầu
tư lớn của nước ngoài vào các nước đang phát triển. Muốn vậy, các nước này phải
tạo ra các điều kiện thuận lợi nhằm kích thích tính tích cực đầu tư của tư bản nước
ngoài.[9]

Trong thập niên 1960 và thập niên 1970, các nhà kinh tế học Marxist mới
(American Marxist) đưa ra lý thuyết phát triển phụ thuộc (dependent development).
Thế giới chia làm hai nhóm: nhóm nước giàu và nhóm nước nghèo. Sự phát triển
của nhóm nước nghèo là "sự phát triển phụ thuộc", theo đó sự phát triển này phụ
thuộc vào vốn, thương mại và công nghệ mang đến từ các nước giàu. Các nước kém
phát triển thường phụ thuộc vào các nước phát triển và bị bóc lột. Ngay trong một
nước nghèo có thể có tầng lớp thống trị (bao gồm chính trị gia, quân nhân, ...) có
quan hệ khăng khít với các nước phát triển và các tổ chức quốc tế bóc lột tầng lớp
lao động trong nước. Vì vậy, các nước nghèo không nên đi theo con đường tư bản
chủ nghĩa để phát triển kinh tế và không nên quan hệ kinh tế với các nước tư bản
chủ nghĩa. Chủ trương này hàm ý phát triển kinh tế với nền kinh tế đóng cửa và tự
cấp tự túc.

6


Lý thuyết phát triển phụ thuộc sau đó phát triển hơn, đặc biệt là bởi các học
giả từ Châu Mỹ La Tinh. Phát triển phụ thuộc nhiều khi là cần thiết, không tránh
khỏi. Hầu hết các nước phát triển từ nghèo thành giàu như Australia, Canada, các
nước Đông Á, một số nước Mỹ La tinh như Brazil, Argentina... đều phải dựa vào
phát triển phụ thuộc. Tuy nhiên, kết cục các nước này cũng khác nhau, tùy theo các
yếu tố khác, đặc biệt là năng lực lãnh đạo của nhà nước. Các nước như Hàn Quốc,
Đài Loan... bên cạnh dựa vào thương mại, công nghệ của nước ngoài (như Mỹ), còn
có một nhà nước minh bạch, có năng lực quản lý.
Vào thập niên 1980, kinh tế học tân cổ điển chủ trương rằng muốn phát triển
kinh tế, các nước đang phát triển phải dựa vào thị trường chứ không phải vào sự can
thiệp của nhà nước. Nói cách khác, họ đề cao phát triển kinh tế thân thiện với thị
trường. Các biện pháp cần thực hiện là xóa bỏ những hạn chế thị trường, tư nhân
hóa, tự do hóa thương mại, giảm đầu tư công cộng như một cách để giảm sự can
thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế, tự do hóa thương mại và tự do hóa tài khoản

vốn, v.v... Một chương trình tổng hợp những biện pháp như vậy được gọi là Đồng
thuận Washington. Lý luận tân cổ điển về phát triển kinh tế này được các tổ chức
quốc tế như Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Nhóm Ngân hàng Thế giới tán thành.
Ở Việt Nam, quá trình nghiên cứu lí luận phát triển kinh tế một cách hệ
thống mới chỉ thực sự bắt đầu từ những năm 90 của thế kỉ XX. Đây là ngành khoa
học còn khá mới mẻ.
- Tiên phong trong lĩnh vực này có GS.TS Vũ Thị Ngọc Phùng với tác phẩm
“Giáo trình kinh tế phát triển”, NXB thống kê, 1995,1997,1999 và “Giáo trình
kinh tế phát triển”, NXB Lao động - xã hội, 2005.
- Tiếp sau đó là GS.TS Ngô Doãn Vịnh với cuốn “Bàn về phát triển kinh tế”
NXB Chính trị quốc gia, 2005.
- Những năm gần đây có Phạm Ngọc Linh, Nguyễn Thị Kim Dung (2011)
với “Kinh tế phát triển”, NXB ĐH KTQD, Hà Nội.
- Gần đây nhất là cuốn “Giáo trình kinh tế phát triển” của PGS. TS Ngô
Thắng Lợi, NXB Kinh tế quốc dân, 2012. Giáo trình đã tổng kết những vấn đề khái

7


quát nhất về phát triển kinh tế tiêu biểu như: Lí luận về tăng trưởng và phát triển
kinh tế, các nguồn lực của tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế, các chính sách
phát triển kinh tế, …
Dưới góc độ nghiên cứu của địa lí, có rất nhiều công trình, tiêu niểu là các
công trình sau:
- “Giáo trình Địa lý KT - XH Việt Nam” (tập 1, phần đại cương) của GS. TS
Nguyễn Viết Thịnh - GS.TS. Đỗ Thị Minh Đức, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2003 đã
đề cập đến các nguồn lực phát triển cũng như thực trạng và xu hướng phát triển KTXH của Việt Nam;
- “Giáo trình Địa lí KT - XH đại cương” của Nguyễn Minh Tuệ (chủ biên),
NXB ĐHSP Hà Nội, 2007. Giáo trình đã tổng hợp các khái niệm cơ bản về phát
triển kinh tế của một lãnh thổ như cơ cấu kinh tế, nguồn lực phát triển kinh tế, sự

phân hóa lãnh thổ, ...
3.2. Các công trình viết về sự phát triển KT - XH của tỉnh Phú Thọ
Viết về Phú Thọ từ trước đến nay có nhiều tác giả:
- Phú Thọ tỉnh địa lý của Phạm Xuân Độ (1939).
- Địa chí tỉnh Vĩnh Phú của Nguyễn Xuân Lân (1974).
- Địa chí tỉnh Vĩnh Phú, Văn hóa dân gian vùng đất tổ (1986) Ngô Quang
Nam - Xuân Thiêm
- Địa lí tỉnh Vĩnh Phú của Ngô Văn Nhuận (1990)
- Gần đây có Địa lí tỉnh Phú Thọ (Tài liệu dùng cho sinh viên học tập Trường cao đẳng sư phạm Phú Thọ) của TS Ngô Văn Nhuận, giảng viên Nguyễn
Văn Canh, (2001). Cuốn giáo trình này được viết một cách hệ thống, chi tiết về vị
trí địa lý, các đơn vị hành chính lãnh thổ, điều kiện tự nhiên - tài nguyên thiên
nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội cũng như thực trạng phát triển kinh tế của tỉnh giai
đoạn 1995 - 1999.
- Cùng viết về giai đoạn này, trong cuốn Địa lý các tỉnh và thành phố Việt
Nam (tập 2), GS.TS.Lê Thông (chủ biên), NXB Giáo dục, 2001 các tác giả không
chỉ đề cập đến các nguồn lực mà phân tích khá sâu thực trạng phát triển kinh tế - xã
hội của tỉnh nhất là các ngành kinh tế mũi nhọn.

8


- Theo hướng viết đó, mới đây nhất là cuốn Địa lí 9 Tài liệu giáo dục địa
phương tỉnh Phú Thọ, Đặng Ngọc Căn, NXB Giáo dục 2010 đã phân tích chi tiết về
tình hình phát triển KT - XH của tỉnh từ 2000 đến 2009.
3.3. Các luận văn Thạc sĩ theo hướng nghiên cứu của đề tài:
- Ở dạng này có cuốn: Kinh tế Mỹ Đức trong thời kì CNH - HĐH của
Nguyễn Thị Thanh Bình, Đại học Sư phạm Hà Nội, 2004. Luận văn này nghiên
đã làm rõ cơ sở lý luận về phát triển kinh tế, đánh giá nguồn lực và phân tích
thực trạng phát triển công nghiệp, giao thông vận tải và những giải pháp nhằm
đẩy nhanh sự phát triển kinh tế của huyện Mỹ Đức - Hà Nội (trước đây là Hà

Tây) theo hướng CNH- HĐH.
- Nghiên cứu kinh tế huyện Hàm Yên - Tuyên Quang trong giai đoạn 2000 2009 với tầm nhìn đến năm 2020 của Nguyễn Thu Hoàn. Luận văn Thạc sĩ Địa lí,
Trường đại học sư phạm Hà Nội, 2011. Luận văn này nghiên cứu lí luận và thực tiễn
về phát triển kinh tế đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế huyện
Hàm Yên và phân tích, đánh giá hiện trang kinh tế huyện Hàm Yên giai đoạn 2000 –
2009 từ đó dề xuất các giải pháp phát triển kinh tế của huyện Hàm Yên đến 2020.
- Tổ chức lãnh thổ công nghiệp tỉnh Phú Thọ, Nguyễn Thị Thịnh, Luận văn
thạc sĩ khoa học Địa lí, Đại học sư phạm Hà Nội, 2005. Luận văn đã nghiên cứu lí
luận về tổ chức lãnh thổ công nghiệp, các nguồn lực và thực trạng về tổ chức lãnh
thổ công nghiệp của tỉnh Phú Thọ.
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tỉnh Phú Thọ trong thời kỳ mới,
Nguyễn Minh Lan, Luận văn thạc sĩ khoa học Địa lí, 2009… Luận văn này nghiên
cứu những vấn đề lí luận về cơ cấu kinh tế và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, các nguồn
lực tác động đến sự phát triển nông nghiệp của Phú Thọ, thực trạng và sự chuyển dịch
cơ cấu nông nghiệp của Phú Thọ thời kì 2000 - 2009, một số định hướng về chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tỉnh Phú Thọ.
Như vậy, cho đến nay huyện Thanh Ba mới chỉ được đặt trong các nghiên cứu
chung về phát triển kinh tế của tỉnh Phú Thọ mà chưa có công trình nghiên cứu chuyện
biệt nào. Vì thế, tác giả chọn đề tài “Phát triển kinh tế huyện Thanh Ba (Tỉnh Phú Thọ)

9


giai đoạn 2001 – 2011 và định hướng đến 2020” nhằm bổ sung, minh chứng cho sự
phát triển kinh tế tỉnh Phú Thọ nói chung và phục vụ cho việc nghiên cứu và giảng
dạy địa lí địa phương.
4. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu
4.1. Quan điểm nghiên cứu
4.1.1. Quan điểm tiếp cận hệ thống
Đây là một trong những quan điểm quan trọng trong quá trình nghiên cứu

khoa học nhất là khoa học Địa lý. Đối tượng nghiên cứu của Địa lý kinh tế là những
hệ thống động phức tạp, bao gồm nhiều thành phần có bản chất khác nhau, thường
xuyên tác động qua lại mang tính thang cấp rất rõ rệt. Muốn hiểu rõ những đặc điểm
và tính quy luật vận động của chúng, cần phân tích các mối liên hệ đa dạng, đa
chiều bên trong và bên ngoài hệ thống về các mặt số lượng, cường độ, mức độ chặt
chẽ. Có như thế đề tài mới sâu sắc, logic, toàn diện tránh lối suy diễn phiến diện
một chiều.
Trong luận văn, huyện Thanh Ba được xem như một hệ thống lãnh thổ KTXH hoàn chỉnh, thống nhất bao gồm nhiều hệ thống con (như các cụm xã, các xã),
nằm trong một hệ thống lớn hơn là tỉnh Phú Thọ. Chính vì thế, khi xem xét, đánh
giá các vấn đề KT- XH của Huyện, nhất thiết ta phải đặt chúng trong mối quan hệ
chung với toàn tỉnh Phú Thọ, với các tỉnh khác trong vùng Trung du và miền núi
phía Bắc cũng như tình hình phát triển kinh tế chung của đất nước.
4.1.2. Quan điểm tổng hợp lãnh thổ
Theo quan điểm này, cần phải nghiên cứu các đối tượng trên một lãnh thổ để
thấy sự khác biệt của lãnh thổ đó trên cơ sở đánh giá tổng hợp các nhân tố ảnh
hưởng đến những nét khác biệt của vùng, vì mọi sự vật hiện tượng Địa lý đều tồn
tại và phát triển trong một không gian lãnh thổ nhất định. Các hoạt động KT - XH
trong vùng lãnh thổ là tổ hợp của nhiều điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên
phù hợp với hoàn cảnh KT - XH của từng địa phương, từng dân tộc. Vì vậy đề tài
đã dựa trên quan điểm lãnh thổ để tiến hành nghiên cứu các vấn đề tự nhiên, KT XH tác động đến sự phát triển kinh tế trên địa bàn huyện Thanh Ba, đặt vị trí của
huyện trong bối cảnh của toàn tỉnh, và của các tỉnh trong vùng Trung du và miền
núi phía Bắc.

10


4.1.3. Quan điểm lịch sử viễn cảnh
Quá trình kinh tế và xã hội không ngừng vận động trong không gian và biến
thiên theo thời gian. Sự phát triển KT - XH trong quá khứ ảnh hưởng lớn đến KT XH trong hiện tại và tương lai. Vì vậy, việc nghiên cứu sự phát triển kinh tế huyện
Thanh Ba cần đặt trong mối quan hệ giữa quá khứ - hiện tại - tương lai để thấy được

những biến đổi của các yếu tố kinh tế trong giai đoạn phát triển của các ngành kinh
tế trong huyện theo một chuỗi thời gian đảm bảo tính logic, khoa học, chính xác khi
nghiên cứu.
4.1.4. Quan điểm phát triển bền vững
Tăng trưởng và phát triển kinh tế là mục tiêu phấn đấu của mỗi quốc gia. Tuy
nhiên ở mức độ phát triển của thế giới như hiện nay thì yếu tố môi trường đang là thách
thức lớn nhất cho sự sinh tồn của nhân loại. Vì vậy phát triển bền vững đã trở thành
nhu cầu cấp bách và xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển của xã hội loài người đòi
hỏi các quốc gia phải gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái. Ở nước ta,
quan điểm phát triển nhanh và bền vững đã được nhận thức rất sớm và thể hiện trong
nhiều chủ trương, nghị quyết của Đảng. Trong báo cáo chính trị tại Đại hội XI, Đảng ta
đã khẳng định “Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, là yêu cầu xuyên
suốt trong chiến lược”, “phát triển bền vững là cơ sở để phát triển nhanh, phát triển
nhanh để tạo nguồn lực cho phát triển bền vững”. Vận dụng quan điểm phát triển bền
vững, đề tài đã xem xét sự phát triển kinh tế huyện Thanh Ba trong mối quan hệ giữa
kinh tế - môi trường và xã hội. Kinh tế phát triển bền vững đòi hỏi phải đảm bảo sự bền
vững ở cả ba mặt: tăng trưởng, hiệu quả và sự ổn định; giữ gìn tính đa dạng sinh học,
sử dụng hợp lí tài nguyên thiên nhiên, ngăn chặn sự ô nhiễm và xuống cấp của môi
trường; góp phần xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống người dân.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
4.2.1. Phương pháp thu thập tài liệu
Đây là phương pháp quan trọng trong nghiên cứu khoa học nói chung và
khoa học địa lý nói riêng. Việc thu thập tài liệu nhằm tận dụng được tính đa dạng,
phong phú và chính xác của tài liệu, góp phần rút ngắn thời gian nghiên cứu.

11


Đối với đề tài này, các tiêu chí đánh giá sự phát triển kinh tế của huyện
Thanh Ba có liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Vì vậy, các nguồn tài liệu

tác giả thu thập tương đối đa dạng và phong phú. Tài liệu bao gồm các tác phẩm đã
được xuất bản của các nhà khoa học về phát triển kinh tế nói chung; Niên giám
thống kê tỉnh Phú Thọ, Niên giám thống kê huyện Thanh Ba qua các năm; báo cáo
thường niên của UBND huyện, các báo cáo đánh giá của phòng Công thương,
phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn của huyện; các kết quả, chương trình dự
án hay các đề tài nghiên cứu có liên quan đến phát triển kinh tế huyện Thanh Ba và
các websites.
4.2.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp và so sánh
Để có thể đi đến kết quả nghiên cứu của đề tài không thể thiếu được phương
pháp phân tích, tổng hợp, so sánh. Bởi các nguồn tài liệu thu thập thường đa dạng,
phong phú và được trình bày dưới nhiều dạng thông tin khác nhau như văn bản, số
liệu thống kê, tranh ảnh, bản đồ,… cho nên sau khi thu thập tài liệu cần phải tiến
hành phân tích, tổng hợp và so sánh để phù hợp với mục tiêu nghiên cứu, đặc biệt là
tài liệu dưới dạng số liệu.
Phương pháp này giúp chúng ta sàng lọc được tài tiệu, biến tài liệu “thô”
thành tài liệu “tinh”, giảm độ “vênh” giữa các tài liệu do được thu thập từ nhiều
nguồn khác nhau. Đồng thời việc phân tích, tổng hợp kết hợp sử dụng phương pháp
so sánh sự phát triển kinh tế huyện Thanh Ba với các đối tượng khác có liên quan
hay bản thân đối tượng nghiên cứu trên theo không gian và thời gian sẽ tạo ra cơ sở
vững chắc cho những nhận định và kết luận khoa học của công trình nghiên cứu.
4.2.3. Phương pháp bản đồ và sử dụng công nghệ GIS
Phương pháp bản đồ là một trong những phương pháp nghiên cứu đặc trưng
không thể thiếu của khoa học địa lý. Tất cả quá trình nghiên cứu thường khởi đầu
bằng bản đồ và kết thúc cũng bằng bản đồ.
Trong luận văn này, bản đồ được sử dụng như một nguồn tư liệu quan trọng
và bản đồ cũng là một phương tiện để phản ánh kết quả nghiên cứu về kinh tế huyện
Thanh Ba. Dựa trên hệ thống những bản đồ quy hoạch - định hướng phát triển kinh

12



tế của toàn tỉnh, tác giả sử dụng hệ thống thông tin địa lí (GIS) và phần mềm
Mapinfo để thành lập hệ thống các bản đồ liên quan đến vấn đề nghiên cứu nhằm
làm rõ sự phân hóa và tính địa lý của đối tượng nghiên cứu như: bản đồ hành chính,
nguồn lực, thực trạng phát triển kinh tế huyện Thanh Ba
4.2.4. Phương pháp điều tra, khảo sát thực địa
Phương pháp điều tra thực địa là phương pháp đặc trưng được sử dụng phổ biến
trong các nghiên cứu địa lí kinh tế. Sử dụng phương pháp này làm tăng tính thực tiễn cho
đề tài, góp phần làm chính xác hóa các nhận định khoa học cho phù hợp với thực tiễn
khách quan. Từ đó người nghiên cứu kịp thời điều chỉnh hướng nghiên cứu của đề tài.
Trong khi nghiên cứu sự phát triển kinh tế huyện Thanh Ba, tác giả đã điều tra
thực tế một số nơi trên địa bàn để trực tiếp quan sát sự phân bố không gian của các
nguồn lực và cơ sở sản xuất, tìm hiểu quy luật phân bố, góp phần đánh giá và đưa ra các
biện pháp phát triển KT - XH của huyện Thanh Ba.
5. Những đóng góp của đề tài
- Đúc kết cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế chung và áp dụng
vào cấp huyện.
- Đánh giá các nguồn lực tự nhiên và KT -XH của huyện Thanh Ba đối với sự
phát triển kinh tế.
- Phân tích thực trạng quá trình phát triển kinh tế của huyện Thanh Ba trong
giai đoạn 2001 - 2011.
- Đề xuất định hướng phát triển và đưa ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh
tốc độ phát triển kinh tế huyện Thanh Ba từ nay đến 2020.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận văn gồm 4 chương:
Chương I: Cơ sở lí luận và thực tiễn về phát triển kinh tế.
Chương II: Các nguồn lực phát triển kinh tế của huyện Thanh Ba
Chương III: Thực trạng phát triển kinh tế huyện Thanh Ba giai đoạn 2001 – 2011.
Chương IV: Định hướng và một số giải pháp đẩy mạnh phát triển kinh tế của

huyện Thanh Ba đến năm 2020.

13


NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIẾN VỀ
PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Các khái niệm
1.1.1.1. Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là một phạm trù kinh tế diễn tả động thái biến đổi về mặt
lượng của nền kinh tế của một quốc gia.
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một khoảng
thời gian nhất định thường là 1 năm. Sự gia tăng ấy được thể hiện trên 2 khía cạnh:
tốc độ và quy mô.[8]
Quy mô tăng trưởng phản ánh sự tăng lên hay giảm đi nhiều hay ít. Còn tốc
độ tăng trưởng được sử dụng với ý nghĩa so sánh tương đối và phản ánh sự gia tăng
nhanh hay chậm của nền kinh tế hàng năm hay qua các thời kì.
Sau khi nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế của các nước phát triển lẫn các
nước đang phát triển, những nhà kinh tế học đã phát hiện ra rằng động lực của
phát triển kinh tế phải được đi cùng trên bốn bánh xe, hay bốn nhân tố của tăng
trưởng kinh tế là nguồn nhân lực, nguồn tài nguyên, tư bản và công nghệ. Bốn
nhân tố này khác nhau ở mỗi quốc gia và cách phối hợp giữa chúng cũng khác
nhau đưa đến kết quả tương ứng.
Tăng trưởng kinh tế có vai trò vô cùng quan trọng đối với mỗi quốc gia. Đây
là điều kiện để có thể mở rộng quy mô nền kinh tế, có mối quan hệ chặt chẽ trong
mối quan hệ với việc xóa đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống của người
dân. Tăng trưởng kinh tế còn góp phần tạo tiền đề vật chất để củng cố an ninh, quốc
phòng, củng cố chế độ chính trị, khẳng định vị thế của quốc gia,…

Nhưng tăng trưởng kinh tế không phản ảnh được chính xác phúc lợi của các
nhóm dân cư khác nhau trong xã hội, chênh lệch giàu nghèo có thể tăng lên, chênh
lệch giữa nông thôn và thành thị có thể tăng cao và bất bình đẳng xã hội cũng có thể
tăng. Tăng trưởng có thể cao nhưng chất lượng cuộc sống có thể không tăng, môi

14


trường có thể bị hủy hoại, tài nguyên bị khai thác quá mức, cạn kiệt, nguồn lực có
thể sử dụng không hiệu quả, lãng phí.
Tuy vậy các chỉ tiêu đo lường mức tăng trưởng kinh tế được sử dụng làm
thước đo trình độ phát triển nền kinh tế một cách cụ thể, dễ hiểu và nó trở thành
mục tiêu phấn đấu của mỗi quốc gia vì nó là tiêu chí để người dân đánh giá hiệu quả
điều hành đất nước của Chính phủ.
1.1.1.2. Phát triển kinh tế
Phát triển kinh tế bao hàm nhiều ý nghĩa rộng hơn tăng trưởng kinh tế
Nếu như tăng trưởng kinh tế về cơ bản chỉ là sự gia tăng thuần tuý về mặt
lượng của các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp: GNP, GNP/đầu người hay GDP, GDP/đầu
người… thì phát triển kinh tế ngoài việc bao hàm quá trình gia tăng đó, còn có một
nội hàm phản ánh rộng lớn hơn, sâu sắc hơn, đó là những biến đổi về mặt chất của
nền KT- XH, mà trước hết là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH HĐH và kèm theo đó là việc không ngừng nâng cao mức sống toàn dân, trình độ
phát triển văn minh xã hội thể hiện ở hàng loạt tiêu chí như: thu nhập thực tế, tuổi
thọ trung bình, tỷ lệ chết của trẻ sơ sinh, trình độ dân trí, bảo vệ môi trường, và khả
năng áp dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật vào phát triển KT-XH ...[8]
Như vậy phát triển kinh tế bao hàm các vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất là mức độ gia tăng mở rộng sản lượng quốc gia và sự tăng trưởng
mức sản xuất, mức sống của quốc gia trong một thời gian nhất định.
Thứ hai là mức độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế của quốc gia. Trong đó quan
trọng nhất là tỉ lệ ngành công nghiệp (CN) trong tổng sản lượng quốc dân. Mức độ
tỷ lệ ngành CN trong tổng sản phẩm quốc dân càng cao thể hiện mức phát triển

càng cao.
Thứ ba là sự tiến bộ về cơ cấu xã hội, đời sống xã hội, mức độ gia tăng thu
nhập thực tế của người dân, mức độ công bằng xã hội của quốc gia.
1.1.1.3. Nguồn lực
Bất kỳ một quốc gia nào muốn có nền kinh tế phát triển, nâng cao chất lượng
cuộc sống nhân dân đều phải trông cậy vào nguồn lực. Nguồn lực phát triển được

15


đánh giá là tiền đề không gì có thể thay thế được để phát triển KT - XH của bất kỳ
một quốc gia nào. Nguồn lực có vai trò thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển KTXH. Một quốc gia có nhiều thế mạnh về nguồn lực thì trên lý thuyết sẽ có tiềm lực
về phát triển KT- XH và ngược lại [18]
Nguồn lực là một khái niệm mang nghĩa rộng. Khái niệm này bao gồm toàn
bộ các nhân tố trong và ngoài nước tác động khác nhau vào sự phát triển KT - XH
của một quốc gia. Nguồn lực phát triển KT- XH là: “tổng thể vị trí địa lý, và nguồn
tài nguyên thiên nhiên, hệ thống tài sản quốc gia, nguồn lực con người cũng như các
yếu tố phi vật thể kể cả trong và ngoài nước có thể được khai thác nhằm phục vụ
cho việc phát triển KT- XH.[18]
1.1.1.4. Cơ cấu kinh tế
"Cơ cấu kinh tế là tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế với vị
trí, tỉ trọng tương ứng của chúng và mối quan hệ hữu cơ tương đối ổn định hợp
thành" [18]
Cơ cấu kinh tế phản ánh tính chất và trình độ phát triển của nền kinh tế,
phản ánh số lượng và chất lượng của các bộ phận hợp thành nền kinh tế. Cơ cấu
kinh tế được phân tích ở 3 góc độ:
+ Cơ cấu ngành kinh tế: Là một bộ phận cấu thành cơ bản của nền kinh
tế quốc dân. Đây là tổng hợp các ngành của nền kinh tế được sắp xếp theo một
tương quan nhất định.
Cách phân chia phổ biến nhất hiện nay là theo 3 nhóm ngành (khu vực):

Khu vực I (gồm nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản); Khu vực II (gồm công
nghiệp và xây dựng); Khu vực III (dịch vụ).
Trong các khu vực này còn chia ra các ngành nhỏ tùy theo tính chất và
đặc điểm của từng ngành.
+ Cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ:
Cơ cấu lãnh thổ là tương quan tỉ lệ giữa các vùng trong phạm vi quốc gia
được sắp xếp một cách tự giác, có chủ định hay tự phát. Trong một quốc gia

16


được chia ra nhiều vùng lãnh thổ trên cơ sở các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã
hội, lịch sử. Số lượng các vùng trong một quốc gia cũng có sự khác nhau theo
lịch sử. Các vùng này được bố trí, quan hệ với nhau theo một tỉ lệ nhất định để
tạo điều kiện cho từng vùng phát triển và khai thác có hiệu quả các nguồn lực
của từng vùng nói riêng và quốc gia nói chung.
+ Cơ cấu thành phần kinh tế: là tương quan theo tỉ lệ giữa các thành phần
kinh tế tham gia vào các ngành, lĩnh vực hay bộ phận hợp thành nền kinh tế. Việc
hình thành cơ cấu thành phần kinh tế dựa trên nền tảng là chế độ sở hữu.
Ở nước ta hiện nay đang tồn tại 3 thành phần kinh tế cơ bản là: kinh tế
Nhà nước, kinh tế ngoài Nhà nước (tập thể, cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân, tư
bản Nhà nước) và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Dựa trên cách phân loại theo nguồn gốc, nguồn lực bao gồm: vị trí địa lí, nguồn lực
tự nhiên, nguồn lực KT - XH.
1.1.2. Các nguồn lực phát triển nền kinh tế
1.1.2.1. Vị trí địa lí
Vị trí địa lý bao gồm vị trí tự nhiên, kinh tế, giao thông, chính trị. Vị trí địa lí
không có tính chất quyết định mà chỉ tạo ra những khả năng để trao đổi tiếp cận hay
cùng phát triển giữa các vùng trong một nước, giữa các quốc gia với nhau. Trong xu
thế hội nhập của nền kinh tế thế giới, vị trí địa lí trở thành nguồn lực,“một địa tô

chênh lệch” để định ra hướng phát triển có lợi nhất trong sự phân công lao động
quốc tế và xây dựng mối quan hệ song phương hay đa phương của một quốc gia.
Đối với quy mô lãnh thổ nhỏ như cấp huyện - thị xã, yếu tố địa lý cũng tạo
nên mối liên kết, hợp tác cùng phát triển giữa các địa phương trong một tỉnh, thành
phố và thực hiện phân công lao động hợp lý giữa các địa phương.
1.1.2.2. Nguồn lực tự nhiên
Nguồn lực tự nhiên thực chất là tài nguyên thiên nhiên. Đó là các thành phần
của tự nhiên (vật thể và các lực tự nhiên) mà ở trình độ nhất định của sự phát triển
lực lượng sản xuất chúng được sử dụng hoặc có thể sử dụng làm phương tiện sản
xuất và làm đối tượng tiêu dùng.

17


Tài nguyên thiên nhiên là một trong những yếu tố nguồn lực đầu vào của quá
trình sản xuất. Xét trên phạm vi toàn thế giới, nếu không có tài nguyên , đất đai thì
sẽ không có sản xuất và cũng không có sự tồn tại của con người. Tuy nhiên, đối với
tăng trưởng và phát triển kinh tế, tài nguyên thiên nhiên chỉ là điều kiện cần nhưng
chưa đủ. Trên thực tế, nếu công nghệ là cố định thì lưu lượng của tài nguyên thiên
nhiên (TNTN) sẽ là mức hạn chế tuyệt đối về sản xuất vật chất trong ngành công
nghiệp sử dụng khoáng quặng làm nguyên liệu đầu vào như nhôm, sắt, …TNTN chỉ
trở thành sức mạnh kinh tế khi con người biết khai thác và sử dụng một cách hiệu
quả. Thực tế đã cho thấy nhiều quốc gia mặc dù có trữ lượng tài nguyên phong phú,
đa dạng, điều kiện thuận lợi, song vẫn là nước nghèo và kém phát triển, ví dụ như
Chi-lê, Vê-nê-xuê-la ... Ngược lại nhiều quốc gia có ít tài nguyên khoáng sản
nhưng lại trở thành những nước công nghiệp phát triển như Nhật Bản, Singapo…
1.1.2.3. Nguồn lực KT - XH
a) Dân cư và nguồn lao động
Dân cư và nguồn lao động được coi là nguồn lực quan trọng quyết định
đến việc sử dụng các nguồn lực khác trong quá trình phát triển KT.

Vai trò của dân cư, nguồn lao động được thể hiện ở hai khía cạnh chính:
Thứ nhất, nó là yếu tố đầu vào của hoạt động kinh tế, góp phần tạo ra sản
phẩm, tạo ra tăng trưởng. Quy mô dân số đông, kết cấu dân số trẻ sẽ tạo ra
nguồn lao động dồi dào, tạo điều kiện hình thành và phát triển những ngành
kinh tế cần nhiều lao động. Trình độ lao động có ý nghĩa lớn trong việc lựa
chọn, phát triển các ngành đòi hỏi trình độ khoa học, kỹ thuật và công nghệ cao
và đây cũng là lợi thế trong thu hút đầu tư khi quá trình khu vực hóa, toàn cầu
hóa phát triển sâu rộng. Sự phân bố dân cư tác động đến sự phân bố các ngành
kinh tế đặc biệt là những ngành cần nhiều lao động. Từ đó, sẽ góp phần hình
thành cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ.
Thứ hai, dân cư, lao động tham gia tạo cầu của nền kinh tế vì dân cư lao
động đồng thời tiêu thụ các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ. Quy mô và cơ cấu tiêu
dùng của dân cư, lao động sẽ ảnh hưởng lớn đến cơ cấu, quy mô sản xuất của các
ngành kinh tế góp phần quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

18


b) Kết cấu hạ tầng
Kết cấu hạ tầng có vai trò to lớn đối với sự phát triển KT-XH.
Kết cấu hạ tầng là tổng thể các cơ sở vật chất kỹ thuật và kiến trúc có vai trò nền
tảng cơ bản cho các hoạt động kinh tế, xã hội được diễn ra một cách bình thường.
Hiểu một cách đơn giản, kết cấu hạ tầng bao gồm toàn bộ hệ thống đường
giao thông, mạng lưới điện, cấp thoát nước, bưu chính viễn thông... Một kết cấu hạ
tầng hiện đại, đồng bộ sẽ đảm bảo vận chuyển và cung ứng nguyên vật liệu, tiêu thụ
sản phẩm, mở rộng giao lưu hàng hóa, đưa nhanh tiến bộ khoa học công nghệ mới
vào sản xuất, đồng thời làm giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Kết cấu hạ tầng góp
phần giảm chi phí vận chuyển, chi phí sản xuất, từ đó hạ giá thành sản phẩm, nâng
cao sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.
Trong nền kinh tế hiện đại, kết cấu hạ tầng là hệ thống huyết mạch của nền

kinh tế, có nhiệm vụ thực hiện những mối liên hệ giữa các bộ phận, giữa các vùng
của nền kinh tế, đồng thời giúp đẩy nhanh việc mở rộng giao lưu quốc tế. Từ đó,
nâng cao hiệu quả của từng đơn vị hoạt động kinh tế cũng như toàn bộ hệ thống
kinh tế quốc dân. Sự phát triển của kết cấu hạ tầng sẽ là một trong những điều kiện
vật chất quan trọng cho sự phát triển kinh tế.
c) Khoa học kĩ thuật và công nghệ
Ngày nay, khoa học và công nghệ đã trực tiếp tham gia vào quá trình sản
xuất. Do đó, nó cũng trở thành một nguồn lực quan trọng đóng góp vào sự phát
triển. Khoa học và công nghệ có khả năng làm thay đổi chất lượng nguồn nhân lực,
thay đổi các yếu tố đầu vào của sản xuất làm cho danh mục các loại tài nguyên và
TNTN đa dạng hơn từ đó góp phần tăng chất lượng sản phẩm.
Khoa học và công nghệ thúc đẩy nhịp độ tăng trưởng kinh tế qua việc tăng
năng suất lao động, đẩy nhanh quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Khoa học và công nghệ góp phần tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa trong nền
kinh tế thị trường. Các nước hoàn toàn có khả năng đi tắt đón đầu trong việc mua
hoặc chuyển giao công nghệ.

19


uy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hóa, nếu chính sách phát triển công nghệ
không hợp lí ở các nước đang phát triển thì có thể họ sẽ biến thành bãi rác công
nghệ của các nền kinh tế phát triển.
d) Nguồn vốn
Vốn là điều kiện hàng đầu của tăng trưởng và phát triển ở mọi quốc gia. Riêng
đối với các nước kém phát triển, để đạt được tốc độ tăng trưởng cao và ổn định, cần
phải có một khối lượng vốn rất lớn. Điều này càng được khẳng định chắc chắn khi
nghiên cứu vai trò của vốn đầu tư với tăng trưởng và phát triển của mọi đất nước.
Nguồn vốn được phân chia thành nhiều loại: Theo mục đích sử dụng, có vốn
trực tiếp phục vụ sản xuất và vốn gián tiếp dưới dạng cơ cấu hạ tầng và công trình

khác. Theo hình thức tồn tại: có vốn dưới dạng vật thể (máy móc, thiết bị, nguyên
liệu...) và vốn phi vật thể (không tồn tại dưới dạng vật thể như các phát minh, sáng
chế...). Theo phạm vi lãnh thổ, có vốn trong nước và vốn ngoài nước...
* Các nguồn vốn đầu tư trong nước:
Theo kinh nghiệm phát triển thì đây là nguồn vốn cơ bản, có vai trò quyết
định chi phối mọi hoạt động đầu tư phát triển trong nước. Trong lịch sử phát triển
các nước và trên phương diện lý luận chung, bất kỳ nước nào cũng phải sử dụng lực
lượng nội bộ là chính. Sự tri viện bổ sung từ bên ngoài chỉ là tạm thời. Chỉ bằng
cách sử dụng nguồn vốn đầu tư trong nước có hiệu quả mới nâng cao được vai trò
của nó và thực hiện được các mục tiêu quan trọng đề ra của quốc gia. Nguồn vốn
đầu tư trong nước được hình thành từ tiết kiệm của ngân sách Nhà nước, tiết kiệm
của các doanh nghiệp và tiết kiệm của dân cư (các hộ gia đình).
* Các nguồn vốn đầu tư nước ngoài:
Nếu như vốn trong nước là nguồn có tính chất quyết định, có vai trò chủ yếu
thì vốn nước ngoài là nguồn bổ sung quan trọng trong những bước đi ban đầu tạo ra
“cú hích” cho sự phát triển.
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài bao gồm: vốn của các Chính phủ, viện trợ phát
triển chính thức (ODA) cho các nước đang phát triển nhằm thúc đẩy, hỗ trợ quá
trình phát triển kinh tế của các nước này, viện trợ của các tổ chức phi chính phủ

20


(NGO) là viện trợ không hoàn lại. Nguồn cứu trợ NGO tuy nhỏ nhưng có vai trò
tích cực. Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) là nguồn vốn của nước ngoài
đầu tư trực tiếp vào một nước khác. Các nước đang phát triển nhờ thu hút vốn FDI
có thể bù đắp vốn cho sự thiếu hụt của vốn trong nước để đầu tư thúc đẩy kinh tế và
tạo việc làm. Ở nhiều quốc gia và cả nước ta, quy mô và nhịp điệu của vốn đầu tư
nước ngoài có ảnh hưởng lớn đến tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.
e) Thị trường tiêu thụ

Thị trường là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng. Trong nền thương mại toàn
cầu hóa hiện nay, cùng với các yếu tố khác thị trường có vai trò quyết định đến quy
mô sản xuất, cơ cấu loại hình hàng hóa của các quốc gia, khu vực trên thế giới.
Thị trường được xem xét ở hai dạng: Thị trường cung cấp nguồn nguyên
liệu, vật tư phục vụ sản xuất và thị trường tiêu thụ sản phẩm. Hai thị trường này có
thể trùng nhau hoặc không nhưng đều có vai trò to lớn, một bên duy trì đầu vào,
một bên duy trì đầu ra. Các nước trên thế giới trong quá trình phát triển của mình
bên cạnh mở rộng phạm vi ảnh hưởng về chính trị, quân sự thì việc mở rộng thị
trường tiêu thụ hàng hóa và cung cấp nguyên liệu, vật tư luôn được chú trọng.
Trên thực tế, những quốc gia có quan hệ kinh tế rộng, hàng hóa phong phú
và được tiêu thụ ở nhiều nước thì quy mô sản xuất có điều kiện để mở rộng, tạo
nhiều việc làm cho người lao động, tăng thêm giá trị lợi nhuận và qua đó các giá trị
văn hóa, tinh thần của quốc gia cũng có điều kiện phổ biến ra thế giới. Quốc gia nào
có quy mô thị trường lớn, nhu cầu hàng hóa nhiều là một lợi thế trong việc mở rộng
hợp tác, thu hút đầu tư vốn, khoa học công nghệ từ nước ngoài.
f. Đường lối chính sách và ổn định chính trị.
Thể chế chính trị, cơ chế chính sách và hệ thống pháp luật... tuy không phải
là yếu tố kinh tế, song lại là nguồn lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng, phát triển
kinh tế. Một quốc gia có đường lối chính sách đúng đắn, một thể chế chính trị và xã
hội ổn định sẽ tập hợp được mọi nguồn lực (nội lực và ngoại lực) phục vụ cho mục
tiêu phát triển KT- XH. Ngược lại, sự khủng hoảng về đường lối, sự bất ổn về chính
trị tất yếu dẫn đến tình trạng suy thoái của nền kinh tế.

21


Các chiến lược, chính sách, quy hoạch phát triển kinh tế xã hội là sự định
hướng cho phát triển các ngành, lĩnh vực và vùng lãnh thổ. Mỗi giai đoạn, trên cơ
sở các điều kiện tác động, chính sách sẽ đề ra những ưu tiên phát triển kinh tế cho
một số ngành, lĩnh vực và vùng lãnh thổ theo hướng tạo ra sự bứt phá, tạo động lực

cho sự phát triển các vùng và cả nước. Chính sách là một công cụ có hiệu quả trong
việc điều chỉnh sự phát triển của nền kinh tế, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lí, có
hiệu quả.
Hơn nữa, hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách không chỉ phù hợp với sự
vận động và phát triển KT- XH trong nước mà còn phải phù hợp với xu thế của thế
giới và khu vực.
1.1.3. Các chỉ tiêu đánh giá phát triển kinh tế
1.1.3.1. Các chỉ tiêu đánh giá chung
a. Tổng sản phẩm trong nước (GDP - Gross Domestic Product)
GDP là tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được tạo ra trong phạm vi
lãnh thổ quốc gia ở một thời kì nhất định (thường là một năm tài chính).
GDP thường tính cho cấp quốc gia, tỉnh và thành phố tương đương cấp
tỉnh.
b. Tổng thu nhập quốc dân (GNI - Gross Natinonal Income)
GNI là tổng thu nhập từ sản phẩm vật chất và dịch vụ cuối cùng do công
dân của một nước tạo nên trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một
năm tài chính).
GNI = GDP + Chênh lệch thu nhập nhân tố với nước ngoài
Chênh lệch thu nhập

Thu nhập nhân tố lợi

nhân tố với nước ngoài

Chi trả lợi tức nhân tố

tức từ nước ngoài

ra nước ngoài


=

GNI thường tính trên bình diện quốc gia.

22

-


c. Tốc độ tăng trưởng GDP
Tốc độ tăng trưởng GDP là sự gia tăng của giá trị tính bằng tiền của tất
cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được sản xuất trong phạm vi một nền kinh tế
trong thời gian nhất định, được tính theo giá so sánh 1994.
d. GDP bình quân đầu người
Chỉ tiêu GDP bình quân đầu người của một quốc gia được tính bằng
GDP chia cho tổng số dân của nước đó ở một thời điểm nhất định.
Quy mô và tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người là những chỉ báo
quan trọng phản ánh và là tiền đề để nâng cao mức sống nói chung. Nó còn
được sử dụng trong so sánh mức sống dân cư giữa các quốc gia với nhau.
e. Cơ cấu kinh tế (GDP)
Cơ cấu kinh tế được xem xét ở 3 góc độ
- Cơ cấu GDP phân theo ngành: là tương quan về tỉ trọng giữa 3 khu vực
tạo nên nền kinh tế của một quốc gia, đó là khu vực I (nông - lâm - thủy sản),
khu vực II (công nghiệp - xây dựng) và khu vực III (dịch vụ).
- Cơ cấu GDP phân theo thành phần kinh tế: là tương quan theo tỉ lệ giữa
các thành phần kinh tế tham gia vào các ngành, lĩnh vực hay các bộ phận hợp
thành nền kinh tế.
- Cơ cấu GDP phân theo lãnh thổ: là tương quan tỉ lệ giữa các vùng trong
phạm vi quốc gia được sắp xếp một cách tự phát hay tự giác có chủ định.
1.1.3.2. Các tiêu chí cho cấp tỉnh và dưới cấp tỉnh

* Giá tri sản xuất, giá trị tăng thêm và tốc độ tăng giá trị sản xuất, giá trị
tăng thêm:
- Giá trị sản xuất (GO): Là chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất (giá trị của
những sản phẩm vật chất và dịch vụ) của toàn bộ nền kinh tế trong một thời kì nhất
định (thường là một năm). Chỉ tiêu này được xác định bằng tổng cộng giá trị sản
xuất của từng ngành kinh tế, thành phần kinh tế. Tổng giá trị sản xuất gồm các yếu
tố: Chi phí trung gian (IC) và giá trị mới tăng thêm (VA).

23


- Giá trị tăng thêm là giá trị hàng hóa và dịch vụ mới sáng tạo ra của các
ngành kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Giá trị tăng thêm là một bộ phận của giá
trị sản xuất, bằng chênh lệch giữa giá trị sản xuất và chi phí trung gian, bao gồm:
thu nhập của người lao động từ sản xuất, thuế sản xuất, khấu hao tài sản cố định
dùng trong sản xuất và thặng dư sản xuất. Giá trị tăng thêm được tính theo giá thực
tế và giá so sánh.
Giá trị tăng thêm (VA) = Giá trị sản xuất (GO) - Chi phí trung gian (IC)
Trong ngành thống kê hiện nay, tiêu chí giá trị tăng thêm được sử dụng phổ
biến hơn tiêu chí giá trị sản xuất.
- Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất hoặc giá trị tăng thêm: là chỉ tiêu đo
lường, thể hiện mặt định lượng tăng trưởng kinh tế của lãnh thổ ở quy mô nhỏ như
cấp huyện. Chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất hoặc giá trị tăng thêm được
tính theo giá so sánh một năm cố định gọi là năm mốc (trước đây ở nước ta là năm
1994, hiện nay là năm 2010).
* Cơ cấu giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm theo ngành, theo thành phần kinh
tế và sự chuyển dịch cơ cấu giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm.
Để đánh giá trình độ phát triển kinh tế một lãnh thổ nhỏ (cấp huyện), người
ta sử dụng chỉ tiêu cơ cấu giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm thay cho cơ cấu GDP ở
cấp tỉnh và quốc gia.

- Cơ cấu giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm cho biết quy mô, tỉ trọng của các
ngành, thành phần kinh tế, lãnh thổ trong nền kinh tế của cấp huyện. Đồng thời qua
đó, xác định vai trò, vị trí, tầm quan trọng của mỗi đối tượng và có thể đánh giá
được trình độ phát triển KT- XH của huyện.
- Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho thấy sự điều chỉnh, chuyển biến của nền
kinh tế theo chiều hướng nào. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế rất quan trọng đối với
một lãnh thổ kinh tế.
* Giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm bình quân theo đầu người
Giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm bình quân được tính bằng cách lấy giá trị
sản xuất chia cho tổng số dân của địa phương tại một thời điểm nhất định (một

24


năm). Đây là một tiêu chí phản ánh sự phát triển kinh tế nói chung và việc nâng cao
mức sống của người dân nói riêng. Sự gia tăng liên tục ngày càng cao của quy mô,
tốc độ tăng trưởng của giá trị sản xuất/người, giá trị tăng thêm/người là một dấu
hiệu thể hiện sự phát triển kinh tế ổn định, bền vững theo hướng công nghiệp hoá
của lãnh thổ. Mặt khác, nó còn được sử dụng làm công cụ so sánh mức sống giữa
các địa phương với nhau.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Tổng quan phát triển kinh tế vùng trung du miền núi Bắc bộ (TDMNBB)
TDMNBB bao gồm 15 tỉnh: Hà Giang, Cao Bằng, Lào Cai, Bắc Kạn, Lạng
Sơn, Tuyên Quang, Yên Bái, Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc Giang, Quảng Ninh, Lai
Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình.
Đây là vùng có vị trí địa lí khá đặc biệt, tiếp giáp với 3 tỉnh Quảng Đông,
Quảng Tây và Vân Nam của Trung Quốc ở phía bắc, phía tây giáp Lào, phía nam
giáp Đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ, phía đông giáp Vịnh Bắc Bộ. Là
vùng có tài nguyên thiên nhiên đa dạng, có khả năng đa dạng hóa cơ cấu kinh tế,
với thế mạnh về công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản, thủy điện, nền nông

nghiệp nhiệt đới có cả những sản phẩm cận nhiệt và ôn đới, phát triển tổng hợp kinh
tế biển và du lịch.
1.2.1.1. Quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế
Đây là vùng có nền kinh tế còn chậm phát triển so với các vùng khác trong
cả nước (trừ Tây nguyên) song đã có những chuyển biến nhất định trong tiến trình
CNH- HĐH chung của cả nước.
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) của vùng tăng liên tục từ 33, 983 tỷ đồng
(giá thực tế) năm 2000 lên 67, 554 tỷ đồng năm 2005 và đạt 180 481,4 tỷ đồng năm
2010. Như vậy, GDP năm 2010 đã tăng gấp 5,3 lần năm 2000.
Đóng góp vào GDP cả nước của cả Trung du và miền núi Bắc bộ còn khiêm
tốn với 8,1% năm 2010, chỉ cao hơn vùng Bắc trung bộ (6,8%) và Tây nguyên
(3,8), bằng khoảng hơn 1/3 GDP của đồng bằng sông Hồng, 1/2 của đồng bằng
sông Cửu long và chưa bằng 1/4 của Đông Nam bộ.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2001- 2005 đạt 10,5% và giai đoạn 2006 2010 khoảng 8,5- 9,0%

25


×