Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

PHẠM TRÙ LỄ TRONG NHO GIÁO SƠ KỲ VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (387.33 KB, 88 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
----------

NGUYỄN THỊ TĨNH

PHẠM TRÙ LỄ TRONG NHO GIÁO SƠ KỲ VÀ
Ý NGHĨA CỦA NÓ VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành
Mã số

: Triết học
: 60 22 03 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS

ĐẶNG HỮU TOÀN


HÀ NỘI, NĂM 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, luận văn thạc sĩ triết học với đề tài: “Phạm trù
Lễ trong Nho giáo sơ kỳ và ý nghĩa của nó với việc giáo dục đạo đức cho
sinh viên Việt Nam hiện nay” là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới
sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Đặng Hữu Toàn.


Các số liệu, tài liệu trích dẫn trong luận văn là trung thực, đảm bảo tính
khách quan và có nguồn gốc rõ ràng.
Hà Nội, tháng 10 năm 2014
Tác giả

Nguyễn Thị Tĩnh


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn này, tôi xin chân
thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo sau đại học trường Đại học
Sư phạm Hà Nội cùng các thầy cô giáo khoa Triết học, khoa Giáo dục
Chính trị trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tận tình giúp đỡ tôi hoàn
thành chương trình cao học.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến PGS.TS Đặng Hữu
Toàn (Viện Triết học - Viện Hàn Lâm Khoa học xã hội Việt Nam) đã tận tình
hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành Luận văn
Thạc sĩ triết học của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 10 năm 2014
Tác giả

Nguyễn Thị Tĩnh


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Nho giáo xuất hiện ở Trung Quốc cách đây khoảng 2500 năm, là hệ tư
tưởng thống trị của các triều đại phong kiến Trung Quốc. Với tư cách một học
thuyết đạo đức, Nho giáo đặc biệt quan tâm đến việc giải quyết mối quan hệ
giữa con người với con người. Những phạm trù đạo đức cơ bản mà Nho giáo
xây dựng là: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trung, Hiếu, Tín... Đây được coi là những
phạm trù trung tâm để giải quyết các mối quan hệ xã hội.
Lễ là một trong những nội dung chủ yếu trong quan niệm về chính trị xã hội, luân lý đạo đức của Nho giáo. Lễ được hiểu theo nhiều khía cạnh khác
nhau, có nội dung biến đổi cùng với sự biến đổi, phát triển của Nho giáo. Song,
dù được hiểu theo khía cạnh nào thì Lễ cũng có một vị trí và ý nghĩa quan
trọng trong hệ thống những phạm trù đạo đức của Nho giáo với mục đích bình
ổn xã hội.
Trong quá trình du nhập vào Việt Nam, tư tưởng của Nho giáo từ chỗ
đi theo gót chân của kẻ xâm lược dần dần đã hòa nhập vào đời sống cộng
đồng, biến đổi để thích nghi với văn hóa bản địa. Tư tưởng Nho giáo, trong
đó có tư tưởng về Lễ, đã sớm chiếm một vị trí quan trọng trong nền giáo
dục phong kiến và đời sống tinh thần của người Việt Nam. Từ Lễ trong nền
giáo dục phong kiến đến Lễ trong nền giáo dục hiện đại đã có rất nhiều
biến đổi nhưng ở bất kỳ thời đại nào, Lễ cũng có giá trị cần phải được bảo
tồn và phát huy.
Trong những năm gần đây, cùng với quá trình hội nhập quốc tế, phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước, nền giáo dục Việt Nam đã có bước chuyển
quan trọng và đạt được nhiều thành tựu nhất định. Tuy nhiên, quá trình đó
cũng đưa đến một số thay đổi tiêu cực trong các quan hệ xã hội. Là nguồn lực
quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, sinh viên Việt Nam hiện nay,

1


bên cạnh những mặt tích cực, những giá trị đạt được từ nền giáo dục, từ việc
kế thừa truyền thống văn hóa dân tộc thì một bộ phận không nhỏ cũng đang

có những biểu hiện tiêu cực về đạo đức, lối sống.
Với những giá trị đã được thẩm định, phát triển qua thực tiễn nhiều thế
kỷ cùng sự tiếp biến linh hoạt để đưa vào Lễ giá trị mới của thời đại, ngày nay
Lễ vẫn có một ý nghĩa quan trọng đối với việc giáo dục đạo đức cho sinh viên
Việt Nam hiện nay.
Từ những vấn đề có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn nêu trên, tôi
lựa chọn vấn đề: “Phạm trù Lễ trong Nho giáo sơ kỳ và ý nghĩa của nó với
việc giáo dục đạo đức cho sinh viên ở Việt Nam hiện nay ” làm đề tài luận
văn cao học.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Nho giáo là một học thuyết chính trị - xã hội có nội dung khá phong
phú và phức tạp. Nho giáo trở thành một đề tài được nhiều người quan tâm,
đã có không ít các đề tài, các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước
viết về Nho giáo.
Ở nước ta trong những thập niên gần đây cũng xuất hiện nhiều công
trình nghiên cứu về Nho giáo. Nho giáo được các nhà nghiên cứu đề cập ở
nhiều góc độ khác nhau: Về quá trình hình thành và phát triển của Nho giáo,
các triết gia tiêu biểu của Nho giáo, đạo đức của nho giáo, sự phát triển của
Nho giáo ở Việt Nam... dưới nhiều hình thức và thể loại khác nhau.
Liên quan đến đề tài lựa chọn có thể đề cập đến một số công trình, tài
liệu đã được các tác giả nghiên cứu theo một số hướng sau:
Hướng thứ nhất, các công trình nghiên cứu tổng quan về Nho giáo.
- Cuốn sách “Nho giáo” của tác giả Trần Trọng Kim, NXB Văn học,
2003. Trong cuốn sách này, tác giả đã nghiên cứu khá sâu sắc về quá trình

2


hình thành, phát triển của Nho giáo và những nội dung tư tưởng chủ yếu của
học thuyết Nho giáo.

- “Tứ thư” chọn bộ 4 tập (Đại học, Trung dung, Luận ngữ và Mạnh Tử)
do Đoàn Trung Còn dịch, NXB Thuận Hóa - Huế năm 2000. Bộ Tứ Thư là
một bộ sách, tuy là của Trung Quốc, nhưng các cụ ta xưa đã dùng để dạy học.
Tất cả học sinh đều học qua, kẻ ít người nhiều. Những tư tưởng, kiến thức dạy
cho học sinh học để làm người về mọi lĩnh vực. Từ việc nhỏ nhặt đến việc lớn
như việc trị nước, việc bình trị thiên hạ cũng đều có trong bộ sách này.
- Cuốn “Nho giáo xưa và nay” của tác giả Vũ Khiêu, NXB Khoa học
xã hội bao gồm một số bài viết của một số tác giả đề cập tới nhiều vấn đề của
Nho giáo từ phương hướng, phương pháp tiếp cận đến quan hệ của Nho giáo
với kinh tế, lịch sử, văn hoá.
- Cuốn sách “Khổng Tử” của tác giả Nguyễn Hiến Lê, NXB Văn hóa
- 1995, tác giả đã nghiên cứu, trình bày khái quát về con người, cuộc sống
của Khổng Tử, cùng hệ thống tư tưởng cơ bản của Khổng Tử về chính trị,
đạo làm người…
Hướng thứ hai, là những nghiên cứu về ảnh hưởng và vai trò của Nho
giáo đối văn hóa xã hội, với đạo đức con người Việt Nam.
- Cuốn sách “Nho giáo tại Việt Nam” của Lê Sĩ Thắng, NXB Khoa học
xã hội Hà Nội - 1994. Trong cuốn sách này tác giả trình bày về một số nội
dung cơ bản của Nho giáo và sự ảnh hưởng của nó tới xã hội Việt Nam ở một
số lĩnh vực như: truyền thống đạo đức, văn hoá dân tộc, giáo dục khoa bảng...
- “Nho giáo và sự phát triển ở Việt Nam” của tác giả Vũ Khiêu, NXB
Khoa học xã hội 1997. Trong đó tác giả đã có những đánh gia khá sâu sắc và
khách quan về vai trò và sự ảnh hưởng của môt số nội dung tư tưởng trong
Nho giáo đối với sự phát triển của xã hội Việt Nam ngày nay.

3


- Trong cuốn sách “Học thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo và ảnh
hưởng của nó ở Việt Nam (từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX), tác giả

Nguyễn Thanh Bình đã đưa ra và bước đầu luận giải một số chuẩn mực cơ
bản của con người theo quan điểm của Nho giáo, tác giả cũng đã phân tích
những ảnh hưởng to lớn của Nho giáo đến việc hình thành đường lối trị nước
của các triều đại phong kiến Việt Nam.
- Trong cuốn “Bàn về đạo Nho” nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Viện đã
chỉ ra mặt tích cực cũng như mặt tiêu cực của Nho giáo. Đặc biệt ông đánh
giá cao vấn đề đạo làm người và vấn đề “xử thế” của Nho giáo.
- Cuốn “Khổng Tử - Luận ngữ với cuộc sống hiện đại”, tác giả Dương
Minh Hào biên dịch, đi vào khai thác vận dụng những giá trị, ý nghĩa của
Luận ngữ với cuộc sống hiện đại, đặc biệt những giá trị về đạo làm người, về
cách đối nhân xử thế.
Ngoài ra còn những bài viết, bài nghiên cứu của nhiều tác giả khác như:
“Vị trí và vai trò của Nho giáo trong xã hội Việt Nam”, của tác giả Nguyễn
Đức Sư - trên Tạp chí Triết học; “Về giá trị đương đại của Nho giáo Việt Nam”
của GS. Vũ Khiêu; luận án thạc sĩ của Nguyễn Hữu Trí “Quan niệm về giáo
dục của Nho giáo Trung Quốc và ảnh hưởng của nó với nền giáo dục phong
kiến Việt Nam”…
Hướng thứ ba, các công trình nghiên cứu, tài liệu, bài viết, dịch thuật
nghiên cứu riêng về Lễ.
- “Lễ ký - kinh điển về việc lễ” của tác giả Nhữ Nguyên, NXB Đồng
Nai, Biên Hòa 1996.
- “Lễ nghĩa trong nền đạo đức Khổng Mạnh” của G.S Trần Văn
Đoàn đã trình bày những nét cơ bản nhất về sự biến đổi của lễ, và nhất là
sự biến hóa của lễ trong đời sống người Việt, trình bày một cách ngắn gọn

4


quan niệm về lễ qua các sách kinh điển: Lễ trong Luận Ngữ, Lễ nơi Tuân
Tử và Lễ trong Lễ Ký.

- Ngoài ra còn phải kể đến một số bài viết như: “Quan niệm về Lễ của
Nho giáo và những bài học cho chúng ta ngày nay” đăng trên Tạp chí Triết
học số 4 năm 2000 của tác giả Nguyễn Văn Bình; “Tư tưởng về Lễ và chính
danh của Nho giáo” tác giả Minh Anh - Tạp chí Triết học; “Quan niệm Nho
giáo về đạo làm người” của tác giả Nguyễn Thị Thọ - Tạp chí Triết học…
Nhìn chung, mỗi công trình nghiên cứu tiếp cận theo một hướng khác
nhau, nhưng chưa có công trình nghiên cứu nào được coi là có cái nhìn toàn
diện về phạm trù Lễ trong Nho giáo sơ kỳ, hoặc trình bày một cách có hệ
thống nội dung của Lễ, đánh giá hết những giá trị, hạn chế của tư tưởng về Lễ
cũng như đề ra phương pháp vận dụng những bài học lịch sử đó vào việc giáo
dục đạo đức sinh viên hiện nay.
Như vậy, vấn đề Nho giáo đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu qua
các thời kỳ và dưới nhiều góc độ khác nhau. Song, vấn đề nghiên cứu chuyên
sâu về phạm trù Lễ trong Nho giáo và sự vận dụng phạm trù này trong việc
giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay, có thể nói chưa có công
trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống.
Với thái độ trân trọng trước những thành tựu nghiên cứu của các học
giả đi trước với tư cách nguồn cung cấp những kiến thức về Nho giáo và
phạm trù Lễ, chúng tôi đã tham khảo, kế thừa có chọn lọc và trung thực với
nguồn tư liệu quý báu đó trong quá trình thực hiện luận văn của mình.
Về vấn đề thực trạng đạo đức của sinh viên Việt Nam hiện nay, để có
cái nhìn toàn diện về đạo đức, lối sống của sinh viên Việt Nam hiện nay, trên
cơ sở nghiên cứu tư tưởng và quan điểm của Đảng, tác giả có tham khảo, kế
thừa những công trình khảo sát, thống kê, nghiên cứu về thanh niên, sinh viên
về đạo đức, lối sống của sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

5


3. Mục đích nghiên cứu của luận văn, đối tượng, phạm vi nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ những nội dung căn bản của phạm trù Lễ trong Nho giáo sơ kỳ
và sự biến đổi của nó khi du nhập vào Việt Nam, đánh giá những giá trị và
hạn chế của Lễ trên cơ sở đó rút ra ý nghĩa của Lễ với việc giáo dục đạo đức
cho sinh viên Việt Nam hiện nay.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về phạm trù Lễ trong Nho giáo sơ kỳ,
đặc biệt là quan niệm của Khổng Tử, Mạnh Tử và Tuân Tử về Lễ, từ đó rút
ra ý nghĩa của nó đối với việc giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam
hiện nay.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
- Nho giáo bao gồm rất nhiều vấn đề như con người, chính trị - xã hội,
giáo dục, nhưng ở đây, luận văn chỉ nghiên cứu về phạm trù Lễ và khai thác ý
nghĩa của nó đối với việc giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay.
- Quan niệm về Lễ hình thành từ rất sớm ở Trung Quốc và có quá trình
biến đổi và phát triển lâu dài trong lịch sử, nhưng ở đây, luận văn chỉ khai
thác, nghiên cứu về phạm trù Lễ trong Nho giáo sơ kỳ, tập trung ở ba đại biểu
Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử.
4. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn
- Luận văn làm rõ những nội dung căn bản của phạm trù Lễ trong Nho
giáo thời sơ kỳ, và sự biến đổi của nó khi du nhập vào Việt Nam từ đó làm
nổi bật những giá trị, ý nghĩa của Lễ đối với việc giáo dục đạo đức cho sinh
viên Việt Nam hiện nay.
- Luận văn góp phần làm phong phú, sâu sắc thêm lý luận và phương
pháp giáo dục đạo đức con người qua tìm hiểu về Lễ trong Nho giáo nói
chung và trong Nho giáo sơ kỳ nói riêng.

6



- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,
giảng dạy triết học và đạo đức học trong các trường đại học, cao đẳng, trung
cấp chuyên nghiệp… ở nước ta hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Luận văn sử dụng các phương pháp như lịch sử - lôgíc, phân tích,
tổng hợp, quy nạp, diễn dịch.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
bao gồm 2 chương, 6 tiết.
Chương 1. Phạm trù Lễ trong Nho giáo sơ kỳ
Chương 2. Phạm trù Lễ ở Việt Nam và ý nghĩa của nó với việc giáo
dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay.

7


Chương 1
PHẠM TRÙ LỄ TRONG NHO GIÁO SƠ KỲ
1.1. Cơ sở hình thành phạm trù Lễ trong Nho giáo sơ kỳ
1.1.1. Điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội cho sự ra đời và phát triển
Lễ trong Nho giáo sơ kỳ
Trong lịch sử Trung Hoa cổ đại, Nho giáo, Nho gia (đạo Nho) là một
thuật ngữ bắt đầu từ chữ Nho, theo Hán tự từ “Nho” gồm từ “Nhân” (người)
đứng gần chữ “Nhu”. Nho gia còn được gọi là nhà Nho người đã học sách
thánh hiền được thiên hạ cần để dạy bảo người đời ăn ở hợp luân thường, đạo
lý. Nhìn chung “Nho” là một danh hiệu chỉ người có học thức, biết lễ nghĩa.
Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự
đóng góp của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, thời

kỳ cổ - trung đại, Trung Quốc là một trong những nền văn minh đầu tiên của
thế giới. Vào khoảng thế kỷ XII đến thế kỷ XI (TCN) trên dải hoàng thổ phì
nhiêu của con sông Hoàng Hà phía bắc Trung Quốc đã xuất hiện một liên
minh thị tộc lớn với một nền nông nghiệp khá phát triển, chữ viết bắt đầu
được sử dụng. Nhà nước với những hình thức phôi thai của nó đã xuất hiện,
đó là nhà nước Ân - Thương.
Bước sang thế thế kỷ XI (TCN), bộ lạc du mục Chu từ phía Tây Bắc
men sông Hoàng Hà tiến vào tiêu diệt nhà Ân, lập nên nhà Chu, thời đại nhà
Chu bắt đầu, chia thành hai giai đoạn Tây Chu và Đông Chu.
Thời Tây Chu có những đặc điểm nổi bật: Thời kỳ này, đồ sắt đã xuất
hiện nhưng chưa phổ biến. Chế độ quốc hữu về tư liệu sản xuất và sức lao
động được nhà Chu thực hiện rất nghiêm ngặt. Về nguyên tắc, ruộng đất mọi
thành viên trong xã hội đều thuộc quyền quản lý của nhà Chu. Nhà Chu còn
thành lập thành thị đại quy mô. Giữa thành thị và nông thôn đã có sự phân

8


biệt. Thành thị là nơi của tầng lớp quý tộc, thị tộc, của kẻ thống trị, còn nông
thôn là nơi ở của tầng lớp quý tộc, thị tộc còn nông thôn là nơi ở của người thị
tộc bị nô dịch. Nhà Chu đã giữ lại hình thức tổ chức của thị tộc cũ, hệ quả dẫn
đến là trong phân tầng xã hội có sự phân biệt người quân tử (quý tộc) và kẻ
tiểu nhân (kẻ hèn kém), chứ không có sự phân biệt giữa kẻ giàu và người
nghèo trên cơ sở của tài sản.
Những đặc điểm khái quát về kinh tế, chính trị - xã hội trên đã làm cơ
sở cho sự hình thành tư tưởng tôn giáo, chính trị, đạo đức thời Tây Chu.
Về tôn giáo, tiếp thu truyền thống tế tổ, tiên vương của người Ân,
người Chu còn có them tư tưởng kính trời, thờ thượng đế. Trên cơ sở quan
niệm tôn giáo đó, nhà Chu xây dựng một nền văn hoá của riêng tầng lớp quý
tộc, học vấn không xuống tới nông thôn.

Tư tưởng chính trị, ở thời Chu đã được tôn giáo hoá một cách toàn
diện. Mọi chính sách của nhà Chu đều được giải thích là “vâng mệnh trời”.
Bên cạch đó, tư tưởng “trị dân” cũng là một tư tưởng chính trị quan trọng.
Về đạo đức, cơ sở để hình thành những quy tắc đạo đức trong thời kỳ
này chính là mối quan hệ giữa thiên tử và muôn dân, từ đó sinh ra mối quan
hệ giữa quyền lợi và nghĩa vụ của người dân. Vì vậy, tư tưởng đạo đức của
thời Tây Chu luôn lấy hai chữ Hiếu và Đức làm nòng cốt. Quan niệm đạo
đức này nhằm củng cố địa vị của giai cấp quý tộc, thị tộc, bảo vệ nhà
nước chuyên chính thị tộc.
Nho giáo được coi là ra đời từ thời Tây Chu nhưng phát triển với nhiều
nhà nho tiêu biểu thì phải nói tới thời Đông Chu hay còn gọi là thời Xuân Thu
- Chiến Quốc (770 - 221 TCN).
Về kinh tế, thời Đông Chu đồ sắt đã được sử dụng phổ biến. Công cụ
bằng sắt tham gia vào sản xuất đem lại sự phát triển mạnh mẽ cho nền kinh tế
nông nghiệp và thương nghiệp.

9


Về chính trị, sự phát triển mạnh mẽ trên lĩnh vực kinh tế đã tác động lớn
tới hình thức sở hữu ruộng đất và kết cấu giai cấp trong trật tự xã hội cũ. Trong
xã hội xuất hiện một tầng lớp địa chủ mới lên, họ ngày càng giàu có và lấn át
quý tộc, thị tộc cũ. Họ đòi được quyền bình đẳng với tầng lớp quý tộc nhà Chu.
Sự phân biệt sang hèn dựa trên cơ sở huyết thống của nhà Chu tỏ ra không còn
phù hợp nữa mà đòi hỏi phải dựa trên cơ sở về giá trị tài sản. Quyền sở hữu tối
cao của vua nhà Chu bị tầng lớp địa chủ mới lên lấn át và chiếm lĩnh, địa vị
chính trị, ngôi thiên tử của nhà Chu đang dần chỉ còn là hình thức. Khi nhà Chu
đang giữ ngôi thiên tử đã chia thiên hạ ra làm hơn 70 nước chư hầu. Thời kỳ
nhà Chu còn thịnh vượng, những nước chư hầu đều có quyền tự chủ và hàng
năm phải cống nộp cho thiên tử nhà Chu. Nhưng ở giai đoạn Đông Chu trật tự

bị đảo lộn. Nhà Chu suy nhược sau phải dời đô về phía đông ở Lạc Ấp. Mệnh
lệnh của thiên tử không ai nghe theo. Các nước chư hầu phân tán ra đến 160
nước lớn nhỏ. Chiến tranh giữa các quốc gia xảy ra liên miên và ngày càng
khốc liệt, nhân dân lầm than, cương thường đổ nát. Theo sử sách Trung Quốc
còn ghi có tới 36 vụ bề tôi giết vua chúa, 52 vụ bán rẻ đất nước, loạn lạc, khổ
đau không kể xiết. Thời kỳ vua không ra vua, tôi không ra tôi, cha không ra
cha, con không ra con.
Trong thời kỳ biến loạn đó, người trong nước mới lo nghĩ tìm cách sửa
đổi để cứu vớt thiên hạ, nhiều học thuyết triết học ra đời. Lịch sử gọi đây là
thời kỳ “Bách gia chư tử”, “Bách gia tranh minh”. Nho giáo do Khổng Tử
sáng lập, ra đời trong thời kỳ này, cũng giống như những học thuyết khác đều
muốn dựa vào những quan điểm của mình để giải thích xã hội, mong muốn
điều chỉnh xã hội theo những trật tự nhất định. Quan niệm về Lễ của Nho giáo
chính được hình thành và phát triển trên cơ sở xã hội này.
Khổng Tử được coi là người sáng lập ra Nho giáo. Người kế tục xuất
sắc của Khổng Tử là Mạnh Tử và Tuân Tử. Ba nhà tư tưởng này là đại biểu

10


tiêu biểu của Nho giáo thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc (Nho giáo tiên Tần
hay Nho giáo sơ kỳ). Nho giáo có 6 bộ sách lớn là Kinh Dịch, Kinh Thi, Kinh
Thư, Kinh Lễ, Kinh Nhạc và Kinh Xuân Thu. Đến thời nhà Tần, bộ Kinh
Nhạc bị thất truyền, chỉ còn lại Ngũ Kinh. Về sau, các học trò của Khổng Tử
căn cứ vào Lục Kinh và những lời dạy của Khổng Tử dạy học trò, những lời
đàm thoại của Khổng Tử với những người khác, viết thêm được các bộ sách
nữa là Luận ngữ, Mạnh Tử (do Mạnh Tử viết), Đại học (Tăng Sâm viết),
Trung Dung (do Tử Tư viết).
1.1.2. Khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của các nhà sáng lập Nho
giáo sơ kỳ

Cuộc đời và sự nghiệp của Khổng Tử
Khổng Tử (551 - 479 TCN), thọ 73 tuổi, tên thật là Khâu, tự là Trọng
Ni, sinh ở Khúc Phục nước Lỗ trong một gia đình quý tộc nhỏ đã sa sút. Quê
hương nước Lỗ của Khổng Tử là nơi bảo tồn được nhiều văn hóa cũ của nhà
Chu. Sử sách còn ghi: Thủa nhỏ Khổng Tử hay chơi trò bày đồ cúng tế, ham
học, thích nghiên cứu Thi, Thư, Lễ, Nhạc đời trước. Điều này biểu hiện bản
tính của Khổng Tử luôn coi trọng những điều lễ nghĩa.
Năm Khổng Tử lên 3 tuổi thì cha mất. Ông sống với mẹ trong cảnh nhà
nghèo. Khi lớn lên, mẹ cho đi học. Ông thích bày cúng tế khi chơi với trẻ
hàng xóm. Năm 15 tuổi, ông đã lập chí học tập. Năm 19 tuổi, ông lấy vợ, vợ
của ông là con của họ thượng quan nước Tống và sanh được một người con,
đặt tên là Lý Tự. Khổng Tử là người rất thông minh, luôn luôn ham học. Bất
cứ việc gì, ông cũng để ý xem xét rất kĩ lưỡng để biết cho tận cùng mới thôi.
Tính ông ôn hòa, nghiêm trang, khiêm tốn, làm việc gì cũng hết sức cẩn thận,
đề cao lễ nhạc, luôn luôn tin vào thiên mệnh. Năm 21 tuổi, Khổng Tử được cử
làm chức Ủy Lại, một chức quan nhỏ coi việc sổ sách của kho lúa, cùng là cân
đo và gạt lúa. Sau đó qua làm chức Tư Chức Lại, coi việc nuôi bò, dê, súc vật

11


dùng trong việc tế tự. Năm 25 tuổi thì mẹ ông mất. Ông bắt đầu học đàn với
Sư Tương, ở nước Lỗ. Do chủ chương chính trị không hợp, ông bỏ nước Lỗ đi
chu du qua nhiều nước Vệ, Tống, Trần, Thái… Khổng Tử chỉ muốn đem cái
đạo của mình để giúp đời mà mãi không thành công được. Học thuyết của
Khổng Tử là học thuyết của những người học Nho cốt ở hành đạo, ai có tài,
có trí thì phải ra ứng dụng ở đời để làm những điều lợi ích cho nhân chúng,
chứ không phải chỉ cầu lấy sự an nhàn và vui thú trong vòng tư tưởng, học
thuyết ấy tất là phản đối với quyền lợi của các vua chư hầu và các quan đại
phu, cho nên ông đi đến đâu các nước vì danh nghĩa mà trọng đãi nhưng kỳ

thực không ai muốn dùng ông. Năm 70 tuổi ông trở về nước Lỗ dạy học và là
người đầu tiên mở nền tự học.
Khổng Tử sinh thời là người rất thông minh, sống ôn hòa, rất cẩn thận,
nhân hậu, hễ ai đau đớn, buồn rầu thì ông cũng động lòng thương xót. Ông là
người rất hiếu học và hay suy xét những việc đời xưa. Đối với các học trò ông
rất dễ dãi, ai theo đúng Lễ thì không bao giờ ông từ chối, không bao giờ ông
làm việc gì mà không cho mọi người biết. Với đức độ như vậy nên học trò
của Khổng Tử rất đông, ai cũng yêu mến và kính trọng thầy. Học trò của ông
đông đến 3000 người, trong đó có nhiều người tài giỏi, nổi tiếng sau này cũng
được thờ cúng cùng ông.
Như đã nói ở trên, thời đại Khổng Tử là thời đại nhà Chu suy nhược,
chư hầu lấn át, trật tự lễ pháp bị đảo lộn. Đứng trên lập trường của bộ phận
cấp tiến trong giai cấp quý tộc nhà Chu, ông đem sách thánh hiền đời trước
phát triển, lập thành một học thuyết có hệ thống, lấy Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí
dạy người, lấy cương thường hạn chế nhân dục để giữ vững trật tự xã hội.
Khổng Tử chủ trương lập lại pháp chế, kỷ cương của nhà Chu với một nội
dung mới để khắc phục tình trạng xã hội hiện thời.

12


Khổng Tử là một nhà tư tưởng lớn, có ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa
Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam. Tài liệu chủ yếu để nghiên cứu
tư tưởng của ông là cuốn “Luận ngữ” ghi lại lời của Khổng Tử và học trò.
Bên cạnh đó còn có cuốn “Tứ thư” và “Ngũ kinh”, trong đó có bốn quyển
không phải tác phẩm ông viết mà do ông chỉnh lý lại, ông chỉ viết kinh “Xuân
- Thu”. Sau thời Xuân Thu - Chiến Quốc, tư tưởng của Khổng Tử còn được
kế thừa và cải biến qua nhiều giai đoạn lịch sử, gắn liền với tên tuổi của nhiều
nhà Nho khác. Sau Khổng Tử là Mạnh Tử, Tuân Tử, thời Lưỡng Hán gắn với
tên tuổi của Đổng Trọng Thư, thời Tùy - Đường gắn với Hàn Dũ, Lý Cao,

thời Tống - Nguyên gắn với Trình Hạo, Trình Di…
Cuộc đời và sự nghiệp của Mạnh Tử
Phái đạo đức của Tăng Tử ở nước Lỗ, truyền đến cuối thế kỷ thứ IV
(TCN) thì một số nhà hiền triết đem nho giáo làm cho sáng rõ hơn trước. Đó
chính là Mạnh Tử.
Mạnh Tử (372 - 289 TCN), là người đất Trâu nay thuộc huyện Trâu
thuộc tỉnh Sơn Dương. Năm ông lên ba tuổi thì cha mất, nhờ có mẹ dạy dỗ.
Khi lớn lên, Mạnh Tử theo học với thầy Tử Tư, tức là Khổng Cấp, cháu nội
của Đức Khổng Tử. Mạnh Tử học với Tử Tư hiểu được cái đạo của Đức
Khổng Tử, lại có tài hùng biện và sở trường về khoa nói thí dụ. Lời nói của
ông chắc chắn và mạnh mẽ, có sức thuyết phục. Mạnh Tử làm điều gì cũng
lấy Đức Khổng Tử làm tiêu chuẩn. Mạnh Tử nói Đức Khổng Tử là bậc Thánh
về thời, nghĩa là Đức Khổng Tử có gồm hết các đức tốt của các bậc Thánh
khác và ở vào thời nào cũng đều ứng dụng được cả.
Mạnh Tử ở vào thời Chiến Quốc, loạn lạc khắp nơi. Mạnh Tử cũng
muốn đem tài học ra cứu đời. Ông muốn bắt chước Đức Khổng Tử định đi
chu du các nước chư Hầu để đem cái đạo của Thánh nhân ra ứng dụng. Thời
Chiến Quốc, thiên tử nhà Chu quá nhu nhược, không thể điều khiển được các

13


vua chư Hầu. Mạnh Tử đành phải giúp vua chư Hầu, những nước nhỏ bé quá
thì không thể làm gì được, nên ông lưu ý đến hai nước lớn là Tề và Lương.
Những nước lớn này lại không chịu theo Vương đạo, mà chỉ muốn theo Bá
đạo muốn làm bá chủ thôn tính các nước khác, nên họ cho lời nói của Mạnh
Tử là viễn vông, không thiết thực. Mạnh Tử cực lực bài xích các học thuyết
cực đoan này để làm sáng tỏ Đạo của Khổng Tử.
Mạnh Tử học rộng, lý luận rất chặt chẽ, muốn đem cái sở đắc ra hành
đạo nhưng không gặp thời. Ông có công rất lớn trong việc làm sáng tỏ Đạo

Nho. Mạnh Tử đi chu du qua nhiều nước chư Hầu, muốn giúp vua chư Hầu
thi hành Đạo của Thánh nhân, nhưng không vua nào chịu theo. Đến khi tuổi
già, sức đã mỏi, ông xin từ chức quan khanh ở nước Tề trở về quê nhà dạy
học trò, và cùng với các môn đệ như: Nhạc Chính Khắc, Vạn Chương, Công
Tôn Sửu, sáng lập ra Thuyết Tính Thiện, đồng thời ghi chép lại những điều
mà Mạnh Tử đối đáp với các vua chư Hầu hoặc với môn đệ, cùng những lời
Mạnh Tử phê bình các chênh lệch của các học thuyết khác làm thành sách, đặt
tên là sách Mạnh Tử, gồm 7 thiên, được liệt vào Tứ Thư của Nho giáo, (Tứ
Thư gồm: Đại học, Luận Ngữ, Trung Dung, Mạnh Tử).
Cuộc đời và sự nghiệp của Tuân Tử
Tuân Tử tên là Huống, tự là Khanh, người nước Triệu, ông sinh khoảng
từ năm 315 và 310 (TCN) kém Mạnh Tử khoảng năm sáu mươi tuổi. Đời Hán
đặt tên sách của Tuân Tử là "Tôn Khanh Tử", sang thời Đường mới đổi lại
xưng hô "Tuân Tử". Trước năm 40 tuổi, Tuân Tử chuyên tâm về việc trau dồi
học vấn, khoảng trước sau 50 tuổi đi du hành qua các nước, những năm đầu
làm huyện lệnh Lan Lăng của nước Sở, những năm sau thì mở lớp dạy học
giống như Khổng Tử, Mạnh Tử thuở trước. Đúng vào năm 50 tuổi, Tuân Tử
đến nước Tề. Tuy được người Tề hết sức kính nể, đã trước sau ba lần cử làm
"Tế tửu” - một danh hiệu vinh dự nhưng cuối cùng không được trọng dụng.

14


Sau khi rời Tề sang Tần, Tuân Tử được gặp tể tướng Phạm Tuy. Lúc đó Tần
là một cường quốc, thường ỷ thế mạnh đe dọa chư hầu. Phạm Tuy hỏi cảm
nghĩ của khách ra sao, đối với Tần. Tuân Tử khen điều hay, chê điều dở của
Tần một cách thẳng thắn, chẳng ngại mếch lòng ai đó là thái độ nghiêm túc,
phải là phải, trái là trái của con người Nho học. Song cũng vì thế, nên Tuân
Tử đã thiếu dịp may thi thố tài đức, thực hiện lý tưởng chính trị của mình,
đành phải trở về cố quốc. Ở Triệu là nơi nước nhà cũng không đắc chí Tuân

Tử, ông lại tái xuất ngoại, sang nước Sở. Tại Sở, Tuân Tử được Xuân Thân
Quân bổ làm huyện lệnh huyện Lan Lăng, rồi từ đó định cư luôn tại đó, không
trở về cố quốc nữa. Vào những năm cuối cùng, lúc tuổi về già, Tuân Tử mở
trường tư thục dạy học và viết sách, sáng lập ra học phái Lan Lăng, tạo dựng
phong khí thư hương cho xứ này. Từ đó, học trò Lan Lăng hay lấy chữ
"Khanh" đặt tự, để kỷ niệm thầy Tuân Tử.
Sách của ông để lại hiện nay có một bộ gọi là “Tuân Tử”, gồm có 36
thiên. Không rõ Tuân Tử thuộc học phái nào trong Nho giáo, có người nói
rằng ông thuộc hệ phái Tử Hạ, nhưng không có bằng chứng gì xác thực. Tuân
Tử là một nhà nho vào cuối thời Chiến Quốc, khi đó cả Nho giáo, Lão giáo và
Mặc giáo đều thịnh hành, các học giả ở trong các học thuyết ấy nhưng mỗi
người theo một tông chỉ, hoặc thiên về mặt kiêm ái hoặc thiên về mặt vĩ ngã,
hoặc sùng bái thiên nhiên, hoặc chú trọng về mặt chính trị hay hành pháp. Các
học thuyết công kích lẫn nhau. Tuân Tử cũng dùng lối biện luận mà công kích
các học thuyết khác. Trong sách của ông, thường hay bàn đến các học thuyết
ấy và những lời ông phê bình.
Tuân Tử tuy là một hậu duệ của nho giáo, nhưng do tiếp thu không
khí thời Chiến Quốc cho nên ông thiên về mặt biện luận mà bỏ mất cái lối
tâm học uyên bác của Khổng giáo, bởi vậy hậu nho không nhận ông là

15


chính truyền, nhưng học thuyết của ông lại có ảnh hưởng rất lớn với Nho
học về sau.
1.2. Quan niệm về Lễ trong Nho giáo sơ kỳ
1.2.1. Lễ là những quy định về nghi thức tế lễ
Lễ là phạm trù cơ bản, xuyên suốt trong học thuyết của Nho giáo. Lễ
không đồng nhất hay chỉ có một ý nghĩa duy nhất trong quan niệm của Nho
giáo. Cùng với lịch sử phát triển của Nho giáo thì phạm trù Lễ không ngừng

được bổ sung và hoàn thiện.
Theo các nhà nghiên cứu lịch sử tư tưởng Trung Quốc, ban đầu, Lễ
theo nghĩa đen hoàn toàn chỉ có ý nghĩa cúng tế thần linh - một lễ nghi tô
tem giáo của người xưa. Nó thể hiện mối quan hệ giữa con người với trời
đất, quỷ thần.
Theo “Từ điển thuyết văn giải tự” thì Lễ chính là “Kính thần cầu
phúc”. Nó chỉ cách thức cúng tế, thờ thần cho được phúc - thể hiện nghi lễ tô
tem giáo của người xưa. Nho giáo thể hiện sự tin tưởng vào trời đất, thiên
mệnh, quỷ thần, coi quỷ thần như cái khí thiêng của trời đất. Vì vậy mà con
người phải kính cẩn thờ phụng, thờ trời đất, quỷ thần phải thể hiện sự “thành”
và “kính”. Lễ bái là việc mang ý nghĩa tôn giáo nhưng nó không chỉ là những
nghi thức có tính hình thức. Với Khổng Tử khi tế lễ phải kính cẩn, nghiêm
túc. Trong chương Thuận Nhi - Luận ngữ Khổng Tử đặc biệt nhấn mạnh đến
nghi thức cũng như thái độ ta phải có khi cúng tế, khi thụ tang, khi gặp thiên
tai… Khổng Tử yêu cầu: “trong việc ăn uống thì đạm bạc, nhưng lễ vật dâng
cúng quỷ thần thì trọng hậu, y phục thường mặc thì xấu mà áo mũ trang sức
trong dịp tế lễ thì đẹp đẽ” [9, tr.130]. Khổng Tử không chỉ quan tâm tới nghi
thức mà còn quan tâm tới cả nghĩa vụ, bổn phận của mỗi người khi tế lễ. Khi
tế lễ phải đúng danh phận của mình, đúng những nghi thức, quy định đã đặt
ra, không được vi phạm, nếu vi phạm sẽ là người thất lễ, tiếm lễ. Khổng Tử

16


không những khuyên mọi người mà còn tự mình nêu gương trong việc thực
hành Lễ. Để tỏ lòng kính cẩn, theo ông khi lễ quỷ thần phải coi như quỷ thần
ngồi tại đó. Trường hợp vào chầu vua, ông quy định rất chi tiết từ dáng đi đến
nét mặt cho đến tiếng nói và hơi thở.
Khi thực hiện Lễ, Khổng Tử cũng đòi hỏi Lễ phải gắn với “Nhân”, nếu
không đó chỉ là những nghi thức giả dối, phiền toái mà thôi: “Người ta mà

chẳng có lòng nhân, làm sao mà thi hành lễ tiết” [9, tr.32]. Điều đó thể hiện
Khổng Tử là người rất trọng Lễ và nghiêm túc trong việc thực hiện Lễ. Việc
thực hiện Lễ phải xuất phát từ lòng thành kính, từ cái tâm thực sự chứ không
chỉ là hình thức qua loa, đại khái. Khổng Tử và Mạnh Tử cũng không đồng ý
với việc thực hiện những nghi thức lễ tiết một cách xa xỉ, chỉ chú trọng hình
thức mà không có nội tâm thực sự: “Người ta bàn về lễ, người ta luận về lễ,
đó là họ kể số ngọc quý và lụa tốt chứ gì? Người ta khen nhạc, người ta ngợi
nhạc, đó là họ nói chuông trống rình ran phải không?” [9, tr.276].
Như vậy, Lễ của Nho giáo trước hết là sự thể hiện mối quan hệ của con
người với trời đất, quỷ thần, với tổ tiên. Qua Lễ mà con người mới thể hiện
được đạo “Hiếu” của mình với tổ tiên. Nhưng trong việc tế lễ không phải ai
cũng như nhau mà còn tuỳ thuộc vào địa vị chức phận của mỗi người. Theo
Khổng tử chỉ có thiên tử mới được tế Trời Đất, thần núi cao, sông
lớn. Chư hầu tế thần sông núi của nước mình, còn mọi người thờ cúng linh
hồn tổ tiên ông cha mình. Đó là quỷ thần (linh hồn) thuộc về mình. Nho giáo
coi trọng việc thờ cúng tổ tiên nhưng là để tỏ lòng biết ơn tiên tổ chứ không
phải là để cầu phúc. Cho nên để tổ tiên không có người hương khói là tội lớn
nhất. Ngoài linh hồn tổ tiên của từng gia tộc còn có những thần linh chung mà
Nho giáo khuyên tỏ lòng kính trọng chứ không nên mê muội cúng bái. Thực
chất việc thực hiện Lễ cũng vì mục đích củng cố niềm tin của con người vào
một trật tự xã hội mà “mệnh Trời” đã xếp đặt. Vì vậy, sách “Chu lễ” có viết

17


“Lễ không xuống tới thứ dân”. Về sau, Chu Công Đán là người đã chế tác ra
Lễ với rất nhều nghi thức, nhằm mục đích xác lập các mối quan hệ xã hội,
duy trì trật tự đẳng cấp của nhà Chu. Vì thế, nội dung của lễ đã chuyển từ tế lễ
- tôn giáo sang chính trị - đạo đức, và trở thành công cụ thống trị của giai cấp
quý tộc nhà Chu, trở thành một phạm trù cơ bản của học thuyết Nho giáo.

1.2.2. Lễ là trật tự xã hội, là đường lối trị nước và luật lệ quốc gia
Sau này, vì mục đích bảo vệ chế độ “tông pháp” của nhà Chu và ổn
định trật tự xã hội mà Khổng Tử tuyên bố “Ngô tòng Chu”. Dần dần trong
quá trình nhận thức ông đã nhận ra ý nghĩa đặc biệt và vai trò của Lễ. Lễ được
coi là tiêu chuẩn để đánh giá con người, Lễ là gốc của Nhân, biểu hiện thái độ
của Lễ là ở kính, ở lòng chí thành. Lễ đã trở thành những quy phạm bắt buộc,
là tiêu chuẩn phổ biến của xã hội để điều chỉnh hành vi của con người. Nó
không chỉ còn là phong tục, tập quán của lễ giáo cổ đơn thuần mà còn là pháp
luật, là nếp sống, mang ý nghĩa đạo đức, văn hoá rộng lớn.
Phạm trù Lễ được dùng về phương diện phân tôn ti, trật tự, tức là phép
tắc để tổ chức luân lý ở trong gia đình, xã hội và quốc gia. Trong xã hội mối
quan hệ giữa con người với con người rất phức tạp. Vì muốn thiết lập lại trật
tự xã hội, Nho giáo quy định rạch ròi các mối quan hệ trong xã hội. Trong
năm mối quan hệ cơ bản (Ngũ luân) mà Nho giáo phân định, thì mối quan:
vua - tôi, cha - con, chồng - vợ (Tam cương) được đặc biệt đề cao. Tuy nhiên,
thời đại của Khổng Tử là thời đại mà theo ông “Lễ nhạc hư hỏng”: Vua không
giữ đúng đạo vua, tôi không giữ đúng đạo tôi, cha không giữ đúng đạo cha,
con không giữ đúng đạo con… nên thiên hạ “vô đạo”. Để lập lại kỷ cương xã
hội, khôi phục cương thường, Lễ chế của nhà Chu. Khổng Tử chủ trương quy
định ranh phận cho từng người (Chính danh). Và Lễ chính là phương tiện, là
công cụ để quy định danh phận của từng người trong xã hội theo đúng địa vị,

18


ngôi thứ của mình. Từ đó, Nho giáo đề ra những quy định, yêu cầu về Lễ
trong thực hiện các mối quan hệ xã hội, như:
- Lễ đối với vua
- Lễ đối với cha mẹ
- Lễ với bậc trưởng lão

- Lễ với thầy giáo
- Lễ giới hạn giữa nam và nữ
- Lễ giáo dục thiếu niên nhi đồng
- Lễ sinh hoạt rộng rãi.
Trong từng mối quan hệ cụ thể, Nho giáo yêu cầu, tuỳ vào vị trí, vai
trò, địa vị của từng người mà thực hiện đúng theo lễ nghĩa, phép tắc, thứ bậc
không tiến vượt, không sai lệch. Việc thực hiện Lễ ở đây đòi hỏi theo cả hai
chiều vua đối với bề tôi, bề tôi với vua, con cái đối với cha mẹ và cha mẹ đối
với con cái, trò đối với thầy và ngược lại…
Cụ thể, biểu hiện của việc con cái phải có Lễ đối với cha mẹ: “Mùa
lạnh con phải xem cha mẹ mặc đủ ấm chưa, mùa hạ xem cha mẹ đủ thoáng
mát chưa, hàng đêm trải giường cho cha mẹ. Buổi sớm phải đến vấn an cha
mẹ, để ý tình trang sức khỏe của song thân; Con cái nếu cần đi ra ngoài phải
thưa bẩm, được cho phép mới đi. Khi trở về, phải đến trình diện cha mẹ để
cha mẹ yên tâm. Đi tới đâu phải có nơi chốn nhất định và báo cho cha mẹ
biết…” [29]
Theo Lễ, người con có hiếu và biết lễ phép thì khi ở trước mặt cha mẹ
ruột hoặc cha mẹ chồng phải vâng dạ, kính cẩn, tiến thoái phải chu toàn, thận
trọng, lên xuống, ra vào phải cung kính, không dám đằng hắng hay ngáp dài,
không được đứng dựa nghiêng ngả, liếc ngang liếc dọc. Nếu như cha mẹ có
lỗi lầm gì mình phải vui vẻ, hoà nhã dùng lời nói ôn hoà mà can gián. Nho
giáo cũng có những yêu cầu đạo đức ngược lại từ phía cha mẹ đối với con cái.

19


Khổng Tử giải thích xã hội phải có Lễ, vì “không có lễ lấy gì phân biệt
địa vị vua tôi, trên dưới, lớn nhỏ. Không có lễ lấy gì để phân biệt tình thân
mật của trai gái, cha con, anh em, sự giao tiếp sơ hay thân của hôn nhân vậy”
[35, tr.19]. Lễ chính là phép tắc cư xử của mỗi con người trong xã hội: “Thị

cố long lễ do lễ, vị chi hữu phương chi sĩ. Bất long lễ, bất do lễ, vị chi vô
phương chi dân. Kính nhượng chi đạo dã, cố dĩ phụng tông miếu tắc kính; dĩ
nhập triều đình, tắc quý tiện hữu vị; dĩ xứ thất gia, tắc phụ tử thân, huynh đệ
hoà; dĩ xứ hương lý, tắc trưởng ấu hữu tự. Khổng Tử viết: “An thượng trị dân,
mạc thiện vu lễ”, nghĩa là Lễ là đạo kính nhường nhau. Khi tế lễ tông miếu
phải thành kính, trên triều đình trăm quan phải có tôn ti trật tự; trong đời sống
gia đình thì cha con yêu thương nhau, anh em hoà mục, gặp nhau trong thôn
xóm thì già trẻ có tôn ti. Khổng Tử nói: “Kẻ trên mà yên với việc ở ngôi trên
trị vì trăm họ thì chẳng có ai không biết tuân thủ lễ phép nữa”. [29]
Với Mạnh Tử, mục đích giáo dục của ông cũng chính là việc khiến cho
mọi người đều biết về Lễ, dựa vào Lễ mà thực hiện đúng các mối quan hệ với
nhau trong xã hội: “Cha con phải có tình thương yêu nhau, vua tôi phải có
nghĩa, vợ chồng phải kính nể nhau, già trẻ phải có thứ bậc trên dưới, bạn bè
phải có tín” [9, tr.168].
Tuân Tử cũng coi Lễ chính là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức xã hội.
Nói về nguồn gốc của “Lễ” ông nói: “Vì ghét loạn và mong muốn nền bình trị
mà tiên vương chế ra lễ để phân biệt trên dưới, khiến cho sang hèn có đẳng
cấp, già trẻ có sự sai biệt, trí ngu, tài giỏi, kém cỏi đều có phân vi khác nhau
để không tranh nhau, không tiếm vượt” [6, tr.308]. Tuân Tử còn cho rằng:
“Người sinh ra mà có lòng muốn, muốn mà không được thì không thể tìm,
tìm mà không có chừng mực giới hạn thì không thể không tranh. Tranh thì
loạn, loạn thì khốn cùng. Tiên vương ghét cái loạn, nên chế lễ nghĩa để phân
biệt trật tự, để nuôi cái muốn của người ta, cấp cái tìm của người ta, khiến cái

20


×