Tải bản đầy đủ (.pdf) (280 trang)

hoạt động của viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (899.02 KB, 280 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
ĐOÀN TẠ CỬU LONG
HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT
TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
THEO YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP
LUẬN ÁN TIẾN SỸ LUẬT HỌC
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
ĐOÀN TẠ CỬU LONG
HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT
TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
THEO YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP
LUẬN ÁN TIẾN SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 62.38.01.04
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN DUY THUÂN
TS. NGUYỄN DUY HƯNG
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên Đoàn Tạ Cửu Long, nghiên cứu sinh khóa 5 của trường đại
học luật thành phố Hồ Chí minh, tác giả đề tài “Hoạt động của Viện kiểm


sát trong điều tra vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp”, cam đoan:
Luận án là công trình nghiên cứu khoa học của cá nhân tôi; Kết quả của
Luận án là trung thực, chưa từng được công bố; Xin cam kết chịu trách
nhiệm về kết quả nghiên cứu của mình.
Tác giả


Đoàn Tạ Cửu Long
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1
1. Tính cấp thiết của đề tài
1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3
3. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
3
4. Kết cấu của luận án
4
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
5
1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
5
2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
9


3. Giả thuyết, mục tiêu, mục đích nghiên cứu
14
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
16
CHƯƠNG 1: NHẬN THỨC CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN
KIỂM SÁT TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
17
1.1 Nhận thức chung về hoạt động điều tra vụ án hình sự
17

1.2 Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
25
1.3 Yêu cầu cải cách tư pháp đối với hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra
vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay
55
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM
SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
63
2.1 Thực trạng thực hành quyền công tố trong điều tra vụ án hình sự
63
2.2 Thực trạng kiểm sát điều tra vụ án hình sự
74
2.3 Thực trạng tổ chức và chỉ đạo hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát
điều tra vụ án hình sự
85


2.4 Hạn chế và nguyên nhân chủ yếu của hạn chế trong hoạt động thực hành
quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự
92
CHƯƠNG 3: NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO
YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP
98
3.1 Phương hướng nhiệm vụ nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Viện
kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp
98
3.2 Nội dung nhiệm vụ nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Viện kiểm
sát trong điều tra vụ án hình sự
103

3.3 Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Viện
kiể
ụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp
112
KẾT LUẬN
146
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
CHỮ VIẾT TẮT
- Bộ luật hình sự năm 1999
:


BLHS năm 1999
- Biện pháp ngăn chặn
:
BPNC
- Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
:
BLTTHS năm 2003
- Cơ quan điều tra
:
CQĐT
- Hoạt động tư pháp
:
HĐTP
- Kiểm sát điều tra
:
KSĐT
- Kiểm sát hoạt động tư pháp

:
KSHĐTP
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật
:
KSVTTPL
- Quyền công tố
:


QCT
- Thực hành quyền công tố
:
THQCT
- Toà án nhân dân : TAND
- Trách nhiệm hình sự
:
TNHS
- Tố tụng hình sự
:
TTHS
- Viện kiểm sát nhân dân
:
VKSND
- Viện kiểm sát
:
VKS
- Xã hội chủ nghĩa : XHCN
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong TTHS Việt Nam, giai đoạn điều tra vụ án hình sự có vai trò rất quan
trọng và có tính quyết định đối với chất lượng, hiệu quả của hoạt động buộc tội và
là cơ sở, nền tảng để tiến hành các chức năng TTHS khác trong các giai đoạn tố


tụng tiếp theo. Tuy nhiên, giai đoạn điều tra vụ án hình sự với hoạt động tố tụng
chủ đạo là hoạt động của CQĐT, được đánh giá là giai đoạn tố tụng tiềm ẩn nhiều
nhất nguy cơ sai sót, vi phạm pháp luật, kể cả những sai sót, vi phạm pháp luật
nghiêm trọng dẫn đến việc truy cứu TNHS oan, sai.
Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, VKS có chức năng, nhiệm vụ
THQCT và kiểm sát hoạt động điều tra của CQĐT và các cơ quan khác được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhằm đảm bảo tính pháp chế của hoạt
động điều tra, bảo đảm việc truy cứu TNHS có căn cứ và hợp pháp, ngăn ngừa xảy
ra các trường hợp oan, sai, bỏ lọt tội phạm hoặc người phạm tội.
Thực hiện chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp, từ khi có Nghị quyết
số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới”, hoạt động của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự đã
có nhiều chuyển biến tích cực, chất lượng phê chuẩn việc bắt, tạm giữ, tạm giam,
phê chuẩn các quyết định khởi tố bị can, kiểm sát các hoạt động điều tra ngày
càng nâng cao, đưa tỷ lệ bắt giữ xử lý hình sự đạt 96%, tỷ lệ truy tố đạt 98-99%;
hạn chế đáng kể các trường hợp phải đình chỉ điều tra do bị can không phạm tội và
tòa án tuyên bị cáo vô tội.
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động THQCT và KSHĐTP trong
giai đoạn điều tra cũng như các hoạt động tiến hành tố tụng khác như điều tra, truy
tố, xét xử, còn có những hạn chế, yếu kém chung là còn được tiến hành theo tư
duy cũ chưa kịp đổi mới; nhiều thủ tục còn rườm rà, phức tạp làm cho quá trình
giải quyết vụ án chậm chạp, kéo dài, chi phí tiến hành tố tụng tốn kém; tình trạng
áp dụng BPNC bắt, tạm giam quá phổ biến; Chưa có sự phân định hợp lý chức
2



năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng; Cơ chế đảm bảo
quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng còn bất cập, nhất là quyền
bào chữa của bị can, bị cáo.
Riêng đối với hoạt động của VKS trong giai đoạn điều tra còn có những
hạn chế, yếu kém, trì trệ đặc thù như: kém năng động trong việc thực thi nhiệm vụ
quyền hạn – THQCT và KSHĐTP; chưa quản lý, chi phối chặt chẽ được quá trình
điều tra vụ án hình sự nên chất lượng, hiệu quả hoạt động THQCT và KSHĐTP
còn thấp; số lượng hồ sơ vụ án phải điều tra bổ sung còn chiếm tỉ lệ cao; hiệu quả
xã hội trong đấu tranh phòng, chống tội phạm của hoạt động thực thi chức năng,
nhiệm vụ của VKS trong điều tra vụ án hình sự chưa cao; công tác kiến nghị
phòng ngừa tội phạm ở cả ba cấp kiểm sát còn hạn chế chưa làm tốt việc tham
mưu cho Đảng và Nhà nước trong việc đề ra các biện pháp phòng ngừa tội phạm
một cách hiệu quả, gắn đấu tranh phòng, chống tội phạm với việc thực hiện các
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Cùng với những tồn tại, hạn chế nêu trên, hoạt động của VKS hiện
nay đang đứng trước nhiều thách thức lớn lao xuất phát từ những yêu cầu,
đòi hỏi của công cuộc đổi mới, phát triển mạnh mẽ nền kinh tế, xã hội của
Việt Nam theo hướng hội nhập kinh tế thế giới và toàn cầu hóa – một trong
những nguyên nhân góp phần gây ra tình hình tội phạm tiếp tục diễn biến
phức tạp, khó tiên liệu, dự báo với tính chất và hậu quả ngày càng nghiêm
trọng, thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Trước yêu cầu chính
trị, kinh tế, xã hội khách quan đó, việc đổi mới hoạt động của VKS trong
giai đoạn điều tra vụ án hình sự trở nên cấp thiết và được xem là một trong
những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công cuộc cải cách tư pháp ở nước


ta hiện nay. Để thực hiện các nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp,
nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế các hoạt động của VKS trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự, góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng nền tư

pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng
bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ chức Việt Nam XHCN, tác
3
giả chọn vấn đề “Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
theo yêu cầu cải cách tư pháp” làm đề tài luận án tiến sĩ luật học.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động của VKSND theo quy định của BLTTHS năm 2003 trong điều
tra vụ án hình sự.
Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của Luận án được giới hạn trong giai đoạn điều tra vụ
án hình sự, từ khi vụ việc vi phạm pháp luật bị CQĐT trong lực lượng Công an
nhân dân hoặc bị cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền khởi động hoặc tái khởi
động tiến trình điều tra vụ án hình sự bằng các quyết định khởi tố vụ án, điều tra bổ
sung, phục hồi điều tra, điều tra lại đến khi CQĐT hoàn thành nhiệm vụ điều tra
bằng việc kết luận điều tra, đề nghị truy tố hoặc quyết định đình chỉ điều tra vụ án.
Về thời gian, luận án khảo sát thực trạng hoạt động của VKS trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự từ năm 2004 (năm BLTTHS năm 2003 có hiệu lực)
đến 2014 (thời điểm 10 năm thi hành BLTTHS năm 2003), nhằm đảm bảo tính
sâu sắc, toàn diện cho việc nghiên cứu.
Về không gian, luận án nghiên cứu hoạt động của VKS trên địa bàn toàn quốc,


nhưng có chú trọng ở một số địa bàn trọng điểm, có số lượng án hình sự thụ lý hàng
năm lớn nhất Việt Nam, mang nhiều sắc thái tiêu biểu của tình hình đấu tranh phòng,
chống tội phạm như: thành phố Hà Nội, thành phố Hải Phòng, thành phố Hồ Chí
Minh và tỉnh Đồng Nai.
3. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án góp phần hoàn thiện lý luận về hoạt động của VKS trong điều tra
vụ án hình sự; từ đó tạo cơ sở cho việc nhận thức thống nhất về chức năng, nhiệm

vụ, vị trí, vai trò của VKSND trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự theo yêu cầu
cải cách tư pháp.
4
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy và nghiên cứu,
hoạch định chính sách, pháp luật về chức năng, nhiệm vụ của VKS Việt Nam
trong điều tra hình sự.
4. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, phần tổng quan tình hình và kết quả nghiên cứu liên
quan đến luận án, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung
kết quả nghiên cứu được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án
hình sự.
Chương 2: Thực trạng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp trong điều tra vụ án hình sự.
Chương 3: Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát
trong điều tra vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp.
5


TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH VÀ
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Việc nghiên cứu đổi mới tổ chức và hoạt động của VKS trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự để tăng cường khả năng phát hiện và xử lý hiệu quả các loại
tội phạm, bảo vệ quyền tự do, dân chủ, quyền con người trong quá trình giải quyết
vụ án hình sự luôn dành được sự quan tâm của các học giả trong và ngoài nước, và
được tranh luận ở nhiều diễn đàn khoa học.
1.
Vấn đề vị trí, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan công tố trong hệ thống
pháp luật của các quốc gia trên thế giới cũng như vấn để hoàn thiện nó không phải
là vấn đề mới. Tuy nhiên việc nghiên cứu thực tiễn và lý luận để nâng cao hiệu

quả hoạt động của cơ quan công tố, đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế giữ
vững trật tự an toàn xã hội trong bối cảnh yếu tố quốc tế ngày càng trở nên quan
trọng và được mở rộng trong nền tư pháp của từng quốc gia như các mục tiêu: hợp
tác kinh tế, chính trị, xã hội, quốc tế; phòng chống tội phạm xuyên biên giới, mở
rộng dân chủ, đảm bảo tốt hơn quyền con người, chống nghèo đói,… là các vấn đề
được quan tâm, chú trọng thảo luận trong các diễn đàn pháp lý quốc tế. Chức
năng, nhiệm vụ, vị trí, vai trò của cơ quan công tố trong TTHS được thể hiện rõ
ràng nhất, chính thống nhất thông qua BLTTHS của mỗi quốc gia. Các công trình
nghiên cứu về lịch sử, truyền thống pháp luật, chức năng, nhiệm vụ của các cơ
quan công tố nói riêng, mô hình TTHS nói chung rất đa dạng, phong phú trong
khoa học pháp lý thế giới. Trong khi đó, các công trình có mục đích nghiên cứu so
sánh giữa các mô hình cơ quan công tố, phân tích những vấn đề hạn chế nội tại và
đề xuất những phương hướng, biện pháp cải cách, hoàn thiện thì không nhiều và


phong phú bằng. Một số nghiên cứu tiêu biểu về vấn đề cải cách cơ quan công tố
trên thế giới mà tác giả đã tham khảo là: The Japanese way of justice: Prosecuting
crime in Japan của Johnson, D. T năm 2001; Ideal and the Reality of the Korean
Legal Profession của Kim, J. W năm 200; Reform of the Procuracy and Bar in
6
Russia của Thaman năm 1996; Status of Judicial Reform in Russia của Boylan, S.
P năm 1997; Criminal procedure in China: some comparisons with the English
system của Cheng, Y năm 1988; On the Prosecution Reform in China của Qian, S
năm 2003; Prosecuting crime in the renaissance: England, Germany, France của
Langbein, J. H năm 2005; Structural reform prosecution của Garrett, B. L năm
2007 và The procuracy and its problems của Holmes, S năm 1999. Qua nghiên
cứu nội dung BLTTHS của các quốc gia: Vương quốc Anh, Hoa Kỳ, Liên bang
Nga, Trung Quốc, Cộng hoà Pháp, Cộng hoà liên bang Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc
và các công trình nghiên cứu tiêu biểu nêu trên về cải cách cơ quan công tố có thể
khái quát nên một số vấn đề sau đây:

- Do mỗi quốc gia có những cơ sở chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá khác
nhau nên có cách thức tổ chức bộ máy nhà nước của các quốc gia rất khác nhau, và
do vậy cơ quan công tố được tổ chức và hoạt động hoàn toàn không giống nhau. Có
nơi cơ quan công tố do cơ quan đại diện lập ra (như ở Anh quốc trong một số
trường hợp pháp luật quy định), có nơi cơ quan công tố thuộc các cơ quan hành
pháp (như ở Hoà Kỳ), có nơi cơ quan công tố thuộc các cơ quan tư pháp (như ở
Cộng hoà Pháp) và cũng có nơi cơ quan công tố (kiểm sát) vừa thuộc nhánh hành
pháp, vừa thuộc nhánh tư pháp (như ở Cộng hoà liên bang Đức). Tuy nhiên, dù
không được tổ chức giống nhau, nhưng tất cả các cơ quan công tố là yếu tố rất cần


thiết, bảo đảm cho nó được hoạt động khách quan, nhằm mục đích bảo vệ pháp luật,
bảo vệ công lý, công bằng.
- Các nước này đều tổ chức tách biệt cơ quan công tố và CQĐT (ở Đức gọi
là Cơ quan cảnh sát, ở Pháp, Italia và Hàn Quốc gọi là Cơ quan cảnh sát tư pháp).
Tuy về về tổ chức nhà nước cả hai cơ quan đều thuộc nhánh quyền hành pháp,
nhưng thực chất cơ quan công tố được xác định có vị trí “bán tư pháp” (quasijudicial), có nhiệm vụ gần với tòa án là đều cùng tìm kiếm các bằng chứng buộc
tội và gỡ tội nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án với yêu cầu về mức độ
như nhau. Các công tố viên chịu trách nhiệm về hoạt động điều tra và các hoạt
động tố tụng ở giai đoạn tiền xét xử nhưng được đào tạo và bổ nhiệm với tiêu
7
chuẩn, điều kiện gần giống với thẩm phán, thậm chí được xếp cùng ngạch bậc như
các thẩm phán theo mô hình của Pháp và Italia. Việc đặt công tố viên vào vị thế
“bán tư pháp” không chỉ là điều kiện đảm bảo tính độc lập của công tố viên mà
còn có ý nghĩa để công tố viên có thể chỉ đạo, kiểm tra, giám sát các hoạt động tố
tụng của nhân viên cảnh sát – những công chức thuộc nhánh quyền hành pháp và
không trực thuộc cơ quan công tố về mặt tổ chức.
- Công tố viên có vai trò chủ đạo trong giai đoạn tiền xét xử, chịu trách
nhiệm trong hoạt động điều tra. Công tố viên hầu như không trực tiếp thực hiện
các thao tác, nghiệp vụ điều tra cụ thể mà do Cảnh sát thực hiện và báo cáo kết

quả, tiến độ điều tra cho công tố viên. Công tố viên ở các nước theo truyền thống
công tố chỉ đạo điều tra không can thiệp vào các hoạt động, tác nghiệp điều tra cụ
thể, mà là người định hướng, quyết định kết quả của cuộc điều tra có được sử
dụng, có ý nghĩa để truy tố, để bảo vệ cáo trạng trước tòa hay không. Hầu hết các


hoạt động điều tra và các vụ án do nhân viên cảnh sát thực hiện. Công tố viên chỉ
có vai trò định hướng, dẫn dắt, tư vấn pháp lý và cũng là người quyết định có sử
dụng kết quả của các hoạt động điều tra khi quyết định truy tố/ không truy tố.
Ngay cả đối với các vụ án mà cơ quan công tố thực hiện điều tra từ đầu hay tự
điều tra, công tố viên cũng không tự đi khám xét, theo dõi đối tượng tình nghi, bắt
giữ, nghe trộm điện thoại... mà những hoạt động này Cảnh sát sẽ trực tiếp thực
hiện theo lệnh và hướng dẫn tại chỗ của công tố viên. Đây là một đặc điểm khác
biệt của tố tụng thẩm vấn so với tố tụng tranh tụng xét ở khía cạnh thẩm quyền,
trách nhiệm và sự can thiệp của cơ quan công tố đối với hoạt động điều tra.
+ Cơ quan công tố trong mô hình tố tụng tranh tụng không can thiệp, không
“giám sát”, không “chỉ đạo” cảnh sát điều tra. Việc điều tra do cơ quan cảnh sát
thực hiện, sau đó chuyển sang cơ quan công tố
ơ quan công tố
ối với hồ sơ vụ việc: quyết định có cần điều tra bổ sung, truy tố
hay không truy tố.
+ Trong tố tụng thẩm vấn, vấn đề trách nhiệm luôn được đặt song hành với
thẩm quyền nên cơ quan công tố chịu trách nhiệm về mọi hoạt động điều tra của
8
cơ quan cảnh sát nhưng đồng thời pháp luật cũng trao cho công tố viên có thẩm
quyền ra lệnh, chỉ đạo trực tiếp lực lượng cảnh sát, thậm chí theo quan hệ chỉ đạo
– chấp hành, như mô hình của Hàn Quốc, mặc dù về mặt tổ chức thuộc hai cơ
quan hoàn toàn khác nhau.
- Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn và cưỡng chế tố tụng đặt dưới sự
kiểm soát nghiêm ngặt của tòa án và do tòa án quyết định, công tố viên là người đề



xuất, kiến nghị với tòa án. Như vậy, tòa án là cơ quan quyết định việc áp dụng các
biện pháp ngăn chặn và cưỡng chế tố tụng của cơ quan Cảnh sát cũng như cơ quan
công tố. Đây là một đặc điểm có thể nói là không chỉ ở riêng các nước theo mô hình
công tố chỉ đạo điều tra mà phổ biến ở hầu hết các quốc gia trên thế giới nhằm đảm
bảo các quyền của người bị tình nghi, bị can, bị cáo được bảo vệ tối đa tránh việc áp
dụng pháp luật một cách công bằng khi các cơ quan công tố và cảnh sát thực hiện
việc điều tra và buộc tộ
ố chịu trách nhiệm về các
hoạt động điều tra và cũng có trách nhiệm đề nghị với tòa án về việc áp dụng các
biện pháp ngăn chặn hay cưỡng chế tố tụng. Quy định này vừa gắn trách nhiệm cho
cơ quan công tố phải theo dõi tiến độ, kiểm soát được các hoạt động điều tra, thấy
được nhu cầu cần thiết phải áp dụng và cũng qua đó đảm bảo cho vai trò chi phối,
chỉ đạo hoạt động điều tra của cơ quan công tố [51].
- Tại một số quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề từ Chiến tranh thế giới thứ II
như Nhật Bản, Hàn Quốc hoặc có sự thay đổi chế độ chính trị trong thập niên
1990, điển hình là Cộng hoà liên bang Nga và các nước đông Âu; hoặc ở một số
quốc gia đã tiến hành cải tổ mạnh mẽ nền kinh tế, chính trị, xã hội như Trung
Quốc, việc cải cách các cơ quan công tố - một bộ phận của cải cách tư pháp, đã
làm xuất hiện một hình thức tổ chức và hoạt động mới của cơ quan công tố nói
riêng và mô hình TTHS nói chung và ngày càng trở nên thành xu hướng cải cách
tư pháp nói chung của thế giới. Đó là mô hình TTHS kết hợp - mô hình TTHS có
sự kết hợp các ưu điểm của hai mô hình TTHS tiên tiến nhất của nhân loại thời
hiện đại - mô hình TTHS tranh tụng và mô hình TTHS thẩm vấn [64], trên cơ sở
9


điều kiện riêng biệt về địa lý, chính trị, xã hội, văn hóa, truyền thống tiến hành
TTHS và mục tiêu phát triển của từng quốc gia. Đây có thể xem là một kinh

nghiệm quý, một hướng cải cách tư pháp khả thi vì đối với điều kiện, hoàn cảnh
cụ thể của Việt Nam.
Cơ hội tiếp xúc, nghiên cứu trực tiếp với các nghiên cứu khoa học liên
quan đến đề tài của nghiên cứu sinh là việc tham dự khóa học ngắn hạn do United
Nations Asia and Far East Institute (UNAFEI) tổ chức tại Nhật Bản trong năm
2009 về vấn đề "Luật và Đạo đức nghề nghiệp của thẩm phán, công tố viên và các
nhân viên thực thi pháp luật" (Ethics and Codes of Conduct for Judges,
Prosecutors and Law Enforcement Officers). Kiến thức và kinh nghiệm có được từ
các giảng viên đến từ Nhật, Pháp, Mỹ, Hàn Quốc có giá trị tham khảo rất lớn khi
nghiên cứu, đề xuất các phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng hiệu quả
hoạt động của VKS, đặc biệt là các giải pháp liên quan đến yếu tố con người; Việc
tham gia các hội thảo khoa học về cải cách tư pháp, sửa đổi, bổ sung BLTTHS
năm 2003 do Viện khoa học kiểm sát tổ chức dưới sự tài trợ của tổ chức SIDA
trong năm 2012; tham gia hội thảo phòng, chống tiêu cực trong HĐTP - Kinh
nghiệm của một số nước trên thế giới do Bộ tư pháp tổ chức ngày 03/04/2014
dưới sự tài trợ của Chương trình đối tác tư pháp Liên minh Châu Âu, cũng là
nguồn tài liệu nghiên cứu rất có giá trị trong việc định hình, xây dựng và hình
thành thế giới quan khoa học của tác giả đối với các vấn đề nghiên cứu của đề tài.
2.
ệt Nam
Về các công trình nghiên cứu lớn như đề tài khoa học cấp bộ của tập thể các
tác giả ( Kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ, Viện khoa học VKSND tối cao, Hà Nội,


1999), đã đề cập đến các vấn đề lớn, cơ bản, nền tảng của không chỉ hoạt động của
VKS trong TTHS mà còn của tất cả các hoạt động TTHS khác. Công trình nghiên
cứu này đa dạng, phức tạp, đó là sự tổng hợp rất rộng các quan điểm khoa học
TTHS đối với chức năng, nhiệm vụ của VKS không chỉ trong giai đoạn điều tra mà
cả trong tiến trình TTHS với nhiều ý kiến mâu thuẫn, trái chiều, đòi hỏi người đọc
phải có kinh nghiệm nghiên cứu khoa học nhất định mới có khả năng có được nhận

10
định, đánh giá, chính xác. Mặt khác, các quan điểm khoa học TTHS này xuất hiện
trên cơ sở sự kế thừa các quan điểm của nền khoa học pháp lý ở các nước Đông Âu
trước đây, được thể hiện qua lăng kính yêu cầu “đổi mới” của Việt Nam thập niên
90 thế kỷ XX nên còn nhiều điểm chưa phù hợp với xu hướng hội nhập và học hỏi
lẫn nhau về ưu điểm giữa các truyền thống pháp luật thể hiện khá phổ biến trong
các quan điểm về cải cách, đổi mới trong khoa học hình sự, TTHS hiện nay; Các
công trình nghiên cứu có nhiều ảnh hưởng đến đề tài như: THQCT và kiểm sát các
HĐTP trong giai đoạn điều tra của Lê Hữu Thể và các tác giả năm 2008; Tăng
cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư
pháp, Đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội, 2008; Những vấn đề lý luận và thực tiễn của
việc đổi mới thủ tục TTHS đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Đề tài khoa học cấp
bộ, 2011; Một số vấn đề về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều
tra, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp của Nguyễn
Hải Phong và các tác giả. Đây là những nghiên cứu có tính toàn diện khái quát rất
cao về lý luận và thực tiễn của hoạt động của VKS không chỉ trong điều tra hình sự
mà còn ở các giai đoạn tố tụng khác (như Kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ, Viện khoa
học VKSND tối cao, Hà Nội, 1999; Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc đổi


mới thủ tục TTHS đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Đề tài khoa học cấp bộ,
2011). Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu này hoặc quá rộng, quá bao quát, toàn
diện nên không trùng lặp về phạm vi nghiên cứu với đề tài, hoặc quá hẹp, chuyên
sâu, chi tiết, mang nặng tính mô phạm và thiên về diễn giải, hướng dẫn thực hiện
các thao tác nghiệp vụ kiểm sát đối với cán bộ kiểm sát (như Một số vấn đề về tăng
cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động
điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp). Các công trình nghiên cứu trên chưa chỉ rõ
sự bất cập, hạn chế của pháp luật thực định về hoạt động của VKS trong điều tra vụ
án hình sự. Điểm mà tác giả chưa tìm thấy trong các nghiên cứu trên là sự nhìn
nhận, đánh giá về ưu điểm, hạn chế cả về lý luận và thực tiễn hoạt động của VKS

trong điều tra vụ án hình sự từ góc độ thực tiễn. Trong đó, không chỉ là những hạn
chế của những quan điểm, lý luận hiện được công nhận một cách rộng rãi, phổ biến
11
về vị trí, vai trò của VKS và những hạn chế của pháp luật thực định, đặc biệt là của
BLTTHS năm 2003, trong thực tiễn áp dụng pháp luật về hoạt động của VKS trong
điều tra vụ án hình sự, để từ đó có những đề xuất đổi mới, cải cách khả thi nhằm
hoàn thiện pháp luật.
Nhiều bài viết tiêu biểu được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành như tạp
chí Nghiên cứu lập pháp, tạp chí Kiểm sát của các học giả nổi tiếng trong và ngoài
ngành Kiểm sát, bàn về từng khía cạnh, từng hoạt động của VKS cũng như của các
cơ quan tiến hành tố tụng khác trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Đây là nguồn
tài liệu tham khảo có giá trị đối với các vấn đề nghiên cứu của đề tài kể cả hai khía
cạnh ủng hộ và phản biện quan điểm nghiên cứu của tác giả. Ví dụ như: Lý Văn
Chính, “THQCT trong giai đoạn điều tra”, tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 6/2005;


Đỗ Văn Đương, “Cơ quan THQCT trong cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay”, tạp
chí Nghiên cứu lập pháp, số 7/7/ 2006; Lê Văn Cảm, " Bàn về hệ thống các cơ quan
tiến hành tố tụng và thi hành án trong chiến lược cải cách tư pháp" , tạp chí Kiểm
sát số 01/2009; Trần Công Phàn, " Một số vấn đề về chủ trương tăng cường trách
nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu
cầu cải cách tư pháp" , tạp chí Kiểm sát 03/2012; Trịnh Tiến Việt , "Khái niệm và
các tiêu chí đánh giá hiệu quả kiểm soát xã hội đối với tội phạm" , tạp chí Kiểm sát
số 15/2012; Hoàng Nghĩa Mai, " Nghiên cứu và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm cải
cách tư pháp của Cộng hòa Pháp và Cộng hòa Italia phù hợp với điều kiện cụ thể
của Việt Nam" , tạp chí Kiểm sát số 15/2012; Lê Thị Tuyết Hoa, " Một số nội dung
trọng tâm để thực hiện chủ trương tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động
điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp" , tạp chí Kiểm sát số 16/2012; Nguyễn Hòa
Bình, " Một số định hướng nghiên cứu sửa đổi, bổ sung BLTTHS đáp ứng yêu cầu
cải cách tư pháp" , tạp chí Kiểm sát 16/2012 và tạp chí Kiểm sát số 21/2012;

Nguyễn Thị Thủy, " Sửa đổi bổ sung BLTTHS nhằm thực hiện chủ trương của Đảng
- Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế gắn
công tố với điều tra” , tạp chí Kiểm sát 21/2012; Nguyễn Thái Phúc, " Sửa đổi
nguyên tắc tập trung thống nhất trong ngành Kiểm sát nhân dân", tạp chí Kiểm sát
12
17/2012; Trần Văn Độ, " Hoàn thiện các quy định của BLTTHS về biện pháp tạm
giam", tạp chí Kiểm sát 21/2012; Trần Đình Nhã, " Chế định điều tra tội phạm trong
BLTTHS" , tạp chí Kiểm sát 21/2012; Đỗ Văn Đương, " Phân định rõ thẩm quyển
quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp và sửa đổi, bổ sung chế
định chứng cứ trong BLTTHS" , tạp chí Kiểm sát 16/2012; Đào Trí Úc, " Đề xuất đổi


mới VKS ở Việt Nam từ kinh nghiệm một số nước trên thế giới" , tạp chí Kiểm sát số
12/2013; Lê Đức Xuân, Phạm Lan Phương, " Vai trò cơ quan công tố các nước trên
thế giới trong việc KSĐT các vụ án hình sự" , tạp chí Kiểm sát số 13/2013; Lê Thị
Tuyết Hoa, " Thực trạng và một số kiến nghị nhằm tăng cường trách nhiệm công tố
trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra" , tạp chí Kiểm sát số
08/2014;... Bên cạnh đó, tác giả còn tìm thấy một số tài liệu có ý nghĩa là những
đánh giá tổng kết, khái quát cao kết quả và những hạn chế, yếu kém của công tác
kiểm sát trong quá trình hình thành và phát triển (như Tổng kết một số vấn đề lý
luận và thực tiễn về các công tác của ngành Kiểm sát nhân dân qua 50 năm tổ chức
và hoạt động, Hà Nội, 2010; Báo cáo kết quả tổng kết 8 năm thi hành BLTTHS năm
2003, Hà Nội, 2012). Theo quan điểm của tác giả các nghiên cứu này thiên về đúc
kết kinh nghiệm, tổng hợp, đánh giá ưu, khuyết điểm của hoạt động kiểm sát theo
hai hướng hoặc quá bao quát, toàn diện đến toàn bộ hoạt động nghiệp vụ kiểm sát
hoặc quá tỉ mỉ đối với từng hoạt động kiểm sát cụ thể nên không có cùng mục tiêu
nghiên cứu của đề tài. Tuy nhiên, các bài báo được đăng tải trong các tạp chí trong
và ngoài ngành Kiểm sát, đặc biệt là của Lãnh đạo VKSND tối cao, trở thành nguồn
tài liệu tham khảo có tính chất định hướng nghiên cứu quan trọng đối với đề tài.
Trong những năm gần đây, các đơn vị nghiệp vụ trực thuộc VKSND tối

cao đã triển khai nghiên cứu nhiều chuyên đề nghiệp vụ nhằm phân tích, đánh giá
thực trạng và những giải pháp nâng cao chất lượng THQCT và KSĐT các loại án
hình sự; cụ thể như: “Một số kinh nghiệm về Công tác THQCT và KSĐT án xâm
phạm an ninh quốc gia từ năm 2005 đến năm 2007” của Vụ THQCT và KSĐT án
an ninh năm 2007; chuyên đề “Nâng cao chất lượng THQCT, KSĐT và kiểm sát
xét xử các vụ án hình sự nhằm hạn chế tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung


13
giữa các cơ quan tiến hành tố tụng” của Vụ THQCT và KSĐT án ma túy năm
2008; chuyên đề “Nâng cao năng lực của Kiểm sát viên trong công tác KSĐT án
giết người” của Vụ THQCT và KSĐT án hình sự về trật tự xã hội năm 2008;
chuyên đề “Tổ chức bộ máy và tình hình hoạt động THQCT và KSĐT án tham
nhũng của ngành Kiểm sát trong hai năm 2007 - 2008” của Vụ THQCT và KSĐT
án tham nhũng năm 2009; chuyên đề “Thực trạng công tác KSĐT tội phạm công
nghệ cao - Một số giải pháp và kiến nghị” của Vụ THQCT và KSĐT án hình sự
về kinh tế và chức vụ năm 2009; chuyên đề “Tăng cường trách nhiệm công tố
trong hoạt động điều tra” của Vụ THQCT và KSĐT án trật tự xã hội” năm 2011.
Đây là các nghiên cứu chuyên sâu về nghiệp vụ kiểm sát trong giới hạn không
gian và thời gian xác định nên kết quả nghiên cứu nêu trên có giá trị tham khảo
quan trọng đối với việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của VKS trong giai đoạn điều tra.
Đặc biệt, Viện khoa học kiểm sát với sự giúp đỡ của các chuyên gia pháp
lý Nhật Bản và Cộng đồng Châu Âu thực hiện một số đề án, đề tài nghiên cứu
khoa học TTHS có quy mô lớn nhằm thực hiện nhiệm vụ cải cách tư pháp trong
ngành Kiểm sát ( như: Mô hình TTHS thế giới; Mô hình TTHS Việt Nam; Nghiên
cứu về một số cơ quan công tố trên thế giới; So sánh pháp luật TTHS Việt Nam và
một số nước trên thế giới; Chỉ dẫn về công tác công tố; Định hướng sửa đổi luật
tổ chức VKSND năm 2002 đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp;...), cũng là nguồn
tài liệu đảm bảo tính phong phú, đa dạng của đề tài khi đề xuất phương hướng,

biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của VKS.
Các nghiên cứu học thuật về VKS nói chung và các nghiên cứu về hoạt


động của VKS trong điều tra hình sự nói riêng không nhiều. Luận văn Thạc sĩ luật
học điển hình là: Vũ Thị Xuân Nhuệ "Một số hoạt động KSĐT án kinh tế tại TP.
Hồ Chí Minh 1991-1996"; Đoàn Tạ Cửu Long " Công tác KSĐT án trị an tại
Thành phố Hồ Chí Minh từ 1996 -2000 - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn"; Võ
Phước Long " Chức năng của VKSND trong TTHS" năm 2007; Đoàn Tấn Minh
" Hoạt động của VKS trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự mà bị can là
14
người chưa thành niên trên địa bàn tỉnh Tiền Giang" năm 2008; Nguyễn Văn Tấn
" Hoạt động KSĐT các tội phạm về ma túy tại Thành phố Hồ Chí Minh trong giai
đoạn hiện nay" năm 2008. Một số công trình nghiên cứu ở cấp độ tiến sĩ về hoạt
động của VKS có: Nguyễn Thị Mai Nga "Cơ sở lý luận và thực trạng của điều tra
và truy tố các tội phạm về ma túy", Nhà xuất bản thông tin và truyền thông năm
2012;
“Mối quan hệ giữa cơ quan Cảnh sát điều tra với VKS trong
điều tra vụ án hình sự”,
ật học Trường Đại học cảnh sát nhân
dân năm 2006; Nguyễn Kim Sáu “Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Thanh tra
ngành Kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp” , Luận án Tiến sĩ luật
học của Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh năm 2014,... Các kết quả nghiên
cứu thể hiện trong các Luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ, tuy có một số vấn đề
thuộc cơ sở lý luận có quan điểm, đánh giá khá tương đồng với đề tài, như các vấn
đề về công tố; THQCT; KSHĐTP;… Tuy nhiên, các nghiên cứu này, so với đề tài,
có nhiều quan điểm khác biệt và khác về phạm vi và đối tượng nghiên cứu. Các
nghiên cứu khoa học về VKS nói chung và về hoạt động của VKS trong điều tra



vụ án hình sự là ít được đầu tư, thực hiện.
Về hoạt động nghiên cứu riêng của nghiên cứu sinh nhằm thực hiện đề tài,
gồm có: chuyên đề " Cơ sở khoa học của hoạt động THQCT và KSHĐTP trong
điều tra hình sự" năm 2010; chuyên đề "Chức năng, nhiệm vụ và phương hướng
hoàn thiện hoạt động THQCT, KSHĐTP trong điều tra hình sự theo yêu cầu cải
cách tư pháp" năm 2011; chuyên đề " Thực trạng hoạt động của VKS trong điều
tra hình sự" năm 2011; tiến hành khảo sát bằng phiếu điều tra đối với Kiểm sát
viên, Luật sư, Lãnh đạo VKS hai cấp tại một số tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải
Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh, Ðồng Nai, Long An;... Các kết quả nghiên cứu
trên đều được trình bày thành các nội dung của luận án.
3. Giả thuyết, mục tiêu, mục đích nghiên cứu
Trong nhận thức chung về quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay về nhiệm
vụ, quyền hạn, vị trí, vai trò của VKS trong từng lĩnh vực hoạt động nghiệp vụ nói
chung và trong lĩnh vực TTHS nói riêng còn khác nhau, tồn tại nhiều luận điểm khác
15
biệt, mâu thuẫn. Nguyên nhân cốt lõi là do còn tồn tại sự khác biệt về nhận thức lý luận
về các vấn đề khoa học mang tính cơ sở, nền tảng cho hoạt động thực hiện chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của VKS, như: QCT, HĐTP, THQCT, KSHĐTP, mối quan hệ
giữa THQCT và KSHĐTP, cũng như tính đặc thù của từng lĩnh vực hoạt động thực
hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS. Từ sự khác biệt về nhận thức này kéo
theo hệ quả là việc xây dựng, tổ chức thực hiện pháp luật về tổ chức, hoạt động chức
năng, nhiệm vụ của VKS trong TTHS chưa được hợp lý nên tất yếu chưa đáp ứng
được yêu cầu, đòi hỏi của thực tế công tác đấu tranh, phòng, chống tội phạm.
Để hoàn thành đề tài "Hoạt động của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án


hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp", mục tiêu nghiên cứu của đề tài, kết quả
nghiên cứu phải trả lời được những câu hỏi:
- Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình
sự, có những vấn đề gì cần nghiên cứu để đảm bảo tính nhất quán trong nhận thức

và thực hiện?
- Ưu điểm và hạn chế của truyền thống tổ chức, hoạt động của VKSND
Việt Nam là gì và những kinh nghiệm quý của thế giới có tính khả thi đối với Việt
Nam trong việc tổ chức, hoạt động của cơ quan công tố nhằm thực hiện cải cách
để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự
như thế nào?
- Mục đích, yêu cầu, nội dung của công cuộc cải cách tư pháp đối với nền
tư pháp nói chung và đối với VKS trong điều tra vụ án hình sự là gì?
- Trong thực tiễn áp dụng pháp luật, hoạt động THQCT và KSĐT vụ án
hình sự có những khó khăn, vướng mắc, hạn chế nào?
- Những phương hướng, nội dung, giải pháp, kiến nghị nhằm đổi mới, nâng
cao hiệu quả hoạt động THQCT và KSĐT vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư
pháp là gì?
Giải quyết được các mục tiêu nghiên cứu nêu trên, kết quả mà luận văn
hướng tới là: trở thành nguồn tài liệu tham khảo kể trên cả hai phương diện lý luận
và thực tiễn đối với những ai quan tâm nghiên cứu về một loạt hoạt động TTHS
16
đặc biệt - hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự; và cao hơn nữa hướng
tới sự đóng góp nhất định đối với công cuộc cải cách tư pháp của Nhà nước ta
hiện nay, thông qua việc đề xuất hoàn thiện BLTTHS năm 2003.


×