Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Tương tác thuốc bất lợi trên bệnh án điều trị nội trú tại khoa nội tim mạch lão học bệnh viện đa khoa tỉnh hậu giang năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (616.22 KB, 88 trang )

Bộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO - Bộ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG

TRÀN THÁI NGUYÊN

TƯƠNG TÁC THUỐC BẤT LỢI
TRÊN BỆNH ÁN ĐIỀU TRỊ NỘI TRÚ TẠI KHOA
NỘI TIM MẠCH - LÃO HỌC BẸNH VIỆN ĐA KHOA
TỈNH HÂU GIÀNG NĂM 2014

HÀ NỘI, 2015


Bộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO - Bộ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG

LUẬN VĂN THẠC sĩ QUẢN LÝ BỆNH VIỆN
MÃ SỐ CHUYÊN NGÀNH: 60.72.07.01

TRÀN THÁI NGUYÊN

TƯƠNG TÁC

THUỐC BẤT LỢI
TRÊN BỆNH ÁN ĐIỀU TRỊ NỘI TRÚ TẠI KHOA
NỘI TIM MẠCH - LÃO HỌC BẸNH VIỆN ĐA KHOA
TỈNH HÂU GIÀNG NĂM 2014

LUẬN VĂN THẠC sĩ QUẢN LÝ BỆNH VIỆN
MÃ SỐ CHUYÊN NGÀNH: 60.72.07.01


PGS. TS. PHẠM HÙNG Lực

HÀ NỘI, 2015

ThS.

HỨA


Bộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO - Bộ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG

THANH THỦY

HÀ NỘI, 2015


4

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

DANH MỤC CÁC BẢNG, sơ ĐỒ, BIỂU ĐỒ

TÓM TẮT NGHIÊN cứu

Tương tác thuốc bất lợi là tương tác xảy ra khi hai hay nhiều thuốc được sử dụng đồng thời. Kết quả có thể làm tăng
hoặc giảm tác dụng và độc tính của một thuốc hay cả hai, gây nguy hiểm cho bệnh nhân. Khoa Nội Tim Mạch - Lão Học,
BVĐK tỉnh Hậu Giang phần lớn bệnh nhân mắc nhiều bệnh, phải phối hợp nhiều loại thuốc để điều trị, đặc biệt ở những thuốc
có khoảng điều trị hẹp nguy cơ xảy ra tương tác thuốc rất cao. Như vậy, việc quản lý tương tác thuốc ở các bệnh nhân này là

rất cần thiết nhằm đảm bảo sử dụng thuốc họp lý, an toàn và hiệu quả cho người bệnh. Chính vì vậy chúng tôi tiến hành thực
hiện nghiên cứu “Tương tác thuốc bất lợi trên bệnh án điều trị nội trú tại khoa Tim Mạch - Lão Học, bệnh viện đa khoa
tỉnh Hậu Giang năm 2014”, với mục tiêu mô tả thực trạng và xác định các yếu tố ảnh hưởng đến tương tác thuốc bất lợi.


5

Qua khảo sát trên 268 bệnh án nội trú kết quả cho thấy: bệnh án có TTT chiếm tỉ lệ rất cao (78,7%), trong đó tỉ lệ bệnh
án có >5 cặp TTT chiếm 26,6%; TTT ở mức độ mạnh (có ý nghĩa lâm sàng), mức độ trung bình chiếm lần lượt là 10,6%,
76,7% số lượt xuất hiện TTT trên bệnh án; số loại thuốc trung bình trên ngày là 5,8 loại. Bệnh nhân có bệnh mắc kèm có tỉ lệ
TTT cao hơn nhóm không có bệnh mắc kèm (X2=14,180, OR=3,558, 95% CI (1,790-7,071), p<0,001); Tương tác thuốc tỉ lệ
thuận với số lượng bác sĩ kê đơn (p=0,033), có mối liên quan giữa số ngày điều trị và TTT (p=0,001). Bệnh nhân có bệnh lý
tim mạch có tỷ lệ TTT cao gấp 11,62 lần bệnh nhân không có bệnh lý tim mạch. Kết quả nghiên cứu định tính cũng đưa ra một
số yếu tố ảnh hưởng tới thực trạng TTT tại bệnh viện bao gồm: bác sỹ có kiến thức chưa đầy đủ và thái độ chưa tích cực tới
vấn đề TTT, áp lực công việc lớn cùng với vai trò của bộ phận dược lâm sàng và thông tin thuốc trong bệnh viện còn hạn chế.


vil

Qua nghiên cứu này chúng tôi đưa ra một số khuyến nghị: cần thiết kế một bảng danh
mục tương tác thuốc cần lưu ý dành riêng cho bệnh viện để các bác sĩ dễ dàng theo dõi,
tổ chức các đợt tập huấn cho các bác sĩ, trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng của TTT
và giới thiêụ một số trang web tra cứu tương tác thuốc tin cậy và hướng dẫn sử dụng,
để tra cứu khi cần thiết, cần tăng cường vai trò của bộ phận dược lâm sàng và hoạt
động thông tin thuốc tại bệnh viện. Có những giám sát cẩn thận hơn ở những bệnh
nhân mắc nhiều bệnh, kê toa nhiều thuốc, có thể hội chẩn, kết hợp dược lâm sàng để
tìm ra phác đồ tốt nhất cho bệnh nhân.


7


ĐẶT VẤN ĐÈ

Bệnh viện là cơ sở khám chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ toàn diện cho người bệnh, là đơn vị khoa học kỹ thuật có
nghiệp vụ cao về y tế. Một trong những nhiệm vụ quan trọng có ảnh hưởng đến chất lượng công tác khám chữa bệnh của bệnh
viện là vấn đề sử dụng thuốc hợp lý, an toàn và hiệu quả [6].

Ở bệnh nhân mắc cùng lúc nhiều bệnh lý, nhiều hiệu chứng, việc phối họp thuốc để điều trị bệnh là không tránh khỏi.
Thầy thuốc phối họp thuốc để tăng hiệu quả điều trị, giảm tác dụng phụ hoặc để giải độc thuốc, ví dụ phối họp các thuốc kháng
sinh để mở rộng phổ kháng khuẩn, hạn chế vi khuẩn đề kháng trong những trường họp nhiễm khuẩn nặng, bệnh lao... Tuy
nhiên, trong thực tế điều trị có những trường họp gặp phải nguy cơ tương tác thuốc bất lợi, cũng một thuốc ở mức liều điều trị
khi phối hợp với thuốc này với thuốc khác lại giảm hoặc mất tác dụng, hoặc xảy ra ngộ độc....[30].

Tỷ lệ tương tác sẽ tăng theo cấp số nhân với số lượng thuốc phối họp và tương tác là một trong những nguyên nhân
quan trọng trong các phản ứng có hại của thuốc được ghi nhận[30]. Tương tác thuốc là một vấn đề phổ biến trong thực hành
lâm sàng. Theo một nghiên cứu trên 240 hồ sơ bệnh án của trường đại học Dược Pittsburgh của Mỹ năm 2012 cho kết quả là
có 457 tương tác thuốc- thuốc (DDIs) được xác định, khoảng 25% (114/457) được coi ở mức độ DDIs nghiêm trọng, các loại
thuốc phổ biến nhất liên quan đến DDIs là thuốc hạ huyết áp (106/457) và thuốc chống đông, thuốc kháng tiểu cầu (80/457)
[46].


8

Bệnh nhân tim mạch, cao tuổi là nhóm bệnh nhân có khả năng gặp tương tác thuốc cao và nhạy cảm với hậu quả của
tương tác thuốc, do mắc cùng lúc nhiều bệnh, được điều trị nhiều loại thuốc, chức năng sinh lý của cơ thể phần nào đã suy
giảm và do ảnh hưởng của bệnh lý tim mạch đến dược động học của thuốc trong cơ thể. Kết quả nghiên cứu công bố trong y
văn cũng cho thấy tỉ lệ bệnh án tim mạch có tương tác thuốc khá cao 30,67%, đặc biệt hay gặp ở nhóm thuốc tim mạch [41]
[43].

Khoa Nội Tim Mạch - Lão Học, BVĐK tỉnh Hậu Giang với khoảng 60 bệnh nhân/ngày, phần lớn bệnh nhân mắc nhiều

bệnh, phải phối hợp nhiều loại thuốc để điều trị, nên việc dùng thuốc trên những bệnh nhân này hết sức thận trọng, đặc biệt ở
những thuốc có khoảng điều trị hẹp nguy cơ xảy ra tương tác thuốc rất cao. Như vậy, việc quản lý tương tác thuốc là rất cần
thiết, ảnh hưởng rất lớn đến kết quả và chi phí điều trị cũng như uy tín của cán bộ y tế, cần phải thường xuyên cập nhật kiến
thức và tra cứu thông tin về tương tác thuốc bằng các cơ sở dữ liệu (CSDL) trong thực hành lâm sàng.
Qua khảo sát nhanh của tổ Dược lâm sàng, trực thuộc khoa Dược bệnh viện, khảo sát trên 7 bệnh án, xuất hiện một số
tương tác thuốc bất lợi như: phối họp giữa clopidogel và Omeprazol, làm giảm hiệu quả của Clopidogrel trong việc
ngăn ngừa cơn đau tim hoặc đột quỵ; phối họp giữa Captopril - Spironolacton làm tăng kali máu mặt dù trước đó kali
máu vẫn trong giới hạn bình thường; phối họp giữa aspirin và perindopril, làm giảm hiệu quả hạ huyết áp của
perindopril. Nhưng vấn đề nghiên cứu tương tác thuốc và đề xuất biện pháp xử trí chưa được tác giả nào thực hiện tại
đây. Chính vì vậy chúng tôi tiến hành thực hiện nghiên cứu "Tương tác thuốc bất lợi trên bệnh án điều trị nội trú tại
khoa Tim Mạch - Lão Học, bệnh viện đa khoa tỉnh Hậu Giang năm 2014”, nhằm phát hiện những tương tác thuốc bất lợi
và đưa ra những khuyến nghị thích họp trong sử dụng thuốc, để nâng cao hiệu quả điều trị cho bệnh nhân


.


MỤC TIÊU NGHIÊN cứu

1. Mô tả thực trạng tương tác thuốc bất lợi trên bệnh án điều trị nội trú tại khoa Nội
Tim Mạch - Lão Học, bệnh viện đa khoa tỉnh Hậu Giang năm 2014

2. Xác định một số yếu tố ảnh hưởng đến tương tác thuốc bất lợi trên bệnh án điều
trị nội trú tại khoa Nội Tim Mạch - Lão Học, bệnh viện đa khoa tỉnh Hậu Giang
năm 2014
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1
Tổng quan về tương tác thuốc

1.1.1.


Định nghĩa thuốc và tương tác thuốc

Thuốc là chất hoặc hỗn họp các chất dùng cho người nhằm mục đích phòng bệnh,
chữa bệnh, chẩn đoán bệnh hoặc điều chỉnh chức năng sinh lý cơ thể bao gồm thuốc thành
phẩm, nguyên liệu làm thuốc, vắc xin, sinh phẩm y tế, trừ thực phẩm chức năng [21],

Tương tác thuốc: một phản ứng được coi là tương tác thuốc khi hiệu quả của một
thuốc thứ nhất bị thay đổi khi có sự hiện diện của một thuốc khác, dược thảo, thức ăn, thức
uống hay các tác nhân hóa học trong môi trường. Tương tác thuốc hiểu theo nghĩa rộng là


tương tác với các yếu tố sinh lý, bệnh lý, thực phẩm, chất nội sinh, môi trường [30].

Tương tác thuốc- thuốc là hiện tượng xảy ra khi hai hay nhiều thuốc được sử dụng
đồng thời. Kết quả có thể làm tăng hoặc giảm tác dụng và độc tính của một thuốc hay cả
hai, gây nguy hiểm cho bệnh nhân, ảnh hưởng đến chất lượng điều trị và sức khỏe của
người bệnh, thậm chí có thể tử vong [2].[3].
1.1.2.

Phân loại tương tác thuốc- thuốc

Phân loại tương tác thuốc - thuốc theo 2 cách sau:
1.1.2.1.

Dựa trên kết quả của tương tác thuốc - thuốc

Tương tác thuốc- thuốc được chia làm 3 loại:

-Tương tác thuốc- thuốc bất lợi: là hiện tượng khi phối họp hai hay nhiều thuốc
làm gia tăng độc tính, giảm hoặc mất tác dụng dược lý, dẫn đến làm giảm hoặc mất hiệu

quả điều trị của từng thuốc [3].
Vỉ dụ:

Phối hợp giữa warfarin và phenylbutazol làm chảy máu ồ ạt [3].


Phối họp giữa cimetidin và theophylin làm tăng nồng độ theophylin trong huyết
tương gây ngộ độc, co giật [3].

Phối họp giữa kháng sinh tetracyclin hoặc fluoroquinolon với thuốc kháng acid
hoặc chế phẩm sữa sẽ tạo phức họp mất hoạt tính kháng khuẩn [3].
Trong phạm vi nghiên cứu này chúng tôi chỉ đề cập đến tương tác bất lợi của
thuốc

-Tương tác thuốc- thuốc có lợi: là hiện tượng phối hợp hai hay nhiều thuốc đem
lại tác dụng hiệp đồng trong điều trị hoặc hạn chế được tác dụng phụ của từng thuốc riêng
lẻ [3].
Vỉ dụ:

Phối họp giữa thuốc hạ huyết áp và thuốc lợi tiểu trong điều trị tăng huyết áp.
Phối hợp giữa sulfamethoxazole và trimethoprim (tỉ lệ 5:1) trong chế phẩm
Cotrimoxazol làm tăng hiệu lực diệt khuẩn, hiệp đồng này cũng chống lại sự phát
triển vi khuẩn kháng thuốc và làm cho thuốc có tác dụng ngay cả khi vi khuẩn kháng
lại từng thành phần của thuốc [2].
-Tương tác thuốc- thuốc vừa có lợi vừa có hại:

Vỉ dụ:


Phối họp rifampicin với isoniazid làm tăng hiệu quả diệt trực khuẩn lao (có lợi),

nhưng dễ gây viêm gan (có hại).

Phối họp giữa kháng sinh nhỏm Aminoglycosid và kháng sinh nhỏm cehalosporin
thế hệ 3 làm tăng hiệu lực diệt khuẩn, đồng thời tăng độc tính trên thận
1.1.2.2.

Dựa trên cơ chế tương tác thuốc- thuốc

Tương tác thuốc- thuốc được chia thành 2 loại:

-Tương tác dược động học: là loại tương tác thuốc làm thay đổi các quá trình hấp
thu, phân bố, chuyển hóa, đào thải thuốc. Có sự khác biệt lớn về mặt dược động học giữa
người này và người khác, nên cũng khó tiên đoán trước được. Tương tác loại này xảy ra tại
một hoặc nhiều giai đoạn trong quá trình tuần hoàn của thuốc trong cơ thể, dẫn đến sự thay
đổi nồng độ thuốc trong máu và ở nơi tác động, hậu quả là làm tăng độc tính hoặc giảm tác
dụng của thuốc [30].
Bảng 1.1. Một số ví dụ tương tác thuốc theo đường uống [3].

Cholestyramin

Digoxin, thyroxin
wsarfarin,

-

Giảm

hấp

thu


digoxin,

thyroxin, tetracyclin, acid mật


Thuốc chống toan dạ dày Kháng sinh nhóm Tạo phức họp ít hấp thu. Uống cách nhau

Thuốc chống toan dạ dày Kháng sinh nhóm Tạo chelat (phức càng cua) vững bền, ít

-Tương tác dược lực học: là tương tác của thuốc A gây ảnh hưởng tới đáp ứng sinh học của
thuốc B hoặc tới độ nhạy cảm của mô trong cơ thể khi dùng cùng thuốc B[3]. Tương tác
loại này có liên quan đến sự gắn kết vào receptor, nếu đối nghịch tại receptor thì tương tác
đó là đối kháng, nếu cùng là chất chủ vận tại receptor thì tương tác đó là hiệp lực.
Vỉ dụ:

Naloxon cạnh tranh trên thụ thể opioid, tương tác này dùng để giải độc các thuốc
trong nhóm opioid (morphin, heroin...) [30].

Các thuốc NSAID tương tác hiệp lực với clopidogel, làm tăng nguy cơ xuất




đồ

1.1. Phân loại tương tác thuốc[10]

1.1.3.


Ý nghĩa lâm sàng của tương tác thuốc

Tương tác thuốc có ý nghĩa trên lâm sàng là những tương tác thuốc làm thay đổi
hiệu quả điều trị hay đáp ứng trên bệnh nhân, và cuối cùng là thay đổi hành vi kê đơn
thuốc [36]. Tương tác thuốc có thể để lại hậu quả trên bệnh nhân ở nhiều mức độ khác
nhau, từ mức nhẹ không cần can thiệp đến mức nghiêm trọng như bệnh mắc kèm hay tử
vong. Điều đó có nghĩa rằng không phải tương tác nào cũng nghiêm trọng và có ý nghĩa
lâm sàng.

Theo kết quả nghiên cứu in vi vo hay in vitro, một tương tác có thể xảy ra nhưng
chưa chắc tương tác đó có ý nghĩa trên lâm sàng. Hai yếu tố chính để nhận định một tương


tác có ý nghĩa lâm sàng là hậu quả của tương tác gây ra và phạm vi điều trị của các thuốc
tham gia phối họp. Đối với thuốc có phạm vi điều trị hẹp như digoxin, chỉ cần một thay đổi
nhỏ về liều điều trị sẽ dẫn đến ADR, trong khi đó đối với những thuốc có phạm vi điều ừị
rộng, khi tăng nồng độ lên gấp đôi thậm chí gấp 3 lần có thể không có ảnh hưởng nghiêm
trọng trên lâm sàng, như trường họp của ceítriaxon. Trong một tương tác thuốc, thuốc có
phạm vi điều trị hẹp cần sự giám sát đặc biệt hơn thuốc có phạm vi điều trị rộng vì nó có
nguy cơ cao gây ra tương tác từ mức độ vừa đến nguy hiểm. Ngoài ra, cũng cần quan tâm
đến thuốc làm ảnh hưởng đến hiệu quả điều ưị, thuốc có nguy cơ gia tăng độc tính khi phối
họp. Và cuối cùng đáp ứng lâm sàng của bệnh nhân sẽ quyết định tương tác đó có ý nghĩa
lâm sàng hay không vì trong thực tế điều trị không phải lúc nào một tương tác thuốc cũng
xảy ra, khi xảy ra, không phải tương tác nào cũng nguy hiểm với tất cả bệnh nhân [36].
1.1.4.

Các yếu tố nguy Ctf gây tương tác thuốc bất lọi.

Trong thực tế điều trị, có nhiều yếu tố nguy cơ dẫn đến tương tác thuốc bất lợi. Hậu
quả của tương tác thuốc xảy ra hay không, nặng hay nhẹ phụ thuộc vào đặc điểm của từng

cá thể bệnh nhân như tuổi, giới, bệnh lý mắc kèm và phương pháp điều trị. Người thầy
thuốc phải đặc biệt cảnh giác khi phối hợp thuốc, cân nhắc các yếu tố nguy cơ và cần cung
cấp thông tin cho người bệnh về các nguy cơ khi dùng thuốc, những thay đổi trong chế độ
ăn uống khi điều trị. Một tương tác thuốc không phải lúc nào xảy ra và không phải lúc nào
cũng nguy hiểm. Chính vì thế, đôi khi chỉ cần chú ý thận trọng đặc biệt cũng đủ làm giảm
nguy cơ và hậu quả tương tác [3].
1.1.4.1.

yếu tố liền quan đến thuốc [30].

-Phối họp nhiều thuốc: trong các bệnh lão khoa, bệnh nhiễm trùng (lao, HIV....)


-Thuốc có khoảng điều trị hẹp: kháng sinh nhỏm aminoglycosid, digoxin,
wafarin....

Nhiều bệnh đòi hỏi bệnh nhân buộc phải dùng nhiều thuốc để đạt được hiệu quả
điều trị mong muốn. Ví dụ, suy tim sung huyết, hội chứng AIDS, bệnh lao, động kinh hay
bệnh tâm thần. Trong khi đó, nhiều thuốc dùng trong điều trị lao hay cho bệnh nhân mắc
hội chứng AIDS và thuốc chống động kinh lại có khả năng cảm ứng hay ức chế enzym
chuyển hóa, dễ gây tương tác với các thuốc khác. Một số tình trạng bệnh lý khác đòi hỏi
phải được điều trị bằng những thuốc có khoảng điều trị hẹp. Ví dụ, lithium dùng để điều trị
rối loạn lưỡng cực, thay đổi nhỏ nồng độ lithium trong máu do tương tác thuốc cũng có thể
làm xuất hiện độc tính trên bệnh nhân.

-Liều lượng và liệu trình điều trị (ngắt quản/liên tục, ngắn hạn/dùng trong thời gian
dài).

-Thời điểm dùng thuốc: ảnh hưởng của các thuốc làm thay đổi pH dạ dày, làm tăng
hoặc giảm hấp thu thuốc.


-Chế độ dùng thuốc có thể ảnh hưởng tới tương tác thuốc trên bệnh nhân. Ví dụ:
khi tăng liều fluconazol thì khả năng ức chế chuyển hóa của một số thuốc cũng tăng, tuy
nhiên khi dùng liều duy nhất fluconazol ít gặp phải tương tác thuốc nghiêm trọng so với
bệnh nhân dùng fluconazol hằng ngày.


1.1.4.2.

yếu tố liên quan đến ngưòi bệnh [30].

Trẻ em, người cao tuổi, giới tính nữ, người suy giảm chức năng gan, thận dễ xảy ra
tương tác thuốc. Người già có tỷ lệ gặp tương tác thuốc cao hơn, do bệnh nhân cao tuổi
thường mắc bệnh mạn tính hoặc mắc kèm nhiều bệnh, dẫn đến phải sử dụng nhiều thuốc
cùng lúc và ở nhóm đối tượng này, có nhiều thay đổi sinh lý do quá trình lão hóa (như chức
năng gan thận suy giảm). Phụ nữ có nguy cơ bị tương tác thuốc cao hơn so với nam giới.
Bệnh nhân béo phì hay suy dinh dưỡng, thường có sự thay đổi mức độ chuyển hóa enzym
vì thế đối tượng này nhạy cảm hơn và dễ bị ảnh hưởng bởi tương tác thuốc hơn. Những đối
tượng khác có nguy cơ cao là những bệnh nhân bệnh nặng, bệnh nhân mắc bệnh tự miễn
hay những đã trải qua phẫu thuật ghép cơ quan.

-Yếu tố di truyền quyết định tốc độ chuyển hóa enzym. Những bệnh nhân mang
gen “chuyển hóa chậm” có tỷ lệ gặp phải tương tác thuốc thấp hơn so với những người
mang gen “chuyển hóa nhanh”.

-Một số có thể làm cho bệnh nhân có nguy cơ cao gặp tương tác thuốc: bệnh tim
mạch (loạn nhịp, suy tim sung huyết), đái tháo đường, động kinh, bệnh lý tiêu hóa (loét
đường tiêu hóa, chứng khó tiêu), bệnh về gan, tăng lipid máu, suy chức năng tuyến giáp,
bệnh nhiễm HIV, bệnh nấm, bệnh tâm thần, suy giảm chức năng thận, bệnh hô hấp (hen,
bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính).



1.1.4.3.

Yếu tố khác [30].

-Nhiều bác sĩ kê toa cho một bệnh nhân.

Nếu bệnh nhân được điều trị bởi nhiều bác sỹ cùng lúc, mỗi bác sỹ có thể không
nắm được đầy đủ thông tin về những thuốc bệnh nhân đã được kê đơn và đang sử dụng.
Điều này có thể dẫn đến những tương tác thuốc nghiêm trọng không được kiểm soát.

-Thiếu nguồn truy cập thông tin về tương tác thuốc: sách vỡ, phần mềm tương tác
thuốc, các hang wed trực tuyến.

-Khối lượng công việc: số lượng bệnh nhân quá đông (ung bướu, nhi.........)
1.1.5.

Quản lý tương tác thuốc

1.1.5.1.

Phát hiện tương tác thuốc

Phương pháp phát hiện tương tác thuốc hiện nay chủ yếu hiện nay dựa vào các cơ
sở dữ liệu (CSDL) bao gồm: phần mềm tra cứu tương tác thuốc và các sách tra cứu tương
tác thuốc.


Bảng 1.2. Cơ sở dữ liệu dùng trong fra cứu tương tác thuốc


8

MIMS Drug Interactions

rp ■ A
Phần mềm tra

UBM

Tuy nhiên, việc tra cứu tương tác thuốc trong các CSDL gặp nhiều khó khăn, sau
đây là một số điểm còn tồn tại:


-Thứ nhất, các CSDL không đồng nhất trong việc nhận định mức độ nghiêm trọng
của tương tác. Sự chênh lệch giữa các CSDL trong việc đánh giá một tương tác thuốc có ý
nghĩa lâm sàng hay không gây khó khăn cho người sử dụng. Các

CSDL còn đưa ra những “cảnh báo giả”, đó là những cảnh báo về tương tác thuốc không có ý
nghĩa lâm sàng khiến các bác sĩ có xu hướng bỏ qua các cảnh báo được đưa ra, mất lòng
tin vào CSDL và nghiêm trọng hơn khi các bác sĩ sẽ bỏ qua những cảnh báo thực sự nguy
hiểm [42]. Như vậy , các nhà thiết kế CSDL và các nhả chuyên môn phải xây dựng một hệ
thống mang tính chọn lọc hơn.

Một nghiên cứu năm 2011 tại BVĐK Hà Đông của Nguyễn Thanh Sơn và Nguyễn
Mai Hoa chỉ ra rằng không có sự thống nhất giữa các CSDL trong phát hiện và nhận định
mức độ nghiêm họng của tương tác thuốc là thách thức đối với cán bộ y tế trong thực hành,
160 trong tổng số 520 tương tác phát hiện được có sự trên lệch giữa Micromedex (MM) và
MIMS Online (MO), sự đồng thuận giữa hai CSDL này ở mức yếu (K=0,3) trong phát hiện
và đánh giá ý nghĩa lâm sàng của tương tác thuốc, 6/62 tương tác được MM xác định có ý

nghĩa lâm sàng nhưng bị MO bỏ qua, ngược lại 154/210 tương tác được MO nhận đinh có
ý nghĩa lâm sàng (nghiêm trọng, cân nhắc nguy cơ/lợi ích) lại không được MM đánh giá ở
mức độ tương đương [22],

Nghiên cứu năm 2012 của Nguyễn Thu Vân về “Đánh giá một số cơ sở dữ liệu
thường dùng trong thực hành tra cứu tương tác thuốc tại Việt Nam” tại Trưng tâm DI &
ADR Quốc gia, đưa ra kết luận về việc nhận định mức độ tương tác thuốc, tỷ lệ và các cấp
độ tương tác thuốc giữa các CSDL là khác nhau, thiếu sự đồng thuận[33] Nghiên cứu tiến


hành khảo sát 4 phần mềm Online duyệt tương tác thuốc, gồm .
. và của
Hoàng Kim Huyền 2007, kết quả cho thấy, về khả năng quản lý tương tác, cả 4 phần mềm
đều có khả năng phát hiện 3 loại tương tác chính và đều đưa ra cơ chế của tương tác cũng
như hướng xử trí, nhưng về khả năng phát hiện tương tác, không có phần mềm nào đạt
điểm tối đa[16]

Thứ hai, hầu hết các CSDL tra cứu về tương tác thuốc dưới dạng sách mới chỉ phát
hiện tương tác thuốc giữa 2 thuốc với nhau, có rất ít các CSDL phát hiện được tương tác
thuốc khi số lượng thuốc sử dụng đồng thời lớn hơn hai thuốc, trong khi đó thực trạng
bệnh nhân được điều trị phối họp nhiều thuốc là phổ biến.
- Sách: Tương tác thuốc và chú ý khỉ chỉ định [3].

Quyển sách được xuất bản năm 2006 của nhà xuất bản Y học, gồm 1159 trang, do
GS.TS Lê Ngọc Trọng và TS. Đỗ Kháng Chiến chủ biên. Tương tác thuốc trong quyển
sách này chỉ đề cập đến tương tác thuốc- thuốc, không đề cập đến tương tác thuốc- thức ăn
hoặc các loại tương tác khác, với ưu điểm là ngôn ngữ tiếng việt, nhưng do xuất bản lâu
nên thông tin về các tương tác thuốc mới không được cập nhật.
Hướng dẫn tra cứu tương tác thuốc [3]:


Khi biết thuốc thuộc nhóm nào sử dụng Mục lục tra cứu nhóm thuốc để tìm số
trang của họ thuốc, nếu không nhớ thuốc thuộc nhóm nào chỉ biết tên thuốc hoặc tên biệt
dược sử dụng Mục lục tra cứu thuốc và biệt dược để tìm số trang của thuốc. Tìm đến trang
đã biết, tìm thuốc trong mục Các thuốc trong nhóm, tìm tương tác thuốc trong mục Tương


tác thuốc. Muốn tìm tương tác của hai thuốc khi biết thuốc thứ 1 (hoặc thứ 2) thuộc nhóm
nào sử dụng Mục lục tra cứu nhóm thuốc và tìm thuốc trong mục Các thuốc trong nhóm và
mục Tương tác thuốc tìm thuốc thứ 2 (dùng cùng lúc với thuốc thứ 1) để tìm tương tác
giữa thuốc thứ 1 và thuốc thứ 2.
CSDL dùng trong nghiên cứu này:

-Tra

cứu

trực

tuyến

tại

website:

/>
Đây là cơ sỡ dữ liệu thường được dùng trong tra cứu tương tác thuốc được thầy
Nguyễn Tuấn Dũng, giảng viên trường Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh khuyến
cáo sử dụng[9], một số nghiên cứu về tương tác thuốc đã sử dụng CSDL này như nghiên
cứu của Trần Quang Thịnh “khảo sát tương tác thuốc tại khoa hệ Nội bệnh viện đa khoa
Bưu Điện ”[27], nghiên cứu của Hoàng Kim Huyền và Ngô Chí Dũng “khảo sát và đánh

giá một số phần mềm tra cứu tưomg tác thuốc Online”[\6]. Website Drugs.com là cổng
thông tin điện tử lớn nhất cho các chuyên gia chăm sóc sức khoẻ tìm kiếm thông tin, truy
cập miễn phí, lưu trữ thông tin của hơn 24.000 thuốc kê đơn và không kê đơn được FDA
(cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ) chấp thuận, được sở hữu và điều hành bởi
hãng Drugsite Trust, New Zealand, dữ liệu được cập nhật từ Micromedex®, Cerner
Multum™, Wolters Kluwer™, và các nguồn khác [35].

Tra cứu tương tác thuốc tại Website Drugs.com có ưu điểm là thao tác đơn giản, dễ
thực hiện, cho kết quả nhanh, có giải thích cơ chế của mỗi tương tác thuốc, mức độ tương
tác (nghiêm trong, trung bình hoặc nhẹ), và trong một số trường họp, có thể cung cấp các


khuyến cáo để quản lý sự tương tác [35].
Hướng dẫn tra cứu tương tác thuốc:

Bước 1: Vào website: interactions.php Bước 2:
Nhập các thuốc (hoạt chất) cần tra cứu vào ô Drug Name.

Bước 3: Chọn Check for interactions và đọc kết quả.
1.1.5.2.

Một số giải pháp hạn chế tương tác thuốc

-Tuân thủ nguyên tắc cơ bản khi phối họp: thầy thuốc cần phải lựa chọn thuốc và
phác đồ phù họp, chú ý những tương tác thuốc bất lợi được ghi nhận rõ trong y văn, không
phối hợp các thuốc có cùng tác dụng phụ hoặc độc tính trên cùng một cơ quan, phải lưu ý
đặc biệt đối với các thuốc có độc tính cao, khoảng điều trị hẹp, các thuốc cảm ứng hay ức
chế enzym chuyển hóa thuốc, những bệnh nhân có chức năng gan thận giảm, đây là các đối
tượng có nguy cơ cao xảy ra tương tác khi phối họp [30].


- Bên cạnh đó, khi kê đơn, người thầy thuốc cần ý thức giảm thiểu tối đa số lượng
thuốc kê đơn cho mỗi bệnh nhân bởi vì khi tăng số lượng thuốc thì nguy cơ tương tác và
rủi ro điều trị cũng tăng theo, chưa kể tới các chi phí điều trị và chăm sóc bệnh nhân [2].


-Nâng cao kiến thức và cập nhật thông tin về tương tác thuốc, chia sẻ thông tin giữa
các thành viên trong đội ngũ y tế, nắm vững các cảnh báo tương tác thuốc cho các đối
tượng đặc biệt, thầy thuốc phải sử dụng được các công cụ vi tính hỗ trợ trong việc khảo sát
tương tác thuốc như phần mềm tra cứu, các trang wed trực tuyến [30],
1.1.5.3.

Xử trí tương tác thuốc

Một tương tác thuốc không phải lúc nào cũng nghiêm trọng việc đưa ra các biện
pháp xử trí và can thiệp kịp thời, ngắn gọn, hữu ích cũng đóng vai trò quan trọng và thiết
thực trong thực tiễn điều trị cũng như trong việc thiết kế, phát triển các phần mềm hoặc
bảng cảnh báo tương tác thuốc cho dược sĩ, bác sĩ và nhân viên y tế. Các biện pháp xử trí
có thể thu thập được từ các nguồn CSDL tương tự như khi phát hiện tương tác thuốc. Các
biện pháp xử trí cơ bản bao gồm:

-Người thầy thuốc có thể lựa chọn thay thế thuốc có nguy cơ gây tương tác bằng 1
thuốc khác trong nhóm hoặc 1 nhóm thuốc khác không hoặc có ít nguy cơ gây tương tác
[3].

-Trong trường hợp không có thuốc thay thế, khi sử dụng 1 cặp phối hợp có nguy cơ
tương tác cần sử dụng thuốc có phạm vi điều trị hẹp ở liều thấp nhất có hiệu quả, hiệu
chỉnh liều dựa trên việc theo dõi đáp ứng của bệnh nhân, các triệu chứng lâm sàng, cận lâm
sàng và nồng độ thuốc trong máu (nếu thực hiện được) [38].[36].[3]. Theo dõi chặt chẽ các
ADR của bệnh nhân do tương tác thuốc bất lợi gây ra. Dừng phối họp 2 thuốc ngay lập tức
nếu xuất hiện các biểu hiện cho thấy sự gia tăng độc tính. Ngoài ra, có thể sử dụng các biện

pháp hạn chế tương tác và hậu quả tương tác như điều chỉnh thời gian sử dụng thuốc, thay
đổi dạng bào chế thích hợp [36],


×