Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Những tư tưởng chủ yếu của nho giáo và ảnh hưởng của nó ở việt nam trong lịch sử và hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.21 KB, 30 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thiện tiểu luận này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của
các đoàn thể và cá nhân. Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn và kính trọng tới tất cả các
tập thể và cá nhân đã tạo điều kiện giúp tôi trong quá trình học tập và nghiên
cứu. Trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Vi Thái Lang người
đã hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thiện tiểu luận. Tôi
xin trân trọng cảm ơn Thư viện, phòng sau đại học, tập thể K16 TGT, các đơn
vị liên quan của trường ĐHSP Hà Nội 2 những người đã trang bị cho tôi
những kiến thức quý báu để giúp tôi hoàn thiện bài tiểu luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đồng nghiệp đã động viên,
chia sẻ, giúp đỡ nhiệt tình và đóng góp nhiều ý kiến quý báu để tôi hoàn thiện
tiểu luận này.
Hà Nội, tháng 1 năm 2013
TÁC GIẢ

VŨ QUANG HUY

Vũ Quang Huy

K16 - TGT


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong tiểu luận
này là trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam
đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện tiểu luận này đã được cảm ơn và
các thông tin trích dẫn trong tiểu luận này đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, tháng 1 năm 2013
TÁC GIẢ

VŨ QUANG HUY



Vũ Quang Huy

K16 - TGT


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................................
NỘI DUNG.......................................................................................................
Chương 1. Những tư tưởng chủ yếu của Nho giáo..........................................
1.1. Vài nét về quá trình phát triển của Nho giáo..............................................
1.2. Những tư tưởng chủ yếu của Nho giáo......................................................
1.2.1. Quan điểm về bản chất con người...........................................................
1.2.2. Quan điểm về xã hội học.........................................................................
1.2.3. Quan điểm về giáo dục............................................................................
1.2.4. Quan điểm về quản lý giáo dục ( trị quốc)..............................................
Chương 2: Sự ảnh hưởng của Nho giáo ở Việt Nam trong lịch sử và
hiện nay...........................................................................................................
2.1. Vài nét về quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam.......................
2.2. Những ảnh hưởng của Nho giáo trong lịch sử Việt Nam.........................
2.2.1. Ảnh hưởng trong chế độ phong kiến.....................................................
2.2.2. Ảnh hưởng trong thời kỳ cách mạng dân tộc Việt Nam........................
2.3. Ảnh hưởng của Nho giáo trong tư tưởng Việt Nam.................................
2.3.1. Ảnh hưởng tích cực...............................................................................
2.3.2. Ảnh hưởng tiêu cực..............................................................................
2.4. Ảnh hưởng của Nho giáo đến truyền thống văn hóa ngày nay của
Việt Nam.........................................................................................................
2.4.1. Ảnh hưởng tích cực...............................................................................
2.4.2. Ảnh hưởng tiêu cực...............................................................................
KẾT LUẬN....................................................................................................

TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................

Vũ Quang Huy

K16 - TGT


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức ra đời và tồn tại đến nay
đã hơn 2500 năm. Trong suốt thời gian tồn tại, Nho giáo đã có ảnh hưởng ở
nhiều nước phương Đông, trong đó có Việt Nam. Nội dung đạo đức chủ yếu
của Nho giáo như tam cương (đạo đức xã hội gồm ba mối quan hệ cơ bản là
vua-tôi, cha-con, chồng-vợ), ngũ thường (gồm năm chuẩn mực đạo đức cá
nhân bất di bất dịch là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín). Đó là những tiền đề để thực
hiện thuyết chính danh, làm cho xã hội được ổn định, trật tự. Sự ảnh hưởng
này, được thể hiện trên nhiều phương diện, đặc biệt là trong lĩnh vực đạo đức
trước đây cũng như hiện nay. Vì vậy tôi chọn vấn đề "Những tư tưởng chủ
yếu của Nho giáo và ảnh hưởng của nó ở Việt Nam trong lịch sử và hiện nay"
làm đề tài tiểu luận của mình.
Hoàn thành tiểu luận này, tôi hi vọng có thể góp một phần nhỏ của
mình trong việc làm rõ những ảnh hưởng của Nho giáo đến Việt Nam từ đó
giúp mọi người có một cái nhìn sâu sắc hơn về Nho giáo.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu những tư tưởng chủ yếu của Nho giáo, các ảnh hưởng tích
cực và tiêu cực của nó đến xã hội Việt Nam trong lịch sử và hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Tìm hiểu về các quan điểm, tư tưởng của Nho giáo về các mặt của

đời sống xã hội.
+ Những ảnh hưởng của Nho giáo tới đời sống xã hội Việt Nam
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Tiểu luận nghiên cứu những mặt tích cực và những mặt còn hạn chế
của những tư tưởng Nho giáo đối với mặt đời sống đạo đức, truyền thống văn
hóa của Việt Nam.
Vũ Quang Huy

K16 - TGT


2

5. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử và
chủ nghĩa duy vật biện chứng.
6. Giả thuyết khoa học
Tiểu luận chỉ rõ các vấn đề về ảnh hưởng của Nho giáo trong tư tưởng,
truyền thống văn hóa của người Việt Nam

Vũ Quang Huy

K16 - TGT


3

NỘI DUNG
Chương 1
Những tư tưởng chủ yếu của Nho giáo

1.1Vài nét về tiến trình phát triển của Nho giáo

Lịch sử Nho giáo dài hơn hai nghìn năm. Trong thời gian đó, ở phương
Bắc, xã hội phong kiến chuyển biến, lịch sử chính trị phát triển, phong tục tập
quán thay đổi. Nho giáo cũng được bổ sung nhiều cái mới vào nội dung của
nó. Nho giáo càng phát triển lại càng phức tạp hơn. Nói đến Nho giáo thì việc
đầu tiên không thể không nhắc tới: đó là Khổng Tử. Người ta bình luận khen
tặng Khổng Tử ra sao đều không thể gọi là quá lời, trước đây hơn 2000 năm,
đại sử học gia Tư Mã Thiên khi đi thăm Khúc Phụ quê hương của Khổng Tử
từng cảm khái viết: “Khổng Tử áo vải, truyền hơn 10 đời, được các học trò coi
là tổng sư, từ thiên tử, vương hầu đến thứ dân đều coi ông là bậc chí thánh”.
Từ đời Hán đến đời Thanh, Khổng học chủ yếu dùng hình thức kinh
truyện để lưu truyền. Đường Thái Tông sau khi hoàn thành toàn diện thống
nhất quốc gia, liền cho kinh học gia Khổng Dĩnh Đạt chú giải, hiệu đính lại
năm kinh Nho gia là Dịch, Thi, Thư, Tà tuyên, Lễ ký thành bộ Ngũ kinh
chính nghĩa gần như tổng kết toàn diện kinh học từ đời Hán đến đó. Ngũ kinh
chính nghĩa trở thành sách giáo khoa dùng cho thi cử đời Đường. Khổng học
càng được giai cấp thống trị tín nhiệm, Đường Thái Tông nói rất rõ “Nay trẫm
yêu thích nhất là đạo của Nghiêu Thuấn và đạo của Chu Không coi như chim
thêm cánh, như cá gặp nước, không thể không có được”. Từ đó, Khổng Tử
với đế vương, với chính phủ các triều đại đều có quan hệ như Đường Thái
Tông hình dung.
Khi lịch sử phức tạp của Trung Quốc tiến vào thời kỳ phát đạt - thời kỳ
nhà Tống, vị hoàng đế khai quốc là Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn lập tức
chủ trì nghi lễ long trọng tế tự Khổng Tử để biểu dương lòng thiếu đễ, vua
còn thân chủ trì khoa thi tiến sĩ mà nội dung hoàn toàn theo Nho học. Đối với
Nho học mới bột hưng ở thời Tống, chúng ta thường gọi đó là Lý học.

Vũ Quang Huy


K16 - TGT


4

Nội dung và kết cấu của Lý học hết sức rộng lớn, bắt đầu từ Hàn Dũ
đời nhà Đường, trải qua nỗ lực của Tôn Phục, Thạch Giới, Hồ Viên, Chu Đôn
Di, Thiệu Ung, Thương Tái, Trình Di, Trình Hạo đời Bắc Tống cho đến Chu
Hi đời Nam Tống là người tập đại thành hoàn chỉnh hệ thống tư tưởng Lý
học. Lý học trình Chu nhấn mạnh Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín như lễ trời (thiên
lý) dùng học thuyết Khổng Mạnh làm nguồn gốc, hấp thu thêm các học thuyết
tư tưởng của Phật giáo, Đại giáo cung cấp sự nhu yếu cho xã hội quân chủ
chuyên chế. Chu Hi tập chú giải thích các kinh điển Nho gia như Luận ngữ,
Mạnh Tử trở thành những sách giáo khoa bắt buộc của sĩ tử trong xã hội
phong kiến và là tiêu chuẩn pháp định trong khoa cử của chính phủ. Điều ấy
xem ra xa với chủ trương thiện lương, trí tuệ, ngoan cường của Khổng Tử ở
thời Xuân Thu, góp phần tạo nên một hình ảnh Khổng Tử khác mang màu sắc
vì yêu cầu giữ thiên lý mà diệt mất nhân đục, đạo mạo bàn xuông dẫn đến tiêu
diệt cá tính, thậm chí hư ngụy, giả dối nữa.
Ngoài Lý học của Trình Chu có địa vị chi phối, phái Công học của Trần
Lượng, Diệp Thích, phái Tâm học của Vương Dương Minh cũng đều tôn
sùng Khổng Tử, hấp thu một phần tư tưởng cơ bản của ông. Những học
thuyết này đều được lưu truyền rộng rãi và tạo ảnh hưởng sâu sắc trong xã hội
văn hoá Trung Quốc.
Do vì Nho học được các sĩ đại phu tôn sùng, được các vương triều đua
nhau đề xướng nên Nho học thuận lợi thẩm thấu trong mọi lĩnh vực trong mọi
giai tầng xã hội, từ rất sớm nó đã vượt qua biên giới dân tộc Hán, trở thành
tâm lý của cộng đồng dân tộc Trung Quốc, là cơ sở văn hoá của tín ngưỡng và
tập tính.
Ở Việt Nam, từ Lê đến Nguyễn, triều đình và sỹ phu không chú ý tới

việc theo dõi, học hỏi Nho giáo của ba triều đại này. Thời Nguyễn, Nho học
kém cỏi, chỉ vẹt lại Trình, Chu, một phần vì người ta quan niệm rằng nho học
đến Trình, Chu là hết mức rồi, phần khác vì sự thống trị của nhà Nguyễn là
một bước thụt lùi trên nhiều mặt. Đến đời Thanh thì chia thành nhiều phái:
Vũ Quang Huy

K16 - TGT


5

Hán học, Kinh học, Tống học và Tân học, không phải cái nào cũng ảnh hưởng
đến Việt Nam.
1.2 Những tư tưởng chủ yếu của Nho giáo.
Nho giáo là một trường phái do Khổng Tử, tên thật là Khâu, hay còn
gọi là Trọng Ni, người nước Lỗ (551 - 479 trước Công nguyên, thời Xuân
Thu - Chiến quốc) sáng lập. Khổng Tử là người mở đường vĩ đại của lịch sử
tư tưởng Trung Quốc cổ đại. ông là nhà triết học, nhà chính trị và là nhà giáo
dục nổi tiếng ở Trung quốc cổ đại. Ông đã hệ thống những tri thức tư tưởng
đời trước và quan điểm của ông thành học thuyết đạo đức chính trị riêng, gọi
là Nho giáo. Học thuyết của ông được hai nhà tư tưởng là Mạnh Tử và Tuân
Tử hoàn thiện và phát triển. Mạnh Tử theo hướng duy tâm, Tuân Tử theo
hướng duy vật. Trong lịch sử sau này dòng Khổng Mạnh có ảnh hưởng lâu
dài nhất. Từ nhà Hán trở đi, Nho giáo được nhiều nhà tư tưởng phát triển và
sử dụng theo môi trường xã hội của nó.Tư tưởng trung tâm của Nho giáo là
những vấn đề về chính trị, đạo đức của con người và xã hội.
1.2.1 Quan điểm về bản chất con người.
Nho giáo đặt vấn đề đi tìm một bản tính có sẵn và bất biến của con
người. Đức Khổng Tử và Mạnh Tử đều quan niệm bản tính con người ta sinh
ra vốn thiện. Bản tính "Thiện" ở đây là tập hợp các giá trị chính trị, đạo đức

của con người. Xuất phát từ quan niệm cho rằng bản tính của con người là
thiện, Khổng Tử đã xây dựng phạm trù "Nhân" với tư cách là phạm trù trung
tâm trong triết học của ông. Theo ông, một triều đại muốn thái bình thịnh trị
thì người cầm quyền phải có đức Nhân, một xã hội muốn hoà mục thì phải có
nhiều người theo về điều Nhân. Chữ Nhân được coi là nguyên lý đạo đức cơ
bản quy định bản tính con người và những quan hệ giữa người với người từ
trong gia tộc đến ngoài xã hội..
Nếu Khổng Tử cho rằng chữ Nhân là cái gốc đạo đức của con người,
thì theo ông, để trở thành một con người hoàn thiện, một điều kiện tất yếu
khác là phải "hiểu biết mệnh trời" để sống "thuận mệnh". Ông viết: "Không

Vũ Quang Huy

K16 - TGT


6

biết mệnh trời thì không lấy gì làm quân tử", nhưng ông kêu gọi mọi người
trước hết phải tìm sức mạnh vươn lên ở trong chính bản thân mỗi người, đừng
trông chờ vào trời đất quỷ thần: "Đạo người chưa biết thì làm sao biết được
đạo quỷ thần". Con người phải chú trọng vào sự nỗ lực học tập, làm việc tận
tâm, tận lực, còn việc thành bại như thế nào, lúc đó mới tại ý trời.Tuy nhiên
trong triết học Nho giáo, nếu Khổng Tử và Mạnh Tử cho rằng con người vốn
có bản tính thiện thì Tuân Tử đưa ra lý luận bản tính con người là ác: "Tính
người là ác, thiện là do người làm ra"; nhưng trong quan điểm sai lầm đó
cũng có nhân tố hợp lý như: hành vi đạo đức của con người là do thói quen
mà thành, phẩm chất con người là sản phẩm của hoàn cảnh xã hội và kết quả
của sự học tập, giáo dục lâu ngày mà nên, từ đó ông cho rằng có thể giáo dục,
cải hoá con người từ ác thành thiện được. Nếu ra sức tu dưỡng đạo đức thì bất

cứ người nào cũng đều có thể đạt được địa vị "người quân tử". Tuân Tử đề
cao khả năng và vai trò của con người. Ông khẳng định trời không thể quyết
định được vận mệnh của con người. Ông cho rằng con người không thể chờ
đợi tự nhiên ban phát một cách bị động mà phải vận dụng tài trí, khả năng của
mình, dựa vào quy luật của tự nhiên mà sáng tạo ra những của cải, sản vật để
phục vụ cho đời sống con người.Như vậy, Nho giáo thể hiện là một học
thuyết có tính nhân văn rất cao, nhìn thấy nét đẹp của con người và rất tin
tưởng vào con người, tin tưởng vào khả năng giáo dục con người.
1.2.2. Quan điểm về xã hội học
Nho giáo đứng trên quan điểm duy tâm để giải quyết những vấn đề xã
hội bởi vì khi giải quyết những vấn đề xã hội. Nho giáo khái quát những quan
hệ chính trị - đạo đức ấy vào ba mối quan hệ rường cột, gọi là tam cương, bao
gồm:
- Quan hệ vua - tôi.
- Quan hệ cha - con.
- Quan hệ chồng - vợ.
Quan hệ thứ nhất thuộc quan hệ quốc gia, còn hai quan hệ sau thuộc
quan hệ gia đình. Điều này nói lên rằng trong quan niệm về xã hội, Nho giáo
Vũ Quang Huy

K16 - TGT


7

đặc biệt quan tâm tới những quan hệ nền tảng của xã hội là quan hệ gia đình.
Quan hệ gia đình ở đây mang tính chất tông tộc, dòng họ. Xã hội trị hay loạn
trước hết thể hiện ở chỗ có giữ vững được ba quan hệ ấy hay không.Xã hội là
tam cương - tam cương là quốc gia.Mỗi cương thay đổi xã hội loạn.
1.2.3 Quan điểm về giáo dục

Trước hết, Nho giáo có nêu quan điểm về một xã hội lý tưởng. Lý
tưởng cao nhất của đức Khổng Tử cũng như các tác giả sau này của Nho giáo
là xây dựng một xã hội "Đại đồng". Khái niệm xã hội đại đồng của Nho giáo
không phải là một xã hội đặt trên nền tảng của một nền sản xuất phát triển cao
mà là một xã hội "an hoà", trong đó sự an hoà được đặt trên nền tảng của sự
công bằng xã hội. Để thực hiện xã hội lý tưởng, xã hội đại đồng, xã hội an
hoà trên, Nho giáo không đặt vấn đề về một cuộc cách mạng, không cầu cứu
ở bạo lực, mà tìm cứu cánh ở một nền giáo dục. Đức Khổng Tử là người đầu
tiên lập ra trường tư, mở giáo dục ra toàn dân. Có giáo dục và tự giáo dục thì
mỗi người mới biết phận vị của mình mà nhìn nhận hành động trong cuộc
sống cho đúng. Nội dung của giáo dục Nho giáo, giáo dục và tự giáo dục,
hướng vào việc giáo dục những chuẩn mực chính trị - đạo đức đã hình thành
từ ngàn xưa, được nêu gương sáng trong cổ sử mà thôi nên cách dạy của Nho
giáo là chỉ dạy làm người nói chung, không hề đề cập đến khoa học, kinh tế,
nghề nghiệp, tức không hướng vào phương diện kỹ nghệ và kinh tế. Thừa thời
gian mới học đến lục nghề. Đây là một nền giáo dục thiên lệch. Đồng thời,
nguyên tắc giáo dục trong Nho giáo là nguyên tắc tự giác: nguyên tắc tự
nguyện làm sáng tỏ, thường dùng phương pháp nêu gương.
1.2.4 Quan điểm về quản lý xã hôi ( trị quốc)
Để theo đuổi mục tiêu lý tưởng xây dựng xã hội đại đồng, Nho giáo nêu
nguyên tắc quản lý xã hội như sau:
- Nguyên tắc 1: Thực hiện nguyên tắc tập quyền cao độ (Chế độ quân
chủ trung ương tập quyền cao độ).
Trong phạm vi quốc gia, toàn bộ quyền lực tập trung vào một người là
Hoàng đế.
Vũ Quang Huy

K16 - TGT



8

- Nguyên tắc 2: Thực hiện "chính danh" trong quản lý xã hội."Chính
danh" nghĩa là mỗi người cần phải nhận thức và hành động theo đúng cương
vị, địa vị của mình: vua phải ra đạo vua, tôi phải ra đạo tôi, cha phải ra đạo
cha, con phải ra đạo con, chồng phải ra đạo chồng, vợ phải ra đạo vợ... Nếu
như mọi người không chính danh thì xã hội ắt trở nên loạn lạc.
Không thể có một xã hội trị bình mà nguyên tắc chính danh bị vi
phạm.Trong Nho giáo, Khổng Tử đặc biệt đề cao giữa danh và thực. Thực do
học, tài và phận quy định.
- Nguyên tắc 3: Thực hiện Văn trị - Lễ trị - Nhân trị.
Đây là nguyên tắc có tính chất đường lối căn bản của Nho giáo.Văn trị:
Đề cao trị bằng hiểu biết. Tạo ra vẻ đẹp của một nền chính trị để mọi người tự
giác tuân theo. Lễ trị: Dùng tổ chức, thiết chế xã hội để trị quốc. Đề cao nghi
lễ giao tiếp trong trị quốc.Nhân trị: Trị quốc bằng lòng nhân ái, mở rộng ân
trạch của hoàng cung tới bốn phương.Khổng Tử cho rằng trị quốc là việc rất
khó, nhưng cũng rất dễ làm nếu đức Minh quân biết sử dụng ba loại người:
Cả quyết can đảm, Minh đản (trí thức) và Nghệ tinh. Nhà vua muốn trị vì đất
nước và muốn có đức nhân phải biết dùng người và thực hiện ba điều:
+ Kính sự: Chăm lo đến việc công.
+ Như tín: Giữ lòng tin với dân.
+ Tiết dụng: Tiết kiệm tiêu dùng.
Ngược lại, dân và bề tôi đối với vua phải như đối với cha mẹ mình,
phải tỏ lòng trung của mình đối với vua. Tiếp tục thuyết " Nhân trị" của
Khổng Tử, Mạnh Tử đề ra tư tưởng " Nhân chính". Theo Mạnh Tử, việc chăm
dân, trị nước là vì nhân nghĩa, chứ không phải vì lợi và Mạnh Tử chủ trương
một chế độ "bảo dân", trong đó người trị vì phải lo cái lo cho dân, vui cái vui
của dân, tạo cho dân có sản nghiệp riêng và cuộc sống bình yên, no đủ, như
thế dân không bao giờ bỏ vua. Đồng thời ông cũng khuyên các bậc vua chúa
phải giữ mình khiêm cung, tiết kiệm, gia huệ cho dân, thu thuế của dân có

chừng mực. Đặc biệt Mạnh Tử có quan điểm hết sức mới mẻ và sâu sắc về
nhân quyền. Ông nói: "Dân vi quý, quân vi khinh, xã tắc thứ vi", vì theo ông,

Vũ Quang Huy

K16 - TGT


9

có dân mới có nước, có nước mới có vua. Thậm chí ông cho rằng dân có khi
còn quan trọng hơn vua. Kẻ thống trị nếu không được dân ủng hộ thì chính
quyền sớm muộn cũng sẽ phải sụp đổ, nếu vua tàn ác, không hợp với lòng dân
và ý trời thì sẽ có thể bị truất phế.
Nguyên tắc 3: Khi đề cao nguyên lý công bằng xã hội, Đức Khổng Tử
đã nói:
"Không lo thiếu mà lo không đều,
Không lo nghèo mà lo dân không yên"
Sự không công bằng là đầu mối của loạn xã hội.Cơ sở công bằng trong
tôn giáo:
+ Theo phái Mặc gia: Công bằng theo kiểu cào bằng.
+ Theo phái Nho giáo: Công bằng trên cơ sở danh của mình. Tức là
công bằng theo danh (địa vị xã hội) trong hưởng quyền lợi phân phối theo
chức vụ, địa vị.

Chương 2
Sự ảnh hưởng của Nho giáo ở Việt Nam trong lịch sử và hiện nay
Tuy Nho giáo cũng có nhiều tư tưởng về kinh tế, quân sự, ngoại giao
nhưng không quán xuyến và sâu sắc. Nho giáo vào Việt nam từ những năm
cuối trước Công nguyên. Từ cuối thế kỷ XIII trở đi, Nho giáo dần dần lấn át

Phật giáo và trở thành quốc giáo. Nó được phát triển trong sự ảnh hưởng của
truyền thống dân tộc Việt nam và Phật giáo. ảnh hưởng của Nho giáo đối với
nước ta có cả mặt tích cực và tiêu cực
2.1Vài nét về quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam
Tiếp thu một học thuyết từ bên ngoài để làm lý luận hướng dẫn tư duy
và hành động cho dân tộc mình là một chân lý phổ biến, là một sự thực khách
quan của các thời đại, của các dân tộc.
Thực tế này có căn cứ vững chắc trong sự phát triển. Đó là sự phát triển
không đồng đều của các dân tộc qua không gian và thời gian. ở cùng một thời
đại, ta thường thâý ở một vùng này, có một dân tộc hoặc một vài dân tộc khác

Vũ Quang Huy

K16 - TGT


10

cao hơn, nhanh hơn, mạnh hơn các dân tộc khác ở xung quanh. Sự thực này ta
có thể tìm thấy ở Châu á, Châu Phi, Châu Âu, Châu Mỹ, ở thời xưa cũng như
thời nay. Những dân tộcc ở bất cứ đâu, bất cứ thời nào muốn sống, muốn
nâng cao mức sống của mình không thể không học tập những dân tộc tiên
tiến. Ta không hề thấy một dân tộc nào cứ chịu lạc hậu, chịu áp bức bóc lột
nghèo nàn để chờ sự sáng tạo của riêng mình không thèm học tập những dân
tộc tiến bộ hơn mình. Điều này đúng với khoa học tự nhiên và kỹ thuật cũng
như vói khoa học xã hội. Vì thế chúng ta tiếp thu tư tưởng văn hoá Trung
Quốc là một điều tất yếu.
Trong ý thức hệ phong kiến mà người Hán đưa vào nước ta từ thời kỳ
Bắc thuộc, Nho giáo lâu bền nhất và có ảnh hưởng sâu sắc nhất. Phật giáo dần
dần rút lui vào chùa chiền, lão giáo cũng dần biến thành một thứ mê tín dị

đoan mà các thầy phù thuỷ dùng làm kế sinh nhai. Tư tưởng trị vì trong lĩnh
vực chính trị và học thuật suốt 2000 năm là tư tưởng Nho giáo. Có nhiều
nguyên nhân, trong đó có một nguyên nhân vô cùng quan trọng là sức sống
của dân tộc. Trong hoàn cảnh thời trước, nhất là từ khi giành được nền tự chủ
dân tộc Việt Nam muốn tồn tại thì phải chọn lấy một ý thức hệ tích cực, quan
tâm đến con người đến cuộc đời, đến xã hội, đến vận mệnh dân tộc. Nho giáo
có nhiều hạn chế nhưng trong 3 ý thức hệ phong kiến thì phải nói Nho giáo có
nhiều nhân tố tích cực nhất. Do đó cha ông ta đã chọn lấy Nho giáo.
Chúng ta đã biết, lúc đầu Nho giáo được đưa vào Việt Nam trong
trường hợp không hay ho gì. Nó bị bọn xâm lược đặt lên nhân dân ta với ý
định gây cảnh “đồng văn” để dễ “đồng hoá”. Nhưng khi đã làm quen với đạo
Nho, chắc rằng nhân dân ta thời đó thấy nó đáp ứng được nhiều vấn đề mà
đời sống đặt ra, nên khi giành được độc lập, nhân dân ta nói lấy nó làm nền
tảng lý luận để chỉ đạo tư duy và hành động của mình. Thế là từ chỗ bị ép học
nó, nhân dân ta đã tự nguyện học nó và ngày một phổ biến nó một cách rộng
rãi. Vì thế những người Việt Nam đầu tiên được giữ những chức vụ quan

Vũ Quang Huy

K16 - TGT


11

trọng dưới thời Bắc thuộc như Lý Tiến, Lý Cầm - làm thái thú, thứ sứ - đều là
những người học thông kinh truyện, xuất thân từ khoa bảng. Ngay khi Ngô
Quyền đánh bại quân Nam Hán, giành được độc lập đã xây dựng thể chế quốc
gia, đặc các nghi lễ phẩm phục, chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo, tức là
tinh thần tôn ti đẳng cấp. Các triều đại đầu tiên khi niên hiệu, tôn hiệu cũng đã
thể hiện sự tin tưởng màu sắc là lý thuyết mệnh trời như “ứng thiên”, “thuận

thiên” “Phụng thiên”. Phần “Chiếu dời đô” của nhà Lý tuy đoạn còn lại với
chúng ta rất ngắn, cũng đượm mùi Nho giáo. Cái gương “nhà Thương, nhà
Chu” cũng được nêu lên, cái gương “kính vâng mạng trời” cũng được nhấn
mạnh. Các triều đại sau, Trần, Lê, Nguyễn thờ đạo Nho như thế nào thì sử
sách đã nêu rõ.

Vũ Quang Huy

K16 - TGT


12

2.2Những ảnh hưởng của Nho giáo trong lịch sử Việt Nam
2.2.1 Ảnh hưởng trong chế độ phong kiến
Nho giáo đem lại một bước tiến khá căn bản trong lĩnh vực văn hoá
tinh thần của xã hội phong kiến nước ta từ thế kỷ XV, trước hết nó làm cho
nền giáo dục phát triển hết sức mạnh mẽ nhất là dưới triều Lê Thánh Tông.
Nền giáo dục ấy cùng với chế độ thi cử đã đào tạo ra một đội ngũ tri thức
đông đảo chưa từng thâý trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam. Do đó
khoa học và văn học nghệ thuật phát triển.
Hơn nữa sự thịnh trị của Nho giáo từ thế kỷ XV cũng là một hiện tượng
góp phần thúc đẩy lịch sử tư tưởng nước ta tiến lên một bước mới. Là một học
thuyết tích cực nhập thể, nó cổ vũ và khuyến khích mọi người đi sâu vào tìm
hiểu những quan hệ xã hội, những vấn đề của thực tiễn chính trị, pháp luật và
đạo đức. Do đó, nhận thức lý luận của dân tộc ta về các vấn đề ấy cũng được
nâng cao hơn. Dựa vào lịch sử của Nho giáo, nhà vua và các nho sĩ giải thích
các vấn đề ấy có lập luận và có lý lẽ đầy đủ hơn.
Nhưng Nho giáo Việt Nam dù có lý do để tồn tại và phát triển thì cũng
vẫn gắn liền với giai cấp phong kiến địa chủ trong nước và là công cụ thống

trị và tư tưởng của giai cấp đó. Mà giai cấp địa chủ đó từ thế kỷ XV trở về
trước tuy có một vai trò nhất định nhưng vẫn là một giai cấp bóc lột đối với
nhân dân. Và bất cứ một giai cấp bóc lột nào ngay cả khi đang lên cũng mang
theo những vết bùn nhơ và bàn tay vấy máu của những người lao động. Cho
nên Nho giáo với tư cách là vũ khí của giai cấp phong kiến Việt Nam dù cho
có không ít tích cực thì tác dụng tích cực đó cũng còn rất hạn chế. Thực ra
ngay ở thời kỳ thịnh trị của nó, Nho giáo cũng đã có những mặt tiêu cực
nghiêm trọng và chứa đựng khả năng suy yếu sau này của nó.
Nho giáo ở Việt Nam khi chiếm ở vị trí độc tôn thì đã làm cho chủ
nghĩa giáo điều và bệnh khuôn sáo phát triển mạnh trong lĩnh vực tư tưởng và
trong địa hạt giáo dục khoa học. Các quan lại, sĩ phu, đều lấy thánh kinh, hiền
truyện của Nho giáo làm khuôn vàng thước ngọc cho mọi người suy nghĩ và

Vũ Quang Huy

K16 - TGT


13

hành động của mình, lấy cái xã hội thời Nghiêu Thuấn làm khuôn mẫu cho
mọi tình trạng xã hội; lấy những sự tích và điều phạm trong kinh, thư, kinh
xuân thu làm tiêu chuẩn để bình giá mọi sự việc. Bệnh giáo điều và khuôn sáo
này đã ăn sâu vào trong lĩnh vực khoa học và nghệ thuật nhất là trong văn học
và sử học khiến cho sự sáng tạo trong các lĩnh vực này bị dập vào những cái
khuôn sẵn có. Đó là một tật bệnh đã được rèn đúc ngay từ khi người nho sĩ
phải mài dũa văn chương để tiến vào con đường cử nghiệp.
Sự thịnh trị của Nho giáo còn khuyến khích mọi người nhất là các phần
tử tri thức đi sâu vào cải tạo “tu tề trị bình” vào việc học hành, thi đỗ, dương
danh thiên hạ. Vì vậy mà trong thực tế, Nho giáo đã làm cho những người gia

nhập tầng lớp Nho sĩ này xa rời sinh hoạt kinh tế và lĩnh vực sản xuất xã hội,
nó chỉ biết đề cao đạo tư thân và đạo tự nước chứ không hề đếm xỉa đến các
tri thức về khoa học tự nhiên cũng như về các ngành sản xuất và lưu thông.
Tính chất tiêu cực ấy của Nho giáo càng về sau càng gây tác hại không nhỏ
trong việc phát triển lực lượng sản xuất của xã hội.
Khi đã chiếm được địa vị thống trị trên vũ đài tư tưởng, Nho giáo Việt
Nam không tiếp tục đi sâu vào khám phá những vấn đề bản chất của đời sống
và của vũ trụ, vì mối quan hệ giữa tinh thần và thể xác. Nó chỉ chú trọng đến
những quan hệ chính trị và đạo đức thực tế. Cho nên khi xã hội phong kiến rối
loạn, vấn đề số phận và yêu cầu giải phóng con người được đặt ra thì Nho
giáo trở thành bất lực. Nó không giải đáp được vấn đề ấy vì nó đã sớm bỏ con
đường phát triển tư duy trừu tượng.
Hơn nữa, một khi Nho giáo chiếm vị trí độc tôn thì lễ chế của nó đặc
biệt phát triển mạnh. Khi đó nó bắt đầu đè nặng lên con người và bóp nghẹt
nếp sống giản dị, những quan hệ xã hội trong sáng, những tình cảm tự nhiên
và chân thực của suy sụp cùng với xã hội phong kiến thì nó trở nên phản
động, cổ hủ và lạc hậu.
2.2.2 Ảnh hưởng của Nho giáo trong thời kỳ cách mạng dân tộc Việt Nam

Vũ Quang Huy

K16 - TGT


14

Nho giáo được Việt Nam hóa, trí thức Nho giáo đã có những đóng góp
đáng kể vào việc củng cố những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nâng nó lên
thành những tư tưởng ổn định thúc đẩy sự phát triển của đất nước, tạo nên
một sức mạnh to lớn để suốt một ngàn năm giữ vững độc lập và chiến thắng

mọi kẻ xâm lược. Bước sang thế kỷ thứ 19, Việt Nam và các nước phương
Đông phải đối đầu với sự xâm lược của chủ nghĩa đế quốc có trình độ kỷ
thuật, tiềm năng kinh tế, tổ chức quân đội và chất lượng vũ khí. Nho giáo lúc
bấy giờ tỏ ra bất lực cả về tư tưởng và hành động. Trên con đường cách mạng
của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã sáng suốt không thể không gạt đi cái
cốt lõi lạc hậu của Nho giáo và giữ gìn, phát huy những nhân tố hợp lý của nó
nhằm phục vụ cho sự nghiệp cách mạng.
- Nhà Nho tôn thờ nhất chính là cái mà cách mạng lên án và đánh đổ.
Hồ Chí Minh không thể chấp nhận cái chữ Trung của Nho giáo, không thể
chấp nhận lòng trung thành tuyệt đối của nhân dân bị áp bức đối với chính kẻ
áp bức mình. Chữ Trung ở Nho giáo là trung thành tuyệt đối với nhà vua và
chế độ phong kiến, còn ở Hồ Chí Minh, Trung là trung thành với sự nghiệp
cách mạng của nhân dân, lên án chế độ phong kiến và lật đổ nhà vua.
- Nho giáo vốn coi nhân dân là những người nghèo hèn cần được bề
trên chăn dắt và sai khiến, Hồ Chí Minh đòi hỏi người cán bộ phải là “đày tớ
của dân”, phải học hỏi nhân dân, và yêu quý nhân dân. Với tinh thần ấy, cách
mạng đã xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân, biến nhân dân thành sức
mạnh vô địch để giành độc lập và xây dựng tổ quốc.
- Nho giáo đã nuôi dưỡng hàng ngàn năm tinh thần “trọng nam khinh
nữ”, từ chổ khinh rẽ phụ nữ đến chổ áp bức họ, trói buộc họ trong bếp núc gia
đình. Cách mạng Việt Nam đã sớm xóa bỏ những tử tưởng lạc hậu ấy để cho
phụ nữ cùng bình đẳng với nam giới trên mọi lĩnh vực chiến đấu, sản xuất và
quản lý đất đai.

Vũ Quang Huy

K16 - TGT


15


- Nho giáo luôn quay về với quá khứ, đời này không bằng đời xưa,
người ít tuổi không bằng người nhiều tuổi. Cách mạng luôn nhìn về phía
trước, đặt niền tin vào thanh niên và tiền đồ dân tộc.
- Đảo ngược lại học thuyết của Nho giáo, nhằm mục tiêu trái hẳn với
mục tiêu của Nho giáo, Hồ Chí Minh không xóa bỏ toàn bộ nội dung của Nho
giáo mà giữ lại những nhân tố hợp lý vốn phục vụ cho chế độ cũ thành những
công cụ chống lại chế độ cũ và xây dựng chế độ mới. Với tinh thần nói trên
mà trong quá trình lãnh đạo Cách mạng tháng tám, Hồ Chí Minh đã sử dụng
rất nhiều câu chữ của Nho giáo, nhiều kinh nghiệm giáo dục và tu dưỡng của
Nho giáo, nhiều biện pháp động viên tinh thần và ý chí của Nho giáo để cổ vũ
nhân dân đứng lên chiến đấu giành lại độc lập tự do với một khí phách kiên
cường, tinh thần mưu trí và sáng tạo.
2.3 Ảnh hưởng của Nho giáo trong tư tưởng Việt Nam.
Những nhu cầu xã hội giúp cho Nho giáo chiếm được địa vị độc tôn
trong thời kỳ phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam.
Nho giáo Việt Nam chiếm được vị trí độc tôn từ thế kỷ 15 và thịnh đạt
nhất vào thời Lê Thánh Tông thì đó không phải là một hiện tượng ngẫu
nhiên. Bởi vì nó có liên hệ với những nhu cầu xã hội nước ta lúc đương thời.
Những nhu cầu này không chỉ tồn tại ở thế kỷ 15 mà đã sớm xuất hiện từ
trước ngay khi Nho giáo còn đang trên đà phát triển.
Trong những nhu cầu đó đáng kể trước hết là nhu cầu xây dựng và tổ
chức bộ máy nhà nước phong kiến trung ương tập quyền lớn mạnh và nhu cầu
củng cố trật tự đã ổn định của xã hội phong kiến.
Ngay từ sau chiến thắng Bạch Đằng vĩ đại ở thế kỷ X, việc xây dựng
một nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đã tỏ ra cần thiết cho công
cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Tuy nhiên dưới các triều đại Ngô,
Đinh, Tiền Lê việc xây dựng một nhà nước chủ thế mới chỉ làm được những
bước đầu tiên và chưa thực sự được đẩy mạnh, phải đợi đến thế kỷ XI với sự
xác lập của vương triều Lý thì nhà nước phong kiến tập quyền mới được xây


Vũ Quang Huy

K16 - TGT


16

dựng một cách quy mô bề thế, với những tổ chức và thể chế trùng điệp của
nó. Tiếp đó là triệu đại nhà Trần, rồi đến Lê Lợi khi đã lãnh đạo cuộc chiến
tranh giải phóng dân tộc đi đến thắng lợi đều quan tam tới việc củng cố chế
độ phong kiến tập quyền và xây dựng một bộ máy nhà nước trung ương hùng
mạnh không kém gì phương Bắc.
Nhà nước phong kiến tập quyền Việt Nam ra đời là một sự phủ định
chính quyền của bọn phong kiến phương Bắc kéo dài trong 1000 năm Bắc
thuộc. Thế cho nên khi xây dựng nhà nước tập quyền của mình, giai cấp
phong kiến Việt Nam phải tiếp thu những kinh nghiệm và nguyên tắc tổ chức
của nhà nước phong kiến tập quyền phương Bắc cùng với Nho giáo là cơ sở
lý luận của Nhà nước. Vả lại trong hoàn cảnh lịch sử bấy giờ chỉ có Nho giáo
mới có thể giải đáp được những vấn đề thiết thân đến việc củng cố nhà nước
như vấn đề quân quyền, quy định các chương lễ chế và cơ cấu hành chính từ
triều đình đến địa phương... Đó là những vấn đề mà bản thân phật giáo cũng
như Lão giáo với toàn bộ hệ thống lý thuyết của nó không hề có một sự giải
đáp thích đáng nào cả. Cho nên từ thế kỷ XV trở đi Nho giáo ngày càng được
giai cấp phong kiến Việt Nam trọng dụng thì đó cũng là điều dễ hiểu. Sự thực
chứng tỏ rằng trong thời Lý, Trần, Nho giáo đã bắt đầu được vận dụng một
cách rõ rệt vào hoạt động thực tiễn nhằm củng cố chính quyền nhà nước.
Sau nữa, củng cố ở thời Lý, Trần và nhất là thời Lê sơ, tôn ti trật tự của
chế độ phong kiến tập quyền cùng với sự phân biệt rạch ròi về quyền lợi và
đẳng cấp của nó đã dần dần ổn định. Tình hình đó đòi hỏi phải có sự khẳng

định về mặt lý luận. Vả lại vào cuối triều Lý và nhất là khi nhà Trần suy
vong, mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và đa số nhân dân đã lộ rõ, mầm phản
kháng của nhân dân chống lại cái trật tự khắc nghiệt của chế độ phong kiến đã
trở thành một sự nổi bật hơn cả những cuộc hỗn chiến giữa các tập đoàn
thống trị. Trong hoàn cảnh ấy giai cấp phong kiến Việt Nam muốn tăng
cường bộ máy Nhà nước và duy trì trật tự xã hội thì không thể không tìm đến

Vũ Quang Huy

K16 - TGT


17

cái đạo trị quốc bình thiên hạ, cái lý thuyết chính danh định phận và lễ trị của
Nho giáo.
Quá trình phát triển của chế độ trung ương tập quyền Việt Nam gắn liền
với sự củng cố quyền sở hữu của Nhà nước và sự bành trướng của sở hữu tư
nhân về ruộng đất. Hầu hết ruộng đất dù là ruộng công của làng xã hay ruộng
của địa chủ đều được sử dụng trong khuôn khổ sản xuất nhờ lấy gia đình làm
đơn vị. Trong mỗi gia đình không những cơ quan hôn nhân, huyết thống mà
còn có cả quan hệ sở hữu, phân phối sản phẩm, phân công lao động cho đến
những quan hệ tinh thần. Tất cả những quan hệ ấy chứng tỏ vai trò của người
gia trưởng và tôn ti trật tự của gia đình có một ý nghĩa rất lớn. Đó chính là cơ
sở để Nho giáo dễ thâm nhập vào cuộc sống bởi vì Nho giáo với các khái
niệm hiếu, đễ, tiết, hạnh đã góp phần củng cố uy quyền của người gia trưởng
và tôn ti trật tự trong gia đình.
Cuối cùng phải kể đến nhu cầu phát triển văn hoá và giáo dục nước ta
khi chế độ phong kiến tập quyền đã bắt đầu, việc bổ sung quan lại bằng hai
con đường “nhiệm tử” và “thủ sĩ” không đủ mà cần phải bổ sung một phương

thức đào tạo và tuyển lựa quan lại mới. Phương thức này chỉ có thể phát triển
giáo dục văn hoá và thực hiện chế độ thi cử để tuyển lựa nhân tài. Lúc đương
thời Phật giáo, Lão giáo không chỉ đảm nhiệm công việc đó. Cho nên Nho
giáo vốn có đầy đủ lý thuyết và quy chế về giáo dục và khoa cử tất nhiên phải
đảm đương nhiệm vụ lịch sử ấy.
Tất nhiên những nhu cầu xã hội nói trên mới chỉ là những cơ sở khách
quan cho sự phát triển Nho giáo ở nước ta mà thôi. Sự phát triển đó muốn trở
thành hiện thực thì phải thông qua hoạt động của những con người cụ thể,
những lực lượng xã hội cụ thể. Trong thực tế từ vua cho đến các đại thần nắm
quyền chính trị dưới càng triều Lý, Trần cũng như các thế hệ nho sĩ đời sau
đều đã nhận thức được vai trò cần thiết của Nho giáo. Và đã tiến hành những
bước truyền bá và sử dụng Nho giáo trong xã hội Việt Nam.
2.3.1 Tích cực

Vũ Quang Huy

K16 - TGT


18

- Nho giáo với hệ thống tư tưởng chính trị của mình đã góp phần xây
dựng các nhà nước phong kiến trung ương, tập quyền vững mạnh, góp phần
xây dựng một hệ thống quản lý thống trị xã hội chặt chẽ, nâng cao sức mạnh
quân sự và kinh tế quốc gia.
- Nho giáo rất coi trọng trí thức, coi trọng học hành. Khổng Tử là người
“học nhi bất yếm, hối nhân bất nguyện”. Hàng nghìn năm qua, nhà nước Việt
Nam đều lấy Nho học - Nho giáo làm nền tảng lý luận để tổ chức nhà nước,
pháp luật và đặc biệt là giáo dục. Nội dung giáo dục của Nho giáo là dạy đức
và dạy tài vẫn còn có ý nghĩa. Nho giáo coi trọng đức là coi trọng cách làm

người, coi trọng con người là yếu tố quyết định. Giáo dục Nho giáo góp phần
nâng cao văn hóa con người đặc biệt về văn hóa, sử học, triết học. Với
phương châm “học nhi ưu tắc sĩ”, học để có thể tìm ra một nghề nghiệp mới
và nâng cao vị trí xã hội của bản thân là động lực hiếu học trong nhân dân.
Hiếu học là đặc điểm của Nho giáo. Hiếu học đã trở thành truyền thống văn
hóa Á Đông trong đó có Việt Nam.
- Nho giáo hướng quản đạo quần chúng nhân dân vào việc học hành, tu
dưỡng đạo đức theo Ngũ Thường “Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín” làm cho xã hội
ngày càng phát triển văn minh hơn.
- Nho giáo góp phần xây dựng mối quan hệ xã hội rộng rãi hơn, bền
chặt hơn, có tôn tri trật tư… vượt quá phạm vi cục bộ là các làng xã, thôn, ấp
hướng tới tầm mức quốc gia, ngoài ra nó góp phần xây dựng mối quan hệ gia
đình bền chặt hơn, có tôn ty hơn… nhờ tuân theo Ngũ Luân “Vua-tôi, chacon, chồng-vợ, anh-em, bạn-bè”.
- Nho giáo vốn đặt mối quan hệ vua tôi ở vị trí cao nhất trong năm quan
hệ giữa người với người. Các Nho sĩ Việt Nam cũng nhấn mạnh mối quan hệ
này, xây dựng tinh thần trung quân, ái quốc nhưng không mù quáng trung
quân mà vẫn đặt ái quốc lên hàng đầu. Họ đòi hỏi nhà vua trước hết phải
trung thành với tổ quốc và trung hậu với nhân dân.
- Nhân nghĩa trong Khổng giáo là tình cảm sâu sắc, nghĩa vụ thiêng
liêng của bề tôi đối với nhà vua, của con đối với cha, của vợ đối với chồng,

Vũ Quang Huy

K16 - TGT


19

nhưng đối với Nguyễn Trãi và các trí thức Việt Nam thì điều cốt yếu của nhân
nghĩa là phải đem lại cho nhân dân cuộc sống thanh bình, và đội quân chính

nghĩa phải nhằm tiêu diệt những quân tàn bạo.
- Nho giáo góp phần xây dựng các triều đại phong kiến vững mạnh và
bảo vệ chủ quyền dân tộc.Công lao của Nho giáo là góp phần đào tạo tầng lớp
nho sĩ Việt nam, trong đó có nhiều nhân tài kiệt xuất như Lê Quý Đôn,
Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Ngô Thì Nhậm...Những thể chế chính trị, lễ nghi
đạo đức Nho giáo đã du nhập vào Việt nam. Chịu ảnh hưởng của Nho giáo,
dòng văn minh dân gian làng xã được phổ biến và phát triển, thể hiện ở các
cuộc đua, vui chơi, hoa văn trang trí đền chùa... Các tư tưởng đấng trượng
phu, quân tử, quan hệ tam cương, tam tòng tứ đức, thủ tục ma chay, cưới xin,
các quy định về tôn ti trật tự,... ảnh hưởng rất đậm nét ở Việt nam, nhất là bắt
đầu từ đời nhà Lê, khi Nho giáo bắt đầu thống trị và trở thành hệ tư tưởng
chính thống của chế độ phong kiến.
- Nho giáo hướng con người vào con đường ham tu dưỡng đạo đức theo
Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí - Tín, ham học tập để phò Vua giúp nước. Nhiều ý
nghĩa giá trị của những chuẩn mực đạo đức Nho giáo đã được quần chúng
nhân dân sử dụng trong nền đạo đức của mình. Ví dụ như:
+ "Tiên học lễ, hậu học văn" là khẩu hiệu trong các trường học Việt
nam từ xưa đến nay. Bác Hồ cũng từng sử dụng những thuật ngữ đạo đức của
Nho giáo và đã đưa vào đó những nội dung mới như: "Cần, kiệm, liêm, chính,
chí công, vô tư, trung, hiếu, ..."
+ Tư tưởng "Trăm năm trồng người" và "Hữu giáo vô loại" (nghĩa là
dạy học cho mọi người không phân biệt đẳng cấp) của Khổng Tử đã được
Đảng Cộng sản Việt nam vận dụng trong công cuộc xây dựng đất nước.- ảnh
hưởng chính của Nho giáo là thiết lập được kỷ cương và trật tự xã hội. Nho
giáo với các tư tưởng chính trị - đạo đức như "Chính danh", "Nhân trị", "Nhân
chính" luôn luôn là bài học quý giá và được vận dụng trong suốt lịch sử Việt
nam.

Vũ Quang Huy


K16 - TGT


20

Nguyễn Trãi trong "Bình Ngô đại cáo" đã viết:
"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân"

"Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn
Đem chí nhân để thay cường bạo"
Đảng ta thực hiện đường lối lấy dân làm gốc với khẩu hiệu: "Dân giàu,
nước mạnh" và "Chúng ta không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng".Bác Hồ
khi kế thừa các tư tưởng triết học Nho giáo đã tinh lọc, loại bỏ những tư
tưởng không phù hợp với thời đại và hoàn cảnh của Việt nam lúc bấy giờ.
Chẳng hạn Khổng Tử cho rằng: "Thứ dân bất nghị" tức là dân thường
không có quyền bàn việc nước, còn Bác Hồ đề cao dân chủ. Khổng Tử coi
thường vị trí, vai trò của người phụ nữ trong xã hội thì Bác Hồ chủ trương
nam nữ bình quyền.
2.3.2 Tiêu cực
- Không như Nho giáo Trung Hoa, tuy không coi trọng thương nghiệp
nhưng cũng không phản đối. Nho giáo Việt Nam quá coi trọng nông nghiệp
mà bài xích thương nghiệp, quá chú trọng đến tự sản, tự tiêu mà quên đi sự
trao đổi mua bán, kềm hãm tính năng động, sáng tạo dẫn đến quan liêu, bảo
thủ trong cả kinh tế lẫn chính trị. Trong những giai đoạn đầu của chế độ
phong kiến, nó tạo sự ổn định, phát triển nhưng sau đó chính nó lại tạo ra sức
ỳ quá lớn khiến đất nước không thể phát triển.
- Nho giáo quá bảo thủ không tiếp thu những cái mới ưu việt hơn dẫn
đến bị cái mới ưu việt hơn tiêu diệt.
- Nho giáo đưa con người quá hướng nội, chuyên chú suy xét trong tâm
mà không hướng dẫn con người hướng ra bên ngoài, thực hành những điều

tìm được, chinh phục thiên nhiên, vạn vật xung quanh. Điều này làm cho nền
văn minh, khoa học tư nhiên, kỷ thuật sau một thời gian phát triển đã bị
chựng lại so với nền văn minh phương Tây vốn xuất hiện sau.
- Nho giáo suy đến cùng là bảo thủ về mặt xã hội và duy tâm về mặt
triết học. Nó thường được sử dụng để bảo vệ, củng cố các xã hội phong kiến
trong lịch sử. Nho giáo góp phần không nhỏ trong việc duy trì quá lâu chế độ

Vũ Quang Huy

K16 - TGT


21

phong kiến ở á Đông nói chung và ở Việt nam nói riêng.Nho giáo cũng là một
trong những nguyên nhân kìm hãm sản xuất phát triển ở Việt nam. Dưới ảnh
hưởng của Nho giáo, truyền thống tập thể đã biến thành chủ nghĩa gia trưởng,
chuyên quyền, độc đoán, bất bình đẳng. Nho giáo không thúc đẩy sự phát
triển của các ngành khoa học tự nhiên bởi phương pháp giáo dục thiên lệch
của Nho giáo chỉ quan tâm tới đạo đức, học và dạy làm người mà không đề
cập đến kiến thức khoa học kỹ thuật. Những mặt tiêu cực đó phản ánh tính
chất bảo thủ lạc hậu của Nho giáo ở nước ta.
2.4 Ảnh hưởng của Nho giáo đến truyền thống văn hóa ngày nay của
Việt Nam
2.4.1 Ảnh hưởng tích cực
Hiện nay, trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt nam thì tư tưởng
chính trị - đạo đức của Nho giáo có ảnh hưởng trên các mặt sau:
- Trên lĩnh vực xã hội: Nó có tác dụng ổn định kinh tế - chính trị để
phát triển kinh tế. Đó là điều kiện để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở
Việt nam.

- Trên lĩnh vực chính trị - đạo đức: Ngày nay áp dụng những tư tưởng
của Nho giáo, kế thừa nhữnh mặt tích cực của nó để đạt mục tiêu ổn định kinh
tế, xã hội; đặc biệt chú trọng Nho giáo cổ đại (Khổng Tử) chứ không phải
Nho giáo sau này (chỉ nhấn mạnh quan hệ một chiều). Đảm bảo nhìn nhận
vấn đề một cách hợp lý, duy trì vấn đề phê phán đúng lúc, đặt vấn đề dân chủ
trong việc áp dụng những tinh hoa tích cực. Trong kinh doanh phải biết trọng
chữ tín, lấy chữ tín làm đầu, trong đó có một vấn đề rất quan trọng là phải
quan tâm đúng mức đến chất lượng sản phẩm.
Hồ chí Minh, nhà tư tưởng văn hóa của Thế giới, con người vĩ đại của
dân tộc Việt Nam đã tiếp thu truyền thống văn hóa dân tộc thể hiện trong tư
tưởng và nhiều câu chuyện nho giáo của Người. Nhưng Người đã vượt qua
những hạn chế của Nho giáo ra đi tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc.
Người đa sáng lập và giáo dục Đảng ta với phương châm : “lấy dân làm gốc”
làm tôn chỉ lãnh đạo nhân dân ta trong cuộc dựng nước và giữ nước. Người
Vũ Quang Huy

K16 - TGT


22

cũng coi đạo đức là gốc chủ trương chọn lựa người tài để đảm đương việc
nước. Qua 2 cuộc kháng chiến người đã nhắc nhở rất nhiều câu chữ của Nho
giáo để giáo dục cán bộ nhân dân về phẩm chất tư cách đạo đức, về lòng nhân
đạo của con người Việt Nam. Người mượn câu nói của Mạnh Tư để nêu lên
khí phách của người cách mạng: “giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó
không thể chuyển lay, uy lực không thể khuất phục”. Đây cũng chính là câu
nói của Mạnh Tử trong Thiên Đằng Văn Công – Ha: “Phú quí bất năng dâm,
bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”
Sau hai cuộc kháng chiến Nhân dân Việt Nam giành lại được độc lập và

thống nhất, đất nước ta bước vào hàn gắn vết thương chiến tranh xây dựng
mọi mặt của đất nước theo định hướng XHCN, trên con đường tiến tới một
tương lai tốt đẹp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Chúng ta
lại thường xuyên đụng đến nho giáo, nó vẫn bám sát chúng ta, tiếp tục đem
đến cho chúng ta nhiều bài học cả chính diện và phản diện. Nho giáo nhiều
lúc nêu lại điều hay y tốt như tạo thêm năng lượng cho cổ xe cách mạng tiến
lên, nhưng cũng có trường hợp nho giáo trở nên thọc gậy bánh xe. Hiện nay
Việt Nam đang bước vào cơ chế thị trường xuất hiện nhiều xáo trộn trong
quan hệ xã hội, sinh hoạt gia đình và phẩm chất cá nhân. Thực tế cho thấy
mâu thuẫn không thể điều hòa được giữa phát triển vật chất và suy thoái tinh
thần, giữa kinh tế và đạo đức văn hóa xã hội. Để chống lại, khôi phục lại
truyền thống văn hóa tốt đẹp xưa nay của nhân dân ta, Đảng ta chủ trương
giáo dục con người, chiến lược con ngưới, phát huy sáng tạo, độc lập tư chủ,
chủ trương giáo dục “ Tiên học lễ, hậu học văn “là những điều cốt yếu của
nền giáo dục. Về kinh tế chủ trương làm giàu chính đáng, cạnh tranh lành
mạnh, hợp đạo để động viên khuyến khích nhân dân ta trong công cuộc xây
dựng đất nước, dần hình thành đạo đức trong kinh doanh.
Cho đến nay, Nho giáo vẫn còn ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống gia
đình, các phẩm chất, đạo đức của người phụ nữ, vẫn còn những quan điểm coi

Vũ Quang Huy

K16 - TGT


×