Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

nguyấn tắc thống nhất giữa lí luận và thực tiễn của chủ nghĩa mác – lấnin với sự nghiệp đổi mới đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263 KB, 43 trang )

Trêng ®¹i häc s ph¹m hµ néi 2
Phßng sau ®¹i häc

TRẦN THỊ HẢI YẾN

NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỚI SỰ
NGHIỆP ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

HÀ NỘI – 2013


Trêng ®¹i häc s ph¹m hµ néi 2
Phßng sau ®¹i häc

TRẦN THỊ HẢI YẾN

NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỚI SỰ
NGHIỆP ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC

Chuyên ngành: Toán giải Tích

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học
TS. Vi Thái Lang



HÀ NỘI – 2013


1

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................2
NỘI DUNG…………………………………………………………………...6
CHƯƠNG I. NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ
THỰC TỄN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN........................................6
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN..........................................................6
MỞ ĐẦU..........................................................................................................2
1. Lí do chọn đề tài.............................................................................................................2
2. Lịch sử vấn đề................................................................................................................3
3. Mục đích nghiên cứu......................................................................................................4
4. Nhiệm vụ nghiên cứu.....................................................................................................4
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..................................................................................4
6. Phương pháp nghiên cứu................................................................................................5
7. Ý nghĩa bài nghiên cứu..................................................................................................5

NỘI DUNG.......................................................................................................7
CHƯƠNG 1. NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN........................................7
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN................................................................................7
1.1.1. Lý luận.................................................................................................................7
1.1.2. Thực tiễn...............................................................................................................9
1.2. SỰ THỐNG NHẤT BIỆN CHỨNG GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN..............12
1.2.1. Vai trò của thực tiễn đôi với lý luận...................................................................12
1.2.2. Vai trò của lý luận đối với thực tiễn...................................................................14
1.3. GIÁ TRỊ CỦA NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC

TIỄN.................................................................................................................................15

CHƯƠNG 2. NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN TRONG SỰ NGHIỆP
ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY...........................................................18
2.1. SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA.................18
2.1.1. Bối cảnh đất nước trước thời kì đổi mới............................................................18
2.1.2. Tình hình quốc tế và nhu cầu đổi mới nhận thức...............................................21
2.2. SỰ NHẬN THỨC VÀ QUÁN TRIỆT NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ
LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM..................................21
2.2.1. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều
kiện cụ thể của Việt Nam.............................................................................................22
2.2.2. Tổng kết thực tiễn gắn với hoàn thiện lý luận về CNXH ở Việt Nam...............23

CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VẬN DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN
NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.....27
3.1. QUÁN TRIỆT NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIỄN TRONG TOÀN ĐẢNG, TOÀN DÂN...................................................................27
3.2. TẠO RA BƯỚC CHUYỂN BIẾN MỚI VỀ NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG TA........30
3.3. KẾT HỢP LÝ LUẬN VỚI THỰC TIỄN TRONG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO.....33
Trong khoản 2, điều 3, Luật giáo dục ghi Hoạt động giáo dục phải được thực hiện theo
nguyên lý : học đi đôi vói hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn với


2

thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Ở nước
ta, nguyên lí giáo dục được khẳng định tại Đại hội lần thứ III của Đảng Cộng sản Việt
Nam (1960). Từ đó đến nay, trong các văn kiện của Đảng và pháp luật của Nhà nước đã
khẳng định lại nhiều lần. Đồng thời trong các sách giáo khoa về giáo dục và nhiều công

trình nghiên cứu giáo dục đã đề cập đến..........................................................................33

KẾT LUẬN....................................................................................................36
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................39

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã tạo nên bước ngoặt cách mạng trong sự phát
triển của triết học với những thành tựu quan trọng của nó về mặt lý luận. Một
trong những giá trị của triết học Mác là xem lý luận và thực tiễn trong mối
quan hệ biện chứng với nhau tạo nên nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn. Nhờ việc quán triệt nguyên tắc này, giai cấp vô sản đã đưa phong
trào cách mạng đi đến thắng lợi nhằm đưa CNXH lên phạm vi toàn thế giới.
Ở Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin. Người khẳng định: Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một
nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Thực tiễn không có lý luận
hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực
tiễn là lý luận suông [21, tr.638 - 639].
Như vậy, lý luận được coi là kim chỉ nam cho hành động, soi đường, chỉ
đạo, dẫn dắt thực tiễn. Ngược lại, thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của
nhận thức, là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Mọi tri thức xét đến cùng đều bắt
nguồn từ thực tiễn. Bản thân chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quán triệt nguyên tắc
này vào quá trình lãnh đạo cách mạng, đưa đến sự thắng lợi của cách mạng
Việt Nam.


3

Không chỉ vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của
chủ nghĩa Mác - Lênin vào quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản

còn quán triệt nguyên tắc này vào trong công cuộc đổi mới đất nước. Nhờ đó,
bước đầu đất nước đã đạt được những thành tựu quan trọng. Tuy nhiên chúng
ta cũng mắc một số sai lầm: tách rời lý luận và thực tiễn, không ít cơ quan
Nhà nước tồn tại bệnh quan liêu, giáo điều, kinh nghiệm. Hơn nữa, trong tình
hình hiện nay, nhân loại đã và đang chuyển từ văn minh công nghiệp sang văn
minh trí tuệ nhưng Việt Nam vẫn trong tình trạng lạc hậu về kĩ thuật, công
nghệ so với các nước trên thế giới. Nếu chúng ta không tích cực nghiên cứu,
hoàn thiện lý luận thì sự tụt hậu đó ngày càng xa hơn.
Nhận thức được vấn đề trên, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính
sách đổi mới toàn diện đất nước. Đó chính là sự vận dụng nguyên tắc thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện mới,
trước hết là vấn đề đổi mới tư duy, sau đó đổi mới cách thức làm việc và quản
lý cho phù hợp thực tiễn Việt Nam; đồng thời tổng kết thực tiễn gắn liền với
hoàn thiện lý luận về CNXH cũng là một yêu cầu cấp thiết đối với sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta.
Với tất cả lí do trên, tôi chọn đề tài: “Nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác – Lênin với sự nghiệp đổi mới đất
nước” nhằm mục đích nghiên cứu một cách kĩ lưỡng, có hệ thống về nguyên
tắc này và việc vận dụng nguyên tắc trong thời đại mới, góp phần hoàn thiện
lý luận để xây dựng thành công CNXH ở Việt Nam.
2. Lịch sử vấn đề
“Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác
- Lênin với sự nghiệp đổi mới đất nước” được nhiều tác giả, nhiều nhà
nghiên cứu triết học đề cập đến, thậm chí có nhiều bài viết sâu và có hệ thống


4

nhưng về cơ bản, việc vận dụng nguyên tắc này vào hoàn cảnh cụ thể của
từng quốc gia vẫn là vấn đề cần được nghiên cứu.

Vậy nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác Lênin không mới nhưng là vấn đề cấp thiết đòi hỏi các nhà lý luận nghiên cứu
trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng cần làm sáng tỏ.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài trên là tìm hiểu một cách tương đối hệ thống
sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác - Lênin trong sự
nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, bài nghiên cứu tập trung giải quyết các
nhiệm vụ sau:
- Trình bày khái quát về nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
của chủ nghĩa Mác – Lênin.
- Trình bày sự nhận thức và vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn của chủ nghĩa Mác - Lênin vào sự nghiệp đổi mới đất nước ta.
- Nghiên cứu và nêu giải pháp vận dụng và phát triển nguyên tắc thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác - Lênin vào sự nghiệp đổi
mới đất nước.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác
-Lênin - một nguyên tắc cơ bản và quan trọng của triết học.
Sự nghiệp đổi mới đất nước và những vấn đề đặt ra để vận dụng lý luận
phù hợp với thực tiễn.
5.2. Phạm vi


5

Bài nghiên cứu chỉ nghiên cứu một cách khái quát nhất về các khái niệm,
mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, giá trị của nguyên tắc đó
trong thực tiễn.

6. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận là quan điểm biện chứng, quan điểm duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp logic
- Phương pháp lịch sử
- Phương pháp tổng hợp, quy nap, diễn dịch...
7. Ý nghĩa bài nghiên cứu
Bài nghiên cứu có ý nghĩa thiết thực đối với tôi trong việc làm quen với
công tác nghiên cứu khoa học, rèn luyện phương pháp tiếp cận những vấn đề
triết học, nhận thức về khoa học chuyên ngành. Đồng thời, bài nghiên cứu
cũng làm sáng tỏ một số vấn đề về lý luận và thực tiễn và mối quan hệ biện
chứng giữa chúng. Từ đó đóng góp một phần nhỏ cơ sở khoa học cho việc
vạch định đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về vấn đề gắn lý luận
với thực tiễn.


6


7

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.1.1. Lý luận
Khái niệm
Lý luận, tiếng Hy Lạp là theo Ria, có nghĩa là sự quan sát, nghiên cứu,
thảo luận.

Lý luận là hệ thống tri thức chung, đáng tin cậy về một lĩnh vực nào đó
trong thế giới. Nói cách khác, lý luận là sự phản ánh khái quát và gián tiếp
hiện thực khách quan vào đầu óc con người trên cơ sở hoạt động thực tiễn.
Phạm trù lý luận được thể hiện thông qua các khái niệm, phạm trù, quy
luật.
Sự hình thành và phát triển lý luận
Quá trình hình thành lý luận của con người diễn ra theo trình tự từ thấp
đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến ngày càng hoàn
thiện. Nhận thức không phải là sự phản ánh tức thời, thụ động mà là một quá
trình phản ánh biện chứng, tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan. Quá trình
đó diễn ra theo con đường: từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ
tư duy trừu tượng đến thực tiễn.
Trực quan sinh động (nhận thức cảm tính) là quá trình thông qua hoạt
động thực tiễn, bằng các giác quan, con người phản ánh sự vật hiện tượng của
thế giới khách quan vào đầu óc mình. Đây là bước đầu của quá trình nhận
thức với các hình thức: cảm giác, tri giác, biểu tượng. Giai đoạn nhận thức
này là nhận thức chưa sâu sắc, đầy đủ.
Giai đoạn tư duy trừu tượng (nhận thức lý tính): muốn nhận thức được
bản chất, quy luật của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan, con


8

người phải từ nhận thức cảm tính tiến lên nhận thức lý tính. Đây là giai đoạn
tiếp theo và cao hơn về chất so với nhận thức cảm tính. Nó xuất hiện do yêu
cầu thực tiễn. Chẳng hạn con người không thể bằng cảm giác mà hiểu được
giá trị của hàng hóa, quan hệ giai cấp, hình thái kinh tế xã hội...mà phải bằng
nhận thức lí tính, bằng tư duy lý luận mới hiểu được. Nhận thức lý tính được
biểu hiện giữa ba hình thức: khái niệm, phán đoán, suy lý. Đặc điểm của giai
đoạn nhận thức này là quá trình nhận thức gián tiếp đối với sự vật, hiện

tượng, là quá trình đi sâu vào bản chất của sự vật, hiện tượng. Nhận thức lý
tính là nhận thức đáng tin cậy vì nó phản ánh thế giới khách quan một cách
sâu sắc, đầy đủ hơn.
Các giai đoạn của quá trình nhận thức có mối quan hệ biện chứng với
nhau. Trên thực tế, chúng thường đan xen với nhau trong quá trình nhận thức,
song chúng cũng có nhiệm vụ, chức năng khác nhau. Nhận thức cảm tính là
cơ sở nền tảng để hình thành và phát triển nhận thức lý tính. Trái lại, không
có nhận thức lý tính thì không nắm bắt được bản chất, quy luật vận động và
phát triển sinh động của sự vật. Vì vậy, cần phát triển nhận thức cảm tính lên
nhận thức lý tính.
Từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn: con đường nhận thức chân lí còn
phải đi từ nhận thức lý tính đến thực tiễn vì nhận thức không chỉ là giải thích
thế giới mà còn khái quát lý luận để phục vụ, cải tạo thế giới. Tức là mọi lý
luận đều phải được kiểm nghiệm trong thực tiễn khách quan. Có thể nói, thực
tiễn là cơ sở, mục đích, động lực của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra
chân lý.
Như vậy, lý luận được hình thành từ thực tiễn thông qua hoạt động cụ thể
của con người. Có nhiều quan niệm khác nhau về lý luận nhưng theo Từ điển
triết học do Cung Kim Tiến biên soạn: lý luận là hệ thống những tri thức đã


9

được khái quát tạo ra một quan niệm hoàn chỉnh về các quy luật và mối liên
hệ cơ bản của hiện thực [22, tr.680].
1.1.2. Thực tiễn
Khái niệm
Thực tiễn (Practice) là phạm trù cơ bản trong lý luận nhận thức Mác - xít.
V.I. LêNin cho rằng: Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm
thứ nhất và cơ bản của lý luận nhận thức [19, tr.167]. Trong lịch sử triết học,

không phải mọi trào lưu triết học đều đã đưa ra những quan niệm đúng đắn về
phạm trù này.
Chủ nghĩa duy tâm chỉ hiểu như là một hoạt động tinh thần sáng tạo thế
giới của con người chứ không xem nó là hoạt động hiện thực, hoạt động vật
chất cảm tính của con người. Một số nhà triết học duy tâm chủ quan cho rằng
hoạt động thực tiễn bị chế định bởi ý chí, bản năng, những nhân tố tiềm thức
của con người.
Hêghen - nhà triết học duy tâm khách quan thì cho rằng thực tiễn là hoạt
động ý chí của tư tưởng, là một suy lý logíc. Thực tiễn chỉ được ông giới hạn
ở hoạt động tư tưởng, ở ý niệm. Tuy nhiên, Hêghen đã có lý khi bàn đến ý
niệm thực tiễn. Theo ông, bằng thực tiễn, chủ thể tự nhân đôi mình, đối tượng
hóa bản thân mình trong quan hệ với thế giới bên ngoài.
Các nhà duy vật trước C. Mác có công lớn trong việc phát triển thế giới
quan duy vật và đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo, thuyết không
thể biết”. Nhưng hạn chế lớn nhất của họ là không thấy được vai trò của thực
tiễn đối với nhận thức.
Khắc phục những sai lầm, kế thừa và phát triển sáng tạo những yếu tố
hợp lý trong những quan điểm về thực tiễn của các nhà triết học trước đó,
Mác và Ănghen đã đưa ra một quan niệm đúng đắn, khoa học về thực tiễn và


10

vai trò của nó đối với nhận thức cũng như đối với sự tồn tại và phát triển của
xã hội loài người.
Vậy thực tiễn là gì? Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã đưa
ra định nghĩa: Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích,
mang tính lịch sử xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. [2,
tr.261].
Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người, là điểm khác

biệt giữa con người và con vật. Chỉ con người mới có các hoạt động thực tiễn,
còn con vật hành động theo bản năng. Để tồn tại và thỏa mãn những nhu
cầu ngày càng cao của mình, con người thông qua các hoạt động lao động sản
xuất không những khai thác những cái sẵn có trong tự nhiên mà còn tạo ra
những cái không sẵn, những cái nhân tạo. Vì vậy thực tiễn là phương thức tồn
tại cơ bản của con người, là phương thức đầu tiên và chủ yếu của mối quan hệ
con người với thế giới.
Các giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử xã hội có các trình độ phát
triển khác nhau của hoạt động thực tiễn. Do đó thực tiễn mang tính lịch sử xã hội.Vì: hoạt động thực tiễn là dạng hoạt động cơ bản của con người. Đó là
hình thức hoạt động đặc thù của loài người, luôn diễn ra trong một bối cảnh
văn hóa nhất định. Là một sản phẩm lịch sử, hoạt động thực tiễn luôn vận
động và phát triển không ngừng theo các giai đoạn lịch sử. Trình độ phát triển
của thực tiễn được đánh giá ở trình độ, khả năng chinh phục, khai thác, tái tạo
giới tự nhiên, trình độ làm chủ xã hội của con người. Hoạt động thực tiễn
không phải là hoạt động của cá nhân người mà là hoạt động của loài người,
trước hết là của đông đảo quần chúng nhân dân - những người trực tiếp tham
gia hoạt động sản xuất ra của cải vật chất.
Thực tiễn là hoạt động có ý thức, có mục đích của con người. Hoạt động
thực tiễn có mục đích cao nhất là cải tạo hiện thực. Con người nhận thức thế


11

giới hiện thực và tích cực tác động một cách có mục đích để cải tạo nó. Trên
cơ sở đó, thế giới mới bộc lộ những đặc tính, bản chất, nội dung, quy định,...
nhờ đó con người mới có tri thức về thế giới. Có như vậy, con người mới có
thể cải tạo hiện thực theo điều kiện của sự phát triển tự nhiên và xã hội.
Các hình thức cơ bản của hoạt động thực tiễn
Hoạt động thực tiễn rất đa dạng, phong phú. Có ba dạng cơ bản: hoạt
động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị - xã hội và hoạt động thực nghiệm

khoa học.
Dạng cơ bản thứ nhất của thực tiễn là hoạt động sản xuất vật chất. Đây là
hoạt động đầu tiên cơ bản, nền tảng của đời sống xã hội. Hoạt động này có ý
nghĩa quyết định đối với tất cả các dạng hoạt động khác, quyết định đến sự
tồn tại và phát triển của xã hội.
Ngoài ra, với sự phát triển của khoa học, tồn tại một dạng cơ bản khác
của thực tiễn là hoạt động chính trị - xã hội. Đây là hoạt động nhằm cải biến
xã hội, phát triển các quan hệ xã hội, chế độ xã hội ; đấu tranh giai cấp nhằm
cải tạo xã hội, lật đổ ách thống trị của giai cấp này, thay vào đó là sự thống trị
của giai cấp khác đại diện cho phương thức sản xuất mới tiến bộ. Hoạt động
chính trị - xã hội mang tính cơ bản, phổ biến và là một dạng đặc biệt - dạng
cao nhất của hoạt động thực tiễn.
Hoạt động thực nghiệm khoa học là hoạt động được tiến hành trong
những điều kiện do con người tạo ra gần giống hoặc lặp lại những trạng thái
của tự nhiên và xã hội nhằm xác định các quy luật biến đổi và phát triển của
đối tượng nghiên cứu.
Ba dạng hoạt động thực tiễn trên có chức năng, vai trò khác nhau song
có mối liên hệ hữu cơ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó hoạt
động sản xuất vật chất giữ vai trò quyết định.


12

1.2. SỰ THỐNG NHẤT BIỆN CHỨNG GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Nội dung của nguyên tắc này chính là sự tác động qua lại, sự liên hệ,
ràng buộc lẫn nhau giữa lý luận và thực tiễn.
1.2.1. Vai trò của thực tiễn đôi với lý luận
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức được thể hiện ở chỗ thực tiễn là
cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức và thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra
chân lý.

Con người có quan hệ với thế giới bên ngoài không phải được bắt đầu từ
lý luận, nghệ thuật hay triết học...mà là thực tiễn. Chính trong quá trình hoạt
động thực tiễn mà ý thức nhận thức của con người được hình thành và phát
triển. Bằng sự tác động của mình vào các sự vật, hiện tượng làm cho chúng
bộc lộ những thuộc tính, những mối liên hệ và quan hệ khác nhau giữa chúng,
giúp con người nhận thức và có tri thức về thế giới đó. Như vậy, thực tiễn
cung cấp những tài liệu, tri thức...cho nhận thức lý luận. Mọi tri thức dù là
trực tiếp hay gián tiếp xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn. Đồng thời,
thông qua thực tiễn mà những nhu cầu, nhiệm vụ, phương hướng đặt ra đối
với nhận thức, nó tạo nên động lực thúc đẩy nhận thức không ngừng phát
triển. Tất cả mọi phát minh, sáng chế, mọi lý thuyết khoa học đều do đòi hỏi
của thực tiễn đặt ra.
Thực tiễn là động lực của nhận thức, chính từ thực tiễn đã đề ra những
nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển của nhận thức. Hoạt động thực
tiễn đòi hỏi phải có tri thức mới, phải tổng kết kinh nghiệm, khái quát lý
luận...do đó nó thúc đẩy sự ra đời, phát triển của các ngành khoa học. Mác và
Ăngghen có nhận xét: Khi thực tiễn có nhu cầu đòi hỏi thì nó thúc đẩy sự phát
triển của khoa học hơn cả mười trường đại học.


13

Nhờ hoạt động thực tiễn và thông qua hoạt động thực tiễn đã tạo ra các
phương tiện, công cụ ngày càng hiện đại. Điều đó tạo điều kiện thuận lợi để
con người đi sâu tìm hiểu, khám phá thế giới.
Cũng nhờ quá trình hoạt động thực tiễn mà bản thân con người cũng
được biến đổi theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn, các giác quan của con
người ngày càng trở nên nhanh nhaỵ hơn, điều đó giúp con người phản
ánh thế giới khách quan ngày càng đúng đắn hơn, chính xác hơn.
Thực tiễn là mục đích của nhận thức, nhận thức của con người không có

mục đích tự thân nhận thức để nhận thức mà nhận thức để phục vụ thực tiễn.
Kết quả của hoạt động nhận thức phải quay về hướng dẫn, chỉ đạo thực tiễn.
Những phát minh khoa học, những học thuyết lý luận chỉ có tác dụng thực sự
khi chúng được vận dụng áp dụng vào thực tiễn.
Cụ thể, trong thời kì hiện nay, công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam đang đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ và phức tạp, đòi hỏi
lý luận phải đi sâu nghiên cứu để giải quyết các yêu cầu đó. Ví dụ như các
vấn đề: CNXH và con đường đi lên CNXH, công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
các vấn đề về thời đại ngày nay...Qua việc làm sáng tỏ các vấn đề do thực tiễn
đặt ra trên đây, lý luận sẽ có vai trò quan trọng, góp phần đắc lực vào sự
nghiệp đổi mới đất nước ở Việt Nam.
Thực tiễn còn là tiêu chuẩn để kiểm tra đánh giá chân lý. Kết quả của quá
trình nhận thức là những tri thức mới, những tri thức đó đứng trước ba khả
năng đúng, gần đúng hoặc là sai. Tiêu chuẩn để đánh giá là dựa trên thực tiễn,
chỉ những tri thức nào đã được thực tiễn kiểm chứng, kiểm nghiệm là phù
hợp, là phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan có tác dụng cải biến thế giới
khách quan thì mới trở thành chân lý.
Mác đã nhấn mạnh: Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt
tới chân lý khách quan hay không hoàn toàn không phải là vấn đề lý luận mà


14

là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh
chân lý.
Tóm lại, thực tiễn là điểm xuất phát, giữ vai trò hết sức quan trọng đối
với nhận thức. Nó không chỉ là cơ sở, động lực, là mục đích của nhận thức mà
còn là tiêu chuẩn để kiểm tra, đánh giá chân lý.
1.2.2. Vai trò của lý luận đối với thực tiễn
Mặc dù thực tiễn là cơ sở, động lực mục đích của nhận thức, lý luận

nhưng lý luận cũng có tác động tích cực trở lại thực tiễn. Lý luận là sự phản
ánh khái quát hiện thực khách quan, nó được biểu hiện bằng ngôn ngữ - cái
vở vật chất của tư duy. Lý luận có tính năng động, sáng tạo, có thể phản ánh
sự vật sâu sắc hơn, đầy đủ hơn.
Lý luận là kim chỉ nam cho mọi hoạt động, soi đường, dẫn dắt chỉ đạo
thực tiễn; chỉ rõ phương hướng và tìm ra biện pháp hiệu quả để đạt mục đích
thực tiễn. Lênin khẳng định: Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể
có phong trào cách mạng [ 18, tr.30].
Lý luận khoa học làm cho hoạt động của con người trở lên chủ động tự
giác, hạn chế tình trạng mò mẫm tự phát. Nếu không có lý luận đúng đắn và
khoa học hướng dẫn, chỉ đạo thì hoạt động của con người sẽ kém hiệu quả. Vì
vậy, Hồ Chí Minh ví không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi [20,
tr.234]. Tuy nhiên, do tính gián tiếp, tính trừu tượng cao trong sự phản ánh
hiện thực nên lý luận có thể xa rời thực tiễn và rơi vào ảo tưởng. Do đó, cần
quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong nhận thức
khoa học và hoạt động cách mạng.
Bản thân Lênin cũng nhấn mạnh vai trò quan trọng của lý luận: lý luận
cách mạng không phải là giáo điều, nó là kim chỉ nam cho mọi hoạt động
cách mạng. Lý luận không phải cứng nhắc mà đầy tính sáng tạo, cho nên nó
cần được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ thực tiễn sinh động.


15

Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện
chứng với nhau. Vì vậy, không nên coi kinh nghiệm là tất cả, tuyệt đối hóa
kinh nghiệm mà coi nhẹ lý luận. Bác Hồ dạy rằng: có kinh nghiệm mà không
có lý luận cũng như một mắt sáng, một mắt mờ [20, tr.234].
Trong mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, xét cho cùng,
thực tiễn vẫn là yếu tố quyết định, còn lý luận có tính độc lập tương đối. Sự

hình thành và phát triển của lý luận chịu sự tác động của thực tiễn và các yếu
tố bên trong nó. Bởi vậy sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn không phải là
cái bất biến tuyệt đối mà thường xuyên vận động từ thấp đến cao. Khi lý luận
hoặc thực tiễn trở nên lạc hậu, kìm hãm sự phát triển của mặt kia thì nó xuất
hiện sự không tương xứng - tức mâu thuẫn giữa lý luận và thực tiễn. Nếu
chúng ta phát hiện và giải quyết được mâu thuẫn trên thì hai mặt lý luận và
thực tiễn sẽ thống nhất ở trình độ cao hơn. Cứ như thế làm cho lý luận và
thực tiễn ngày càng phát triển.
Bản thân mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn luôn vận động và biến đổi
theo các giai đoạn. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam đang tiến hành
công cuộc đổi mới toàn diện thì vai trò của nguyên tắc và vận dụng nguyên
tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn càng trở nên quan trọng hơn bao giờ
hết.
1.3. GIÁ TRỊ CỦA NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc cao nhất và
căn bản nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nó có vai trò rất quan trọng trong
thực tiễn cách mạng và hoạt động nghiên cứu khoa học của mỗi người.
Trước hết, về mặt lý luận: nguyên tắc này đã khắc phục được hạn chế
của các quan điểm duy vật siêu hình và chống lại quan điểm của chủ nghĩa


16

duy tâm. C.Mác đã từng chỉ rõ: khuyết điểm chủ yếu từ trước đến nay của mọi
chủ nghĩa duy vật (kể cả chủ nghĩa duy vật của PhoiơBăc) là không thấy
được vai trò của thực tiễn [5, tr.9].
Đồng thời, nhờ việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận của Mác –
Ăngghen đã tạo ra bước chuyển biến trong lý luận cách mạng nói chung và lý
luận nhận thức nói riêng. Với việc khẳng định: Quan điểm về đời sống, về

thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận nhận thức [19, tr.
167], các nhà triết học Mácxít đã giúp chúng ta phân biệt được quan điểm duy
vật biện chứng với các quan điểm triết học khác.
Việc vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn giúp
chúng ta tránh được một số căn bệnh như: giáo điều, bệnh kinh nghiệm...đã
tồn tại khá lâu ở các nước XHCN thời kì trước. Nguyên nhân của những căn
bệnh trên là do: con người nhận thức sai lầm, vi phạm nguyên tắc thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn. Một khi đã rút ra được bài học, tránh sai lầm trên,
chúng ta sẽ tìm thấy hướng đi đúng đắn cho đất nước. Muốn vậy, không được
đề cao lý luận đến mức xa rời thực tiễn, rơi vào bệnh chủ quan duy ý chí.
Liên Xô là nước CNXH đầu tiên trên thế giới, được đánh giá là một quốc
gia rất mạnh về tư tưởng và lý luận. Để có bước phát triển hưng thịnh như
ngày nay, nếu chỉ phát huy vai trò của lý luận thì chưa đủ, Liên Xô còn đúc
kết lý luận từ thực tiễn, gắn chặt thực tiễn với lý luận. Sau khi cách mạng
tháng Mười thắng lợi, Chính sách cộng sản thời chiến đã trở nên lỗi thời. Đáp
ứng yêu cầu của thực tiễn, các nhà lãnh đạo Liên Xô đã ban hành Chính sách
kinh tế mới (NEP) với nhiều nội dung, trong đó có nội dung quan trọng là bãi
bỏ chế độ trưng thu, trưng mua lương thực thừa -thay vào đó là thuế lương
thực, tạo cơ sở phát huy sức sáng tạo, tích cực chủ động của nhân dân, tạo ra
khối lượng lớn của cải vật chất, đưa nền kinh tế nước Nga tiến lên. Đó là một


17

minh chứng rất nhỏ về việc vận dụng đúng đắn nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn của các nước trên thế giới.
Với một nước quá độ lên CNXH có điểm xuất phát thấp như Việt Nam
thì việc vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn càng trở lên
quan trọng, là tất yếu khách quan. Khi vận dụng lý luận xây dựng CNXH, các
nước phải căn cứ vào điều kiện cụ thể của dân tộc. Không được áp dụng máy

móc, cứng nhắc để dẫn đến sai lầm như giai đoạn trước đổi mới.
Như vậy nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn luôn biến đổi
cùng lịch sử, Đảng ta nhận thức rõ điều đó để đề ra những chủ trương, chính
sách phù hợp với đất nước. Một trong những chủ trương lớn hiện nay của
Đảng là đổi mới tư duy gắn liền với hoạt động thực tiễn, từ đó mới nhận thức
được các quy luật khách quan, đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, xây dựng
thành công CNXH ở nước ta hiện nay.


18

CHƯƠNG 2. NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN TRONG SỰ
NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
2.1.1. Bối cảnh đất nước trước thời kì đổi mới
Ở thời đại lịch sử nào cũng vậy, một nước muốn phát triển vững mạnh
đòi hỏi phải luôn luôn gắn liền lý luận với thực tiễn. Nghĩa là các chính sách
đề ra phải bám sát với yêu cầu thực tế. Nếu vi phạm nguyên tắc này sẽ khó
tránh khỏi những sai lầm với những hậu quả đáng tiếc. Sự sụp đổ của Liên Xô
và Đông Âu là một bài học kinh nghiệm đắt giá về vấn đề này. Ở Việt Nam
trước thời kì đổi mới cũng mắc không ít sai lầm, gây ra cuộc khủng hoảng
toàn diện đất nước. Sự thật là chúng ta đã vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin
không phù hợp với hoàn cảnh lịch sử trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Những vấn đề đó được Đảng chỉ rõ trong văn kiện của Đại hội Đảng VI.
Trước hết về vấn đề đánh giá tình hình, xác định mục tiêu và bước đi của
toàn dân tộc: Sau 1975, đất nước thống nhất, CNXH được xây dựng trên
phạm vi cả nước. Đảng và nhà nước đề ra đường lối chung và đường lối kinh
tế trong cả thời kì quá độ. Nhưng việc đánh giá tình hình cụ thể về các mặt
kinh tế, xã hội; việc xác định mục tiêu, bước đi để xây dựng cơ sở vật chất, kĩ

thuật, cải tạo XHCN và quản lý kinh tế có nhiều thiếu sót. Trong báo cáo
chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội V do đồng chí Lê
Duẩn trình bày, đã chỉ ra: chúng ta chưa lường được hết khó khăn, phức tạp
của con đường đi lên CNXH từ một nền kinh tế mà sản xuất nhỏ còn phổ
biến. Với nền công nghiệp lạc hậu, trong những năm 76 - 80, Đảng chủ
trương đẩy mạnh công nghiệp hóa là chưa phù hợp vì chưa đủ điều kiện cần
thiết. Mặt khác, đất nước ta vẫn duy trì cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa
tập trung, quan liêu, bao cấp, xa rời thực tế.


19

Về bố trí cơ cấu kinh tế
Thực tiễn đất nước sau 1975 gặp nhiều khó khăn về chính trị, kinh tế, xã
hội. Đảng ta muốn đi nhanh để xây dựng cơ cấu kinh tế mà chưa tính hết
những khó khăn đó. Tại Đại hội V, Đảng đề ra chính sách: Kết hợp đúng đắn
công nghiệp và nông nghiệp, tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp, đưa
nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn XHCN, trong một cơ cấu kết hợp chặt
chẽ và đúng đắn nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp
nặng. [6, tr.55- 56]. Trong quá trình thực hiện, chúng ta lại không kết hợp
chặt chẽ ngay từ đầu nông nghiệp và công nghiệp thành một cơ cấu hợp lí.
Đồng thời chưa sử dụng hiệu quả khả năng mở rộng kinh tế với nước ngoài.
Nhận thấy sự không phù hợp về cơ cấu kinh tế đề ra ở Đại hội V, Đại hội
VI của Đảng nhận định phải sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân theo cơ cấu hợp
lý, yêu cầu cấp bách đặt ra là phải đưa nông nghiệp lên vị trí hàng đầu [9,
tr.480].
Về thực tiễn cải tạo XHCN, củng cố quan hệ sản xuất mới, sử dụng các
thành phần kinh tế
Về nội dung cải tạo: Đại hội V quyết tâm đẩy mạnh cải tạo XHCN hoàn
thành về cơ bản việc hợp tác hóa nông nghiệp ở các tỉnh Nam Bộ với hình

thức phổ biến là tập đoàn sản xuất...[6, tr.87]. Nghĩa là nhấn mạnh việc thay
đổi quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất mà không coi trọng giải quyết các vấn
đề tổ chức quản lý và chế độ phân phối. Cách làm ở nước ta thường theo kiểu
chiến dịch gò bó, chạy theo số lượng, coi nhẹ chất lượng và hiệu quả.
Việc chưa sắp xếp lại các ngành và các cơ sở sản xuất, chậm thay đổi cơ
chế quản lý kinh tế dẫn đến làm suy yếu vai trò chủ đạo của kinh tế quốc
doanh, kinh tế tập thể chậm củng cố, hạn chế việc sử dụng và cải tạo các
thành phần kinh tế khác.


20

Tất cả những hạn chế trên đây là do Đảng ta tách rời lý luận và thực tiễn,
nó gây ra ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển kinh tế, xã hội
Về cơ chế quản lý kinh tế
Thời kì trước đổi mới, nước ta vẫn duy trì cơ chế quản lý tập trung, quan
liêu, bao cấp. Nhận thấy cơ chế quản lý này kìm hãm sự phát triển đất nước,
Nhà nước đã đề ra cơ chế quản lý nền kinh tế theo một kế hoach thống nhất.
Tính kế hoạch là đặc trưng số một của cơ chế quản lý kinh tế ngay từ buổi
đầu của thời kì quá độ. Đặc trưng thứ hai của cơ chế mới về quản lý kinh tế
là sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa - tiền tệ.
Tuy nhiên, tại Đại hội Đảng VI, chúng ta mới chỉ nêu ra phương hướng
chủ yếu của cơ chế mới, còn nội dung, hình thức, bước đi, cách làm cụ thể
vẫn còn nhiều vấn đề chưa giải đáp thỏa đáng cả về lý luận và thực tiễn.
Trong lĩnh vực phân phối lưu thông
Những năn trước thời kì đổi mới, lĩnh vực phân phối lưu thông ở nước ta
luôn căng thẳng, rối ren. Nguyên nhân là do nước ta chưa có chính sách cơ
bản về tài chính gắn liền với chính sách đúng đắn về giá cả, tiền tệ -tín dụng,
tiền lương, Nhà nước không điều tiết đúng mức thu nhập của tư thương,
không bảo vệ tốt tài sản quốc gia, phân phối chưa đúng nguồn vốn, vật tư,

hàng hóa có trong tay.
Trong lĩnh vực tư tưởng và công tác tổ chức cán bộ
Về tư tưởng: bộc lộ sự lạc hậu về lý luận và sự vận dụng các quy luật
kinh tế khách quan trong thời kì quá độ. Mặc dù chúng ta đang ở chặng đầu
tiên nhưng Đảng đề ra mục tiêu qua cao về CNXH. Đó là tư tưởng duy ý chí,
giản đơn hóa thực tiễn làm cho lý luận xa rời thực tiễn.
Từ sự lạc hậu về tư tưởng dẫn đến sự trì trệ, chậm đổi mới về công tác
cán bộ. Việc lựa chọn, bố trí cán bộ vào cơ quan lãnh đạo và quản lý các cấp
còn theo quan niệm cũ, mang nặng tính hình thức. Công tác giáo dục và quản


21

lý cán bộ, nhân viên thiếu chặt chẽ. Phong cách lãnh đạo và lề lối làm việc
mang nặng chủ nghĩa quan liêu.
2.1.2. Tình hình quốc tế và nhu cầu đổi mới nhận thức
Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, xu thế loài người tiến lên với nhiều
thành tựu quan trọng. Với việc hình thành nền kinh tế thị trường làm cho sản
xuất và trao đổi hàng hóa phát triển. Thị trường được mở rộng ra phạm vi
toàn thế giới. Cùng với đó là xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế.
Với việc tham gia các tổ chức ASEAN, APEC...đặc biệt là việc gia nhập
WTO mở ra nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức cho đất nước ta.
Thêm vào đó là sự bùng nổ mạnh mẽ của khoa học, công nghệ ở tất cả các
lĩnh vực. Trong sự phát triển đó, tri thức - trí tuệ trở thành động lực phát triển
chủ yếu của xã hội. Muốn hội nhập thì Việt Nam phải xây dựng cho mình
những tiền đề cần thiết như kinh tế, chính trị, văn hóa...và vai trò không thể
thiếu của lý luận trong quá trình phát triển theo hướng tiếp cận nền kinh tế tri
thức.
Đồng thời, tình hình quốc tế hiện nay cũng có nhiều diễn biến phức tạp,
sự chống phá của các thế lực thù địch với CNXH bằng âm mưu diễn biến hòa

bình...
Qua việc phân tích những khó khăn và thuận lợi mà tình hình quốc tế
mang lại, một yêu cầu đặt ra cho Việt Nam là phải đổi mới về nhận thức,
không ngừng nâng cao trình độ tư duy lý luận để có thể thực hiện thành công
sự nghiệp đổi mới và nâng cao vị trí trên trường quốc tế.
2.2. SỰ NHẬN THỨC VÀ QUÁN TRIỆT NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT
GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM
Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức và vận dụng sáng tạo nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác - Lênin. Điều này


22

được thể hiện qua các kì đại hội Đảng, chúng ta có thể khái quát lại một số
nội dung cơ bản như sau:
2.2.1. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
vào điều kiện cụ thể của Việt Nam
Thời đại ngày nay đang có những biến đổi hết sức sâu sắc trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Xây dựng CNXH bỏ qua chế độ TBCN là sự
nghiệp khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kì quá độ lâu dài
với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất
quá độ.
Vận dụng lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa MácLênin, Đảng ta cho rằng, nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai
đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển, thực hiện công bằng xã hội,
chống áp bức bất công; đấu tranh, ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và
hành động tiêu cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động
chống phá của các thế lực thù địch bảo vệ độc lập dân tộc, kiên định đi lên
CNXH.

Vận dụng các quy luật kinh tế của thời kì quá độ, Đảng ta chủ trương
thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của nhà
nước. Đại hội X của Đảng khẳng định: trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân,
tập thể, tư nhân) hình thành năm thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế
tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà
nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó, kinh tế Nhà nước giữ vai
trò chủ đạo, nó cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc của nền kinh tế quốc dân.


×