Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

tiểu luận XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.6 KB, 31 trang )

2

MỞ ĐẦU
Trong xã hội hiện đại, việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp
quyền đang trở thành một xu thế tất yếu khách quan đối với mọi quốc gia, dân
tộc trên thế giới. Với Việt Nam, việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa đáp ứng yêu cầu công cuộc đổi mới cũng không nằm
ngoài quỹ đạo chung đó. Khái niệm “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”
lần đầu tiên được Đảng ta chính thức sử dụng trong Văn kiện Hội nghị đại
biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994) và tiếp tục được bổ sung, hoàn
thiện qua các kỳ đại hội tiếp theo.
Thực tiễn sau gần bảy mươi bảy năm xây dựng và phát triển, dưới sự
lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta đã thể hiện rõ những phẩm chất và đặc trưng
của một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân. Đó là một nhà nước hợp hiến, hợp pháp, được xây
dựng, tổ chức và hoạt động trên cơ sở những quy định của hiến pháp, pháp luật
và vận hành trong khuôn khổ hiến pháp, pháp luật. Hiến pháp và hệ thống pháp
luật của chúng ta ngày càng được xây dựng, bổ sung và hoàn thiện để không
những đáp ứng kịp thời những yêu cầu phong phú và sinh động của công cuộc
đổi mới toàn diện đất nước mà còn để phù hợp với hệ thống công ước, thông lệ
và pháp luật quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng
sâu rộng của đất nước. Tuy nhiên, trong bối cảnh mới, trước những yêu cầu,
nhiệm vụ mới, để đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển của đất nước trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi Nhà nước ta cần có những
bước phát triển mới vừa sâu sắc, vừa toàn diện.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam vừa là
quá trình lâu dài, vừa là vấn đề cấp bách trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
Vậy, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
được dựa trên những cơ sở khoa học nào? Phương hướng, giải pháp xây dựng ra
sao? đang là vấn đề mang tính thời sự nóng hổi cần phải nghiên cứu làm rõ.



3

1. Sự cần thiết phải xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1.1. Những quan điểm, tư tưởng cơ bản về Nhà nước pháp quyền và
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
* Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền trong lịch sử
- Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền trong thời kỳ cổ đại
+ Ở phương Tây: các nhà tư tưởng đại diện: Đêmôcrít, Xôcrát,
Platôn, Arixtốt, Xixêrôn, Xôlông... Những tư tưởng chính về Nhà nước
pháp quyền thời kỳ này mới bắt đầu hình thành, tuy nhiên đã thể hiện rõ
những tư tưởng cơ bản về vai trò của pháp luật và mối quan hệ giữa pháp
luật với nhà nước và nhân dân. Các nhà tư tưởng thời kỳ này đều thấy được
vai trò quan trọng của pháp luật trong việc duy trì trật tự của các thành
bang, pháp luật là chỗ dựa cho việc cai trị xã hội. Đưa ra cách lý giải về sự
công bằng, công lý, dân chủ và thừa nhận pháp luật xuất phát từ nhà nước,
nhưng pháp luật phải tuân thủ quyền tự nhiên của con người.
Có thể coi Xôlông (638 - 559 TCN) là người đầu tiên nêu ý tưởng về
nhà nước pháp quyền khi ông chủ trương cải cách nhà nước bằng việc đề
cao vai trò của pháp luật. Theo ông chỉ có pháp luật mới thiết lập được trật
tự và tạo nên sự thống nhất; nhà nước và pháp luật là hai công cụ để thực
hiện dân chủ, tự do và công bằng và vì vậy, "hãy kết hợp sức mạnh (quyền
lực nhà nước) với pháp luật".
Xôcrát (469 - 399 TCN) quan niệm về công lý trong sự tuân thủ pháp
luật. Theo ông, xã hội không thể vững mạnh và phồn vinh nếu các pháp luật
hiện hành không được tuân thủ, giá trị của công lý (pháp luật) chỉ có được
trong sự tôn trọng pháp luật. Ông cho rằng công lý được thể hiện trong các văn
bản do nhà nước ban hành; sự công minh và sự hợp pháp là một; nếu không có
sự tuân thủ pháp luật thì không có nhà nước và không có trật tự xã hội.



4

Đêmôcrít (460 - 370 TCN) cho rằng, đạo đức cao nhất trong xã hội
là công lý sống theo pháp luật; đạo đức là pháp luật cao nhất, còn pháp
luật là đạo đức thấp nhất.
Platon (427 - 374 TCN) phát triển ý tưởng về sự tôn trọng pháp luật
ở một góc độ khác - từ phía nhà nước. Theo ông, tinh thần thượng tôn pháp
luật phải là nguyên tắc, bản thân nhà nước và các nhân viên nhà nước phải
tôn trọng pháp luật; nhà nước sẽ suy vong nếu pháp luật không còn hiệu
lực hoặc chỉ phụ thuộc vào chính quyền; ngược lại, nhà nước sẽ hồi sinh
nếu có sự ngự trị của pháp luật và những nhà chức trách coi trọng nguyên
tắc thượng tôn pháp luật. Theo Platon nhà nước lý tưởng là nhà nước được
cầm quyền bằng sự thông thái và tòa án đóng vai trò hết sức quan trọng, ở
đâu pháp luật không còn sức mạnh, hoặc bị đặt dưới quyền của một ai đó, ở
đó nhà nước sẽ bị diệt vong. Nhà nước sẽ không tồn tại nếu như trong nhà
nước tòa án không được tổ chức một cách thỏa đáng.
Aristôt (384 - 322 TCN) bổ sung khía cạnh mới về mối quan hệ giữa
chính trị và pháp luật (chính trị được hiểu theo nghĩa là nhà nước). Theo ông,
cần thiết phải có sự phù hợp giữa chính trị và pháp luật, vì vậy, việc đề cao
pháp luật phải gắn với cơ chế, hệ thống các cơ quan thực thi quyền lực nhà
nước. Tuy Aristôt chưa đưa ra được lý thuyết về phân quyền nhưng ông đã
nêu ý tưởng về sự cần thiết phải tổ chức nhà nước một cách quy củ để bảo
đảm sự công bằng của pháp luật: “Nhà nước nào cũng phải có cơ quan làm ra
luật, cơ quan thực thi pháp luật và toà án”.
Xixêrôn (106 - 43 TCN) tiếp tục phát triển ý tưởng của Aristôt đến
trình độ cao hơn, ông đưa ra quan niệm mới về nhà nước, coi nhà nước là
"một cộng đồng pháp lý", "một cộng đồng được liên kết với nhau bằng sự
nhất trí về pháp luật và quyền lợi chung" và đề xuất nguyên tắc: "Sự phục

tùng pháp luật là bắt buộc đối với tất cả mọi người". Theo ông, pháp luật là


5

công cụ của nhà nước, là vũ khí của nhân dân, pháp luật bảo vệ nhân dân,
nhân dân có trách nhiệm bảo vệ pháp luật.
+ Ở phương đông: tư tưởng về nhà nước pháp quyền xuất hiện đầu tiên
ở Trung Quốc cổ đại, vào cuối thời Xuân Thu, đầu thời Chiến Quốc với người
khởi xướng là Quản Trọng, sau đó được Tử Sản, Thương Uởng, Thận Đáo,
Thân Bất Hại, Hàn Phi Tử … bổ sung và phát triển. Người đời sau gọi đó là
tư tưởng pháp trị và trường phái tư tưởng này được gọi là “Pháp gia”. Tuy
chủ trương chung là dùng pháp luật để trị nước, song các nhà tư tưởng thuộc
pháp gia có những ý kiến không thống nhất.
Thương Ưởng (390 - 338 TCN) đứng đầu nhóm duy pháp, cho rằng,
“pháp luật” là yếu tố quan trọng nhất; bởi vì: nếu pháp luật đầy đủ, nghiêm minh
thì nước mạnh, nếu pháp luật thiếu, yếu, lỏng lẻo thì nước yếu. Thận Đáo (370 290 TCN) nhấn mạnh tầm quan trọng của “thế” nghĩa là coi trọng địa vị, uy tín,
trình độ của những người nắm pháp luật mà cụ thể là Vua và hệ thống quan lại.
Thân Bất Hại (401 - 337 TCN) khẳng định, “thuật” (phương pháp, sách lược) là
nhân tố có tầm quan trọng trong đường lối trị nước đó là thuật bổ nhiệm quan lại
dựa trên chính danh, trên nhu cầu thực tế, thuật giám sát và thưởng phạt dựa trên
nguyên tắc “theo danh mà trách thực”, “theo việc mà trách công” quan lại phải
chịu trách nhiệm và bổn phận về việc mình làm, không đổ lỗi cho người khác,
cho hoàn cảnh, không trốn tránh trách nhiệm.
Với tư cách là đại biểu điển hình, là linh hồn của pháp gia, Hàn Phi Tử
(khoảng 280 - 233 TCN) đã tiếp thu điểm ưu trội của ba trường pháp “pháp”,
“thuật”, “thế” để xây dựng và phát triển một hệ thống lý luận pháp trị tương đối
hoàn chỉnh và tiến bộ so với đương thời. Coi pháp luật là công cụ hữu hiệu để
đem lại hoà bình, ổn định và công bằng, Hàn Phi đã đề xuất tư tưởng dùng luật
pháp để trị nước. Ông đưa ra một số nguyên tắc cơ bản trong xây dựng và thực

thi pháp luật, như pháp luật phải nghiêm minh, không phân biệt sang hèn, mọi


6

người đều bình đẳng trước pháp luật... Với những tư tưởng đó, học thuyết của
Hàn Phi được người xưa gọi là “học thuyết của đế vương”.
Tư tưởng Pháp gia đã có ảnh hưởng sâu rộng về phương diện thực tiễn
trong xã hội Trung Quốc đương thời, tuy còn những hạn chế nhất định, song
tư tưởng pháp trị của Pháp gia đã tạo tiền đề lý luận cho việc hình thành tư
tưởng về nhà nước pháp quyền của nhân loại về sau.
Có thể thấy, ở thời kỳ cổ đại, các nhà tư tưởng tuy có sự tiếp cận
khác nhau và có những ý tưởng, quan niệm khác nhau về nhà nước pháp
quyền nhưng tựu trung đều cổ vũ cho việc đề cao pháp luật và xây dựng
nhà nước hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật công bằng. Những ý
tưởng đó có ảnh hưởng rất lớn tới việc hình thành và phát triển các lý
thuyết về tính tối cao của pháp luật, về phân chia quyền lực nhà nước và về
nhà nước pháp quyền nói chung…
- Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền trong thời kỳ trung và cận đại
Thời kỳ này tư tưởng về Nhà nước pháp quyền đã phát triển khá toàn
diện. Các nhà tư tưởng đại diện bao gồm: Lốccơ, Môngtexkiơ, Kant, Hêghen...
Những tư tưởng chính về Nhà nước pháp quyền thời kỳ này bao gồm: việc thừa
nhận quyền con người và quyền đó phải được thể chế và bảo đảm bằng pháp
luật. Đồng thời khẳng định rõ nguồn gốc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Quyền lực nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc phân quyền (tam quyền phân
lập), dùng quyền lực để kiểm soát quyền lực. Nhà nước phải được tổ chức và
hoạt động trong khuôn khổ pháp luật.
J.Lốccơ (1632 - 1704) nhà tư tưởng người Anh, đại diện tiêu biểu cho
trường phái “Pháp luật tự nhiên”, cho rằng ở đâu không có pháp luật ở đó
không có tự do, ông cũng là người đầu tiên đưa ra tư tưởng về quan hệ giữa

nhà nước và nhân dân, đó là; “mỗi cá nhân được phép làm tất cả những gì
pháp luật không cấm”, ngược lại “nhà nước cấm không được làm gì mà pháp


7

luật không cho phép”. Điểm nổi bật trong tư tưởng J.Lốccơ là sự phân chia
quyền lực nhà nước, trong đó chủ quyền nhân dân là nền tảng bảo đảm cho sự
tồn tại của nhà nước, việc điều hành nhà nước phải dựa trên các đạo luật do
nhân dân tuyên bố và biết rõ về chúng. Chủ quyền nhân dân cao hơn chủ
quyền nhà nước do họ thành lập.
Môngtexkiơ (1689 - 1755) nhà tư tưởng người Pháp tiếp tục phát triển tư
tưởng phân chia quyền lực trong tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước, cho
rằng nếu quyền lập pháp và hành pháp nằm trong tay một người hoặc một cơ
quan, cũng như khi quyền tư pháp không tách khỏi hai nhánh quyền lực kia sẽ
không có tự do, còn nếu quyền tư pháp hợp nhất với quyền hành pháp thì tòa
án sẽ có khả năng trở thành kẻ đàn áp và tất cả sẽ bị hủy diệt nếu như quyền lực
nằm trong tay một người hay một cơ quan hợp nhất cả ba quyền này.
Kant (1724 - 1804) nhà triết học người Đức cho rằng, Nhà nước pháp
quyền là sự hợp nhất của xã hội, trong đó mọi người biết phục tùng các đạo
luật được xây dựng theo ý chí của nhân dân. Ông ủng hộ cao việc áp dụng
nguyên tắc phân chia quyền lực nhà nước, theo ông ở đâu có phân quyền thì ở
đó có Nhà nước pháp quyền, nếu không thì chỉ là nhà nước chuyên quyền nơi ý chí của cá nhân có thể quyết định tất cả. Vì vậy, chủ quyền phải thuộc
về nhân dân, nhân dân là người lập ra nhà nước, quyền lực nhà nước là thuộc
về nhân dân không thuộc về một cá nhân hay tập đoàn nào.
Hêghen (1770 - 1831) nhà triết học người Đức tìm kiếm mô hình Nhà
nước pháp quyền xung quanh việc giải quyết quan hệ giữa Nhà nước pháp
quyền với công dân, theo ông đây là hai vấn đề có quan hệ mật thiết với nhau
không thể tách rời, trong đó mọi công dân đều bình đẳng về quyền và nghĩa
vụ theo quy định của pháp luật, công dân thực hiện nghĩa vụ của mình đối với

nhà nước, ngược lại nhà nước thông qua việc xây dựng pháp luật mà bảo đảm
các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.


8

Có thể thấy, ở thời kỳ trung và cận đại, các nhà tư tưởng lý luận tuy
có những cách tiếp cận khác nhau và còn hạn chế về thế giới quan, nhưng
đều đề cập đến vai trò, vị trí, mối quan hệ giữa nhà nước và pháp luật, đều
thống nhất cho rằng: nhà nước phải tuân theo pháp luật, đặt mình dưới
pháp luật; pháp luật phải phản ánh được lợi ích và ý chí chung của nhân
dân; bảo đảm mọi quyền bình đẳng trước pháp luật mới bảo đảm được tự
do, dân chủ và chủ quyền của nhân dân.
- Đặc trưng của Nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng nhân loại
Nhìn chung, lý luận về Nhà nước pháp quyền là hệ thống các quan
điểm, tư tưởng rất phức tạp, phong phú và có nhiều cách tiếp cận khác
nhau, nhưng nghiên cứu về tư tưởng Nhà nước pháp quyền trong lịch sử
tư tưởng nhân loại có thể khái quát những đặc trưng cơ bản của Nhà nước
pháp quyền như sau:
Thứ nhất, Nhà nước pháp quyền là tổ chức chính trị của Nhân dân, bảo
đảm chủ quyền của Nhân dân.
Thứ hai, Nhà nước pháp quyền là nhà nước tôn trọng pháp luật, bảo
đảm tính tối cao của hiến pháp và pháp luật trong đời sống xã hội, trong đó
Hiến pháp, pháp luật phải phản ánh ý chí chung của Nhân dân, lợi ích
chung của xã hội.
Thứ ba, Nhà nước pháp quyền công nhận, tôn trọng thực hiện và bảo vệ
quyền công dân. Tức là nhà nước pháp quyền tư sản không chỉ công nhận và
tuyên bố các quyền tự do dân chủ của công dân mà còn phải bảo đảm thực hiện
và bảo vệ khi các quyền đó bị xâm hại. Tự do của một người là được làm những
gì pháp luật không cấm trong khuôn khổ không xâm phạm đến tự do của người

khác. Pháp luật chỉ cấm những gì có hại cho xã hội.
Thứ tư, Nhà nước pháp quyền là nhà nước chịu trách nhiệm trước
công dân về những hoạt động của mình, còn công dân phải thực hiện các


9

nghĩa vụ đối với nhà nước và chịu trách nhiệm pháp lý về những hành vi vi
phạm pháp luật của mình.
Thứ năm, Nhà nước pháp quyền phải có hình thức tổ chức quyền lực
nhà nước thích hợp và có cơ chế giám sát sự tuân thủ pháp luật, xử lý các vi
phạm pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thực hiện.
Theo các nhà tư tưởng của Nhà nước pháp quyền, hình thức tổ chức
quyền lực nhà nước thích hợp trong Nhà nước pháp quyền là phân chia và
kiểm soát lẫn nhau giữa ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp (tam quyền
phân lập). Nói cách khác, Nhà nước pháp quyền phải bảo đảm tính pháp quyền
của các thiết chế quyền lực nhà nước mà người chủ của nó là nhân dân và xác
lập sự tôn trọng hiến pháp (xây dựng Hiến pháp và chế độ bảo hiến).
Thứ sáu, Nhà nước pháp quyền là nhà nước bảo đảm sự độc lập của tòa
án và tính dân chủ, minh bạch của pháp luật. Bởi vì muốn bảo đảm sự tuân
thủ pháp luật, xử lý nghiêm mọi vi phạm vi phạm pháp luật, phải bảo đảm
sự độc lập của tòa án và tính chất dân chủ, minh bạch của pháp luật.
Đây là những đặc trưng ưu việt hơn hẳn nhà nước phong kiến trong lịch
sử hình thành phát triển các kiểu nhà nước.
* Nhà nước pháp quyền dưới chủ nghĩa tư bản
Quá trình hiện thực hóa nhà nước pháp quyền ở các nước tư bản chủ
nghĩa đã điễn ra trong nhiều thập kỷ qua, nhưng cho đến nay không phải mọi
quan niệm, mọi đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền đã được hiện thực
hóa đầy đủ và triệt để trong các nước tư bản chủ nghĩa hiện đại.
Tuy có một số quan niệm chung về vị trí, vai trò, đặc trưng của nhà

nước pháp quyền, nhưng thực tế lịch sử cho thấy quá trình xây dựng nhà nước
pháp quyền ở các nước tư bản chủ nghĩa đã diễn ra khá đa dạng, không đồng
đều, không thuần nhất cả về mô hình thể chế, phương thức tổ chức, cơ chế
vận hành. Sự không thuần nhất đó một mặt là do sự biến đổi vị trí, tính chất,


10

vai trò lịch sử của giai cấp tư sản cầm quyền. Sự biến đổi này quy định
những hạn chế lịch sử của giai cấp tư sản trong tổ chức, xây dựng nhà nước
pháp quyền; đặc biệt là hạn chế vai trò của nhân dân, thực hiện dân chủ hạn
hẹp trong sự thống trị của giai cấp tư sản. Mặt khác, do những đặc điểm lịch
sử cụ thể của mỗi nước tư bản chủ nghĩa, truyền thống lịch sử, trình độ phát
triển kinh tế - xã hội, đặc điểm cơ cấu xã hội - giai cấp, tương quan so sánh
lực lượng giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội, đặc điểm tâm lý dân tộc... mà
quy định sự đa dạng trong mỗi nhà nước tư sản.
Những đặc điểm cơ bản của Nhà nước pháp quyền tư sản
Tuy có sự đa dạng về mô hình thể chế, phương thức tổ chức, cơ chế vận
hành, xong các nhà nước pháp quyền tư sản đều có chung những đặc trưng cơ
bản là: trong nhà nước pháp quyền tư sản nhân dân là chủ thể của quyền lực
nhà nước; hệ thống pháp luật đầy đủ; quyền con người, quyền công dân được
pháp luật ghi nhận; luật chiếm vị trí tối thượng trong đời sống của nhà nước
và xã hội; tổ chức nhà nước theo nguyên tắc phân chia quyền lực, dùng quyền
lực để kiểm tra và giám sát quyền lực; nhà nước pháp quyền gắn bó mật thiết
với xã hội công dân (xã hội dân sự); vai trò lãnh đạo của các đảng phái chính
trị đối với nhà nước.
Những đặc điểm mới của nhà nước pháp quyền tư bản chủ nghĩa hiện
đại, bao gồm:
Một là, có xu hướng tuyệt đối hóa vai trò quản lý xã hội bằng pháp luật:
cả nhà nước và công dân đều có xu hướng sử dụng thuần túy kênh pháp luật

để điều chỉnh các quan hệ xã hội và bảo vệ lợi ích của mình, ít chú ý tới các
kênh đạo đức, tình thương và trách nhiệm của cá nhân cũng như cộng đồng.
Hai là, các chính đảng có vai trò rất lớn trong tổ chức, xây dựng nhà
nước pháp quyền: các chính đảng của giai cấp tư sản cầm quyền ở các nước
tư bản chủ nghĩa hiện đại dù khác nhau về hình thức tổ chức, xu hướng chính


11

trị, cơ sở xã hội - giai cấp... song đều nắm giữ quyền tổ chức, xây dựng và sử
dụng nhà nước pháp quyền như một công cụ chủ yếu trong bảo vệ lợi ích của
giai cấp thống trị và quản lý, điều hành xã hội.
Ba là, có xu hướng bảo lưu các đặc điểm riêng về mô hình thể chế, về
phương thức tổ chức, xây dựng và sử dụng nhà nước pháp quyền phù hợp với
đặc điểm lịch sử cụ thể của mỗi nước tư bản chủ nghĩa.
Bốn là, vai trò cơ quan hành pháp được mở rộng, có xu hướng lấn át so
với cơ quan lập pháp.
* Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa
Học thuyết Nhà nước pháp quyền không chỉ có những tư tưởng của các
triết gia tư sản mà còn có cả sự đóng góp của những nhà kinh điển chủ nghĩa
xã hội khoa học. C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin dù không chính thức nói
đến Nhà nước pháp quyền như là một trong những nội dung chính yếu trong
học thuyết của mình nhưng các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin luôn
quan tâm đến Nhà nước và cách mạng, Nhà nước và pháp luật. Trong các bài
viết, bài nói của các ông ít nhiều đã thể hiện tư tưởng về pháp quyền. Đó là
những tư tưởng đầu tiên về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Những tư tưởng căn bản của Nhà nước pháp quyền đã được các nhà
kinh điển Mác - Lênin đề cập và vận dụng vào thực tiễn xây dựng và củng cố
Nhà nước xã hội chủ nghĩa - nhà nước kiểu mới của giai cấp công nhân và

nhân dân lao động, bao gồm các vấn đề cơ bản như: xây dựng một nhà nước
kiểu mới hợp hiến, hợp pháp, dân chủ, một nhà nước mà pháp chế là nguyên
tắc tối quan trọng trong đời sống nhà nước và xã hội; nhà nước có một hệ
thống pháp luật đầy đủ và pháp luật được thực hiện nghiêm minh, bảo đảm
quyền con người, quyền công dân; nhà nước là công cụ của nhân dân, đặt


12

dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; nhà nước bảo đảm và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân…
C.Mác khẳng định “Dưới chế độ dân chủ, không phải con người tồn tại
vì luật pháp, mà luật pháp tồn tại vì con người; ở đây sự tồn tại của con người
là luật pháp, trong khi đó thì dưới những hình thức khác của chế độ nhà nước,
con người lại là tồn tại được quy định bởi luật pháp” 1. Do đó, trong chế độ
dân chủ thì bản thân nhà nước chính trị… chỉ là nội dung đặc thù của nhân
dân, chỉ là hình thức tồn tại đặc biệt của nhân dân thôi. Nhà nước pháp quyền
với ý nghĩa đó, không làm ra luật pháp, như C.Mác đã khẳng định “quyền lập
pháp không tạo ra luật pháp, - nó chỉ phát hiện và nêu luật pháp” 2. Hay nói
cách khác, luật pháp tối thượng trong nhà nước pháp quyền chính là ý chí của
nhân dân, phản ánh các quyền của nhân dân. Như vậy nhà nước pháp quyền
mới có khả năng tồn tại với tư cách thực chất là nhà nước.
V.I.Lênin tiếp thu tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen và phát triển tư
tưởng Nhà nước pháp quyền hoàn bị hơn. Tư tưởng Nhà nước pháp quyền
của V.I.Lênin chủ yếu thể hiện trong tư tưởng về Nhà nước và cách mạng,
về xây dựng xã hội mới. V.I.Lênin hướng đến một xã hội dân chủ rộng rãi,
giải phóng con người và phát triển toàn diện con người. Theo V.I.Lênin,
nếu không rơi vào không tưởng thì không thể nghĩ rằng sau khi lật đổ chủ
nghĩa tư bản, người ta tức khắc có thể làm việc cho chủ nghĩa xã hội mà
không cần phải có một tiêu chuẩn pháp quyền nào cả. Trong xây dựng Nhà

nước Xôviết, V.I.Lênin đòi hỏi bộ máy chính quyền phải thật sự là của
nhân dân lao động, phải thật sự bảo đảm dân chủ, phải dùng pháp luật
(pháp luật Xô viết) để đấu tranh chống sự lề mề, quan liêu, hối lộ (tức là
phải sử dụng pháp luật, đưa pháp luật lên trên hết).
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật
1
2

C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.350.
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.395.


13

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền hình thành, phát triển
gắn với quá trình tìm đường cứu nước và thực tiễn xây dựng nhà nước kiểu
mới ở Việt Nam sau năm 1945. Quá trình tìm đường cứu nước Hồ Chí Minh
đã kháo sát, nghiên cứu, so sánh bản chất các kiểu nhà nước trên thế giới và
đi đến kết luận: “Nhà nước phong kiến là công cụ của địa chủ để thống trị
nông dân. Nhà nước tư bản là công cụ của giai cấp tư sản để thống trị giai cấp
công nhân. Song từ cách mạng Nga thành công, một xã hội mới ra đời, nhà
nước đã trở lên công cụ thống trị của nhân dân lao động"3.
Từ thực tiễn khảo cứu các mô hình nhà nước trên thế giới, Hồ Chí
Minh phát triển tư tưởng về nhà nước pháp quyền được thể hiện khá sớm
trong nhiều văn kiện quan trọng do Người soạn thảo. Trong Yêu sách của
nhân dân An Nam gửi Hội nghị Vécxây, Hồ Chí Minh nêu ra yêu cầu “Cải
cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được
hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người Âu châu”; “Đòi thay
chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật ”; trong Việt Nam yêu
sách ca, Hồ Chí Minh viết “Bảy xin hiến pháp ban hành. Trăm đều phải có

thần linh pháp quyền” 4. Sau này trong các văn kiện như: Chương trình Việt
Minh (1941); Tuyên ngôn độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945; Chương trình
hành động ngày 3 tháng 9 năm 1945; Hiến pháp 1946.v.v. đã thể hiện kết
tinh trí tuệ, tư duy của Hồ Chí Minh về Nhà nước Việt Nam sau một phần
ba thế kỷ hoạt động của Người.
Những tư tưởng chính của Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền đó là:
nhà nước của nhân dân, do nhân dân, và vì nhân dân; nhà nước hợp hiến, hợp
pháp; nhà nước mà trong đó mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân; nhà nước
hoạt động trên cơ sở pháp luật; kết hợp giữa quản lý xã hội bằng pháp luật với
giáo dục đạo đức, nâng cao giác ngộ của nhân dân.
3
4

Hồ Chí Minh ,Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.280.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.438.


14

Tư tưởng xuyên suốt, cốt lõi, bao trùm toàn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh
về Nhà nước pháp quyền đó là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Trong
suốt quá trình tổ chức, xây dựng nhà nước Hồ Chí Minh luôn coi trọng hai
vấn đề cơ bản, một là xây dựng một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của
nhân dân; hai là bộ máy nhà nước phải được tổ chức hợp pháp và hoạt động
trên cơ sở hiến pháp. Trong Nhà nước pháp quyền, chủ quyền phải thực sự
thuộc về nhân dân và phải được thể hiện đầy đủ trong mối quan hệ giữa nhà
nước với nhân dân, nhà nước là công bộc, là người phục vụ nhân dân, nhân
dân là người làm chủ nhà nước là đối tượng được nhà nước phục vụ.
Nhà nước pháp quyền của dân theo Hồ Chí Minh đó là nhà nước do
nhân dân làm chủ, nhân dân được hưởng mọi quyền dân chủ, nghĩa là có

quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm và có nghĩa vụ tuân theo
pháp luật. Nhà nước của dân phải bằng mọi nỗ lực để xây dựng các thiết chế
dân chủ để thực thi quyền làm chủ của nhân dân. Nhà nước pháp quyền do
dân, tức là nhà nước đó phải do dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu của
mình; nhà nước đó do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để nhà nước chi tiêu,
hoạt động; nhà nước do nhân dân phê bình và xây dựng, giúp đỡ. Mọi cơ
quan nhà nước phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng
nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân.
Thực tiễn, ngay sau khi giành được chính quyền lập nên nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa, Hồ Chí Minh khẳng định rõ vai trò to lớn của nhân
dân trong xây dựng và bảo vệ chính quyền. Theo Người, nhân dân vừa là chủ
thể vừa là đối tượng phục vụ của nhà nước, nhà nước phải là công bộc, đầy tớ
của nhân dân, nhân dân là người lập ra nhà nước, mọi quyền lực nhà nước đều
thuộc về nhân dân. Người khẳng định: “NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ.
Bao nhiều lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân... Chính


15

quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra... Nói tóm lại, quyền
hành và lực lượng đều ở nơi dân”5.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chỉ có một nhà nước thực sự của dân, do
dân tổ chức, xây dựng và kiểm soát trên thực tế mới có thể là nhà nước vì dân
được. Đó là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, không có
đặc quyền, đặc lợi, thực sự trong sạch, cần, kiệm, liêm, chính. Trong nhà nước
đó, mọi cán bộ, viên chức nhà nước đều là công bộc, đầy tớ của nhân dân.

Nhà nước pháp quyền theo Tư tưởng Hồ Chí Minh đó còn là nhà nước
mà bản chất của nó luôn có sự thống nhất chặt chẽ giữa bản chất giai cấp công
nhân với tính nhân dân, tính dân tộc. Nhà nước là một thành tố cơ bản nhất

cấu thành hệ thống chính trị, luôn dưới sự lãnh đạo của Đảng, mang bản chất
của giai cấp công nhân, là nhà nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên,
nhà nước đó cũng thể hiện tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc. Bản chất giai
cấp công nhân và tính nhân dân, tính dân tộc luôn thống nhất hài hòa trong
nhà nước đại đoàn kết dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền là nhà nước mà ở đó pháp
luật được đề cao. Nói cách khác, Nhà nước pháp quyền theo Hồ Chí Minh là nhà
nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ. Nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ trước
hết phải là nhà nước hợp hiến; nhà nước quản lý đất nước bằng pháp luật và phải
làm cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế. Trong một Nhà nước dân chủ, dân
chủ và pháp luật phải luôn đi đôi với nhau, nương tựa vào nhau mới bảo đảm cho
chính quyền trở lên mạnh mẽ. Không thể có dân chủ ngoài pháp luật. Pháp luật là
bà đỡ của dân chủ. Mọi quyền dân chủ của người dân nhất thiết phải được thể chế
hóa bằng hiến pháp và pháp luật, ngược lại hệ thống pháp luật phải bảo đảm cho
quyền tự do, dân chủ của người dân được tôn trọng trong thực tế.

5

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.698.


16

Để tiến tới một Nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ,
theo Hồ Chí Minh vấn đề căn bản cốt lõi là phải nhanh chóng đào tạo, bồi
dưỡng hình thành đội ngũ cán bộ, viên chức nhà nước có trình độ văn hóa, am
hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp vụ hành chính, có đạo đức cách mạng trong
sáng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
1.2. Sự cần thiết phải xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân ở Việt Nam

Trong thế giới hiện đại, việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp
quyền đang trở thành một xu thế tất yếu khách quan đối với mọi quốc gia, dân
tộc trên thế giới. Đối với Việt Nam, việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa cũng không nằm ngoài quỹ đạo chung đó.
Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam đáp ứng yêu cầu công cuộc đổi mới là một đòi hỏi tất yếu, khách quan
và phù hợp với xu thế phát triển lịch sử chung của xã hội loài người, bởi nhà
nước pháp quyền là một giá trị chung của nhân loại trên con đường phát triển
tiến bộ. Chính vì lẽ đó, để xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân tất yếu phải vận dụng những thành quả, những mặt
tích cực, những giá trị của các hình thức nhà nước pháp quyền trước đây,
trước hết là của các hình thức nhà nước pháp quyền tư sản hiện đại. Sự kế
thừa như vậy là một yêu cầu khách quan, bởi nhà nước pháp quyền là một giá
trị chung, phổ biến của nhân loại. Nhà nước pháp quyền vừa là công cụ,
phương thức tổ chức và quản lý xã hội có hiệu quả, vừa là hình thức tổ chức
quyền lực bảo vệ có hiệu quả các quyền lợi chính đáng của con người, tạo
điều kiện cho con người phát triển những năng lực hoạt động thực tiễn. Ngoài
ra, cùng với kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền đã tạo nên đôi chân
vững chãi cho nhiều quốc gia phát triển trên thế giới tiến những bước dài trên
con đường đi tới giàu có và văn minh.


17

Ở một góc độ nhất định, việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, của dân, do dân, vì dân ở nước ta có ảnh hưởng rất lớn đến sự thành bại của
chế độ. Điều này thể hiện rõ trong thực tiễn đấu tranh chống tham nhũng, chống
lại một trong bốn nguy cơ lớn của Đảng và chế độ suốt nhiều năm qua và ngày
nay. Có thể nói rằng, nếu chúng ta không tạo dựng được một nhà nước pháp
quyền thực sự của dân, do dân, vì dân thì trong tương lai, xã hội ta, dân tộc ta có

thể sẽ phải chịu những hậu quả mà hiện nay khó lường được.
Đối với các nước đang phát triển hiện nay, kinh tế thị trường và nhà
nước pháp quyền càng phải là cứu cánh quan trọng để thoát nhanh ra khỏi
tình trạng lạc hậu và nguy cơ tụt hậu ngày càng xa. Kinh tế thị trường và nhà
nước pháp quyền là những thành phần căn bản trong tổng thể các biện pháp
hữu hiệu mà các nước đang phát triển trên thế giới phải sử dụng để tăng tốc
quá trình phát triển, nhằm nhanh chóng tạo dựng một xã hội văn minh và
thịnh vượng với những nét đặc trưng riêng của các quốc gia dân tộc.
Dân chủ ngày càng mở rộng là một trong những nội dung cơ bản của
nhà nước pháp quyền; đặc biệt, với nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân thì nội dung đó càng phải trở thành nội dung căn bản
và quan trọng hàng đầu. Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân là nội dung
căn bản và là hình thức biểu hiện tập trung của dân chủ trong nhà nước pháp
quyền. Không có một nhà nước pháp quyền thực sự thì cũng không thể có nền
dân chủ thực sự và bền vững. Bởi, chỉ có thông qua nhà nước pháp quyền,
nhân dân mới có thể cùng nhà nước tạo ra được những thiết chế, cơ chế xã hội
thích ứng đảm bảo dân chủ và tự do trong xã hội. Đến lượt mình, dân chủ vừa
là điều kiện, vừa là động lực thúc đẩy sự hình thành, phát triển và hoàn thiện
của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.


18

Nhà nước pháp quyền là công cụ để một giai cấp, cộng đồng, dân tộc
thực hiện và bảo vệ dân chủ. Dân chủ đòi hỏi phải có pháp luật tốt, phản ánh
đúng xu thế phát triển xã hội, ý chí và nguyện vọng chính đáng của nhân dân
và việc thực thi pháp luật luôn nghiêm minh, có hiệu quả; đồng thời, không
ngừng củng cố và hoàn thiện nhà nước pháp quyền. Nền dân chủ trong đời
sống xã hội càng cao thì nhà nước pháp quyền càng được củng cố và hoàn
thiện. Vì thế, không ngừng mở rộng dân chủ là nhiệm vụ cơ bản, thiết yếu của

nhà nước pháp quyền.
Pháp luật là quy chế, công cụ hữu hiệu và quan trọng nhất để thực hiện
dân chủ trong xã hội. Bất cứ một nền dân chủ nào cũng cần có pháp luật và
dân chủ càng cao, càng được mở rộng thì pháp luật càng đóng vai trò quan
trọng trong đời sống xã hội. Quá trình dân chủ hóa cũng là quá trình xây dựng
và hoàn thiện pháp luật, khiến cho pháp luật có chất lượng tốt hơn, đồng bộ,
thống nhất, phản ánh đúng đắn hơn nguyện vọng của nhân dân, thể hiện đầy
đủ, chính xác, kịp thời xu thế phát triển khách quan của xã hội, thúc đẩy mạnh
mẽ sự phát triển của xã hội. Đây chính là một trong những nội dung quan
trọng trong nội hàm khái niệm nhà nước pháp quyền.
Như vậy, dân chủ là điều kiện và động lực để xây dựng nhà nước
pháp quyền. Đồng thời, nhà nước pháp quyền lại là cơ sở quan trọng để
thực hiện và mở rộng nền dân chủ. Sản phẩm cao của nền dân chủ là nhà
nước pháp quyền. Do vậy, sẽ là sai lầm nếu cho rằng có thể xây dựng nhà
nước pháp quyền mà không cần thiết phải thực hiện dân chủ hóa xã hội. Cả
về phương diện lý luận lẫn thực tiễn đều chứng tỏ rằng, cần phải thực hiện
dân chủ hóa xã hội trước một bước để trên cơ sở đó, mới có thể xây dựng
và hoàn thiện nhà nước pháp quyền. Đồng thời, mỗi bước tiến trong việc
xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền cũng là một cơ hội để mở rộng
và phát triển nền dân chủ xã hội.


19

Dân chủ hóa xã hội là một nhu cầu tất yếu của sự phát triển xã hội.
Trong lịch sử đã tồn tại nhiều hình thức dân chủ khác nhau với những trình độ
khác nhau. Trong thời đại ngày nay, dân chủ trở thành điều kiện, cơ hội để
phát triển. Xã hội càng dân chủ càng tạo cơ hội cho sự phát triển đa chiều, đa
hướng, làm phong phú thêm đời sống xã hội, làm nẩy nở, giải phóng và phát
triển được năng lực mọi mặt của quốc gia, dân tộc, tạo nên sự hỗ trợ, bổ sung

lành mạnh cho sự phồn thịnh và phát triển toàn diện của đất nước, xã hội.
Đối với những nước đang phát triển, chưa trải qua dân chủ tư sản
như nước ta, muốn xây dựng thành công nhà nước pháp quyền càng cần
phải thực hiện dân chủ hóa xã hội trước một bước, thậm chí phải học cách
thực hiện dân chủ hóa xã hội. Việt Nam đang hướng đến mục tiêu xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do
vậy càng cần phải học cách dân chủ hóa xã hội, thực hiện mở rộng dân chủ
một cách kiên quyết, triệt để và nhất quán. Trong quá trình đó, cần có sự
chọn lọc, kế thừa và phát triển những yếu tố hợp lý khách quan của nền dân
chủ tư sản, của nhà nước pháp quyền tư sản với tính cách là những trình độ
phát triển của nhân loại trong lịch sử.
Trong thời đại ngày nay, dân chủ còn là biện pháp quan trọng để hội
nhập và phát triển, nhằm rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước phát
triển. Thị trường và dân chủ là những “xa lộ” chính của văn minh nhân loại,
nhưng con đường đi đến thị trường và dân chủ không đơn giản. Đến với thị
trường đã khó, đến với dân chủ còn khó hơn. Dân chủ là một trong những
đảm bảo cho xã hội phát triển nhanh, giàu có hơn, phong phú và đa dạng hơn;
vì thế, hạn chế hoặc chậm mở rộng dân chủ là kìm hãm sự phát triển.
Quan niệm về dân chủ hay nói rộng hơn, tư duy về dân chủ cần được
hiểu một cách biện chứng, đầy đủ và chính xác hơn, phản ánh được xu thế
phát triển xã hội nhiều hơn. Hiện nay, không nên lo lắng rằng dân trí thấp nên


20

không mở rộng dân chủ được. Không thể chỉ lo lắng rằng dân trí thấp mà cần
phải và trước hết nên lo lắng rằng "quan trí" thấp. Bởi vì, trong quan hệ với
dân trí thì "quan trí" quan trọng hơn, có tính chất quyết định hơn đến sự phát
triển kinh tế, xã hội, đến việc xây dựng nhà nước pháp quyền và dân chủ hóa
xã hội. Nếu "quan trí" cao chắc chắn hệ thống pháp luật và các văn bản dưới

luật của nhà nước sẽ đồng bộ, thống nhất và hiệu quả hơn, không có những
bất cập, phi lý và mâu thuẫn. Có thể dẫn ra hàng loạt thí dụ về những mâu
thuẫn cả theo chiều dọc (giữa Hiến pháp, các đạo luật và các văn bản dưới
luật) lẫn chiều ngang (giữa các đạo luật hoặc giữa các văn bản dưới luật)
trong hệ thống luật pháp của nước ta. Để khắc phục điều đó, việc nâng cao
"quan trí" cũng như đảm bảo tính dân chủ trong xây dựng và thực thi pháp
luật là rất quan trọng. Điều này có nghĩa là dân chủ và nhà nước pháp quyền ở
nước ta không thể tách rời nhau. Nói xây dựng nhà nước pháp quyền, truớc
hết phải nói đến dân chủ hóa xã hội.
Mặt khác, cũng không nên quá lo lắng rằng dân chủ hóa xã hội, xây
dựng nhà nước pháp quyền (và cả việc tạo dựng xã hội dân sự) ở nước ta
hiện nay sẽ dẫn đến tình trạng bất ổn định xã hội. Có thể sẽ có một số
người lợi dụng dân chủ để gây rối loạn trật tự xã hội, nhưng bản thân dân
chủ thì không thể làm rối loạn xã hội; trái lại, nó làm cho xã hội phát triển
nhanh, phong phú, đa dạng và toàn diện hơn. Thực tiễn nhiều năm qua ở
một số địa phương, đơn vị cho thấy, chính tình trạng mất dân chủ, vi phạm
dân chủ mới là nguyên nhân dẫn đến sự không ổn định, mâu thuẫn và thậm
chí, cả sự xung đột ở những nơi này.
Có thể khẳng định rằng, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân trở thành một đòi hỏi chung của xã hội ta
hiện nay. Nhiều năm qua, ở nước ta, đã có những thay đổi lớn về dân chủ,
thay đổi cả trong tư duy, trong cách nghĩ về dân chủ lẫn trong việc thực


21

hiện dân chủ hóa xã hội. Việc chuyển sang nền kinh tế thị trường là một
bước dân chủ hóa quan trọng, có tính cách mạng trong lĩnh vực kinh tế của
đất nước. Điều đó đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển năng động, đa dạng,
phong phú, có tốc độ tăng trưởng khá nhanh và liên tục, tạo cơ sở cho việc

tiếp tục dân chủ hoá xã hội trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
Bởi vậy, đất nước đã có sự phát triển khá toàn diện, sức sản xuất của xã hội
và tiềm năng sáng tạo của nhân dân bước đầu được giải phóng, xã hội phát
triển cởi mở hơn, thông thoáng và năng động hơn.
Tuy nhiên, phải thẳng thắn thừa nhận rằng, trước yêu cầu khách quan
của sự phát triển và trong bối cảnh quốc tế mới với xu thế toàn cầu hóa,
những kết quả mà chúng ta đạt được vừa qua vẫn còn rất nhỏ bé, nguy cơ tụt
hậu ngày càng xa so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn là một
thách thức lớn. Trong lĩnh vực kinh tế, tình trạng độc quyền, bao cấp vẫn tồn
tại, dân chủ chưa được mở rộng đến mức cần phải có; trong chính trị, việc bầu
cử, miễn nhiệm, trưng cầu dân ý còn nhiều vướng mắc; tổ chức và điều hành
bộ máy Nhà nước còn yếu kém; hệ thống luật pháp thiếu đồng bộ, thiếu nhất
quán và không ổn định; trong khoa học, không khí dân chủ, tự do khi thảo
luận các vấn đề học thuật và đặc biệt là những vấn đề bức thiết của xã hội
chưa được tạo lập, hoặc chưa thực sự phát huy tác dụng; trong xã hội, chưa có
cơ chế đảm bảo tôn trọng ý kiến của nhân dân v.v..
Sự yếu kém, hạn chế trong việc mở rộng dân chủ hiện đang đẻ ra hàng
loạt những hiện tượng tiêu cực xã hội, làm giảm hiệu lực, hiệu quả của những
giải pháp mà Nhà nước sử dụng để xoá bỏ những tiêu cực ấy, để thúc đẩy sự
phát triển kinh tế, xã hội. Tham nhũng là một thí dụ điển hình. Trong một xã
hội mà dân chủ càng cao, nhân dân thực sự được tham gia vào công tác quản
lý nhà nước theo nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, mọi
sự đều công khai và minh bạch… thì tham nhũng sẽ không có cơ hội để nẩy


22

nở, sẽ bị ngăn chặn. Dân chủ có được mở rộng thì các biện pháp chống tham
nhũng mới có thể phát huy hiệu lực. Nói cách khác, dân chủ hoá xã hội đồng
thời là quá trình nâng cao hiệu lực của bộ máy nhà nước. Yêu cầu có tính

nguyên tắc mà Đảng ta vạch ra là, “Phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ
luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế, quản lý xã hội bằng pháp luật, tuyên
truyền, giáo dục toàn dân nâng cao ý thức chấp hành pháp luật”.
Tóm lại, cả về phương diện lý luận lẫn thực tiễn, Nhà nước pháp
quyền nói chung, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói riêng đều phải
dựa trên nền tảng dân chủ xã hội. Dân chủ là điều kiện, tiền đề và cũng là
một nội dung trong nội hàm của khái niệm nhà nước pháp quyền. Chính vì lẽ
đó, để xây dựng nhà nước pháp quyền, cần phải mở rộng nền dân chủ; xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa lại càng cần mở rộng dân chủ
xã hội chủ nghĩa. Dân chủ hóa xã hội là điều kiện tiên quyết để xây dựng và
hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là động lực thúc đẩy sự
phát triển của xã hội hiện đại. Đối với nước ta, dân chủ hoá xã hội còn là
biện pháp quan trọng để đẩy nhanh sự phát triển của đất nước, rút ngắn
khoảng cách tụt hậu so với thế giới.
2. Quan điểm của Đảng ta về Nhà nước pháp quyền và đặc trưng
cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
2.1. Quan điểm của Đảng ta về Nhà nước pháp quyền
Quan điểm của Đảng ta về nhà nước pháp quyền và xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa là quá trình đúc kết, kế thừa có chọn lọc và vận
dụng sáng tạo tư tưởng nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng nhân loại
và quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước,
pháp luật kiểu mới vào thực tiễn xây dựng nhà nước kiểu mới ở nước ta. Đây
là kết quả của quá trình nhận thức lý luận và đúc kết kinh nghiệm thực tiễn về
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta dưới sự lãnh đạo


23

của Đảng; bao gồm hệ thống các quan điểm, nguyên tắc cơ bản về quan niệm,
bản chất, đặc trưng, cơ cấu tổ chức của nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa, được hình thành và phát triển từng bước qua các kỳ đại hội đảng và các
nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị về xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa qua các khóa, nhất từ khi thực hiện công
cuộc đổi mới đến nay. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3, Ban Chấp hành Trung
ương khóa VIII đã chỉ rõ, trong 10 năm đổi mới vừa qua Đảng ta “Đã từng
bước phát triển hệ thống quan điểm, nguyên tắc cơ bản về xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân”6.
Từ nhận thức lý luận và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền đã thể
hiện rõ những quan điểm cơ bản của Đảng ta về nhà nước pháp quyền và xây
dựng nhà nước pháp quyền, bao gồm:
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân;
- Nhà nước tổ chức, hoạt động theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là
thống nhất, nhưng có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong
quá trình thực hiện quyền lực nhà nước về mặt lập pháp, hành pháp, tư pháp;
- Nhà nước được tổ chức hoạt động trên cơ sở của Hiến pháp và pháp
luật, bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và Luật trong đời sống xã hội;
- Nhà nước tôn trọng, thực hiện và bảo vệ quyền con người; bảo đảm
trách nhiệm giữa nhà nước và công dân, thực hành dân chủ gắn với tăng
cường kỷ cương, kỷ luật;
- Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, đồng thời bảo đảm
sự giám sát của nhân dân; sự giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận;

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.
6


24


- Nhà nước thực hiện đường lối hòa bình, hữu nghị với nhân dân các
dân tộc và các nhà nước trên thế giới trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ
quyền toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau và cùng có lợi; đồng thời tôn trọng và cam kết thực hiện các công ước,
điều ước, hiệp ước quốc tế đã tham gia ký kết, phê chuẩn;
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân phải trở thành định hướng, yêu cầu bao trùm toàn bộ tổ
chức, hoạt động của nhà nước, đồng thời là trách nhiệm của Đảng, Mặt trận
Tổ quốc và các tổ chức thành viên của Mặt trận và mọi công dân;
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền trong điều kiện Đảng duy nhất
cầm quyền đòi hỏi Đảng phải đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước, quan tâm thích đáng cho việc lãnh đạo xây dựng Nhà nước, xây
dựng và thực hiện pháp luật, đồng thời bảo đảm cho các tổ chức đảng,
đảng viên hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp, pháp luật, tôn trọng
các thể chế của Nhà nước.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên của Mặt trận cũng như
các tổ chức trong xã hội và mọi công dân có trách nhiệm tuân thủ pháp luật,
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trước Nhà nước và xã hội; đồng thời có những hình
thức thích hợp thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội, tham gia xây
dựng Nhà nước, quản lý nhà nước.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ IX khẳng định:
“Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là
Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực Nhà nước là thống
nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng
pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ
chấp hành Hiến pháp và pháp luật”7.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội,2001, tr.131-132.

7


25

Đặc biệt trong tình hình mới hiện nay, Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung phát triển năm 2011) do
Đại hội lần thứ XI của Đảng thông qua, đã xác định: “Nhà nước ta là Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công,
phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã
hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước phục vụ nhân dân gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ
quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu
sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và
trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm dụng quyền,
xâm phạm quyền dân chủ của công dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm
trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.
Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập
trung dân chủ, có sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự thống
nhất của Trung ương” 8 .
2.2. Đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhà nước pháp quyền với tính cách là học thuyết về tổ chức và
thực hiện quyền lực nhà nước, là giá trị và tinh hoa của nhân loại có
nguồn gốc từ thời cổ đại, có thể được áp dụng ở các nước trên cơ sở
những nét đặc trưng về văn hóa, chính trị, tư tưởng pháp lý, truyền
thống dân tộc. Vì vậy, việc áp dụng học thuyết về Nhà nước pháp quyền

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, tr.85-86.
8


26

vào nước ta hiện nay với những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội là điều
hoàn toàn có thể và nên làm. Điều quan trọng là chúng ta phải tìm ra
được những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam phù hợp với bản sắc dân tộc, truyền thống, văn hóa và những
điều kiện riêng có của Việt Nam.
Từ nhận thức lý luận, tiếp thu có chọn lọc các giá trị phổ biến của nhà
nước pháp quyền nói chung và từ thực tiễn lãnh đạo quá trình xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thông qua các văn kiện Đại hội
của Đảng, có thể khái quát những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo quan điểm của Đảng ta như sau:
Một là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân
dân, vì Nhân dân. Tấ cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng
là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp công nông dân và đội ngũ trí
thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Hai là, Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công phối hợp
và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp.
Ba là, Nhà nước ban hành pháp luât; tổ chức, quản lý xã hộ bằng pháp
luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, Nhà nước phục vụ Nhân dân, gắn bó mật thiết với Nhân dân,
thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của Nhân dân và chịu sự giám sát của Nhân
dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu,
tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ

của công dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội; nghiêm trị mọi hành động xâm
phạm lợi ích của Tổ quốc và Nhân dân


×