Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Cơ sở triết học về vấn đề đổi mới tư duy lý luận trước khi đổi mới thực tiễn ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.03 KB, 31 trang )

1

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thiện tiểu luận này, tôi rất vui mừng vì đã nhận được sự giúp
đỡ nhiệt tình của Thầy giáo TS. Vi Thái Lang, các đoàn thể, cá nhân và sự nỗ
lực cố gắng của bản thân.
Trước hết tôi xin bày tỏ lời cám ơn tới Thư viện trường ĐHSP Hà Nội
2, phòng sau đại học, tập thể K16 TGT, các đơn vị liên quan của trường
ĐHSP Hà Nội 2 và lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Vi Thái Lang người đã trang
bị cho tôi những kiến thức quý báu và tạo điều kiện giúp đỡ, hướng dẫn tôi
trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thiện tiểu luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đồng nghiệp đã động viên,
chia sẻ, giúp đỡ nhiệt tình và đóng góp nhiều ý kiến quý báu để tôi có được
một kiến thức về lĩnh vực nghiên cứu này.

Hà Nội, tháng 01 năm 2013
TÁC GIẢ

ĐÀO QUANG HƯNG

Tiểu luận triết học

Đào Quang Hưng- K16. TGT


2

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong tiểu luận
này là trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam
đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện tiểu luận này đã được cảm ơn và


các thông tin trích dẫn trong tiểu luận này đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, tháng 01 năm 2013
TÁC GIẢ

ĐÀO QUANG HƯNG

Tiểu luận triết học

Đào Quang Hưng- K16. TGT


3

MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN:............................................................................................................
LỜI CAM ĐOAN:......................................................................................................
MỤC LỤC:..................................................................................................................
MỞ ĐẦU:.....................................................................................................................
NỘI DUNG:...............................................................................................................
Chương 1: Một số khái niệm liên quan đến cơ sở lý luận của đề tài
nghiên cứu..................................................................................................................
1.1 Thực tiễn………………………..………………………………………..
10
1.2 Thực tiễn có vai trò quan trọng đối với quá trình nhận thức..............................
1.3 Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn.................................................................
Chương 2: Quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam............................................
2.1. Vị trí địa lý...........................................................................................................
2.2. Quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam.............................................................
2.3. Biện pháp giải quyết tình hình để phát triển kinh tế...........................................
Chương 3: Áp dụng lý luận thực tiễn trong quá trình đổi mới hiện nay...........

3.1 Lý luận thực tiễn trong sự nghiệp phát triển kinh tế và đổi mới hiện nay
.....................................................................................................................................
3.2 Ý nghĩa thực tiễn.................................................................................................
3.3 Đề xuất nhiệm vụ và giải pháp cho tương lai................................................
KẾT LUẬN:..............................................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO:......................................................................................

Tiểu luận triết học

Đào Quang Hưng- K16. TGT


4

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
1.1. Cơ sở lí luận:
Đại hội Đảng lần thứ VI đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong quá
trình phát triển kinh tế của Việt Nam. Trước văn kiện này, những bài học kinh
nghiệm đã được rút ra trong triết học Mác- Lênin và Đảng ta lấy đó làm “Kim chỉ
nam” cho hành động của mình. Triết học là một bộ phận cấu thành của chủ nghĩa
Mác- Lênin đã chỉ rõ; triết học của chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa duy vật. Nhưng Mác
không dừng lại ở chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVIII mà những thiếu sót chủ yếu nhất
của nó là máy móc, siêu hình và duy tâm khi xem xét các hiện tượng xã hội. C.Mác
và F.Ăngghen đã khắc phục những thiếu sót ấy, đẩy triết học tiến lên hơn nữa bằng
cách tiếp thu một cách có phê phán và có chọn lọc những thành quả của triết hoc cổ
điển Đức và nhất là của hệ thống triết học Hêghen. Trong những thành quả đó thì
thành quả chủ yếu là phép biện chứng, tức là học thuyết về sự phát triển dưới hình
thức toàn diện nhất, sâu sắc nhất và thoát hẳn được tính phiến diện. Nhưng phép
biện chứng của Hêghen là phép biện chứng duy tâm nên Mác và Ăngghen đã cải tạo

nó. Chính trong quá trình cải tạo này, Mác và Ăngghen đã gắn phép biện chứng
Hêghen với thực tiễn, phát triển tiếp tục chủ nghĩa duy vật cũ, đẩy nó lên thành chủ
nghĩa duy vật bịên chứng. Vì vậy chính Mác và Ăngghen đã xây dựng một triết học
mới với thế giới quan duy vật nhất quán trong việc nhận thức xã hội. Cơ sở của
những lí luận trong học thuyết đó là những quy luật khách quan và thực tiễn xã hội
(“Triết học Mác- Lênin”- Chương trình cao cấp. Tập I; Tập san triết học).
Vậy trong quá trình xây dựng nên triết học Mác, C.Mác và Ăngghen đã luôn
đi từ thực tiễn và những quy luật khách quan để định hướng lý luận nghiên cứu.
Những lý luận đó vì thế có cơ sở khoa học vững chắc, không sa vào siêu hình hay
nhị nguyên luận như các nhà triết học đi trước.

Tiểu luận triết học

Đào Quang Hưng- K16. TGT


5

Để chỉ đạo hoạt động được đúng đắn, triết học Mác- Lênin chính là nền tảng
bền vững cho mọi mục tiêu, phương hướng phát triển mọi mặt của Đảng và Nhà
nước ta.
Trên cơ sở nền tảng của chủ nghĩa Mác- Lênin, đặc biệt là lý luận triết học
Mác- Lênin, chúng ta đã vạch rõ được con đường phát triển kinh tế đúng đắn đó là:
“Luôn luôn xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng và hoạt động theo quy luật khách
quan.” (Trích: “Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI.”). Từ năm 1986,
chúng ta đã tổng kết được những bài học kinh nghiệm quý báu để đổi mới và cải
cách kinh tế. Xây dựng một nền kinh tế thị trường, một nền kinh tế nhiều thành
phần, lành mạnh chính là sự vận dụng sáng tạo quan điểm chỉ đạo của Đảng vào
thực tiễn hoàn cảnh trong nước và trên thế giới. Những quan điểm đổi mới, tiến bộ
đó là sự tôn trọng hoàn toàn những lý luận nhận thức và thực tiễn chi phối nền kinh

tế.
Đứng trên quan điểm triết học Mác- Lênin, ta càng có cơ sở để khẳng định
những khởi sắc trong mười năm đổi mới cho dến nay từ sau Đại hội Đảng lần thứ
VI là những thành công mang tính tất yếu do chúng ta đã vận dụng đúng đắn các
quy luật khách quan vào cải tạo thực tiễn. Chúng ta đã tôn trọng những bước phát
triển có tính quy luật của lịch sử, không đi ngược lại “guồng quay” của lịch sử.
1.2. Cơ sở thực tiễn:
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, lý luận nhận thức, vấn đề cải tạo thực tiễn nền kinh tế
luôn thu hút sự quan tâm của nhiều đối tượng.
Ngày nay, triết học là một bộ phận không thể tách rời với sự phát triển của
bất cứ hình thái kinh tế nào. Những vấn đề triết học về lý luận nhận thức và thực
tiễn, phương pháp biện chứng... luôn là cơ sở, là phương hướng, là tôn chỉ cho hoạt
động thực tiễn, xây dựng và phát triển xã hội. Nếu xuất phát từ một lập trường triết
học đúng đắn, con người có thể có được những cách giải quyết phù hợp với các vấn
dề do cuộc sống đặt ra. Việc chấp nhận hay không chấp nhận một lập trường triết

Tiểu luận triết học

Đào Quang Hưng- K16. TGT


6

học nào đó sẽ không chỉ đơn thuần là sự chấp nhận một thế giới quan nhất định,
một cách lý giải nhất định về thế giới, mà còn là sự chấp nhận một cơ sở phương
pháp luận nhất định chỉ đạo cho hoạt động.
Chúng ta biết rằng, triết học là một trong ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa
Mác- Lênin đã chỉ rõ rằng chủ nghĩa duy vật biện chứng đó chính là triết học của

chủ nghĩa Mác. Cho đến nay, chỉ có triết học Mác là mang tính ưu việt hơn cả. Trên
cơ sở nền tảng triết học Mác- Lênin, Đảng và Nhà nước ta đã học tập và tiếp thu tư
tưởng tiến bộ, đề ra những mục tiêu, phương hướng chỉ đạo chính xác, đúng đắn để
xây dựng và phát triển xã hội, phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Mặc dù có những
khiếm khuyết không thể tránh khỏi song chúng ta luôn đi đúng hướng trong cải tạo
thực tiễn, phát triển kinh tế, từng bước đưa đất nước ta tiến kịp trình độ các nước
trong khu vực và thế giới về mọi mặt. Chính những thành tựu của xây dựng chủ
nghĩa xã hội và qua mười năm đổi mới là minh chứng xác đáng cho vấn đề nêu trên.
Hoạt động nhận thức và cải tạo thực tiễn cùng với sự nắm bắt các quy luật khách
quan trong vận hành nền kinh tế ở nước ta là một vấn đề còn nhiều xem xét và tranh
cãi, nhất là trong quá trình đổi mới hiện nay.
Vì vậy, em quyết định chọn đề tài: “Cơ sở triết học về vấn đề đổi mới tư
duy lý luận trước khi đổi mới thực tiễn ở nước ta hiện nay”.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Đứng trước ngưỡng cửa thế kỷ 21, khi mà xu thé hội nhập đang tăng cao,
nền kinh tế ngày càng phát triển mạnh mẽ thì các hành động đều xuất phát từ quá
trình nhận thức và cải tạo thực tiễn là phương châm chỉ đạo và hoạt động của Đảng,
Nhà nước ta.
Hoạt động nhận thức và cải tạo thực tiễn cùng với sự nắm bắt các quy luật
khách quan trong vận hành nền kinh tế ở nước ta là một vấn đề còn nhiều xem xét
và tranh cãi, nhất là trong quá trình đổi mới hiện nay. Từ những thành tựu của xây
dựng chủ nghĩa xã hội và qua mười năm đổi mới là minh chứng xác đáng cho việc
“Tại sao phải đổi mới tư duy lý luận trước khi đổi mới thực tiễn?”.

Tiểu luận triết học

Đào Quang Hưng- K16. TGT


7


3. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Tìm hiểu những quan điểm của triết học Mác- Lênin để giải thích cho luận
điểm: “Trong thời kỳ đổi mới chúng ta khẳng định phải đổi mới tư duy lý luận
trước khi đổi mới thực tiễn”. Nghiên cứu, phân tích những vấn đề có liên quan
trong thời gian qua ở Việt Nam.
Tiểu luận sẽ đưa ra một số đề xuất, ý kiến cho việc tìm ra vấn đề tại sao
trong thời kì đổi mới chúng ta phải khẳng định đổi mới tư duy lý luận trước khi đổi
mới thực tiễn nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Triết học Mác- Lênin về vật chất, vận động trong không gian, thời gian và về
sự thống nhất vật chất của thế giới đã góp phần xác lập thế giới quan duy vật khoa
học và có ý nghĩa về phương pháp luận to lớn trong nhận thức khoa học và hoạt
động thực tiễn. Triết học không phải là một cái gì quá xa xôi, viển vông, ngược lại
nó gắn bó hết sức chặt chẽ với cuộc sống, thực tiễn, chỉ đạo cho con người hành
động. Nắm vững được mọi nội dung của triết học, đặc biệt là lý luận nhận thức và
cải tạo thực tiễn sẽ làm cho con người làm chủ thế giới, chinh phục thiên nhiên, cải
tạo được xã hội, phát triển kinh tế mạnh mẽ.
Vấn đề đã nêu trong văn kiện Đại hội Đảng VI có tác dụng tích cực đối với
sự phát triển của nền kinh tế hiện nay. Sau hơn mười năm đổi mới với những thành
tựu nhất định ta càng thấy rõ sự đúng đắn và cần thiết của bài học kinh nghiệm đó.
Trong bài viết này, chỉ tập trung phân tích vấn đề lý luận nhận thức và cải tạo thực
tiễn của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình phát triển. Cùng với sự tổng kết của
đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI trong văn kiện đã đánh dấu một mốc son lịch sử
của Việt Nam chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của nhà nước, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Hoạt động xây dựng kinh tế, đổi mới kinh tế những
năm gần đây và mối liên hệ của nó với thực tiễn và các quy luật triết học là trung
tâm của nội dung này.
5. Phương pháp nghiên cứu:


Tiểu luận triết học

Đào Quang Hưng- K16. TGT


8

Tiểu luận dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ
nghĩa duy vật biện chứng. Ngoài ra, tiểu luận sử dụng một số phương pháp: lịch sử logic, tổng hợp, so sánh, diễn dịch…
6. Giả thuyết khoa học:
Tiểu luận phân tích rõ các vấn đề: “Cơ sở triết học về vấn đề đổi mới tư duy
lý luận trước khi đổi mới thực tiễn ở nước ta hiện nay”, Vận dụng những tư tưởng
cơ bản của triết học Macxit để giải thích cho vấn đề này.
7. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, tiểu luận gồm 2 chương.

Tiểu luận triết học

Đào Quang Hưng- K16. TGT


9

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1.
MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN ĐẾN
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Thực tiễn.
1.1.1. Khái niệm.

Hoạt động con người chia làm hai lĩnh vực cơ bản. Một trong hai lĩnh vực
quan trọng đó là: hoạt động thực tiễn.
Thực tiễn: (theo quan điểm triết học Mác xít):
Là những hoạt động vật chất cảm tính, có mục đích, có tính lịch sử - xã hội
của con người nhằm cải tạo, làm biến đổi tự nhiên và xã hội.
1.1.2. Tính vật chất trong hoạt động thực tiễn.
Đó là hoạt động có mục đích của xã hội, phải sử dụng những phương tiện vật
chất đề tác động tới đối tượng vật chất nhất định của tự nhiên hay xã hội, làm biến
đổi nó, tạo ra sản phẩm vật chất nhằm thoả mãn nhu cầu của con người.
Chỉ có thực tiễn mới trực tiếp làm thay đổi thế giới hiện thực, mới thực sự
mang tính chất phê phán và cách mạng. Đây là đặc điểm quan trọng nhất của thực
tiễn, là cơ sở đề phân biệt hoạt động thực tiễn khác với hoạt động lý luận của con
người.
1.1.3. Tính chất lịch sử xã hội.
ở những giai đoạn lịch sử khác nhau, hoạt động thực tiễn diễn ra là khác
nhau, thay đổi về phương thức hoạt động.
Thực tiễn là sản phẩm lịch sử toàn thế giới, thể hiện những mối quan hệ
muôn vẻ và vô tận giữa con người với giới tự nhiên và con người với con người
trong quá trình sản xuất vật chất và tinh thần, là phương thúc cơ bản của sự tồn tại
xã hội của con người.
Tiểu luận triết học

Đào Quang Hưng- K16. TGT


10

1.1.4. Thực tiễn của con người được tiến hành dưới nhiều hình thức.
Trong quá trình hoạt động cải tạo thế giới, con người tạo ra một hiện thực
mới, một “Thiên nhiên thứ hai”. Đó là thế giới của văn hóa tinh thần và vật chất,

những điều kiện mới cho sự tồn tại của con người, những điều kiện này không được
giới tự nhiên mang lại dưới dạng có sẵn. Đồng thời với quá trình đó, con người
cũng phát triển và hoàn thiện bản thân mình. Chính sự cải tạo hiện thực thông qua
hoạt động thực tiễn là cơ sở của tất cả những biểu hiện khác có tính tích cực, sáng
tạo của con người. Con người không thích nghi một cách thụ động mà thông qua
hoạt động của mình, tác động một cách tích cực để biến đổi và cải tạo thế giới bên
ngoài. Hoạt động đó chính là thực tiễn.
1.1.4.1. Hoạt động sản xuất vật chất.
Là hoạt động thực tiễn quan trọng nhất của xã hội.Thực tiễn sản xuất vật chất
là tiền đề xuất phát để hình thành những mối quan hệ đặc biệt của con người đối với
thế giới, giúp con người vượt ra khỏi khuôn khổ tồn tại của các loài vật.
1.1.4.2. Hoạt động chính trị xã hội.
Là hoạt dộng của con người trong các lĩnh vực chính trị xã hội nhằm phát
triển và hoàn thiện các thiết chế xã hội, các quan hệ xã hội làm địa bàn rộng rãi cho
hoạt động sản xuất và tạo ra những môi trường xã hội xứng đáng với bản chất con
người bằng cách đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội.
1.1.4.3. Hoạt động thực nghiệm khoa học.
Là hoạt động thực tiễn đặc biệt vì con người phải tạo ra một thế giới riêng
cho thực nghiệm của khoa học tự nhiên và cả khoa học xã hội.
1.2. Thực tiễn có vai trò rất to lớn đối với nhận thức.
Hoạt động thực tiễn là cơ sở, là nguồn gốc, là động lực, là mục đích, là tiêu
chuẩn của nhận thức.
1.2.1.Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức.
Trong hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi thế giới khách quan, bắt
các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan phải bộc lộ những thuộc tính và quy
luật của chúng. Trong quá trình hoạt động thực tiễn luôn luôn nảy sinh các vấn đề

Tiểu luận triết học

Đào Quang Hưng- K16. TGT



11

đòi hỏi con người phải giải đáp và do đó nhận thức được hình thành. Như vậy, qua
hoạt động thực tiễn mà con người tự hoàn thiện và phát triển thế giới quan( tạo điều
kiện cho nhận thức cao hơn).
Qua hoạt động thực tiễn, não bộ con người cũng ngày càng phát triển hơn,
các giác quan ngày càng hoàn thiện hơn.
Thực tiễn là nguồn tri thức, đồng thời cũng là đối tượng của nhận thức.
Chính hoạt động thực tiễn đã đặt ra các nhu cầu cho nhận thức, tạo ra các
phương tiện hiện đại giúp con người đi sâu tìm hiểu tự nhiên.
1.2.2. Thực tiễn là động lực của nhận thức.
Ngay từ đầu, nhận thức đã bắt nguồn từ thực tiễn, do thực tiễn quy định. Mỗi bước
phát triển của thực tiễn lại luôn luôn đặt ra những vấn đề mới cho nhận thức, thúc
đẩy nhận thức tiếp tục phát triển. Như vậy thực tiễn trang bị những phương tiện
mới, đặt ra những nhu cầu cấp bách hơn, nó rà soát sự nhận thức. Thực tiễn lắp đi
lắp lại nhiều lần, các tài liệu thu thập được phong phú, nhiều vẻ, con người mới
phân biệt được đâu là mối quan hệ ngẫu nhiên bề ngoài, đâu là mối liên hệ bản chất,
những quy luật vận động và phát triển của sự vật.
1.2.3. Thực tiễn là mục đích của nhận thức.
Những tri thức khoa học chỉ có ý nghĩa thực tiễn khi nó được vận dụng vào thực
tiễn. Mục đích cuối cùng của nhận thức không phải là bản thân các tri thức mà là
nhằm cải tạo hiện thức khách quan, đáp ứng những nhu cầu vật chất và tinh thần xã
hội. Sự hình thành và phát triển của nhận thức là bắt nguồn từ thực tiễn, do yêu cầu
của thực tiễn.
Nhận thức chỉ trở về hoàn thành chức năng của mình khi nó chỉ đạo hoạt
động thực tiễn, giúp cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả hơn. Chỉ có thông qua hoạt
động thực tiễn, thì tri thức con người mới thể hiện được sức mạnh của mình, sự hiểu
biết của con người mới có ý nghĩa.

1.2.4. Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức.
Bằng thực tiễn mà kiểm chứng nhận thức đúng hay sai. Khi nhận thức đúng thì nó
phục vụ thực tiễn phát triển và ngược lại.

Tiểu luận triết học

Đào Quang Hưng- K16. TGT


12

1.2.5. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý.
1.2.5.1. Chân lý.
Là những tri thức phản ánh đúng đắn thế giới khách quan được thực tiễn
khẳng định (nội dung khách quan, có ý nghĩa giá trị đối với đời sống con người).
Chân lý mang tính khách quan, nó không phụ thuộc vào số đông (ví dụ: chân
lý tôn giáo).
Chân lý mang tính hai mặt (tuyệt đối và tương đối) vì tính hai mặt trong quá
trình nhận thức của nhân loại.
1.2.5.2. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, tiêu chuẩn để kiểm tra
chân lý không phải là ý thức tư tưởng, tư duy mà là thực tiễn. Bởi vì chỉ có thông
qua hoạt động thực tiễn, tri thức mới trở lại tác động vào thế giới vật chất, qua đó
nó được “hiện thực hoá”, “vật chất hơn” thành các khách thể cảm tính. Từ đó mới
có căn cứ để đánh giá nhận thức của con người đúng hay sai, có đạt tới chân lý hay
không.
Thực tiễn có rất nhiều hình thức khác nhau, nên nhận thức của con người
cũng được kiểm tra thông qua rất nhiều hình thức khác nhau:
+ Thực tiễn của xã hội luôn luôn vận động và phát triển.
+ Thực tiễn trong mỗi giai đoạn lịch sử đều có giới hạn. Nó không thể chứng

minh hay bác bỏ hoàn toàn một tri thức nào đó của con người mà nó được thực tiễn
tiếp theo chứng minh, bổ sung thêm.
Như vậy tiêu chuẩn thực tiễn cũng mang tính chất biện chứng và như
vậy mới có khả năng kiểm tra một cách chính xác sự phát triển biện chứng của nhận
thức.
1.2.5.3. Ý nghĩa.
Thực tiễn lớn nhất ở nước ta hiện nay là thực tiễn xây dựng nền kinh tế thị
trường mới, nền văn hoá mới đậm đà bản sắc dân tộc và chế độ xã hội mới: công
bằng, bình đẳng, tiến bộ.

Tiểu luận triết học

Đào Quang Hưng- K16. TGT


13

Trong lĩnh vực kinh tế, đường lối, chính sách hay các giải pháp kinh tế cụ thể
muốn biết đúng hay sai đều phải thông qua vận dụng chúng trong sản xuất, kinh
doanh cũng như quản lý các quá trình đó. Đường lối chính sách cũng như các giải
pháp kinh tế chỉ đúng khi chúng mang lại hiệu quả kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát
triển, nâng cao năng suất lao động, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
văn minh.
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội sau những bước tiến và những thành
tựu to lớn mang lại ý nghĩa lịch sử, giờ đây lại đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết.
Những hoạt động nghiên cứu lý luận chính là nhằm tìm ra lời giải đáp cho những
vấn đề của giai đoạn cách mạng hiện nay. Công cuộc đổi mới ở nước ta vừa là mục
tiêu, vừa là động lực mạnh mẽ thúc đẩy hoạt động nhận thức nói chung và công tác
lý luận nói riêng, nhất định sẽ đem lại cho chúng ta những hiểu biết mới, phong phú
hơn và cụ thể hơn về mô hình chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã

hội ở nước ta.
1.3. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn.
1.3.1. Lý luận.
1.3.1.1. Khái niệm:
Là một hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn. Nó phản ánh
những quy luật, của từng lĩnh vực trong hiện thực khách quan.
1.3.1.2. Đặc điểm:
Lý luận mang tính hệ thống, nó ra đời trên cơ sở đáp ứng nhu cầu của xã hội
nên bất kỳ một lý luận nào cũng mang tính mục đích và ứng dụng. Nó
mang tính hệ thống cao, tổ chức có khoa học.
1.3.2. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn.
Được thể hiện bằng mối quan hệ giữa nhận thức và thực tiễn. GIữa lý
luận và thực tiễn thống nhất biện chứng với nhau. Sự thống nhất đó bắt nguồn từ
chỗ: chúng đều là hoạt động của con người, đều nhằm mục đích cải tạo tự nhiên và
cải tạo xã hội để thoả mãn nhu cầu của con người.
1.3.2.1. Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn.

Tiểu luận triết học

Đào Quang Hưng- K16. TGT


14

Lý luận dựa trên nhu cầu của thực tiễn và lấy được chất liệu của thực tiễn.
Thực tiễn là hoạt động cơ bản nhất của con người, quyết định sự tồn tại và phát
triển xã hội. Lý luận không có mục đích tự nó mà mục đích cuối cùng là phục vụ
thực tiễn. Sức sống của lý luận chính là luôn luôn gắn liền với thực tiễn, phục vụ
cho yêu cầu của thực tiến.
1.3.2.2. Lý luận mở đường và hướng dẫn hoạt động của thực tiễn.

Ví dụ: lý luận Mác - Lênin hướng dẫn con đường đấu tranh của giai cấp vô
sản. Sự thành công hay thất bại của hoạt động thực tiễn là tuỳ thuộc vào nó được
hướng dẫn bởi lý luận nào, có khoa học hay không? Sự phát triển của lý luận là do
yêu cầu của thực tiễn, điều đó cũng nói lên thực tiễn không tách rời lý luận, không
thể thiếu sự hướng dẫn của lý luận.
Vai trò của lý luận khoa học là ở chỗ: nó đưa lại cho thực tiễn các tri thức
đúng đắn về các quy luật vận động, phát triển của hiện thực khách quan, từ đó mới
có cơ sở để định ra mục tiêu và phương pháp đúng đắn cho hoạt động thực tiễn.
Quan hệ lý luận và thực tiễn mang tính chất phức tạp, quan hệ đó có thể là
thống nhất hoặc mâu thuẫn đối lập.
1.3.2.3. Lý luận và thực tiễn là thống nhất.
Lý luận và thực tiễn thống nhất khi giai cấp thống trị còn mang tinh thần tiến
bộ và còn giữ sứ mệnh lịch sử. Khi lý luận và thực tiễn thống nhất thì chúng sẽ tăng
cường lẫn nhau và phát huy vai trò của nhau. Sự thống nhất đó là một trong những
nguyên lý căn bản của triết học Mác- Lênin.
1.3.2.4. Sự mâu thuẫn của lý luận và thực tiễn.
Xảy ra khi giai cấp thống trị trở nên phản động, lỗi thời, lạc hậu. Khi mâu
thuẫn nảy sinh, chúng sẽ làm giảm ảnh hưởng của nhau. Điều đó dẫn đến mọi
đường lối, chính sách xã hội trở nên lạc hậu và phản động.
* Ý nghĩa:
Cần phải tăng cường, phát huy vai trò của lý luận đối với xã hội, đặc biệt là
lý luận xã hội mà quan trọng là lý luận Mác- Lênin và các lý luận về kinh tế.

Tiểu luận triết học

Đào Quang Hưng- K16. TGT


15


Trước chủ nghĩa Mác, trong lý luận nhận thức, phạm trù thực tiễn hầu như
không có chỗ đứng nào. Nhiều người còn hình dung thực tiễn với bộ mặt xấu xí của
con buôn (Phơ-Bách). Trong “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán”, sau khi phê phán E.Ma Khơ và một số ngươi khác đã cố gạt thực tiễn ra
khỏi lý luận nhận thức, coi thực tiễn như một cái gì không đáng nghiên cứu về mặt
nhận thức luận, đã đem cái tiêu chuẩn thực tiễn là cái giúp cho mỗi người phân biệt
được ảo tưởng với hiện thực đặt ra ngoài giới hạn của khoa học, của lý luận nhận
thức... để dọn chỗ cho chủ nghĩa duy tâm và thuyết bất khả tri.
V.I.Lênin đã khẳng định: Quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan
điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức(1).
Chính vì sự quan trọng của mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn nên đối với
nước ta trong giai đoạn này cần đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận và hoạt động.
Hiện nay, nước ta đang tiến hành đổi mới một cách toàn diện các mặt của đời sống
xã hội, mà trong đó đổi mới kinh tế là trung tâm. Đổi mới từ
nền kinh tế tập trung quan liêu sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước là một vấn đề hết sức mới mẻ chưa có lời giải đáp sẵn. Và chúng ta cũng
không bao giờ có thể có một lời giải sẵn sau đó mới đi vào tiến hành đổi mới. Quá
trình đổi mới nói chung, đổi mới kinh tế nói riêng và việc nhận thức quá trình đổi
mới đó không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau cùng phát triển.
Vậy trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, phải xuất phát từ thực tế khách
quan, phải lấy hiện thực khách quan làm cơ sở cho hoạt động của mình. Gắn lý luận
vào thực tiễn để hoạt động trở nên khoa học, có cơ sở vững chắc. Tinh thần ấy
chính là vấn đề cần nghiên cứu trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI.
1.3.2.5. Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của
chủ nghĩa Mác- Lênin.
Thực tiễn không có lý luận hướng đẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận
mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông. Vì vậy cho nên trong khi nhấn
mạnh sự quan trọng của lý luận, đã nhiều lần Lênin nhắc đi nhắc lại rằng lý luận

Tiểu luận triết học


Đào Quang Hưng- K16. TGT


16

cách mạng không phải là giáo điều, nó là kim chỉ nang cho hành động cách mạng,
và lý luận không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính sáng tạo. Lý luận luôn
(1)

V.I.Lênin(1980), Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva

luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động.
Những người cộng sản các nước phải cụ thể hoá chủ nghĩa Mác- Lênin cho thích
hợp với điều kiện, hoàn cảnh từng lúc và từng nơi(2).
* Con đường biện chứng của sự nhận thức.
Nhận thức của con người diễn ra trên cơ sở thực tiễn và không ngừng vận
động, phát triển. Sự vận động và phát triển của nhận thức diễn ra một cách biện
chứng:
“Từ trực quan sinh động đến tư duy trìu tượng và từ tư duy trìu tượng đến
thực tiễn- đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức
thực tại khách quan”.
Trực quan sinh động (hay nhận thức cảm tính) là giai đoạn đầu của quá trình
nhận thức, được hình thành trong quá trình thực tiễn.Giai đoạn này được hình thành
thông qua các hình thức cơ bản nối tiếp nhau: cảm giác, tri giác, biểu tượng...
Tư duy trì tượng (hay nhận thức lý tính) là giai đoạn cao của quá trình nhận
thức dựa trên cơ sở những tài liệu do giai đoạn trực quan sinh động mang lại.
Nhận thức của con người phát triển đến giai đoạn tư duy trìu tượng chưa phải
là chấm dứt, mà nó lại tiếp tục vận động trở về với thực tiễn. Nhận thức phải trở về
với thực tiễn vì:

Mục đích của nhận thức là phục vụ hoạt động thực tiễn. Vì vậy nó phải trở
về chỉ đạo hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới.
Đến giai đoạn tư duy trìu tượng vẫn có khả năng phản ánh sai lạc hiện thực.
Vì vậy, nhận thức phải quay trở về thực tiễn để kiểm tra kết quả nhận thức, phân
biệt đâu là nhận thức đúng, đâu là nhận thức sai lầm.
Thực tiễn luôn luôn vận động, phát triển. Vì vậy nhận thức phải trở về với
thực tiễn để trên cơ sở thực tiễn mới tiếp tục bổ sung, phát triển nhận thức.

Tiểu luận triết học

Đào Quang Hưng- K16. TGT


17

Từ trực quan sinh động dến tư duy trìu tượng, và từ tư duy trìu tượng đến
thực tiễn là một vòng khâu của quá trình nhận thức. Nó cứ lặp đi lặp lại làm cho
(2)

Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 11, Nxb CTQG Hà Nội.

nhận thức của con người phát triển không ngừng, ngày càng phản ánh sâu sắc bản
chất, quy luật của thế giới khách quan.

CHƯƠNG 2.
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM
2.1. Vị trí địa lý.
Việt Nam nằm ở phía đông của bán đảo Đông Dương, gần trung tâm Đông
Nam á, có một vùng biển rộng, giàu tiềm năng.
Vị trí tiếp giáp trên đất liền và trên biển tạo điều kiện cho nước ta có thể dễ

dàng giao lưu với các nước trên thế giới:
Trên đất liền, nước ta giáp Trung Quốc, Lào, Campuchia. Thông qua các
tuyến giao thông (đường bộ, đường sắt...) với các cửa khẩu quan trọng, Việt Nam
có thể liên hệ với nhiều nước trên thế giới.
Nước ta nằm gần các tuyến đường biển quốc tế. Thông qua đường biển, có
thể quan hệ với nhiều quốc gia.
Vùng biển rộng lớn, giàu tiềm năng cho phép phát triển kinh tế biển.
Việt Nam là nơi giao thoa của các nền văn hoá khác nhau. Điều đó góp phần
làm giàu bản sắc văn hoá.
Việt Nam nằm ở khu vực đang diễn ra những hoạt động kinh tế sôi động của
thế giới. Từ đó cho phép nước ta có thể dễ dàng hội nhập với các nước trong khu
vực và trên thế giới. Ta có thể tiếp thu và chọn lọc những bài học, kinh nghiệm
thành công cũng như thất bại về phát triển kinh tế của các nước và vận dụng vào
điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nước ta.

Tiểu luận triết học

Đào Quang Hưng- K16. TGT


18

2.2. Quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam.
2.2.1. Tình hình.
Sau kháng chiến chống Pháp thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các nước xã
hội chủ nghĩa lúc đó, nước ta bắt đầu xây dựng một mô hình kinh tế kế hoạch hoá
tập trung dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Các hình thức tổ chức sản
xuất và dịch vụ quốc doanh được phát triển. Cùng với quốc doanh, hợp tác xã được
tổ chức rộng rãi ở nông thôn và thành thị. Với hai hình thức sở hữu toàn dân và tập
thể, sở hữu tư nhân bị thu hẹp lại, không còn cơ sở cho tư nhân phát triển. Cùng với

quốc doanh, hợp tác xã được tổ chức rộng rãi vì ta đã học tập được mô hình tổ chức
kinh tế của Liên Xô cũ. Với sự nỗ lực cao độ của nhân dân ta, cùng với sự giúp đỡ
tận tình của các nước xã hội chủ nghĩa lúc đó, mô hình kế hoạch hoá tập trung đã
phát huy được những tính ưu việt đó.
Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, phân tán và manh mún, bằng công
cụ kế hoạch hóa, ta đã tập trung được vào trong tay một lực lượng vật chất quan
trọng về cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng thành thị và nông thôn, đất đai, máy
móc, tiền vốn để ổn định và phát triển kinh tế.
Vào những năm sau của thập niên 60, ở Miền Bắc đã có những chuyển biến
về kinh tế, xã hội. Trong thời kỳ đầu, nền kinh tế tập trung bao cấp đã tỏ ra phù hợp
với nền kinh tế tự cung, tự cấp, phù hợp với điều kiện hai nhiệm vụ sản xuất và
chiến đấu trong chiến tranh lúc đó.
Năm 1975, sau ngày giải phóng miền Nam, một bức tranh mới về hiện trạng
kinh tế Việt Nam đã thay đổi. Đó là sự duy trì một nền kinh tế tồn tại cả ba loại
hình:
Kinh tế cổ truyền (tự cung tự cấp)
Kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp (ở miền Bắc)
Kinh tế thị trường (đặc trưng ở miền Nam).
Mặc dù đây là một tồn tại khách quan sau năm 1975 nhưng chúng ta vẫn tiếp
tục xây dựng nền kinh tế tập trung theo cơ chế kế hoạch hoá trên phạm vi cả nước.
Đó là sự áp đặt rất bất lợi.

Tiểu luận triết học

Đào Quang Hưng- K16. TGT


19

2.2.2. Hậu quả.

Do chủ quan nóng vội, cứng nhắc, chúng ta đã không quản lý được hiệu quả
các nguồn lực dẫn tới việc sử dụng lãng phí nghiêm trọng các nguồn lực của đất
nước.
Tài nguyên bị phá hoại, sử dụng khai thác không hợp lý, môi trường bị ô
nhiễm.
Nhà nước bao cấp và tiến hành bù lỗ phổ biến gây hậu quả nghiệm trọng cho
nền kinh tế.
Sự tăng trưởng kinh tế chậm lại, tăng trưởng kinh tế trên lý thuyết, giấy tờ.
Hàng hoá, sản phẩm trở nên khan hiếm, không đáp ứng được nhu cầu trong
nước.
Ngân sách thâm hụt nặng nề. Vốn nợ đọng nước ngoài ngày càng tăng và
không có khả năng cho chi trả.
Thu nhập từ nền kinh tế quốc dân không đủ chi dùng, tích luỹ hầu như không
có.
Vốn đầu tư cho sản xuất và xây dựng chủ yếu là dựa vào vay và viện trợ
nước ngoài.
Cùng với đó là sự thoái hoá về mặt con người và xã hội.
Đến năm 1979, nền kinh tế rất suy yếu, sản xuất trì trệ, đời sống nhân dân
khó khăn, nguồn trợ giúp từ bên ngoài giảm mạnh.
Từ năm 1975 đến năm 1985, các thành phần kinh tế tư bản tư nhân, cá thể bị
tiêu diệt hoặc không còn điều kiện phát triển dẫn đến thực trạng tiềm năng to lớn
của các thành phần kinh tế này không được khai thác và phục vụ cho mục tiêu
chung của nền kinh tế. Ngược lại, thành phần kinh tế quốc doanh đã phát triển ồ ạt,
tràn lan trên mọi lĩnh vực trở thành địa vị đọc tôn trong hầu hết các ngành công
nghiệp, xây dựng, dịch vụ (trừ ngành nông nghiệp, thành phần kinh tế tập thể là chủ
yếu).Thời điểm cao nhất, thànhphần kinh tế quốc doanhđã cõ gần 13 nghìn doanh
nghiệp với số tài sản cố định chiếm 70% tổng số tài sản cố định của nền kinh tế.
Thời kỳ này, kinh tế nước ta tuy có đạt được tốc độ tăng trưởng nhất định nhưng sự

Tiểu luận triết học


Đào Quang Hưng- K16. TGT


20

tăng trưởng đó không có cơ sở để phát triển vì đã dựa vào điều kiện bao cấp, bội chi
ngân sách, lạm phát và vay nợ nước ngoài.
Do phát triển tràn lan lại quản lý theo cơ chế bao cấp, kế hoạch hoá tập trung
nên nhà nước gặp nhiều khó khăn trong việc quản lý, điều hành các doanh nghiệp
quốc doanh, nhiều doanh nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ, lực lượng sản xuất
không được giải phóng, nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng và tụt hậu.
2.2.3. Nguyên nhân.
Trong nhận thức cũng như trong hành động, chúng ta chưa thật sự thừa nhận
cơ cấu kinh tế nhiều thành phần còn tồn tại trong thời gian tương đối dài, chưa nắm
vững và vận dụng đúng lý luận và thực tiễn vào tinh hình nước ta.
Đến năm 1986, cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp về căn bản vẫn chưa bị
xoá bỏ. Cơ chế mới chưa được thiết lập đồng bộ, nhiều chính sách, thể chế lỗi thời
chưa được thay đổi. Tình trạng tập trung quan liêu còn nặng, đồng thời những hiện
tượng vô tổ chức, vô kỷ luật còn khá phổ biến.
Việc đổi mới cơ chế và bộ máy quản lý, việc điều hành không nhạy bén, là
những nguyên nhân quan trọng dẫn tới hành động không thống nhất từ trên xuống
dưới.
Chúng ta mới nêu ra được phương hướng chủ yếu của cơ chế mới, hình thức,
bước đi, cách làm cụ thể thì còn nhiều vấn đề chưa giải quyết được thoả đáng cả về
lý luận và thực tiễn.
2.2.4. Tư tưởng chỉ đạo.
Ta đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức lý luận trong thời kỳ quá độ:”Khuynh
hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm ấy,đặc biệt là những chính sách kinh tế
là bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội chạy theo

nguyện vọng chủ quan”(3). Chúng ta đã có những
thành kiến không đúng, trên thực tế, chưa thừa nhận thật sự những quy luật của sản
xuất hàng hóa đang tồn tại khách quan.
Chúng ta đã ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách quá mức mà hiệu
quả kinh tế phát triển chậm. Hơn thế nữa, ta chưa chú ý đúng mức tới sản xuất nông

Tiểu luận triết học

Đào Quang Hưng- K16. TGT


21

nghiệp và sản xuất hàng tiêu dùng nên đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.
Bên cạnh đó, sự tan rã của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa vào những
năm cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 làm cho chúng ta mất đi một thị trường truyền
(3)

Đảng cộng sản Việt nam - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI(1986)

thống, nguồn viện trợ quan trọng, gây nhiều khó khăn đối với sản xuất và đời sống.
Chính sách cấm vận của Hoa Kỳ kéo dài, sự thù địch của các thế lực phản
động cũng có tác động không nhỏ đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Tất cả những nguyên nhân trên cộng với thiên tai, mất mùa liên tiếp vào
những năm 1979- 1980 đã đưa nước ta vào tình trạng khủng hoảng, công nghiệp chỉ
tăng 0,6%, nông nghiệp tăng 1,9% trong khi lạm phát ở mức siêu cấp năm 1986 là
74%
Chính vì vậy, bài học kinh nghiệm được rút ra trong (Văn kiện Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ VI) về phát triển kinh tế phải xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng
và hoạt động theo quy luật khách quan là hoàn toàn đúng đắn. Chính từ những khó

khăn trên đòi hỏi phải đổi mới nền kinh tế, xã hội. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VI đã đánh dấu một mốc phát triển quan trọng trong quá trình phát triển của đất
nước.
2.3. Biện pháp giải quyết tình hình để phát triển kinh tế.
Để khắc phục khuyết điểm, chuyển biến được tình hình, Đảng ta trước hết
phải thay đổi nhận thức, đổi mới tư duy. Phải nhận thức và hành động đúng đắn, đề
ra những chủ trương, chính sách phù hợp với hệ thống quy luật khách quan, trong
đó các quy luật đặc thù của chủ nghĩa xã hội ngày càng chi phối mạnh mẽ phương
hướng phát triển chung của xã hội. Mọi chủ trương, chính sách, biện pháp kinh tế
gây tác động ngược lại đều biểu hiện sự vận dụng không đúng quy luật khách quan,
phải được sửa đổi hoặc huỷ bỏ.
Trên cơ sở đó, chúng ta phải vận dụng tổng hợp hệ thống các quy luật đang
tác động lên nền kinh tế. Trong hệ thống các quy luật đó, quy luật kinh tế cơ bản
cùng với các quy luật đặc thù khác của chủ nghĩa xã hội ngày càng phát huy vai trò
chủ đạo, được vận dụng trong một thể thống nhất với các quy luật của sản xuất hàng

Tiểu luận triết học

Đào Quang Hưng- K16. TGT


22

hoá, đặc biệt là quy luật giá trị, quy luật cùng cầu, quy luật cạnh tranh... Kế hoạch
hoá phải luôn luôn gắn liền với việc sử dụng các đòn bảy kinh tế.
Đại hội đảng lần thứ VI có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Những quan điểm,
đường lối do Đại hội VI vạch ra là sự vận dụng đúng đắn và sáng tạo chủ nghĩa
Mác Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn của đất nước. Công cuộc đổi mới
của Đảng từ sau Đại hội VI đến nay ở nước ta không nằm ngoài những quy luật phổ
biến của phép biện chứng, Đảng ta đã vận dụng phép biện chứng vào nhận thức

hiện thực xã hội, phân tích các mối liên hệ biện chứng của đời sống hiện thực, tìm
ra các mâu thuẫn đó và tạo ra động lực mạnh mẽ cho quá trình đổi mới vững chắc.
Vì trước đây, nước ta lâm vào khủng hoảng kinh tế, xã hội với nhiều khó
khăn phức tạp, gay gắt, lạm phát phi mã do tư duy lý luận bị lạc hậu, giữa lý luận và
thực tiễn có khoảng cách xa. Tư duy cũ về chủ nghĩa xã hội theo mô hình tập trung
quan liêu bao cấp đã cản trở sự phát triển của thực tiễn sản xuất. Bị chi phối bởi quy
luật mâu thuẫn khách quan nên để giải quyết mâu thuẫn đó Đảng ta đã tiến hành đổi
mới và cải cách kinh tế.
Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm phát triển sản xuất. Để làm
đủ ăn và có tích luỹ, phải ra sức phát triển sản xuất, xây dựng một cơ cấu kinh tế
hợp lý, trước hết là cơ cấu các ngành kinh tế phù hợp với tính quy luật về sự phát
triển các ngành sản xuất vật chất, phù hợp với sự phân công lao động và hợp tác
quốc tế. Cơ cấu kinh tế đó đảm bảo cho nền kinh tế phát triển cân đối với nhịp độ
tăng trưởng ổn định. Phải thông qua việc sắp xếp lại sản xuất, đi đôi với việc xây
dựng thêm cơ cấu kinh tế hợp lý.
Hướng vào việc đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, đẩy mạnh sản xuất hàng
tiêu dùng, xuất khẩu.
Xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Củng cố thành phần kinh tế xã
hội chủ nghĩa bao gồm cả khu vực quốc doanh, tập thể. Bằng các biện pháp thích
hợp, sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác trong sự liên kết chặt
chẽ và dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. giải pháp đó xuất

Tiểu luận triết học

Đào Quang Hưng- K16. TGT


23


phát từ thực tế của nước ta và là sự vận dụng quan điểm của Lênin coi nền kinh tế
có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ. Thực chất của cơ
chế mới về quản lý kinh tế là cơ chế kế hoạch hoá theo phương thức hoạch toán
kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
Tiến hành phân cấp quản lý theo nguyên tắc tập trung dân chủ, chống tập
trung quan liêu, chống tự do vô tổ chức. Bảo đảm quyền tự chủ sản xuất, kinh
doanh, tự chủ tài chính của các đơn vị kinh tế cơ sở, quyền làm chủ của các tập thể
lao động.
CHƯƠNG 3.
ÁP DỤNG LÝ LUẬN THỰC TIỄN
TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI HIỆN NAY
Việc Đảng ta tổng kết những bài học ở Đại hội VI, lần đầu tiên chỉ rõ sai lầm
chủ quan, duy ý chí, coi thường các quy luật khách quan dẫn tới làm sai, làm hỏng
và phải sửa chữa trong các chính sách xây dựng kinh tế, phát triền văn hoá có ý
nghĩa tự giải phóng và mở đường cho sự phát triển mới rất to lớn.
Trên thực tế, đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo có một sự tương
đồng về hoàn cảnh, nội dung và ý nghĩa như “Chính sách kinh tế mới của Lênin”.
Với đổi mới, quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
của Đảng ta đã ngày được xác định rõ hơn. Nó thấm nhuần quan điểm lịch sử cụ
thể, quan điểm thực tiễn và quan điểm phát triển.
3.1. Lý luận về thực tiễn trong sự nghiệp phát triển kinh tế và đổi mới
kinh tế hiện nay.
Công cuộc đổi mới chính thức bắt đầu từ việc Đảng ta thừa nhận và cho phép
phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường. Đó là
một tất yếu khách quan khi ở vào thời kỳ quá độ như ở nước ta hiện nay. Phải dung
hoà và tồn tại nhiều thành phần kinh tế là một tất yếu do lịch sử để lại song đưa
chúng cùng tồn tại và phát triển mới là một vấn đề nan giải, khó khăn. Bên cạnh

Tiểu luận triết học


Đào Quang Hưng- K16. TGT


24

việc thừa nhận sự tồn tại của kinh tế tư bản tư nhân, đương nhiên phải thường
xuyên đấu tranh với xu hướng tự phát tư bản chủ nghĩa và những mặt tiêu cực trong
các thành phần kinh tế, giải quyết mâu thuẫn tồn tại trong sản xuất giữa chúng để
cùng phát triển.
Sự nghiệp đổi mới ở nước ta cung cấp một bài học to lớn về nhận thức. Đó là
bài học về quán triệt quan điểm thực tiễn- nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa MácLênin, quan điểm cơ bản và hàng đầu của triết học Mác xít. Sự nghiệp đổi mới với
tính chất mới mẻ và khó khăn của nó đòi hỏi phải có lý luận khoa học soi sáng. Sự
khám phá về lý luận phải trở thành tiền đề và điều kiện cơ bản làm cơ sở cho sự đổi
mới trong hoạt động thức tiễn. Tuy nhiên, lý luận không bỗng nhiên mà có và cũng
không thể chờ chuẩn bị xong xuôi về lý luận rồi mới tiến hành đổi mới. Hơn nữa,
thực tiễn lại là cơ sở để nhận thức, của lý luận. Phải qua thực tiễn rồi mới có kinh
nghiệm, mới có cơ sở đề khái quát thành lý luận.
Vì vậy, quá trình đổi mới ở nước ta chính là quá trình vừa học vừa làm, vừa
làm vừa tổng kết lý luận, đúc rút thành quan điểm, thành đường lối để rồi quay trở
lại quá trình đổi mới. Có những điều chúng ta phải mò mẫm trong thực tiễn, phải
trải qua thể nghiệm, phải làm rồi mới biết, thậm chí có nhiều điều phải chờ thực
tiễn. Ví dụ như vấn đề chống lạm phát, vấn đề khoán trong nông nghiệp, vấn đề
phân phối sản phẩm... Trong quá trình đó, tất nhiên sẽ không tránh khỏi việc phải
trả giá cho những khuyết điểm, lệch lạc nhất định.
Ở đây, việc bám sát thực tiễn, phát huy óc sáng tạo của cán bộ và nhân dân là
rất quan trọng. Trên cơ sở, phương hướng chiến lược đúng, hãy làm rồi thực tiễn sẽ
cho ta hiểu rõ sự vật hơn nữa. Đó là bài học không chỉ của sự nghiệp kháng chiến
chống ngoại xâm mà còn là bài học của sự nghiệp đổi mới vừa qua và hiện nay.
Trong khi đề cao vai trò của thực tiễn, Đảng ta không hề hạ thấp, không hề
coi nhẹ lý luận. Quá trình đổi mới là quá trình Đảng ta không ngừng nâng cao trình

độ lý luận của mình, cố gắng phát triển lý luận, đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nó được thể hiện qua năm

Tiểu luận triết học

Đào Quang Hưng- K16. TGT


25

bước chuyển của đổi mới tư duy phù hợp với sự vận động của thực tiễn cuộc sống
trong những hoàn cảnh và điều kiện mới
3.1.1. Bước chuyển thứ nhất:
Từ tư duy, dựa trên mô hình kinh tế hiện vật với sự tuyệt đối hoá sở hữu xã
hội (Nhà nước và tập thể) với sự phát triển vượt trước của quan hệ sản xuất đối với
sự phát triền của lực lượng sản xuất dẫn tới hậu quả kìm hãm sự phát triển sản
xuất... sang tư duy mới. Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong đó
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong sự thống nhất biện chứng với tính đa
dạng các hình thức sở hữu, đa dạng các hình thức phân phối, lấy phân phối theo lao
động làm đặc trưng chủ yếu nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển.
Đây chính là bước chuyển căn bản mà có ý nghĩa sâu xa vì nó là tôn trọng
quy luật khách quan về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất; tuỳ
thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mà từng bước thiết lập quan hệ
sản xuất cho phù hợp .
3.1.2. Bước chuyển thứ hai:
Từ tư duy quản lý dựa trên mô hình một nền kinh tế chỉ huy tập trung, kế
hoạch hoá tuyệt đối với cơ chế bao cấp và bình quân sang tư duy quản lý mới thích
ứng với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có
sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa
3.1.3. Bước chuyển thứ ba:

Đó là tiến hành đổi mới hệ thống chính trị, từ chế độ tập trung quan liêu với
phương thức quản lý hành chính mệnh lệnh sang dân chủ hoá các lĩnh vực của đời
sống xã hội, thực hiện dân chủ toàn diện.
3.1.4. Bước chuyển thứ tư:
Đổi mới quan niệm về sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa xã hội ở một
nước phải xuất phát từ chủ nghĩa Mác - Lê nin trong điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ
thể của nước đó. Và đây cũng chính là tính khách quan, là cơ sở khách quan quy
định nhận thức và những tìm tòi sáng tạo của chủ thể lãnh đạo sự nghiệp xây dựng

Tiểu luận triết học

Đào Quang Hưng- K16. TGT


×