Tải bản đầy đủ (.docx) (75 trang)

CÁC GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ HUYỆN BÌNH GIA TỈNH LẠNG SƠN GIAI ĐOẠN 2016 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.47 KB, 75 trang )

BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
HỌC VIỆN CHÍNH SÁCH VÀ PHÁT TRIỂN

Trí Tuệ Và Phát Triển

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:

CÁC GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY CHUYỂN
DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ HUYỆN BÌNH
GIA
TỈNH LẠNG SƠN GIAI ĐOẠN 2016 - 2020

Giáo viên hướng dẫn

: ThS. Lê Huy Đoàn

Sinh viên thực hiện

: Đinh Hoàng Anh

Mã sinh viên

: 5024012004

Khóa

: II

Ngành


: Kinh tế

Chuyên ngành

: Kế hoạch phát triển


HÀ NỘI - NĂM 2015

2 2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận “Các giải pháp nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế huyện Bình Gia tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2016 – 2020” là
nghiên cứu của bản thân và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ một công trình
nghiên cứu nào trước đây. Các thông tin, số liệu và những phần tham khảo trong
khóa luận là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng, được nêu rõ trong danh mục tài
liệu tham khảo. Tác giả hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính xác thực của nội dung
khóa luận này trước Khoa và Học viện.

Hà Nội, ngày 23 tháng 05 năm 2015
Sinh viên

Đinh Hoàng Anh

3 3


LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, tôi xin chân thành cảm ơn Học viện Chính sách và Phát
triển, các thầy cô, đặc biệt là các thầy cô trong khoa Kế hoạch phát triển đã
tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất, về chương trình giảng dạy,
chương trình học tập thực tế để tôi không chỉ được học tập các chương
trình lý thuyết kinh tế trên trường lớp mà còn có cơ hội hiểu rõ hơn những
kiến thức lý thuyết trong môi trường thực tiễn, giúp tôi tích lũy thêm nhiều
kinh nghiệm bổ ích bổ trợ cho kiến thức đã học cũng như định hướng cho
con đường tương lai.
Tôi gửi lời cảm ơn đặc biệt đến Giảng viên hướng dẫn, Th.s Lê Huy
Đoàn, thầy luôn tận tình, sát sao, đưa ra ý kiến góp ý để tôi có thêm những
kinh nghiệm quý báu, cách tiếp nhận và xử lý thông tin tốt nhất, thầy là
người định hướng và giúp đỡ tôi rất nhiều trong suốt quá trình học tập và
thực hiện khóa luận.
Tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè và người thân đã luôn tạo điều kiện
và giúp đỡ tôi cả về vật chất và tinh thần trong quá trình học tập và thực
hiện khóa luận.
Tuy bản thân đã có nhiều cố gắng trong quá trình thực hiện khóa
luận, nhưng do trình độ kiến thức còn nhiều hạn chế nên khó tránh khỏi
những sai sót mong nhận được mọi ý kiến đóng góp để tôi có thể hoàn
thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 23 tháng 05 năm 2015
Sinh viên
Đinh Hoàng Anh

4 4


MỤC LỤC


5 5


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
GDP

Tổng sản phẩm trên địa bàn

CNH, HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

KT – XH

Kinh tế - xã hội

CCKT

Cơ cấu kinh tế

CDCCNKT

Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

6 6


DANH MỤC BẢNG BIỂU

7 7



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã thông qua chiến lược
phát triển KT - XH giai đoạn 2011 -2020 với mục tiêu cơ bản là phấn đấu đạt tốc độ
tăng trưởng GDP bình quân 7 - 8%/năm. GDP năm 2020 theo giá so sánh bằng
khoảng 2,2 lần so với năm 2010, GDP bình quân đầu người theo giá thực tế đạt
khoảng 3.000 USD. Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô. Xây dựng CCKT công nghiệp,
nông nghiệp, dịch vụ hiện đại, hiệu quả. Tỉ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ
chiếm khoảng 85% trong GDP. Giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng
dụng công nghệ cao đạt khoảng 45% trong tổng GDP. Giá trị sản phẩm công nghiệp
chế tạo chiếm khoảng 40% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp. Nông nghiệp có
bước phát triển theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững, nhiều sản phẩm có giá trị
gia tăng cao. Chuyển dịch CCKT gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động, tỉ lệ lao
động nông nghiệp khoảng 30 - 35% lao động xã hội.
Mục tiêu phát triển đối với một quốc gia hay một địa phương nào cũng bao
gồm ba mục tiêu là tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch CCKT và mục tiêu về phát
triển xã hội. Trong đó CDCCNKT thể hiện sự biến đổi về chất cho nên
CDCCNKT theo hướng CNH, HĐH đã được Đảng và Nhà nước ta xác định là
con đường tất yếu để Việt Nam nhanh thoát khỏi tình trạng lạc hậu, chậm phát
triển trở thành một quốc gia văn minh, hiện đại. Nội dung và yêu cầu cơ bản của
CDCCNKT ở nước ta theo hướng CNH, HĐH là tăng nhanh tỷ trọng giá trị trong
GDP của các ngành công nghiệp và dịch vụ, đồng thời giảm dần tương đối tỷ
trọng giá trị trong GDP của các ngành nông nghiệp. Cùng với quá trình
CDCCNKT tất yếu sẽ dẫn đến những biến đổi KT – XH theo hướng CNH, HĐH
của cơ cấu các vùng kinh tế, các thành phần kinh tế, các lực lượng lao động xã
hội, CCKT đối nội, CCKT đối ngoại,…
Huyện Bình Gia là một địa phương của tỉnh Lạng Sơn, một tỉnh miền núi
phía Đông Bắc nước ta. Huyện Bình Gia được biết đến là một địa phương có tài

nguyên nước mặt, tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản phong phú, có lợi thế và tiềm
năng để phát triển nghề rừng. Đặc biệt, huyện Bình Gia được biết đến với tiềm năng
8 8


du lịch khá phong phú với nhiều di tích lịch sử văn hoá nổi tiếng, có hang Thẩm
Hai, hang Thẩm Khuyên là di tích người Việt cổ có niên đại 25 vạn năm, đồng thời
có những lễ hội truyền thống đặc sắc có thể khai thác có hiệu quả phục vụ cho phát
triển ngành du lịch. Từ ngày giải phóng 19/04/1945 đến nay, tình hình phát triển KT
- XH Bình Gia có nhiều khởi sắc, tốc độ tăng trưởng ở mức khá, CCKT chuyển dịch
theo hướng tích cực, tăng dần tỉ trọng công nghiệp, dịch vụ. Tỷ trọng ngành nông,
lâm nghiệp trong GDP Bình Gia giảm từ 62,14% năm 2001 xuống còn 55,63% năm
2007 và xuống 51,92% vào năm 2013. Trong cả giai đoạn 2001-2013 tỷ trọng
ngành nông, lâm nghiệp trong GDP của huyện giảm 10,22%. Tỷ trọng ngành công
nghiệp - xây dựng tăng từ 10,50% năm 2001 lên 12.20% năm 2007 và lên 13,52%
vào năm 2013. Trong cả giai đoạn 2001 - 2013 tỷ trọng ngành công nghiệp-xây
dựng của huyện tăng 3,02%. Tỷ trọng ngành dịch vụ tăng từ 27,36% năm 2001 lên
32,17% năm 2007 và lên 34,56% vào năm 2013. Trong cả giai đoạn 2001-2013 tăng
7,20%.
Tuy vậy có một thực tế đáng buồn là đến nay huyện Bình Gia vẫn là một
trong những huyện nghèo của tỉnh Lạng Sơn. Do vậy, trong giai đoạn 2016 – 2020
theo chiến lược phát triển KT - XH của cả nước nói chung và của tỉnh Lạng Sơn nói
riêng thì để CCKT của Bình Gia chuyển dịch tích cực và mạnh mẽ hơn theo hướng
CNH, HĐH hóa thì việc đưa ra được những kế hoạch và giải pháp CDCCNKT là rất
cần thiết và quan trọng.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn và được sự hướng dẫn của Giảng viên Ths. Lê
Huy Đoàn tôi đã tìm hiểu và nghiên cứu đề tài: “Các giải pháp nhằm thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế huyện Bình Gia giai đoạn 2016 -2020”
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu và hiểu rõ hơn những lý luận về chuyển dịch CCKT,

CDCCNKT . Đánh giá thực trạng CDCCNKT giai đoạn 2001 – 2013 của huyện
Bình Gia tỉnh Lạng Sơn. Nêu ra được những kết quả đã đạt được, những hạn chế và
những nguyên nhân của hạn chế còn tồn tại trong quá trình thực hiện CDCCNKT.
Trên cơ sở đó, căn cứ vào kế hoạch phát triển KT - XH giai đoạn 2016 – 2020 đề
xuất các giải pháp cần thiết nhằm nâng cao, thúc đẩy quá trình CDCCNKT huyện
Bình Gia giai đoạn 2016 – 2020.
9 9


3. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: CDCCNKT và vấn đề thúc đẩy
CDCCNKT trên địa bàn huyện Bình Gia giai đoạn 2016 – 2020
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào thực trạng CDCCNKT giai đoạn
2001 – 2013, căn cứ vào những cơ hội, hạn chế, thách thức và kế hoạch CDCCNKT
giai đoạn 2016 – 2020 đề xuất các giải pháp cần thiết nhằm thúc đẩy CDCCNKT
giai đoạn 2016 – 2020 của huyện Bình Gia
5. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp đã sử dụng trong đề tài:
Phương pháp thống kê, mô tả: Thu thập dữ liệu, thông tin về giá trị sản xuất,
tốc độ tăng trưởng, tỉ trọng các ngành kinh tế trong chuyển dịch cơ cấu ngành,…
Các số liệu được lấy từ Phòng Tài chính – kế hoạch huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn
Phương pháp đánh giá so sánh: So sánh giữa các giai đoạn CDCCNKT liên
quan tới các bản kế hoạch phát triển KT - XH 5 năm của huyện Bình Gia
Phương pháp phân tích tổng hợp: Dựa vào phân tích thực trạng CDCCNKT
trong các giai đoạn, tổng hợp các thông tin, đưa ra các điều kiện để đánh giá tác
động tới quá trình CDCCNKT giai đoạn 2016 – 2020. Từ đó đề xuất các giải pháp
phù hợp và cần thiết để quá trình CDCCNKT đạt dược hiệu quả cao nhất.
6. Kết cấu của khóa luận
Để đạt được mục đích nghiên cứu của đề tài ngoài phần mở đầu và kết luận,

nội dung của đề tài được chia làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về sự CDCCNKT
Cơ sở lý luận về CCKT, cơ cấu ngành kinh tế, thực tiễn CDCCNKT ở một số
tỉnh thành ở Việt Nam và các yếu tố cần thiết cho tăng cường CDCCNKT
Chương 2 : Thực trạng chuyển dịch CCKT huyện bình gia giai đoạn 2001 –
2013
Trình bày tình hình CDCCNKT giai đoạn 2001 -2013, tình hình phát triển
các ngành, lĩnh vực, từ đó đưa ra các đánh giá về thực trạng CDCCNKT trong giai
đoạn này.
10 10


Chương 3: Giải pháp nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành giai đoạn
2016 – 2020
Đưa ra các kế hoạch CDCCNKT và các giải pháp thúc đẩy CDCCNKT giai
đoạn 2016 - 2020
Khi nghiên cứu đề tài này, do bản thân còn nhiều hạn chế nên khó tránh khỏi
những sai sót, mong nhận được sự giúp đỡ và đóng góp của thầy cô và các bạn.

11 11


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU
NGÀNH KINH TẾ
1.1. Khái niệm cơ cấu kinh tế và phân loại cơ cấu kinh tế
1.1.1. Khái niệm cơ cấu kinh tế

Đứng trên quan điểm duy vật biện chứng và lý thuyết hệ thống có thể hiểu:
CCKT là một tổng thể hợp thành bởi nhiều yếu tố kinh tế của nền kinh tế quốc dân,
giữa chúng có mối liên hệ hữu cơ, những tương tác qua lại cả về số lượng và chất

lượng, trong những không gian và điều kiện KT - XH cụ thể, chúng vận động
hướng vào những mục tiêu nhất định. Theo quan điểm này CCKT là phạm trù kinh
tế, là nền tảng của cơ cấu xã hội và chế độ xã hội.
Một cách tiếp cận khác thì cho rằng: CCKT hiểu một cách đầy đủ là một tổng
thể hệ thống kinh tế bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động
qua lại với nhau trong những không gian và thời gian nhất định, trong những điều
kiện KT - XH nhất định, được thể hiện cả về mặt định tính lẫn định lượng, cả về số
lượng và chất lượng, phù hợp với mục tiêu được xác định của nền kinh tế.
Nhìn chung các cách tiếp cận trên đã phản ánh được bản chất chủ yếu của
CCKT đó là các vấn đề:
+ Tổng thể các nhóm ngành, các yếu tố cấu thành hệ thống kinh tế của một
quốc gia.
+ Số lượng, tỷ trọng của các nhóm ngành và của các yếu tố cấu thành hệ
thống kinh tế trong tổng thể nền kinh tế đất nước.
+ Các mối quan hệ tương tác lẫn nhau giữa các nhóm ngành, các yếu tố
hướng vào các mục tiêu đã xác định.
1.1.2. Phân loại cơ cấu kinh tế

Dưới các góc độ khác nhau như góc độ phân công lao động sản xuất, góc độ
hoạt động KT - XH theo lãnh thổ, hoạt động kinh tế theo quan hệ sở hữu, trình độ
mở cửa và hội nhập của nền kinh tế, tiềm năng để phát triển kinh tế, CCKT được
phân thành nhiều loại, trong đó nổi bật là một số loại CCKT sau:
1.1.2.1. Cơ cấu ngành kinh tế
Là tổ hợp các ngành hợp thành các tương quan tỷ lệ, biểu hiện mối liên hệ
giữa các nhóm ngành của nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu ngành phản ánh phần nào
12 12


trình độ phân công lao động xã hội chung của nền kinh tế và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất.

Khi phân tích cơ cấu ngành của một quốc gia người ta thường phân tích theo
3 nhóm ngành chính:
+ Nhóm ngành nông nghiệp: Gồm các ngành nông lâm, ngư nghiệp.
+ Nhóm ngành công nghiệp: Gồm các ngành công nghiệp và xây dựng.
+ Nhóm ngành dịch vụ: Gồm thương mại, du lịch…
1.1.2.2. Cơ cấu vùng, lãnh thổ kinh tế
Nếu cơ cấu ngành kinh tế hình thành từ quá trình phân công lao động xã hội
và chuyên môn hoá sản xuất thì cơ cấu vùng - lãnh thổ lại được hình thành chủ yếu
từ việc bố trí sản xuất theo không gian địa lý. Cơ cấu vùng - lãnh thổ kinh tế và cơ
cấu ngành kinh tế thực chất là hai mặt của một hệ thống nhất và đều là biểu hiện của
sự phân công lao động xã hội. Cơ cấu vùng lãnh thổ hình thành gắn liền với cơ cấu
ngành và thống nhất trong vùng kinh tế. Trong cơ cấu vùng - lãnh thổ kinh tế có sự
biểu hiện của cơ cấu ngành trong điều kiện cụ thể của không gian lãnh thổ. Loại cơ
cấu này phản ánh những mối liên hệ kinh tế giữa các vùng lãnh thổ của một đất
nước trong hoạt động kinh tế.
Thông thường cơ cấu này bao gồm cơ cấu khu vực kinh tế thành thị và nông
thôn, khu vực kinh tế trọng điểm và phi trọng điểm, khu vực kinh tế đồng bằng và
miền núi,…
1.1.2.3. Cơ cấu thành phần kinh tế
Nếu như phân công lao động sản xuất đã là cơ sở hình thành cơ cấu ngành và
cơ cấu lãnh thổ - vùng, thì chế độ sở hữu là cơ sở hình thành cơ cấu thành phần kinh
tế. Cơ cấu thành phần kinh tế cũng là nhân tố tác động đến cơ cấu ngành kinh tế và
cơ cấu vùng - lãnh thổ. Sự tác động đó là biểu hiện sinh động của mối quan hệ giữa
các loại cơ cấu trong nền kinh tế. Loại cơ cấu này phản ánh các mối quan hệ giữa
con người trong quá trình sản xuất trong đó nổi bật lên hàng đầu là quan hệ sở hữu
đối với các tư liệu sản xuất. Mô hình chung về số lượng thành phần kinh tế trong
nền kinh tế các nước bao gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân,
kinh tế hỗn hợp. Tỷ lệ giữa các thành phần kinh tế này thường không giống nhau.

13 13



Điều này tạo ra tính đặc thù trong chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia
cũng như trong mỗi giai đoạn phát triển của từng quốc gia.
1.1.2.4. Cơ cấu thương mại quốc tế
Đây là loại cơ cấu phản ánh mối quan hệ về số lượng và chất lượng giữa xuất
khẩu và nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ của nền kinh tế. Ngày nay xu hướng hội nhập
để phát triển, không còn tồn tại nền kinh tế tự cung tự cấp trong phạm vi một quốc
gia mà mọi nền kinh tế đều có sự trao đổi lẫn nhau để phát huy cao nhất lợi thế so
sánh, cũng như khắc phục những điểm yếu trong quá trình phát triển. Bởi vậy cơ
cấu thương mại quốc tế được xem như là tất yếu khách quan của mọi nền kinh tế.
Theo tiến trình chung có tính quy luật mà mỗi nước phải trải qua trong quá trình
chuyển đổi loại cơ cấu này là đi từ nhập khẩu chiếm tỷ trọng cao, tiếp theo sản xuất
thay thế nhập khẩu, cuối cùng là phát triển nền kinh tế theo định lượng xuất khẩu, tỷ
lệ xuất khẩu chiếm tỷ trọng cao.
1.1.2.5. Cơ cấu tái sản xuất
Đây là CCKT hiểu theo góc độ phân chia tổng thu nhập của nền kinh tế theo
tích lũy – tiêu dùng. Phần thu nhập dành cho tích lũy tăng lên và chiếm tỷ trọng cao
là điều kiện cung cấp vốn lớn cho quá trình tái sản xuất mở rộng của nền kinh tế. Tỷ
trọng thu nhập dành cho tích lũy ngày càng cao chính là xu thế phù hợp trong quá
trình phát triển, tuy vậy việc gia tăng tỉ trọng cho quá trình tích lũy tái đầu tư phải
có tác dụng dẫn đến gia tăng mức thu nhập dành cho tiêu dùng cuối cùng trong
tương lai vì đó là kết quả của quá trình tích lũy.
1.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành trong phát triển kinh tế
1.2.1. Khái niệm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

CDCCNKT là sự thay đổi của cơ cấu ngành kinh tế từ trạng thái này sang
trạng thái khác cho phù hợp với môi trường phát triến, đảm bảo một mối quan hệ
hợp lý cả về lượng và chất giữa các ngành. Chuyển dịch cơ cấu ngành tạo ra sự thay
đối trong các yếu tố cấu thành nên cơ cấu ngành kinh tế và kết quả cuối cùng là cơ

cấu ngành được chuyển hoá từ dạng này sang dạng khác theo xu hướng hoàn thiện
và hiện đại hơn.

14 14


1.2.2. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

Cơ cấu ngành kinh tế có thể xét thấy trên nhiều góc độ. Với việc xem xét các
yếu tố đầu vào là cơ cấu lao động, cơ cấu kỹ thuật. Thông thường cơ cấu đầu ra tính
theo giá trị sản xuất được sử dụng đế phản ánh cơ cấu ngành. Sự chuyến dịch này
mang tính quy luật, đó là khi thu nhập đầu người tăng lên thì tỷ trọng nông nghiệp
trong tổng sản phẩm sẽ giảm xuống, còn tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ sẽ tăng
lên. Khi đạt đến trình độ nhất định, tỷ trọng của dịch vụ sẽ tăng nhanh hơn tỷ trọng
của công nghiệp.
Các nhà kinh tế gọi lương thực, thực phẩm là sản phẩm thiết yếu, hàng công
nghiệp là sản phẩm tiêu dùng lâu bền và việc cung cấp dịch vụ là hàng tiêu dùng
cao cấp. Thực tế phát triển của các nước đã chỉ ra xu hướng chung là khi thu nhập
tăng lên thì tỷ lệ chi tiêu cho sản phẩm thiết yếu giảm đi, cho hàng tiêu dùng lâu bền
tăng phù hợp với tốc độ tăng thu nhập còn chi tiêu cho hàng tiêu dùng cao cấp có
tốc độ tăng nhanh hơn.
Trong quá trình phát triển, việc tăng cường sử dụng máy móc và các phương
thức canh tác mới đã tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động. Kết quả là để đảm
bảo lương thực, thực phẩm cho xã hội sẽ không cần đến lực lượng lao động như cũ,
có nghĩa là tỷ lệ lao động trong nông nghiệp sẽ giảm. Ngược lại, tỷ lệ lao động được
thu hút vào công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng do tính co giãn về nhu cầu sản
phẩm của hai khu vực và khả năng hạn chế hơn trong việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật
đế thay thế lao động, đặc biệt là hoạt động dịch vụ.
1.2.3. Vai trò của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đối với quá trình phát triển kinh tế
- xã hội


Xét trên khía cạnh tăng trưởng và phát triển kinh tế thì dạng cơ cấu ngành
được xem là quan trọng nhất, được quan tâm nghiên cứu nhiều nhất vì nó phản ánh
sự phát triển của khoa học công nghệ, lực lượng sản xuất, phân công lao động
chuyên môn hóa và hợp tác sản xuất. Trạng thái cơ cấu ngành là dấu hiệu phản ánh
trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành là
một quá trình diễn ra liên tục và gắn liền với sự phát triển kinh tế. Ngược lại, nhịp
độ phát triển, tính chất bền vững của quá trình tăng trưởng lại phụ thuộc vào khả
năng chuyển dịch cơ cấu ngành linh hoạt, phù hợp với những điều kiện bên trong,
bên ngoài và các lợi thế tương đối của nền kinh tế.
15 15


Mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu ngành với sự phát triển chung của nền
kinh tế có ý nghĩa hết sức quan trọng vì gắn với nó là sự phân bổ các nguồn lực hạn
hẹp của một quốc gia trong những thời điểm nhất định vào những hoạt động sản
xuất riêng. Sự chuyển dịch cơ cấu ngành thể hiện tính hiệu quả của việc phân bổ
nguồn lực. Trong nền kinh tế hội nhập quốc tế và khu vực ngày càng phát triển thì
việc lựa chọn và chuyển dịch hợp lý cơ cấu ngành thể hiện được các lợi thế tương
đối và khả năng cạnh tranh của một quốc gia trong nền kinh tế toàn cầu, là cơ sở
cho sự chủ động tham gia và thực hiện hội nhập thắng lợi.
1.2.4. Một số lý thuyết về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

1.2.4.1. Quy luật tiêu dùng của E.Engel
Ngay từ đầu thế kỷ XIX, nhà kinh tế học người Đức E.Engel đã nhận thấy
rằng khi thu nhập của gia đình tăng lên thì tỷ lệ chi tiêu của họ cho lương thực,
thực phẩm giảm đi. Do chức năng chính của khu vực nông nghiệp




sản

xuất

lương thực, thực phẩm nên có thể suy ra là tỷ trọng nông nghiệp trong toàn bộ nền
kinh tế sẽ giảm đi khi thu nhâp tăng lên.
Quy luật của E.Engel được phát hiện cho tiêu dùng lương thực, thực phẩm
nhưng nó có ý nghĩa quan trọng trong việc định hướng cho việc nghiên cứu tiêu
dùng các loại sản phẩm khác. Các nhà kinh tế học gọi lương thực, thực phẩm là các
sản phẩm thiết yếu, hàng công nghiệp là sản phẩm tiêu dùng lâu bền, và việc cung
cấp dịch vụ là sự tiêu dùng cao cấp. Qua quá trình nghiên cứu, họ phát hiện ra xu
hướng chung là khi thu nhập tăng lên thì tỷ lệ chi tiêu cho hàng tiêu dùng lâu bền
tăng phù hợp với tăng thu nhập, còn chi tiêu cho tiêu dùng cao cấp tăng nhanh hơn
tốc độ tăng thu nhập.
Như vậy, quy luật tiêu thụ sản phẩm của E.Engel đã làm rõ tính xu hướng của
việc chuyển dịch CCKT trong quá trình phát triển.
1.2.4.2. Quy luật tăng năng suất lao động của A.Fisher
Năm 1935, trong cuốn “Các quan hệ kinh tế của tiến bộ kỹ thuật”, A. Fisher
đã giới thiệu khái niệm việc làm ở khu vực thứ nhất, thứ hai, thứ ba. A. Fisher quan
sát thấy rằng, các nước có thể phân theo tỷ lệ phân phối tổng lao động của từng
nước vào ba khu vực. Khu vực thứ nhất bao gồm sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp
và theo một số quan điểm còn bao gồm cả khai thác mỏ. Khu vực thứ hai bao gồm
16 16


công nghiệp chế biến và xây dựng. Khu

vực thứ ba gồm có vận tải, thông tin,

thương nghiệp, dịch vụ nhà nước, dịch vụ tư nhân. Theo A.Fisher, tiến bộ kỹ thuật

đã có tác động đến sự phân bố lao động vào ba khu vực này. Trong quá trình phát
triển, việc tăng cường sử dụng máy móc và các phương thức canh tác mới đã tạo
điều kiện cho nông dân nâng cao năng suất lao động. Kết quả là, để bảo đảm lượng
lương thực, thực phẩm cần thiết cho xã hội thì không cần đến lượng lao động như
cũ và do vậy, tỷ lệ của lực lượng lao động trong nông nghiệp giảm. Dựa vào số liệu
thống kê thu thập được, A. Fisher cho rằng tỷ lệ giảm này có thể giảm từ 80% đối
với các ngành chậm phát triển nhất xuống 11-12 % ở các nước công nghiệp phát
triển và trong điều kiện đặc biệt có thể xuống tới 5%. Ngược lại, tỷ lệ lao động được
thu hút vào khu vực thứ hai và khu vực thứ ba ngày càng tăng do tính co giãn về
nhu cầu sản phẩm của hai khu vực này và khả năng hạn chế hơn của việc áp dụng
tiến bộ kỹ thuật, đặc biệt là đối với khu vực thứ ba.
1.2.4.3. Lý thuyết phân kỳ phát triển kinh tế
Tư tưởng cơ bản của người chủ xưởng lý thuyết này Walt Rostow cho rằng,
quá trình phát triển kinh tế của bất kỳ quốc gia nào cũng đều trải qua 5 giai đoạn
tuần tự như sau:
Xã hội truyền thống: Với đặc trưng là nông nghiệp giữ vai trò thống trị trong
đời sống kinh tế, năng suất lao động thấp và xã hội kém linh hoạt.
Giai đoạn chuẩn bị cất cánh: Với những thay đổi quan trọng là trong xã hội
đã xuất hiện tầng lớp chủ xí nghiệp có khả năng đổi mới, kết cấu hạ tầng sản xuất,
nhất là giao thông đã phát triển. Bắt đầu hình thành những khu vực đầu tầu có tác
động lôi kéo nền kinh tế phát triển.
Giai đoạn cất cánh: Với những dấu hiệu quan trọng như tỷ lệ đầu tư so với
thu nhập quốc dân đạt mức 10%, xuất hiện những ngành công nghiệp chế biến có
tốc độ tăng trưởng cao, có những chuyển biến mạnh mẽ trong thể chế xã hội, thuận
lợi cho sự phát triển của khu vực sản xuất hiện đai và kinh tế đối ngoại.
Giai đoạn trưởng thành: là giai đoạn mà tỷ lệ đầu tư trên thu nhập quốc dân
đạt mức cao (từ 10-20%) và xuất hiện nhiều cực tăng trưởng mới.
Giai đoạn tiêu dùng cao: là giai đoạn kinh tế phát triển cao, sản xuất đa dạng
hoá, thị trường linh hoạt và có hiện tượng suy giảm nhịp độ tăng trưởng.
17 17



Theo lý thuyết phân kỳ phát triển này hầu hết các nước đang phát triển đang
tiến hành công nghiệp hoá hiện nay nằm ở giai đoạn 2 và 3, tuỳ theo mức độ phát
triển của từng nước. Ngoài những dấu hiệu KT - XH khác, về mặt cơ cấu,phải bắt
đầu hình thành một số ngành công nghiệp chế biến có khả năng lôi kéo toàn bộ nền
kinh tế tăng trưởng. Đồng thời, cùng với sự chuyển tiếp từ giai đoạn 2 sang 3 là sự
thay đổi của những lĩnh vực đóng vai trò đầu tàu. Nghĩa là trong chính sách cơ cấu
cần xét đến trật tự ưu tiên phát triển những lĩnh vực có thể đảm trách vai trò đó qua
mỗi giai đoạn phát triển cụ thể.
1.2.4.4. Mô hình hai khu vực của Arthur Lewis
Lý thuyết nhị nguyên do A. Lewis (giải thưởng Nobel năm 1979) khởi
xướng, tiếp cận vấn đề từ đời sống kinh tế của các nước đang phát triển. Ông đã đưa
ra các giải thích về mối quan hệ giữa nông nghiệp và công nghiệp trong quá trình
tăng trưởng. Đặc trưng chủ yếu của mô hình hai khu vực cổ điển là phân chia nền
kinh tế thành hai khu vực công nghiệp và nông nghiệp và nghiên cứu quá trình di
chuyển lao động giữa hai khu vực. Khu vực nông nghiệp, ở mức độ tồn tại, có dư
thừa lao động và lao động dư thừa này dần dần được chuyển sang khu vực công
nghiệp. Sự phát triển của khu vực công nghiệp quyết định quá trình tăng trưởng của
nền kinh tế, phụ thuộc vào khả năng thu hút lao động dư thừa do khu vực nông
nghiệp tạo nên, và khả năng đó lại phụ thuộc vào tốc độ tích lũy vốn của khu vực
công nghiệp.
1.2.4.5. Mô hình hai khu vực của trường phái tân cổ điển
Tư tưởng nghiên cứu của các nhà kinh tế thuộc trường phái Tân cổ điển là đặt
khoa học công nghệ là một yếu tố trực tiếp và mang tính quyết định đến tăng trưởng
kinh tế. Điều này đã giúp họ phê phán quan điểm dư thừa lao động trong nông
nghiệp của trường phái cổ điển và thực hiện những nghiên cứu khác biệt về mối
quan hệ công nghiệp với nông nghiệp trong quá trình tăng trưởng kinh tế ở các
nước đang phát triển. Do vậy nội dung của mô hình Tân cổ điển về hai khu vực kinh
tế được phân tích như sau:

Khu vực nông nghiệp: Dưới sự tác động của khoa học – công nghệ, các nhà
kinh tế học Tân cổ điển cho rằng yếu tố ruộng đất trong nông nghiệp không có điểm
dừng do đó con người có thể cải tạo và nâng cao chất lượng ruộng đất. Tức là, sản
18 18


phẩm cận biên của lao động trong khu vực nông nghiệp luôn dương. Tuy nhiên,
theo quy luật lợi nhuận biên giảm dần theo quy mô cho dù có sự tác động của khoa
học – công nghệ nhưng đất đai trong nông nghiệp vẫn có dấu hiệu giảm đi về số và
chất lượng nên sản phẩm cận biên của lao động MPL ≠ 0 nhưng có chiều hướng
giảm dần. Điều này cũng có nghĩa là mức tiền công lao động trong nông nghiệp
được trả theo mức sản phẩm cận biên của lao động chứ không theo mức sản phẩm
trung bình của lao động như mô hình của Lewis.
Khu vực công nghiệp: Điều kiện để thu hút lao động từ khu vực nông nghiệp
sang khu vực công nghiệp:
+ Tiền công khu vực công nghiệp > tiền công của khu vực nông nghiệp
( Mức tiền công có xu hướng tăng lên )
+ Mức tiền công của khu vực công nghiệp có xu hướng tăng lên được giải
thích bằng các lí do sau:
Sản phẩm cận biên của lao động MPL > 0, khi chuyển dịch lao động ra khỏi
khu vực nông nghiệp sẽ làm tăng MPL của lao động còn lại trong nông nghiệp
Lao động chuyển khỏi nông nghiệp làm cho tổng sản phẩm của nông nghiệp
giảm xuống, kết quả là giá nông sản ngày càng cao, áp lực phải tăng lương cho
người lao động ở khu vực nông nghiệp.
Tóm lại, điều đó cho thấy sự bất lợi trong trao đổi giữa 2 khu vực luôn thuộc
về khu vực công nghiệp, sự bất lợi của khu vực công nghiệp ngày càng tăng lên khi
cầu lao động trong khu vực này tăng lên.
Quan điểm đầu tư: Trong điều kiện từ những cơ sở trên để cho quá trình trao
đổi giữa 2 khu vực không tạo ra những bất lợi ngày càng nhiều cho công nghiệp thì
các nhà Tân cổ điển cho rằng cần phải đầu tư cho nông nghiệp ngay từ đầu chứ

không chỉ quan tâm đến công nghiệp.
Đầu tư trong nông nghiệp phải theo hướng tăng năng suất lao động ở khu vực
này để rút bớt lao động chuyển sang công nghiệp nhưng không ảnh hưởng đến sản
lượng.
Khu vực công nghiệp cần đầu tư theo chiều sâu để giảm cầu lao động .

19 19


1.2.4.6. Mô hình hai khu vực của Harry T.Oshima
Harry T.Oshima là nhà kinh tế người Nhật, ông nghiên cứu mối quan hệ giữa
hai khu vực dựa trên những đặc điểm khác biệt của các nước Châu Á so với các
nước Âu – Mỹ, đó là nền nông nghiệp lúa nước có tính thời vụ cao, vào thời gian
cao điểm của mùa vụ vẫn có hiện tượng thiếu lao động và lại dư thừa nhiều trong
mùa nhàn rỗi.
Ông đồng ý với Lewis rằng khu vực nông nghiệp có dư thừa lao động, nhưng
theo ông thì điều đó không phải lúc nào cũng xảy ra, đặc biệt là lúc thời vụ căng
thẳng thì khu vực nông nghiệp còn thiếu lao động. Vì vậy, quan điểm của Lewis cho
rằng sự dư thừa lao động nông nghiệp có thể chuyển sang khu vực công nghiệp mà
không làm giảm sản lượng nông nghiệp là điều không thích hợp với đặc điểm châu
Á, nhất là những vùng lúa nước, ở đây sản lượng nông nghiệp được tạo ra phụ
thuộc nhiều vào đỉnh cao của thời vụ - ở những thời điểm không có dư thừa lao
động Oshima cũng cho rằng về mặt lý thuyết thì trường phái tân cổ điển hòa toàn
đúng khi họ đặt vấn đề ngay từ đầu phải đồng thời quan tâm đầu tư cho cả hai khu
vực công nghiệp và nông nghiệp hoặc là ông cũng đồng ý với quan điểm của
Ricardo cho rằng một mô hình phát triển phải được bắt đầu từ hiệu suất nông
nghiệp hoặc từ khả năng xuất khẩu sản phẩm công nghiệp để nhập khẩu lương thực.
Nhưng Oshima cho rằng quan điểm của trường phái tân cổ điển và hướng thứ 2
trong quan điểm của Ricardo là khó thực hiện được nếu không nói là thiếu thực tế
trong điều kiện của các nước đang phát triển. Oshima đã phân tích mối quan hệ của

hai khu vực trong sự quá độ về cơ cấu từ nền kinh tế do nông nghiệp chiếm ưu thế
sang nền kinh tế công nghiệp.
Oshima đã phân tích quá trình tăng trưởng theo các giai đoạn:
Giai đoạn đầu của quá trình tăng trưởng là tạo việc làm cho thời gian nhàn rỗi
theo hướng tăng cường đầu tư phát triển nông nghiệp.
Ông cho rằng ở các nước châu Á gió mùa là mang tính thời vụ cao, lao động
thất nghiệp mang tính thời vụ lại càng trầm trọng hơn khi sản xuất nông nghiệp
mang nặng tính chất độc canh, nhỏ lẻ phân tán. Vì vậy mục tiêu của giai đoạn đầu
trong quá trình tăng trưởng là giải quyết hiện tượng thất nghiệp thời vụ ở khu vực
nông nghiệp. Biện pháp hợp lý nhất là để thực hiện mục tiêu này là đa dạng hóa sản
20 20


xuất nông nghiệp, xen canh, tăng vụ trồng thêm rau, quả, cây lấy củ, mở rộng chăn
nuôi gia súc, gia cầm, nuôi và đánh bắt cá, trồng cây lâm nghiệp. Hướng phát triển
này tỏ ra phù hợp đối với khả năng vốn, trình độ kỹ thuật của nông nghiệp, nông
thôn trong giai đoạn này. Do đó có nhiều việc làm hơn, thu nhập của nông dân bắt
đầu tăng lên, họ có thể chi tiêu nhiều hơn cho giống mới, phân hóa học, thuốc trừ
sâu và công cụ lao động. Đồng thời để nâng cao năng suất lao động và hiệu quả các
hoạt động khác, khu vực nông nghiệp cần có sự hỗ trợ của Nhà nước về các mặt:
Xây dựng hệ thống kênh mương, đập tưới tiêu nước, hệ thống vận tải nông thôn để
trao đổi hàng hóa, hệ thống giáo dục và điện khí hóa nông thôn. Theo đó thực hiện
cải tiến các hình thức tổ chức sản xuất và dịch vụ ở nông thôn. Trong giai đoạn đầu
này, nhu cầu lương thực cho số dân tăng lên là hết sức cần thiết. Việc tăng sản
lượng nông sản sẽ giảm sản lượng nhập khẩu hoặc mở rộng xuất khẩu lương thực,
thực phẩm. Cả hai trường hợp đều nhằm có thêm ngoại tệ để nhập khẩu máy móc
thiết bị cho các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động. Dấu hiệu kết thúc giai
đoạn này là khi chủng loại nông sản sản xuất ra ngày càng nhiều với quy mô lớn,
nhu cầu cung cấp các yếu tố đầu vào cho sản xuất nông nghiệp tăng cao và xuất
hiện yêu cầu chế biến nông sản với quy mô lớn nhằm tăng cường tính chất hàng hóa

trong snả xuất nông sản đặt ra vấn đề phát triển ngành công nghiệp và thương mại
dịch vụ với quy mô lớn.
Giai đoạn hai: Hướng tới việc làm đầy đủ bằng cách đầu tư phát triển đồng
thời cả nông nghiệp và công nghiệp.
Giai đoạn này là đầu tư phát triển các ngành nông nghiệp, công nghiệp và
dịch vụ theo chiều rộng, cụ thể: tiếp tục thực hiện đa dạng hóa sản xuất cây trồng và
vật nuôi trong nông nghiệp, thực hiện sản xuất nông nghiệp theo quy mô lớn, xen
canh, tăng vụ, nhằm tạo ra khối lượng nông sản hàng hóa ngày càng lớn; Phát triển
các ngành công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm, đồ uống, đồ gỗ, đồ thủ
công mỹ nghệ nhằm tăng cường số lượng việc làm và nâng cao tính hàng hóa; phát
triển các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp sản xuất nông cụ thường, nông cụ
cầm tay, nông cụ cải tiến cho nông nghiệp, đồng thời phát triển các ngành công
nghiệp sản xuất phân bón, thuốc trừ sâu, giống và các yếu tố đầu vào khác cho nông
nghiệp. Để đảm bảo hiệu quả các loại hình phát triển trên đòi hỏi phải có sự hoạt
động đồng bộ từ sản xuất vận chuyển, bán hàng đến các dịch vụ hỗ trợ tài chính tín
21 21


dụng và các ngành có liên quan khác. Cần thiết phải hình thành các hình thức tổ
chức sản xuất mang tính liên kết sản xuất giữa công nghiệp, nông nghiệp và cả dịch
vụ dưới dạng các trang trại, các tổ hợp sản xuất công – nông nghiệp, nông – công
nghiệp – thương mại … Phát triển nông nghiệp tạo điều kiện mở rộng thị trường
công nghiệp, tạo yêu cầu tăng quy mô sản xuất công nghiệp cũng như nhu cầu các
hoạt động dịch vụ. Khi đó việc di dân từ các khu vực nông thôn đến thành thị để
phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ hỗ trợ ngày càng tăng. Dấu hiệu kết
thúc giai đoạn này là tốc độ tăng trưởng việc làm có biểu hiện lớn hơn tốc độ tăng
trưởng lao động, làm cho thị trường lao động bắt đầu bị thu hẹp, tiền lương thực tế
tăng lên.
Giai đoạn sau khi có việc làm đầy đủ: thực hiện phát triển các ngành kinh tế
theo chiều sâu nhằm giảm bớt cầu lao động.

Trong nông nghiệp do quy mô nhu cầu việc làm tăng mạnh dẫn tới tiền công
ở khu vực này cũng được nhích dần lên với tốc độ ngày càng tăng. Do ưu thế của
các ngành này cần vốn đầu tư ít vốn, công nghệ dễ học hỏi, thị trường dễ tìm và dễ
thâm nhập, có khả năng cạnh tranh ở thị trường ngoài nước làm cho xuất khẩu có xu
hướng tăng nhanh. Khu vực dịch vụ cũng ngày càng mở rộng. Sự tăng trưởng của
khu vực dịch vụ nhằm phục vụ sản xuất nông nghiệp, các ngành công nghiệp thay
thế nhập khẩu và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Tất cả đã làm cho hiện
tượng thiếu lao động trở nên ngày càng phổ biến trong tất cả các ngành và các khu
vực của nền kinh tế. Trong giai đoạn này là phải đầu tư phát triển theo chiều sâu
trên toàn bộ các ngành kinh tế. Một mặt, trong nông nghiệp cần hướng tới sử dụng
máy móc thiết bị thay thế lao động và áp dụng phương pháp công nghệ sinh học
nhằm tăng sản lượng. Các máy cày, gặt đập, phun nước, máy bơm, làm cỏ, máy sấy,
và các phương tiện vận tải cơ giới ngày càng mở rộng và tiết kiệm thời gian cho
người lao động trên đồng ruộng. Trong điều kiện đó khu vực nông nghiệp có khả
năng rút bớt lao động để chuyển sang các ngành công nghiệp ở thành phố mà vẫn
không làm giảm sản lượng nông nghiệp ở nông thôn. Mặt khác, khu vực công
nghiệp tiếp tục phát triển theo hướng thay thế sản phẩm nhập khẩu và hướng về
xuất khẩu với sự chuyển dịch dần về cơ cấu sản xuất sản phẩm.

22 22


1.3. Thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở một số tỉnh thành ở
Việt Nam
1.3.1. Kinh nghiệm của Thành phố Hồ Chí Minh

Trong thời gian vừa qua thành phố đã đẩy mạnh CDCCNKT một cách toàn
diện cả về mặt chất và mặt lượng. Trong giai đoạn 2008 - 2010, thành phố đã tập
trung đẩy nhanh tiến độ triển khai các nhóm giải pháp chủ yếu về cải thiện môi
trường đô thị; hoàn tất ban hành các chương trình, đề án và dự án của chương trình

hỗ trợ CDCCNKT để đưa vào hoạt động.
Thực hiện CDCCNKT thành phố theo hướng phát triển dịch vụ và các ngành
công nghiệp công nghệ cao; đồng thời, thành phố cũng thực hiện các chính sách ưu
đãi về thuế thu nhập, thủ tục xuất nhập cảnh đối với chuyên gia y tế nước ngoài đến
Việt Nam; chế độ khuyến khích hoạt động đầu tư nâng cao chất lượng khám chữa
bệnh; phân cấp mạnh và đồng bộ hơn cho thành phố trong việc thu hút và cấp phép
cho nhà đầu tư trong và ngoài nước thành lập cơ sở giáo dục – đào tạo, y tế chất
lượng cao; cơ chế phối hợp với các tập đoàn kinh tế Nhà nước, Ngân hàng Nhà
nước, tổng công ty Nhà nước trực thuộc bộ - ngành Trung ương trên địa bàn thành
phố; xây dựng mạng thông tin liên kết về nghiên cứu khoa học và công nghệ, giáo
dục và đào tạo trên địa bàn thành phố; hỗ trợ thành phố trong quy hoạch và xây
dựng Khu đô thị cảng Hiệp Phước, trung tâm thương mại quốc tế tại Khu đô thị mới
Thủ Thiêm.
1.3.2. Kinh nghiệm của Đồng Nai:

Với vị trí địa lí thuận lợi: nằm ở vùng Đông Nam Bộ, là 1 trong 3 tỉnh nằm
trong tam giác kinh tế (thành phố Hồ Chí Minh - Đồng Nai - Bình Dương), Đồng
Nai có độ tăng trưởng trung bình 10 năm (1999-2009) đạt 13% khá cao so với bình
quân cả nước. Trong đó đóng góp chính là nhóm ngành công nghiệp – xây dựng,
CDCCNKT đúng hướng, vốn đầu tư tăng trưởng khá nhanh, đáp ứng đủ nhu cầu
phát triển, năng lực cạnh tranh cao so với cả nước. Cơ cấu ngành kinh tế có sự
chuyển dịch theo hướng tích cực: tăng tỉ trọng ngành công nghiệp - xây dựng, và
dịch vụ, giảm tỉ trọng ngành nông nghiệp. Với việc đặt trọng tâm vào phát triển
những ngành công nghệ cao như công nghiệp lắp ráp linh kiện điện tử, công nghiệp
chế biến lương thực thực phẩm, công nghiệp dệt may, da dày, công nghiệp hóa-mĩ
phẩm…Đồng Nai phấn đấu đến năm 2020 tỉnh cơ bản trở thành một tỉnh công
23 23


nghiệp. Kinh nghiệm CDCCNKT của tỉnh Đồng Nai có đi theo hướng phát triển

công nghiệp - xây dựng, tỉnh chú trọng vào xây dựng các khu công nghiệp, các khu
chế xuất công nghệ cao để tạo ra nền tảng ban đầu cho sự chuyển dịch kinh tế. Tỉnh
đã xây dựng những ngành công nghiệp mũi nhọn làm động lực để kéo nền kinh tế đi
lên. Cùng với đó, tăng cường ứng dụng những công nghệ mới, cơ giới hóa nông
nghiệp nông thôn để nâng cao năng suất trong lĩnh vực này khi mà diện tích và lao
động trong khu vực này đang bị thu hẹp một cách nhanh chóng.
Như vậy, có thể thấy rõ một điều từ kinh nghiệm chuyển dịch CCKT của tỉnh
Đồng Nai là trên cơ sở tận dụng lợi thế địa lý, tỉnh đã có những chính sách hết sức
hiệu quả trong việc lựa chọn cơ cấu ngành mũi nhọn, hợp lý nhằm khai thác tối đa
tiềm năng, thế mạnh của tỉnh về các ngành công nghiệp công nghệ cao, từ đó tạo
nền tảng thúc đẩy chuyển dịch CCKT, tạo động lực kéo nền kinh tế đi lên.
1.3.3. Kinh nghiệm của Đà Nẵng

Một trong những hướng đi đột phá thời kỳ đầu để đẩy mạnh công nghiệp hóa
mà Đà Nẵng đã lựa chọn, là ưu tiên phát triển công nghiệp. Để đạt mục tiêu phát
triển kinh tế bền vững, ngay trong những năm tiếp theo đó, các nhà hoạch định
chính sách đã lựa chọn mô hình phát triển của một thành phố có môi trường thân
thiện và hiện đại, đưa Đà Nẵng phát triển theo một hướng đi mới, lấy ngành dịch vụ
làm chủ đạo. Giai đoạn 2008-2013 đánh dấu sự tăng trưởng mạnh của ngành dịch
vụ với tốc độ tăng bình quân gần 20%/năm, cao hơn gấp hai lần so với giai đoạn
1997-2007. Sự phát triển của ngành dịch vụ không chỉ đóng góp cao trong cơ cấu
GDP mà còn tạo sự chuyển dịch lao động mạnh mẽ ra khỏi ngành nông nghiệp. Giai
đoạn này, lượng vốn đầu tư bắt đầu chảy vào ngành dịch vụ cao hơn so với các
ngành còn lại, với tỷ trọng 70% tổng lượng vốn đầu tư. Sự chuyển dịch trong nội bộ
ngành thương mại, vận tải, thông tin liên lạc, khách sạn, tài chính... đang tạo ra giá
trị tăng thêm của ngành dịch vụ, làm tăng tỷ trọng đóng góp của ngành trong cơ
cấu GDP thành phố.
CDCCNKT ở Đà Nẵng 10 năm qua được các chuyên gia kinh tế đánh giá
như một quá trình tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng tăng sức cạnh tranh ở khu vực
dịch vụ với tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất ước đạt 16%/năm. Kết quả này nhờ

việc tập trung chuyển dịch sâu trong nội bộ ngành dịch vụ, trong đó lựa chọn du
24 24


lịch làm ngành kinh tế mũi nhọn. Tổng lượng khách du lịch đến thành phố giai đoạn
2003-2013 ước đạt 16 triệu lượt khách, tăng 19,3%/năm; doanh thu du lịch thuần
túy ước tăng 23,5%/năm với giá trị năm 2013 ước đạt 2.800 tỷ đồng.
Giữ vững mục tiêu bảo vệ môi trường và phát triển đô thị hiện đại, Đà Nẵng
đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng, để đến năm 2020 cơ bản hình thành mô
hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu, bảo đảm chất lượng tăng trưởng, nâng cao
hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. CCKT thành phố tiếp tục chuyển
dịch nhanh theo hướng “dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp”, để Đà Nẵng sớm trở
thành một trong những trung tâm dịch vụ lớn của cả nước, là cửa ngõ giao thương
với nước ngoài, có các ngành, lĩnh vực sử dụng công nghệ cao, tạo ra giá trị gia
tăng lớn để trở thành các ngành kinh tế chủ lực.
1.3.4. Bài học kinh nghiệm và khả năng vận dụng đối với tỉnh Lạng Sơn nói chung và
huyện Bình Gia nói riêng

Như vậy, từ việc nghiên cứu kinh nghiệm của một số tỉnh thành của Việt
Nam, có thể rút ra bài học vận dụng đối với tỉnh Lạng Sơn trong quá trình chuyển
dịch CCKT ngành như sau:
Phải đặt trọng tâm vào việc chuyển dịch CCKT từ các ngành có năng suất lao
động thấp sang các ngành có năng suất lao động cao hơn, đóng góp lớn hơn cho
tăng trưởng kinh tế. Là một tỉnh có truyền thống về nông nghiệp, Lạng Sơn có thể
thực hiện chủ trương lấy phát triển kinh tế nông nghiệp làm nền tảng, quy hoạch
vùng sản xuất theo hướng tập trung chuyên canh , thâm canh tăng vụ, đẩy mạnh sản
xuất các loại sản phẩm có thị trường tiêu thụ và hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên,
vấn đề đặt ra trong chiến lược phát triển của Lạng Sơn vẫn là phát triển công nghiệp
– dịch vụ trong giai đoạn tới, do đó cần lựa chọn được các ngành công nghiệp mũi
nhọn, nhằm khác được tiềm năng, thế mạnh của tỉnh như: khai thác, chế biến

khoáng sản, sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến nông lâm sản, năng lượng,…
Kiên trì thực hiện chiến lược CDCCNKT , thực hiện xây dựng ngành nào
phải đạt hiệu quả ngay, hình thành các ngành kinh tế mũi nhọn, chủ lực nhằm tạo ra
các tác động lan tỏa thúc đẩy các ngành khác phát triển ( kinh nghiệm của Đà Nẵng,
Đồng Nai). Tận dụng vị trí địa lý kinh tế - chính trị, Lạng Sơn là một đầu mối quan
trọng trong tuyến hành lang kinh tế Việt Nam-Trung Quốc (Nam Ninh - Lạng Sơn Hà Nội - Hải Phòng) - một trong 2 hành lang kinh tế đang được Chính phủ 2 nước
25 25


×