Tải bản đầy đủ (.doc) (134 trang)

Định huớng nghề nghiệp cho sinh viên Công tác xã hội ở truờng Đại Học Sư Phạm Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (601.08 KB, 134 trang )

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CẤP KHOA
(Ghi theo các tiêu chuẩn chấm điểm công trình)

*Nhận xét, chấm điểm của giảng viên 1:
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
Điểm số:………

*Nhận xét, chấm điểm của giảng viên 2:
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
Điểm số: ………….
Kết luận của Hội đồng khoa học:
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………

Điểm số:……….

Chủ tịch Hội đồng Khoa học
(Ký tên)



1


TÓM TẮT ĐỀ TÀI
Nghề nghiệp là một vấn đề quan trọng trong cuộc đời mỗi con người.
Đây cũng là điều kiện quan trọng hàng đầu để đảm bảo cuộc sống cá nhân,
cũng như góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đảm bảo sự cân đối
giữa đặc điểm của cá nhân với yêu cầu của nghề nghiệp và nhu cầu của xã hội
đối với các ngành nghề. Chính vì vậy , định hướng nghề nghiệp có ý nghĩa
quan trọng đối với mỗi cá nhân. Định hướng nghề nghiệp là hoạt động hoạch
định phương pháp, mục tiêu để hỗ trợ cá nhân chọn lựa và thích ứng với nghề
nghiệp phù hợp nhất với khả năng cá nhân nhằm thỏa mãn nhu cầu nghề
nghiệp của cá nhân và nhu cầu nhân lực đất nước". Đặc biệt Công tác xã hội
là một nghề mới ở nước ta và là nghề rất cần thiết đối với xã hội. Là sinh viên
đang theo học Khoa Công tác xã hội,Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, nhóm
tác giả nhận thấy việc định huớng nghề Công tác xã hội là vô cùng quan trọng
đối với sinih viên Công tác xã hội nói chung và đối với bản thân nhóm nói
riêng. Nhận thức được điều đó, nhóm tác giả đã lựa chọn đề tài "Định huớng
nghề nghiệp cho sinh viên Công tác xã hội ở truờng Đại Học Sư Phạm Hà
Nội" làm đề tài nghiên cứu khoa học của mình.
Khi nghiên cứu về định hướng nghề Công tác xã hội nhóm tác giả tập
trung nghiên cứu nhận thức của sinh viên về nghề, định hướng nghề Công tác
xã hội, thực trạng và những thuận lợi cũng như khó khăn của sinh viên trong
quá trình học tập và rèn luyện nghề. Từ đó, đưa ra các đề xuất nhằm nâng cao
định hướng nghề của sinh viên Công tác xã hội. Nghiên cứu được hoàn thành,
rất mong được đóng góp vào kho tàng lý luận nghề Công tác xã hội, giúp
sinh viên Công tác xã hội khắc phục khó khăn và nâng cao nhận thức về nghề.
Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo quan trọng phục vụ giảng dạy của thầy
cô, cũng như đối với những nguời quan tâm đến vấn đề này.


2


MỤC LỤC

3


BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT
ST

Các chữ viết tắt

Ý nghĩa

T
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12


CTXH
ĐH
SV
NXB
HS
GV
THPT

NVXH
DVXH
ĐHSPHN
TB-XH

Công tác xã hội
Đại học
Sinh viên
Nhà xuất bản
Học sinh
Giáo viên
Trung học phổ thông
Cao đẳng
Nhân viên xã hội
Dịch vụ xã hội
Đại học Sư phạm Hà Nội
Thương binh- Xã hội

MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn lựa đề tài
Lý do khoa học: Nghề nghiệp là một vấn đề quan trọng trong cuộc đời
mỗi con người. Việc có được nghề nghiệp phù hợp với năng lực, sở thích của

4


cá nhân và nhu cầu của xã hội sẽ giúp cho mỗi cá nhân có thể phát triển được
tài năng, theo đó tạo ra năng suất chất lượng lao động cao. Đây cũng là điều
kiện quan trọng hàng đầu để đảm bảo cuộc sống cá nhân, cũng như góp phần
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đảm bảo sự cân đối giữa đặc điểm của
cá nhân với yêu cầu của nghề nghiệp và nhu cầu của xã hội đối với các ngành
nghề. Sự cân đối này sẽ góp phần tạo nên sự ổn định phát triển xã hội. Khoản
1, điều 20 Bộ luật lao động của nước ta đã ghi: “Mọi người có quyền tự do
chọn nghề và học nghề phù hợp với nhu cầu việc làm của mình”. Vì thế mọi
thanh niên đều có quyền lựa chọn con đường vào đời, vào nghề một cách tự
nguyện, tự giác mà xã hội đã giành cho mình.
Nghề CTXH là một nghề mới ở Việt Nam, hầu như mọi người còn lạ lẫm
với tên gọi của nghề. Tuy nhiện, cùng với sự phát triển của đất nước, nghề
CTXH đã được công nhận là một nghề với nhiều công việc đáp ứng nhu cầu
phục vụ xã hội.
Đối với nhiều quốc gia trên thế giới, CTXH đã phát triển trở thành một nghề
chuyên nghiệp. Tuy nhiên, đối với Việt Nam nghề CTXH mới chỉ ở bước đầu
hình thành, chưa được phát triển theo đúng ý nghĩa của nó trên tất cả các khía
cạnh. CTXH hiện đang là một trong những vấn đề đặc biệt quan trọng và đang
giành được nhiều quan tâm của nhiều nhà xã hội học cũng như của các nhà
nghiên cứu và các cấp lãnh đạo. Điều quan trọng hàng đầu là phải đào tạo được
đội ngũ giảng viên về CTXH cho các trường ĐH, CĐ và dạy nghề.
CTXH là một chuyên ngành để giúp đỡ cá nhân, nhóm hoặc cộng đồng
tăng cường hay khôi phục việc thực hiện các chức năng xã hội của họ và tạo
những điều kiện thích hợp nhằm đạt được các mục tiêu đó. Nghề CTXH thúc
đẩy sự thay đổi xã hội, giải quyết vấn đề trong mối quan hệ của con người,
tăng năng lực và giải phóng cho người dân nhằm giúp cho cuộc sống của họ
ngày càng thoải mái, dễ chịu. Vận dụng các lý thuyết về hành vi con người và

hệ thống xã hội, CTXH tương tác vào những điểm giữa con người với môi
trường của họ. Nhân quyền và Công bằng xã hội là các nguyên tắc căn bản
5


của nghề. Đây là lĩnh vực khoa học mới mẻ cần đi sâu vào tìm hiểu dưới
nhiều góc độ và khía cạnh khác nhau.
Định hướng nghề nghiệp đối với mỗi cá nhân có ý nghĩa không chỉ với
bản thân cá nhân ấy mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với chất lượng nguồn
nhân lực của đất nước. Bởi định hướng nghề nghiệp chính xác sẽ giúp cá nhân
phát huy tối đa năng lực của bản thân, hứng thú với công việc. Nhờ đó, hiệu
quả công việc của họ được nâng cao. Đồng thời định hướng nghề nghiệp đúng
đắn sẽ giúp cá nhân đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực cho xã hội.
Lý do thực tiễn: Hiện nay rất nhiều trường ĐH, CĐ mở mã ngành đào tạo
ngành CTXH vì vậy việc lập kế hoạch, định hướng nghề nghiệp CTXH trong
tương lai một cách hiệu quả luôn đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong
việc tạo dựng một sự nghiệp thành công. Đã có rất nhiều các nghiên cứu về
định hướng nghề nghiệp, nhưng chỉ tập trung cho lứa tuổi THPT mà rất ít
quan tâm đến SV ĐH, CĐ, đặc biệt là ngành CTXH.
CTXH là một công việc còn khá mới mẻ ở Việt Nam, nhiều bạn SV học
ngành này còn không biết khi ra trường mình sẽ làm công việc cụ thể ra sao?
Những đơn vị nào tuyển nhân viên CTXH? Nhu cầu tìm việc làm của SV
ngành này rất cao và trong tương lai còn lớn hơn nữa nhưng gặp nhiều khó
khăn, nhất là những SV sau khi tốt nghiệp trở về những tỉnh thành xa như các
tỉnh miền núi, hải đảo.
Nhu cầu nhân lực ngành CTXH ở Việt Nam rất lớn nhưng do một số
nguyên nhân khách quan như đó là một ngành mới mẻ, đó là ngành ít được đề
cập đến, không được sự quan tâm nhiều của các cơ quan, tổ chức,…khiến các
bạn SV lầm tưởng rằng ngành mình học khó hoặc không có khả năng xin
việc, đặc biệt là đối với SV khoa CTXH – Trường ĐHSPHN, một trường

trọng điểm đào tạo các GV, giảng viên chuyên nghiệp và mới thành lập khoa
CTXH. Do đó, nhóm nhiên cứu tiến hành nghiên cứu làn rõ nguyên nhân của
vấn đề trên, đồng thời tìm ra các giải pháp giúp SV theo học ngành CTXH
yên tâm và tin tưởng vào tương lai khi tốt nghiệp.
6


Lý do cá nhân: Là SV ngành CTXH năm thứ 2 của Trường ĐHSPHN
trực tiếp gặp phải những vấn đề như trên, với mong muốn và nguyện vọng
khắc phục những khó khăn, trở ngại trong việc học tập và rèn luyện nghề của
mình. Nhóm tác giả quyết định lựa chọn đề tài: Định hướng nghề nghiệp
cho sinh viên Công tác xã hội ở Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội làm đề
tài nghiên cứu khoa học của mình.
2.Lịch sử nghiên cứu
Nghề nghiệp là một phần quan trong trong cuộc sống của mỗi chúng ta,
cũng như cần cho sự phát triển của toàn xã hội. Xã hội càng phát triển, thì
nghề nghiệp cũng ngày càng đa dạng, phong phú. Vì vậy, xung quanh vấn đề
này, đã có rất nhiều tác giả trong và ngoài nước nghiên cứu.
2.1 Một vài nghiên cứu trên thế giới
Vào thế kỷ XIX trong các tài liệu văn học, đã đề cập đến vấn đề hướng
nghiệp cho SV. Ở Pháp năm 1849 đã xuất bản cuốn “Hướng dẫn chọn nghề”.
Đến đầu thế kỷ 20, các nước Anh, Mĩ, Đức đã có những tổ chức đầu tiên là
những phòng tư vấn nghề nghiệp cho HS giúp họ tìm việc làm.
Cuốn sách chỉ dẫn về chọn nghề xuất bản năm 1948 ở Pháp được xem là
cuốn sách đầu tiên nói về hướng nghiệp. Cuốn sách đề cập tới sự phát triển đa
dạng của các ngành nghề trong xã hội do sự phát triển của công nghiệp, từ đó
đã rút ra những kết luận coi giáo dục hướng nghiệp là một vấn đề quan trọng
không thể thiếu khi xã hội ngày càng phát triển.
Tác giả A.Roe chỉ ra nguyên nhân lựa chọn nghề như sau [5,tr70]: “Đầu
tiên là đảm bảo chỗ đứng trong công việc, sau đó là tiền lương của lao động”.

Các tác giả đều cho rằng có hai nguyên nhân dẫn đến sai lầm trong việc chọn
nghề. Thứ nhất, đa số HS chưa có quan niệm rõ ràng về nghề, nên không thể
định hướng đúng đắn các nghề. Các em không biết những yêu cầu của một
nghề nào đó đề ra cho bản thân về phảm chất và năng lực. Thứ hai, đa số HS
không biết xác định một cách khách quan nghề nghiệp của mình.
Nguyên lý trắc nghiệm định hướng nghề nghiệp của John Holland. Bài
7


trắc nghiệm nghề nghiệp của Tiến sĩ tâm lý học John Holland (Hoa Kì)
nghiên cứu trong 40 năm được Bộ Lao động Mỹ sử dụng rộng rãi trong các
trường ĐH. Hiện nay ở châu Âu và châu Á, rất nhiều trường ĐH đã sử dụng
công trình của John Holland để xây dựng bộ test cho HS quan tâm đến trường
mình và cho SV tìm việc làm phù hợp sau khi tốt nghiệp. Cùng với MBTI,
đây là 2 bài trắc nghiệm phổ biến và chính xác nhất hiện nay trên thế giới. Bài
trắc nghiệm nghề nghiệp này nhằm giúp cho HS tự khám phá bản thân mình
trước khi ghi nguyện vọng dự thi vào trường ĐH, CĐ. Bài trắc nghiệm này
giúp tự phát hiện các kiểu người trội nhất đang tiềm ẩn trong con người mình
để tự định hướng khi lựa chọn nghề.
Tác giả M.S. Naymatk [26,tr42] cho rằng: “Thanh niên hãy còn biết rất ít
cả những thuộc tính thực tế của những nghề nghiệp hấp dẫn họ và cả những
yêu cầu mà nghề đó đề ra cho người lao động lẫn những khả năng tiềm tàng
của bản thân mình".
Như vậy, xung quanh vấn đề nghề nghiệp đã có rất nhiều tác giả nước
ngoài quan tâm và nghiên cứu.
2.2 Một vài nghiên cứu ở Việt Nam
Đảng và Nhà nước ta cũng rất quan tâm đến công tác hướng nghiệp, điều
đó thể hiện ở các nghị quyết, văn kiện của Đảng và Nhà nước như Nghị định
126/CP ngày 19/03/1981 của Chính phủ về công tác hướng nghiệp trong
THPT và việc sử dụng hợp lý HS các cấp trung học cơ sở và THPT tốt nghiệp ra

trường “Các trường phổ thông phải tích cực tiến hành việc hướng nghiệp cho HS
nhằm chuẩn bị mọi mặt cho HS sẵn sàng đi vào lao động sản xuất sau khi ra
trường. Chính quyền các cấp, các ngành kinh tế, văn hóa từ Trung ương đến cơ
sở có nhiệm vụ trực tiếp giúp đỡ các trường phổ thông trong việc đào tạo, sử
dụng hợp lý và tiếp tục bồi dưỡng học sinh phổ thông sau khi ra trường”.
Trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX đã ghi rõ: “Coi trọng công tác
hướng nghiệp và phân luồng HS trung học, chuẩn bị cho thanh niên, thiếu
niên đi vào lao động nghề nghiệp phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
8


trong cả nước và từng địa phương” [12].
Công trình nghiên cứu của tập thể tác giả Viện khoa học giáo dục [24]
nghiên cứu về xu hướng chọn nghề, dự định chọn nghề của HS THPT.
Các công trình nghiên cứu của tác giả Phạm Tất Dong [11,12,13] đã đề
cập và nghiên cứu sâu sắc có hệ thống về hứng thú nghề nghiệp cũng như
những vấn đề cơ bản về nội dung, phương pháp hướng nghiệp cho HS. Trong
các công trình nghiên cứu của mình, tác giả đã đưa ra kết luận : Hứng thú
môn học, hứng thú nghề nghiệp có tác dụng thúc đẩy việc lựa chọn nghề và
thực hiện được khả năng của mình là động cơ mạnh nhất, quan trọng nhất
trong việc lựa chọn nghề của HS. Trong cuốn “Giúp bạn chọn nghề” (NXB
Chính trị quốc gia, HN 1989) đã định nghĩa năng lực nghề nghiệp là sự tương
ứng giữa những đặc điểm tâm sinh lý của con người với những yêu cầu do
nghề đặt ra. Tác giả Nguyễn Ánh Tuyết có công trình nghiên cứu về nguyện
vọng lựa chọn nghề của HS lớp 10. Tác giả đã đưa ra nhận xét: Đa số có động
cơ chọn nghề tốt, động cơ mang ý nghĩa xã hội [28].
Các tác giả Phan Ngọc Anh và Đỗ Thị Hòa khi nghiên cứu nguyện vọng
học nghề của HS THPT và các yếu tố ảnh hưởng đến nguyện vọng đó.
Trong cuốn “Nay đi học, mai làm gì?” (E.A Klimop, ĐHSPHN) dành cho
các HS lớp trên về lựa chọn nghề nghiệp. Tác giả đã nêu bật lên được những

sai lầm của việc định hướng nghề nghiệp của các em HS phổ thông và từ đó
đưa ra những phương pháp giúp các em tự nhân định năng lực của mình, để
có một nghề nghiệp đúng đắn.
Trong lĩnh vực lý luận và thực tiễn công tác hướng nghiệp cho HS phổ
thông Việt Nam còn gắn liền với công trình nghiên cứu của tác giả Đoàn Chi
“Sinh hoạt hướng nghiệp”[5,6,7]; Nguyễn Văn Hộ “Thiết lập và phát triển hệ
thống hướng nghiệp”; Lê Anh Hoài “Tâm lí chọn nghề của các tú tài trong
thời đất nước mở của”; Lê Vĩnh Phúc “Tuổi trẻ và hướng nghiệp”; Đặng
Danh Ánh “Một số vấn đề tâm lý giáo dục hướng nghiệp”;…Những công
trình nghiên cứu này đã chỉ ra được một số vấn đề như: bản chất, nhiệm vụ,
9


mục đích và vai trò của công tác hướng nghiệp.
Như vậy, một số công trình nghiên cứu ở Việt Nam đã quan tâm đến lĩnh
vực nghề nghiệp như xu hướng chọn nghề, hứng thú nghề, nhận thức nghề,…
Song vấn đề nghề nghiệp bao giờ cũng vận động và phát triển không ngừng,
chính vì vậy việc nghiên cứu vấn đề này luôn có tính mới mẻ.
Trường ĐHSPHN cũng đã có rất nhiều Công trình nghiên cứu của nhiều
thạc sĩ tâm lý học về vấn đề này như: Tác giả Nguyễn Đức Chữ “Một số vấn
đề tâm lý- xã hội ảnh hưởng đến việc học tập và rèn luyện nghề của sinh viên
trường ĐH Lao động- Xã hội”, Tác giả Trần Thị Liên “Nhu cầu thành đạt trong
học tập, nghề nghiệp của sinh viên”, Tác giả Lê Trọng Phong “Nhận thức giá trị
nghề của sinh viên Trường ĐH Sư Phạm Kỹ thuật Vinh”, “Nay đi học, mai làm
gì?” của tác giả E.A Klimov, … nhưng chưa có nghiên cứu nào đề cập đến việc
định hướng nghề nghiệp cho SV CTXH - một ngành mới của trường.
Thông qua lịch sử nghiên cứu vấn đề ở trên thế giới và Việt Nam, có thể
nhận thấy đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề nghề nghiệp như
xu hướng chọn nghề, định hướng nghề,… Nhưng lại chưa có tác giả nào
nghiên cứu về CTXH, một ngành đã phát triển lâu đời trên thế giới và đối với

Việt Nam thì đây lại là một ngành mới. Vì vậy, cần thiết phải có sự tìm hiểu,
nghiên cứu về vấn đề này.
Là SV đang theo học ngành CTXH, chúng tôi trực tiếp nhận thấy những
khó khăn trong việc định hướng nghề nghiệp tương lai của mình. Chính vì
vậy, nhóm nghiên cứu đã mạnh dạn tiến hành nghiên cứu về khía cạnh này.
3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài là chỉ ra được tình hình định hướng nghề nghiệp của
SV CTXH – ĐHSPHN trên cơ sở tìm hiểu thực trạng, thuận lợi và khó khăn
của định hướng nghề nghiệp SV CTXH. Đồng thời đề ra những đề xuất tăng
cường định hướng nghề nghiệp của SV CTXH – Trường ĐHSPHN.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
10


Để thực hiện mục đích của đề ra của đề tài, nghiên cứu thực hiện những
nhiệm vụ sau:
Chỉ ra thực trạng sự hiểu biết cũng như kiến thức của SV ngành CTXHTrường ĐHSPHN về định hướng nghề nghiệp CTXH.
Đánh giá những thuận lợi và khó khăn trong việc định hướng nghề nghiệp
của SV CTXH.
Đưa ra các đề xuất nhằm tăng cường định hướng nghề nghiệp của SV
CTXH.
4.Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là định hướng nghề nghiệp cho SV
CTXH-ĐHSPHN.
5.Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu tập trung vào khảo sát đối tương thuộc SV 4 khóa
K63,62,61,60 Khoa CTXH - ĐHSPHN và một số SV đã ra trường. Đề tài
nghiên cứu trên 150 SV 4 khóa CTXH năm học 2013-2014.
6.Phương pháp nghiên cứu

Các phương pháp được sử dụng chủ yếu cho việc nghiên cứu đề tài này là:
-Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Điều tra thực trạng định hướng nghề
nghiệp của SV.
-Phương pháp phỏng vấn sâu những SV từ năm thứ 1 – năm thứ 4 đang
học ở trường, những SV đã tốt nghiệp đang đi làm.
-Phương pháp phân tích tài liệu: Hiểu rõ và sâu hơn về vấn đề nghiên cứu.
Chọn lọc những thông tin chính xác để phục vụ đề tài và cung cấp những khái
niệm công cụ cho đề tài.
7.Nội dung nghiên cứu
Các vấn đề lý luận về nghề nghiệp và sự định hướng nghề nghiệp của SV
CTXH – ĐHSPHN.
Thực trạng định hướng nghề nghiệp và đưa ra đề xuất giúp nâng cao định
hướng nghề nghiệp cho SV CTXH – ĐHSPHN.
8. Ý nghĩa và đóng góp của đề tài
* Ý nghĩa của đề tài
- Ý nghĩa khoa học
Đề tài “Định hướng nghề nghiệp cho sinh viên Công tác xã hội ở Trường
11


Đại học Sư phạm Hà Nội” mong muốn tìm hiểu nhận thức nghề nghiệp và
nâng cao định hướng của SV về nghề nghiệp mà mình đã lựa chọn và nghề
nghiệp trong tương lai cùng với những yếu tố tác động đến nhận thức đúng
đắn của SV. Việc thực hiện nghiên cứu đề tài giúp nhóm tác giả bước đầu làm
quen với phương pháp nghiên cứu khoa học, từ đó rèn luyện cho mình
phương pháp tư duy khoa học. Nâng cao nhận thức của mình về nghề nghiệp
CTXH. Qua kết quả nghiên cứu, nhóm tác giả muốn đóng góp một phần nhỏ
bé của mình vào việc làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về định hướng nghề
nghiệp CTXH ở Việt Nam, những ảnh hưởng của việc định hướng tới việc
học tập và rèn luyện nghề của SV CTXH. Đồng thời, nhóm tác giả muốn

kiểm nghiệm và bổ sung những kiến thức đã học và tìm ra những quy luật
mới, góp phần phong phú thêm cho hệ thống lý luận xã hội.
- Ý nghĩa thực tiễn
Qua kết quả nghiên cứu thực tế về thực trạng định hướng nghề nghiệp của
SV CTXH – ĐHSPHN, từ đó đề tài sẽ phân tích được những thuận lợi cũng
như khó khăn trong việc định hướng nghề nghiệp của SV CTXH. Việc nghiên
cứu vấn đề định hướng nghề cho SV CTXH không chỉ giúp các bạn SV
CTXH nói chung mà còn giúp chính nhóm tác giả nâng cao nhận thức của
mình về nghề, nâng cao kỹ năng nghiên cứu khoa học trong CTXH, nhóm tác
giả có cơ hội được rèn luyện phương pháp tư duy tiếp cận nghiên cứu những
vấn đề về nghề CTXH. Từ kết quả nghiên cứu thực tế đó, đề tài đưa ra một
số khuyến nghị, giải pháp hợp lí giúp các bạn SV có định hướng đúng đắn về
nghề nghiệp tương lai của mình. Giúp chúng ta yên tâm học tập và rèn luyện
nghề, không ngừng nâng cao vị thế và vai trò của nghề CTXH đối với sự phát
triển của xã hội, của đất nước.
* Đóng góp của đề tài
Đề tài “Định hướng nghề nghiệp cho sinh viên Công tác xã hội ở Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội” không chỉ có đóng góp đối với SV CTXH mà còn
đối với các giảng viên của khoa CTXH, khoa CTXH, trường ĐHSPHN cũng
như các trường đào tạo CTXH khác.
12


Giúp cho SV CTXH - ĐHSPHN có nhận thức đúng đắn về nghề nghiệp và
vị trí việc làm sau khi tốt nghiệp từ đó tự định hướng nghề nghiệp cho mình
một cách đúng đắn, khoa học nỗ lực hết mình học tập đạt kết quả cao và trang
bị kỹ năng cần thiết của nhân viên CTXH trong tương lai.
Đối với giảng viên Khoa CTXH-ĐHSPHN, đề tài giúp các giảng viên hiểu
được thực trạng việc học tập của SV, tâm thế học tập của SV hiện nay ra sao?
Khi có định hướng và khi không có định hướng? Từ đó, giảng viên sẽ có biện

pháp nhất định truyền cảm hứng, giúp SV nhận thức rõ ràng về nghề, hình
thành lòng yêu nghề ở SV.
Đề tài cũng đóng góp cho hệ thống kiến thức nghề nghiệp CTXH của
Khoa CTXH – ĐHSPHN. Đề tài có những đóng góp nhất định về các biện
pháp, cách thức để Khoa và Nhà trường có thể thực hiện tăng cường định
hướng nghề nghiệp cho SV CTXH - một khoa mới thành lập của trường.
Không chỉ đối với SV CTXH- ĐHSPHN mà còn đối với các trường đào
tạo ngành CTXH khác, đề tài nghiên cứu giúp ích cho SV CTXH ở các
trường khác tăng cường định hướng nghề nghiệp cho bản thân từ việc nhìn
nhận thuận lợi và khó khăn của định hướng nghề CTXH. Bổ sung thêm kiến
thức cho SV CTXH về nghề nghiệp đang theo học, đề tài có thể được sử dụng
làm tài liệu tham khảo cho các công trình nghiên cứu có liên quan.

13


10.Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài bao
gồm 3 chương:
Chương I: Một số vấn đề lý luận về Công tác xã hội và định hướng nghề
nghiệp của sinh viên.
Chương II: Thực trạng định hướng nghề nghiệp của sinh viên Công tác xã
hội Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
Chương III: Một số đề xuất nhằm tăng cường định hướng nghề cho sinh
viên Công tác xã hội Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

14


NỘI DUNG

CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI VÀ ĐỊNH
HƯỚNG NGHỀ NGHIỆP CỦA SINH VIÊN
I.
1.

Công tác xã hội
Khái niệm về Công tác xã hội

Trên thế giới có rất nhiều quan điểm về CTXH xuất phát từ những cách
thức, phương pháp, mục đích giải quyết định vấn đề khác nhau.
Hiệp hội Quốc gia các NVXH NASW (Hoa Kỳ) năm 1970 định nghĩa:
“Công tác xã hội là hoạt động mang tính chuyên môn nhằm giúp đỡ những cá
nhân, các nhân hoặc cộng đồng tăng cường hoặc khôi phục năng lực thực hiện
chức năng xã hội của họ và tạo ra những điều kiện thích hợp nhằm đạt được
mục tiêu ấy”.
Theo Joanf Robertson - Chủ nhiệm khoa CTXH, trường ĐH Wisconsin
(Hoa Kỳ): “Công tác xã hội là một quá trình giải quyết các vấn đề hợp lý
nhằm thay đổi theo kế hoạch, hướng tới mục tiêu đã đề ra ở cấp cá nhân, gia
đình, nhóm, tổ chức, cộng đồng và chính sách xã hội”.
Trong “Foundation of Social Work Practice” – Cơ sở thực hành CTXH :
“Công tác xã hội là một khoa học ứng dụng để giúp đỡ mọi người vượt qua
những khó khăn của họ và đạt được một vị trí ở độ phù hợp trong xã hội.
Công tác xã hội được coi là một môn khoa học và những nghiên cứu đã được
chứng minh. Nó cung cấp một lượng có cơ sở thực tiễn và xây dựng những kỹ
năng chuyên môn hóa”.
Định nghĩa về CTXH của Philippin: “Công tác xã hội là một nghề chuyên
môn, thông qua các dịch vụ xã hội nhằm phục hồi, tăng cường mối quan hệ
qua lại giữa cá nhân và môi trường vì nền an sinh của cá nhân và toàn xã hôi”.
Trong “Trung quốc đại bách khoa toàn thư, xã hội học quyển”, các học giả

Trung quốc đã đưa ra định nghĩa: “Công tác xã hội là một sự nghiệp và môn
khoa học chuyên ngành của nhà nước và xã hội để giải quyết và dự phòng
15


những vấn đề nảy sinh do thành viên xã hội thiếu khả năng thích ứng với cuộc
sống xã hội hay mất thăng bằng chức năng xã hội. Tính năng của nó là điều
chỉnh quan hệ xã hội, cải thiện chế độ xã hội, đẩy mạnh xây dựng xã hội, thúc
đẩy sự phát triển ổn định của xã hội thông qua phục vụ xã hội và quản lý xã
hội”.
Theo từ điển bách khoa ngành CTXH: “Công tác xã hội là một khoa học
ứng dụng nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của con người, tạo ra những
chuyển biến xã hội và đem lại nền an sinh cho người dân trong xã hội”.
Năm 2000, tại Đại hội Montreal, Liên đoàn CTXH chuyên nghiệp quốc tế
(IFSW) đã phát triển định nghĩa CTXH theo hướng tiếp cận mới: “Công tác
xã hội chuyên nghiệp thúc đẩy sự thay đổi xã hội, thúc đẩy việc giải quyết các
vấn đề trong các mối quan hệ con người và sự tăng quyền lực và giải phóng
người dân nhằm giúp cho cuộc sống của họ nhằm giúp cho cuộc sống của họ
ngày càng thoải mái và dễ chịu. Vận dụng các lý thuyết về hành vi con người
và hệ thống xã hội, Công tác xã hội can thiệp ở các điểm tương tác giữa con
người và môi trường của họ. Nhân quyền và công bằng xã hội là các nguyên
tắc căn bản của nghề Công tác xã hội”.
Năm 2001, NXB thế giới cho xuất bản cuốn Từ điển xã hội học của hai tác
giả G.Endruweit và G.Tromsmdoorff, đã định nghĩ: “Công tác xã hội là một
dịch vụ đã chuyên môn hóa - một việc giúp đỡ có tính cá nhân để giải quyết
những vấn đề xã hội đặc biệt”.
Năm 2004, Liên đoàn CTXH chuyên nghiệp quốc tế họp ở Canada đã thảo
luận, bổ sung và đưa ra định nghĩa: “Công tác xã hội là hoạt động chuyên
nghiệp nhằm tạo ra sự thay đổi của xã hội, bằng sự tham gia vào quá trình giải
quyết các vấn đề xã hội (vấn đề nảy sinh trong mối quan hệ xã hội) vào quá

trình tăng cường năng lực và giải phóng tiềm năng của mỗi cá nhân, gia đình
và cộng đồng. CTXH đã giúp cho con người phát triển đầy đủ và hài hòa hơn
và đem lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho mọi người dân”.
Những năm gần đây, CTXH được quan tâm phát triển ở Việt Nam. Từ các
16


quan điểm về CTXH trên thế giới kết hợp với điều kiện cụ thể ở Việt Nam.
Các nhà nghiên cứu lý luận và hoạt động thực tiễn CTXH đã xây dựng khái
niệm tổng quát như nhau: “Công tác xã hội là ngành, nghề chuyên nghiệp và
hoạt động thực tiễn mang tính tổng hợp cao, được thực hiện theo các nguyên
tắc và phương pháp chuyên môn đặc thù nhằm hỗ trợ cá nhân, nhóm và cộng
đồng trong việc giải quyết các vấn đề xã hội của họ - qua Công tác xã hội theo
đuổi mục tiêu vì hạnh phúc cho con người và tiến bộ xã hội.”
Theo giáo trình “Nhập môn CTXH” của TH.S Nguyễn Duy Nhiên khoa
CTXH - ĐHSPHN định nghĩa: “Công tác xã hội là hoạt động chuyên nghiệp
được thực hiện dựa trên nền tảng khoa học chuyên ngành nhằm hỗ trợ đối tượng
có vấn đề xã hội (cá nhân, nhóm, cộng đồng) giải quyết vấn đề gặp phải, cải
thiện hoàn cảnh, vươn lên hòa nhập xã hội theo hướng tích cực, bền vững”.
Như vậy, từ các khái niệm và định nghĩa về CTXH nêu trên, có thể hiểu
ngắn gọn về khái niệm CTXH như sau: “Công tác xã hội là một ngành, nghề
nghiệp chuyên môn hoạt động thực tiễn mang tính tổng hợp cao dựa trên nền
tảng khoa học ứng dụng chuyên ngành, giúp đỡ cá nhân, nhóm và cộng đồng
tăng cường, khôi phục chức năng xã hội và tự giải quyết những vấn đề gặp
phải của mình để vươn lên hòa nhập bền vững”.
2.
Đặc trưng của Công tác xã hội
CTXH là một khoa học và là một nghê nghiệp chuyên môn được hình
thành và phát triển lâu dài cùng với quá trình lịch sử nhân loại. Về đặc trưng
của CTXH có các đặc trưng sau:

- Thứ nhất là đặc trưng về đối tượng trợ giúp
Đối tượng cần sự trợ giúp của CTXH rất đa dạng, có hoàn cảnh, trình độ
văn hóa, nhận thức, sinh sống ở nhiều vùng miền khác nhau. Có nhiều cách
phân loại khác nhau về đối tượng trợ giúp của CTXH theo các cách tiếp cận
khác nhau
+Theo nhóm đối tượng có hành vi lệch chuẩn: người nghiện ma túy, người
hành nghề mại dâm, người phạm pháp, người có vấn đề tâm sinh lý – tình dục

17


và các đối tượng tham gia tệ nạn xã hội khác.
+Theo nhóm lứa tuổi đặc thù: trẻ em, thanh niên, người cao tuổi.
+Theo cách tiếp cận là các tổ chức xã hội: tổ chức chính tị - xã hội, tổ chức
đoàn thể quần chúng, các cơ sở bảo trợ và trung tâm lao động trợ giúp, giải
quyết các vấn đề nảy sinh trong mối quan hệ gia đình, trường học, cơ quan,
công sở, đơn vị hành chính trong địa bàn dân cư.
+Theo cách tiếp cận lĩnh vực hoạt động xã hội: lĩnh vực hoạt động kinh tế
sản xuất kinh doanh, lĩnh vực văn hóa – xã hội, lĩnh vực chính trị - xã hội,
lĩnh vực pháp luật, y tế, giáo dục, dân số, môi trường, truyền thông, dân tộc,
tôn giáo, tín ngưỡng.
+Theo nhóm đối tượng thiệt thòi yếu thế: cá nhân, gia đình, nhóm xã hội
có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn về kinh tế, cộng đồng nghèo, kém phát triển,
người khuyết tật, trẻ em bị lạm dụng, bị xâm hại và xao nhãng, trẻ em mồ côi,
trẻ em lang thang và lao động sớm, nạn nhân thiên tai, bệnh tật hiểm nghèo,
chiến tranh, tai nạn, thương tích,…
+CTXH với đối tượng đặc biệt: người có HIV, gia đình và những người
liên quan đến người có HIV/AIDS, người mắc bệnh tâm thần, người phạm
trọng tội đã thành án chung thân hoặc tử hình,…
- Đặc trưng về công cụ tác nghiệp trợ giúp

Hệ thống công cụ, phương tiện, kỹ năng tác nghiệp của CTXH là những
khái niệm mang ý nghĩa trừu tượng nhưng biểu hiện qua hình vi cụ thể. Mỗi
phương pháp tác nghiệp riêng của CTXH đều có một hệ thống công cụ riêng.
Công cụ tác nghiệp trong CTXH cá nhân chủ yếu là những kỹ năng mà NVXH
sử dụng từ chính bản thân mình thông qua sự tương tác với thân chủ. Công cụ
tác nghiệp trong CTXH nhóm chủ yếu là mối quan hệ, sự tương tác giữa các
thành viên trong nhóm thông qua hoạt động nhóm, phát huy sức mạnh của từng
thành viên trong nhóm, sự trợ giúp giữa các thành viên trong nhóm.
NHXH sử dụng các công cụ là các mỗi quan hệ, sự tương tác giữa các
thành viên, hoạt động sinh hoạt nhóm và bầu không khí nhóm. Đó là: lấy hoạt
động nhóm làm nơi thỏa mãn nhu cầu của các thành viên và nhóm; lấy sự
tương tác nhóm và hoạt động nhóm để trị liệu và giải quyết các vấn đề đặt ra
giữa các thành viên; mục đích chung phục vụ mục đích riêng và sự tác động
18


ngược trở lại; lấy ảnh hưởng của nhóm để tạo sự thay đổi hành vi, thái độ
nhận thức của cá nhân.
- Đặc trưng về vai trò về mối quan hệ giữa nhân viên xã hội với đối
tượng tác nghiệp
NVXH đóng vai trờ chủ yếu, là người tổ chức, điều phối, hướng dẫn, định
hướng hoạt động của nhóm qua các giai đoạn và ở những mức độ và vai trò
cụ thể khác nhau. Nhưng ảnh hưởng của NVXH chỉ mang tính gián tiếp,
thông qua tiến trình trợ giúp, các bước lập kế hoạch giải quyết vấn đề đều do
thân chủ tự giải quyết, tự quyết định, NVXH chỉ mang tính chất là người trợ
giúp, hướng dẫn chứ không làm thay, làm cho thân chủ. Vai trò của NVXH sẽ
giảm dần trong quá trình trợ giúp để tạo ra sự chủ động, tác động tích cực
giữa các thành viên.
Mối quan hệ giữa NVXH và đối tượng là mối quan hệ tương tác hai chiều,
phụ thuộc lẫn nhau. Ở phương pháp CTXH cá nhân là mối quan hệ trực tiếp

một - một.
- Các phương pháp tác nghiệp của CTXH có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau
Phương pháp này cần thiết phải có sự tham gia, kết hợp với phương pháp
kia. Trong CTXH nhóm, cần thiết phải sử dụng các kỹ năng của CTXH cá
nhân để làm việc với từng thành viên của nhóm. CTXH nhóm cần tiếp cận cá
nhân trước rồi mới có thể làm việc nhóm. Trong phương pháp tổ chức và phát
triển cộng đồng, ban đầu phải tiếp xúc với nhóm.
3. Các phương pháp Công tác xã hội
Theo giáo trình Nhập môn CTXH của thầy Nguyễn Duy Nhiên Khoa
CTXH – ĐHSPHN. Có 5 phương pháp đặc trưng của CTXH. Đó là phương
pháp CTXH cá nhân; CTXH với nhóm; CTXH tổ chức và phát triển cộng
đồng; Tham vấn; Quản trị CTXH.
CTXH cá nhân là phương pháp khởi đầu, phương pháp can thiệp đầu tiên
và là một trong những phương pháp can thiệp chính thống có vai trò khởi đầu
quan trọng của nghề CTXH chuyên nghiệp. CTXH cá nhân là phương pháp
can thiệp để trợ giúp một cá nhân thoát khỏi những khó khăn trong đời sống
vật chất và tinh thần, chữa trị và phục hồi các chức năng xã hội của họ, giúp
19


họ tự nhận thức và giải quyết các vấn đề xã hội gặp phải bằng khả năng của
mình.
Ở Việt Nam, sự ra đời và phát triển CTXH vận động theo quy luật chung
của sự hình thành và phát triển CTXH trên thế giới: từ nhân đạo, từ thiện trở
thành khoa học, phương pháp trợ giúp xã hội và nghề nghiệp chuyên môn.
Đặc trưng của phương pháp CTXH cá nhân là phương pháp mà người làm
CTXH vận dụng lý thuyết, các cách tiếp cận, các kỹ năng chuyên nghiệp để
tác nghiệp với đối tượng dựa trên mối quan hệ trực tiếp, sự tương tác hai
chiều nhằm hỗ trợ đối tượng nhận diện vấn đề của mình, đánh giá tiềm năng,

kết hợp những yếu tố trợ giúp từ bên ngoài để giải quyết vấn đề, vượt qua
khó khăn, vươn lên trong cuộc sống
CTXH nhóm là sự vận dụng những kỹ năng chuyên nghiệp dựa trên nền
tảng lý thuyết về sự hình thành, vận động, mối quan hệ tương tác, tâm lý, nhu
cầu, hành động nhóm để can thiệp, hỗ trợ những nhóm xã hội yếu thế, có
chung một hay một số mục đích nhằm thay đổi nhận thức, hành vi, khai thác,
phát huy tiềm năng, tăng cường năng lực giải quyết các vấn đề xã hội gặp
phải của từng thành viên trong nhóm và của cả nhóm. Là phương pháp làm
việc nhóm hay thông qua nhóm đã hình thành từ rất lâu đời trong tiến trình
lịch sử nhân loại. Theo giáo trình CTXH nhóm của thầy Nguyễn Duy Nhiên
khoa CTXH – ĐHSPHN có 3 giai đoạn hình thành và phát triển của CTXH
nhóm như sau:
+ Giai đoạn khởi đầu – phát hiện, đặt nền móng và thực nghiệm thể hiện
giá trị (từ cuối thế kỷ XIX đến những năm năm 1930). CTXH nhóm hình
thành như một loại hình DVXH nhằm trợ giúp những người yếu thế trong xã
hội gắn liền với hoạt động của tôn giáo, đặc biệt là nhà thờ. CTXH nhóm ở
giai đoạn này chỉ dừng lại ở các hoạt động tình nguyện và mang đậm tính
chất, màu sắc tôn giáo. Ở giai đoạn này, chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ,
nền sản xuất công nghiệp không ngừng phát triển, kéo theo đó điều kiện kinh
20


tế - xã hội cũng có những chuyển biến nhất định, bên cạnh đó các tệ nạn xã
hội, ảnh hưởng tiêu cực cũng ngày càng nhiều hơn đó là có những nhóm
người nghèo khổ, bất hạnh, bệnh tật, thiếu thốn các dịch vụ xã hội và các nhu
cầu cơ bản,.. những khó khăn và thiếu thốn đó đã đặt ra yêu cầu cần giải
quyết, trợ giúp không chỉ với cá nhân mà là những nhóm người. Tình trạng đó
đã thúc đẩy sự hình thành và ra đời của nhóm hoạt động từ thiện trợ giúp
nhóm yếu thế. Các hoạt động của nhóm chưa mang tính chuyên nghiệp nhưng
phần nào thể hiện bản chất của một phương pháp tác nghiệp, trợ giúp mới –

CTXH nhóm.
+Giai đoạn 2: Thời kỳ hình thành cơ sở khoa học của CTXH nhóm (1930
– 1950). Từ hoạt động của các nhóm tình nguyện đã đặt ra yêu cầu hình thành
phương pháp chuyên nghiệp hơn cho các hoạt động đó, mở rộng và phát triển
hơn phương pháp CTXH cá nhân. Quá trình hoạt động lâu dài, đem lại những
giá trị tốt đẹp cho cộng đồng, xã hội, cải thiện cuộc sống, CTXH nhóm dần
dần định hình về phương pháp tác nghiệp và cơ sở khoa học. Những cơ sở
khoa học đó là nền tảng, định hướng, trang bị và rèn luyện phương pháp, kỹ
năng dựa trên hệ thống kiến thức, lý thuyết và những nguyên tắc xác định.
Những yếu tố này đã đặt nền móng và thúc đẩy khoa học về CTXH nhóm
phát triển mạnh mẽ ở giai đoạn tiếp theo.
+ Giai đoạn 3: Thời kỳ CTXH nhóm định hình và phát triển (từ những
năm 1950 đến nay). Việc xác lập cơ sở khoa học, sự thể hiện trong thực tiễn
và đặc biệt là sự công nhận của xã hội đối với phương pháp CTXH nhóm,
nhất là những khóa đào tạo, huấn luyện chuyên nghiệp là những nhân tố quyết
định đến vị trí, vai trò và sự phát triển của CTXH nhóm. Một số nước trên thế
giới đã chú trọng đến phương pháp CTXH nhóm vào ứng dụng rộng rãi trong
đời sống đối với việc tham gia góp phần giải quyết các vấn đề xã hội. Về hình
thức tiếp cận, CTXH nhóm được xây dựng theo bốn mô hình dựa trên nhu cầu
định hướng mục tiêu can thiệp, trợ giúp khác nhau, đó là mô hình phòng
chống và phục hồi, mô hình tương tác, mô hình các mục tiêu xã hội, mô hình
21


lồng ghép. CTXH nhóm ngày nay đóng vai trò quan trọng trong việc thực
hiện chức năng giải quyết vấn đề xã hội, và đang được ứng dụng rộng rãi phổ
biến ở hầu khắp các nước trên thế giới và ở nhiều lĩnh vực khác nhau .
CTXH nhóm là phương pháp mà người làm CTXH chỉ đóng vai trò là chất
xúc tác, hướng dẫn, tổ chức sinh hoạt nhóm để chính thành viên trong nhóm
có sự tương tác lẫn nhau và dùng mối quan hệ đó làm công cụ chính để nhận

diện và tự giải quyết vấn đề của cá nhân trong nhóm hay của nhóm đó. CTXH
nhóm cụ thể được đánh giá là thành công khi chính thành viên trong nhóm
nhận thức được vai trò và trách nhiệm của mình, nỗ lực giải quyết vấn đề
chung, tạo ra sự chuyển biến tích cực trong nhóm.
CTXH nhóm sử dụng một hệ thống lý thuyết hỗ trợ nghiên cứu, ứng dụng
thực hành CTXH nhóm bao gồm:
+Thuyết hệ thống là một lý thuyết sinh học cho rằng mọi tổ chức hữu cơ
đều là những hệ thống, được tạo nên từ các tiểu hệ thống và ngược lại cũng là
một phần của hệ thống lớn hơn. Nghiên cứu thuyết hệ thống có ý nghĩa đặc
biệt với CTXH nhóm, giúp cho NVXH hiểu và xác định nhóm là một hệ
thống của các yếu tố tương tác với nhau. Nó cung cấp mô hình lý thuyết để
đưa ra được các phương pháp, cách thức giải quyết vấn đề của con người
trong cuộc sống. Thuyết hệ thống giúp hiểu sâu sắc hơn các mối tương tác của
của con người, nguyên nhân của vấn đề.
+Thuyết động năng tâm lý giải thích động năng tâm lý về hành vi con
người được xây dựng dựa trên giả thuyết rằng rất nhiều vấn đề của con người
và những rối loạn chức năng bắt nguồn từ những trải nghiệm thời niên thiếu
dẫn đến hủy hoại các giai đoạn phát triển bình thường về nhân cách của một
con người. Vận dụng lý thuyết này vào CTXH, cho thấy đối tượng thường lặp
đi lặp lại về hành động và cảm xức thời niên thiếu với một người rất quan
trọng trong cuộc đời họ. Từ đó NVXH sẽ tái tạo các tình huống của một nhóm
nào đó trong quá khứ.
+Thuyết học tập xã hội được vận dụng trong CTXH vì dựa trên quan điểm
22


nhiều người học tập hành vi của người khác và hành vi này sẽ được củng cố
nếu được lặp lại nhiều lần khi có sự khích lệ hoặc không bị chỉ trích, phê
phán. NVXH cần lưu ý sử dụng kỹ năng để khuyến khích những hành vi được
coi là tích cực và phân tích giúp nhóm nhận ra đi đên thực hành, tránh lặp lại

những hành vi không phù hợp.
+Thuyết thực nghiệm xã hội giúp NVXH trong CTXH nhóm điều phối và
hỗ trợ nhóm đối tượng hiểu được những tương tác trong nhóm và chỉ ra đâu là
những yếu tố cốt lõi cần can thiệp. Sự tồn tại, hoạt động của nhóm phải được
xây dựng với tư cách một thực thể không thể tách rời với những hoạt động
tương tác, ảnh hưởng nhóm vào hỗ trợ các đối tượng thay đổi hành vi chưa tốt
sang hành vi tốt.
+Thuyết trao đổi xã hội ứng dụng trong CTXH nhóm là đưa ra quan điểm
thành viên trong nhóm quan hệ tương tác với nhau thông qua sự trao đổi và
dựa trên ý niệm về sự công bằng. Khi nhận thức được sức mạnh của lợi ích cá
nhân trong các cơ hội lựa chọn của đối tượng cũng như các hành vi của họ sẽ
tăng tính chính xác trong việc đánh giá, vì vậy tăng hiệu quả can thiệp.
Bên cạnh đó còn một số thuyết khác ứng dụng trong CTXH nhóm như
thuyết lãnh đạo, thuyết xung đột xã hội, thuyết vai trò.
CTXH tổ chức và phát triển cộng đồng với đối tượng tác nghiệp của
phuong pháp này là cộng đồng người, thường sinh sống trên địa bàn dân cư
có những đặc điểm kinh tế, xã hội, văn hóa tương đồng,.. có vấn đề xã hội.
Mục đích: Thông qua việc nhận diện vấn đề của cộng đồng, đánh giá
nguồn lực, khai thác và phát huy tiềm năng của cộng đồng từ đó tổ chức hoạt
động thực thi những chương trình hành động mang lại những chuyển biến tích
cực cho cộng đồng.
Phương pháp tác nghiệp tổ chức và phát triển cộng đồng là huy động
nguồn nội lực, có sự tham gia của nhà nước hoặc các nguồn lực hỗ trợ từ bên
ngoài, để cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống dân cư, tăng cường khả
23


năng tự lực của cộng đồng trong việc giải quyết vấn đề của mình. Khi thực
hiện phương pháp CTXH với cộng đồng, nhân viên phát triển cộng đồng xã
định vấn đề gặp phải, phân tích tìm ra nguyên nhân của những vấn đề xã hội

của cộng đồng, giữa cộng đồng và các cơ quan chức năng, thông qua các
chương trình, dịch vụ để tiến hành các hoạt động làm thay đổi, chuyển biến
tích cực cộng đồng.
Tham vấn trong CTXH là quá trình tương tác giữa người làm CTXH với
đối tượng (cá nhân, gia đình, nhóm và cộng đồng), thông qua việc sử dụng
kiến thưc và các kỹ năng chuyên nghiệp, người làm CTXH sẽ nhận diện, tìm
hiểu, xác định vấn đề của đối tượng, đánh giá hoàn cảnh, tiềm năng, hỗ trợ
đối tượng ra quyết định, lập kế hoạch hành động để giải quyết vấn đề gặp
phải. Tham vấn được coi như một khâu, một giai đoạn trong tiến trình hỗ trợ,
giải quyết vấn đề của đối tượng. Kết quả của quá trình tham vấn được sử dụng
như một yếu tố tư liệu quan trọng trong toàn bộ tiến trình trợ giúp, ra quyết
định, lập kế hoạch giải quyết vấn đề của đối tượng.
Quản trị CTXH là một lĩnh vực của CTXH, là một phương pháp thực
hành nhằm triển khai và cung cấp dịch vụ CTXH trong xã hội. Quản trị
CTXH đòi hỏi phải được thực hiện một cách khoa học, những người làm quản
trị phải được đào tạo chuyên môn và có đầy đủ phẩm chất năng lực Bởi các
phương pháp và hoạt động cụ thể của CTXH có hiệu quả hay không, phụ
thuộc rất lớn vào việc quản trị.
II.

Định hướng nghề nghiệp

1. Khái niệm nghề nghiệp, định hướng nghề nghiệp
1.1 Nghề, nghề nghiệp, việc làm, chuyên môn
Theo TĐTV (Nguyễn Như Ý chủ biên, NXB Văn hóa thông tin-1998):
“Nghề là công việc chuyên làm theo sự phân công lao động của xã hội” [tr676].
Theo TĐTV (Văn Tân chủ biên, NXB Khoa học xã hội-1991): “Nghề nghiệp là
công việc hàng ngày làm để sinh nhai hay làm để mưu sống” [25,tr736]. Nghề là

24



một thuật ngữ chỉ một hình thức lao động trong xã hội, mà ở đó con người sử
dụng sức lao động của mình để tạo ra những sản phẩm vật chất, phi vật chất cho
xã hội, mỗi cá nhân thông qua nghề của mình để duy trì sự tồn tại của cá nhân,
gia đình, đồng thời góp sức mình vào sự phát triển của xã hội.
Theo tác giả Nguyễn Quang Huỳnh: “Nghề là hoạt động lặp đi lặp lại của
người lao động nhằm hoàn thành những nhiệm vụ nhất định do sự phân công
lao động xã hội quy định” [16].
Theo GS.TSKH Nguyễn Văn Hộ: “Nghề nghiệp như là một dạng lao động
vừa mang tính xã hội (sự phân công lao động xã hội) vừa mang tính cá nhân
(nhu cầu bản thân), trong đó con người với tư cách là chủ thể hoạt động đòi
hỏi để thỏa mãn như cầu nhất định của xã hội và cá nhân” [21].
Theo E.A.Klimop “Nghề nghiệp là một lĩnh vực sử dụng sức lao động vật
chất, tinh thần của con người một cách có giới hạn cần thiết cho xã hội (do sự
phân công mà có) nó tạo ra kỹ năng cho người sử dụng lao động của mình để
thu lấy những phương tiện cần thiết cho sự tồn tại và phát triển”[8,tr10].
Nghề theo chữ Latinh (profession) có nghĩa là công việc chuyên môn được
hình thành một cách chính thống, là dạng lao động đòi hỏi một trình độ học
vấn nào đó, là hoạt động cơ bản giúp con người tồn tại.
Từ một số quan điểm về nghề nghiệp nêu trên, có thể hiểu ngắn gọn khái
niệm: Nghề nghiệp là hoạt động chủ yếu của con người, được đào tạo đặc biệt
có tính chuyên môn, ổn định, lâu dài và có thu nhập nhằm đảm bảo cho cuộc
sống của cá nhân và sự phát triển của xã hội.
Cùng với khái niệm nghề nghiệp là khái niệm việc làm. Việc làm Theo
TĐTV được hiểu là “cái phải làm, cái phải làm, cái phải lo đến, cái làm hàng
ngày để sinh sống” (25,tr1166). Theo TĐTV (Hoàng Phê chủ biên, NXB Khoa
học xã hội-1994): “Việc làm là công việc được giao cho làm và trả công”.
Trong Luật Lao động quy định tại điều 13: “Mọi hoạt động lao động tạo ra
nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhân là việc làm”.

Chuyên môn: Theo TĐTV: “Chuyên môn là nói một ngành hay một người

25


×