Tải bản đầy đủ (.docx) (132 trang)

Phát triển ngành chăn nuôi tỉnh Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.59 MB, 132 trang )

LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất đến
PGS.TS Nguyễn Thị Sơn - người đã tận tâm, nhiệt tình chỉ bảo, hướng dẫn tôi
trong suốt quá trình thực hiện luận văn thạc sĩ này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong tổ Địa lý kinh tế
- xã hội, cùng toàn thể các thầy cô giáo trong khoa Địa lý trường đại học sư
phạm Hà Nội đã nhiệt tình giảng dạy, quan tâm và tạo điều kiện thuận lợi cho
tôi hoàn thành khóa học.
Xin chân thành cảm ơn Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn, Cục
thống kê tỉnh Thanh Hóa, phòng tư liệu khoa Địa lý, thư viện trường đại học
sư phạm Hà Nội đã tạo điều kiện, giúp đỡ tôi trong quá trình thu thập số liệu
và điều tra thực tế.
Luận văn được hoàn thành còn nhờ sự giúp đỡ, động viên của gia đình,
bạn bè và đồng nghiệp, tôi xin chân thành cảm ơn tất cả những tình cảm tốt
đẹp đó.
Hà Nội, tháng 06 năm 2014
Tác giả

Phạm Thị Thủy

1


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ĐBSH
GDP
GTSX
HTX
KT - XH
KHKT
KHCN


TNHH
TP
TX
VSATTP

:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:

Đồng bằng sông Hồng
Tổng sản phẩm quốc dân
Giá trị sản xuất
Hợp tác xã
Kinh tế - xã hội
Khoa học kỹ thuật
Khoa học công nghệ
Trách nhiệm hữu hạn
Thành phố
Thị xã
Vệ sinh an toàn thực phẩm

2



MỞ ĐẦU
1.

TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Ngành chăn nuôi có vai trò quan trọng đối với đời sống và các hoạt
động kinh tế của con người. Nó giữ vị trí quan trọng trong cơ cấu sản xuất
nông nghiệp, là thước đo phản ánh mức độ phát triển của một nền nông
nghiệp tiên tiến. Sản phẩm của ngành chăn nuôi vẫn luôn là sản phẩm không
thể thay thế được trong nhu cầu lương thực - thực phẩm của con người. Ở
Việt Nam, trong những năm gần đây hoạt động chăn nuôi luôn được chú
trọng đầu tư phát triển và thúc đẩy tăng trưởng nhanh, ngày càng chiếm tỉ
trọng cao trong cơ cấu ngành nông nghiệp.
Trong quá trình CNH - HĐH đất nước, phát triển ngành chăn nuôi trở
thành sinh kế bền vững cho những hộ nông dân, góp phần đảm bảo cho sự ổn
định và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.
Thanh Hóa là tỉnh giáp biển, thuộc vùng kinh tế BTB. Nơi đây có rất
nhiều tiềm năng và lợi thế để cho phép phát triển một nền nông nghiệp đa
dạng hóa cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Tỷ trọng ngành chăn nuôi của tỉnh trong
thời gian gần đây có xu hướng tăng lên rõ rệt và ngày càng thể hiện vai trò
quan trọng trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp cũng như trong đời sống của
người dân tỉnh Thanh Hóa. Là một tỉnh có số dân đông 3.426,6 nghìn người
(2012) đứng thứ 3 cả nước sau TP. Hồ Chí Minh và TP. Hà Nội [31]. Xu
hướng tăng tỉ trọng của ngành chăn nuôi nhằm khai thác, tận dụng tối đa các
nguồn lực để phát triển ngành và góp phần đảm bảo an ninh lương thực cho
hơn 3,4 triệu dân là hướng đi đúng đắn của địa phương.
Thanh Hóa có rất nhiều tiềm năng để phát triển ngành chăn nuôi. Với
ưu thế về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật và thị trường
tiêu thụ sản phẩm… đã tạo động lực cho ngành chăn nuôi phát triển, mở ra

nhiều triển vọng đáp ứng nhu cầu thực phẩm ngày càng đa dạng và an toàn
cho người dân, từng bước hướng tới thị trường xuất khẩu. Tuy nhiên, trong
thực tế phát triển ngành chăn nuôi của tỉnh còn tồn tại nhiều hạn chế và bất
cập, hình thức chăn nuôi truyền thống, nhỏ lẻ, manh mún... Việc áp dụng tiến
bộ khoa học công nghệ mới vào sản xuất còn nhiều hạn chế, do vậy hiệu quả
3


kinh tế chưa cao, sản phẩm thiếu tính cạnh tranh. Từ thực tế trên cho thấy,
việc nghiên cứu tiềm năng, thực trạng phát triển và tình hình phân bố ngành
chăn nuôi của tỉnh, trên cơ sở đó đề ra các giải pháp hữu hiệu nhằm thúc đẩy
ngành chăn nuôi của tỉnh phát triển tương xứng với tiềm năng là điều rất quan
trọng. Xuất phát từ những lí do trên, tôi đã chọn đề tài “Phát triển ngành
chăn nuôi tỉnh Thanh Hóa” cho đề tài nghiên cứu của mình.
2.

LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Chăn nuôi là ngành xuất hiện rất sớm trong lịch sử phát triển của nhân
loại, do đó các đề tài nghiên cứu về ngành chăn nuôi dưới góc độ lý luận và
thực tiễn rất phong phú, đa dạng. Ở Việt Nam chăn nuôi tuy chưa phải là
ngành kinh tế chủ đạo trong sản xuất nông nghiệp, nhưng các vấn đề về phát
triển chăn nuôi đã được nhiều ngành khoa học quan tâm từ lâu, đặc biệt là
khoa học nông nghiệp và khoa học địa lí. Mỗi ngành khoa học đều tập trung
nghiên cứu trên một khía cạnh riêng biệt và đều có những cách nhìn nhận và
đánh giá khác nhau.
Dưới góc độ lý luận, ở Việt Nam từ những năm 1960 việc thành lập
trường đại học Nông nghiệp I và viện chăn nuôi đã bắt đầu mở rộng các lĩnh
vực nghiên cứu về ngành chăn nuôi. Nó được thể hiện rất rõ trong các giáo
trình chăn nuôi đại cương và chăn nuôi chuyên khoa. Năm 2001, NXB nông
nghiệp đã cho ra tập sách “Cẩm nang chăn nuôi gia súc, gia cầm” của Hội

chăn nuôi Việt Nam [14], cuốn sách đã phân tích rất đầy đủ các đặc điểm sinh
trưởng và môi trường sống của từng loại gia súc và gia cầm. Các giáo trình
chăn nuôi chuyên khoa như: “Chăn nuôi lợn” của Võ Trọng Hốt, Vũ Đình
Tôn, NXB Nông nghiệp [15]. Giáo trình “Chăn nuôi trâu, bò” của tác giả
Nguyễn Trọng Tiến, Nguyễn Xuân Trạch [30]… đã đi sâu vào nghiên cứu
đặc tính của từng loại vật nuôi. Cung cấp những kiến thức về công tác chọn
giống vật nuôi, các loại thức ăn và chế độ dinh dưỡng thì có các cuốn giáo
trình đề cập rất cụ thể như “Thức ăn và dinh dưỡng” của Vũ Huy Giảng [8],
giáo trình “Chọn lọc và nhân giống vật nuôi” của tác giả Đặng Vũ Bình [1].
Để đánh giá về mức độ chuyển dịch của ngành chăn nuôi trong cơ cấu nông
nghiệp thì TS. Phùng Chí Hiền với cuốn “Các chỉ tiêu phản ánh chuyển dịch
4


cơ cấu trong ngành chăn nuôi” (2002)[13], đã đưa ra cụ thể các chỉ tiêu để
đánh giá đúng mức độ chuyển dịch về cơ cấu của ngành chăn nuôi. Tác giả
Hoàng Kim Giao với “Ngành chăn nuôi Việt Nam phát triển trong xu thế hội
nhập” [10] và Lê Viết Ly với “Phát triển chăn nuôi bền vững trong quá trình
công nghiệp hóa” [19]…. Các tác giả đã đưa ra nhận định và đánh giá chung
về thực trạng phát triển ngành chăn nuôi của Việt nam trong xu thế nền kinh
tế thị trường ngày nay.
Dưới góc độ địa lý, cũng có rất nhiều cuốn sách viết và đề cập đến lĩnh
vực chăn nuôi, tiêu biểu như cuốn “Địa lý KT - XH đại cương” của Nguyễn
Minh Tuệ, Nguyễn Viết Thịnh, Lê Thông - NXB đại học Sư phạm (2005)
[35], cuốn sách có một chương viết về địa lý nông nghiệp trong đó có trình
bày cụ thể về đặc điểm, vai trò và tình hình phân bố của ngành chăn nuôi.
Viết về địa lý nông nghiệp Việt Nam thì có cuốn “Địa lý KT - XH Việt Nam”
tập 1, 2 của Đỗ Thị Minh Đức (chủ biên), Nguyễn Viết Thịnh - NXB đại học
sư phạm [25], cuốn “Địa lý nông nghiệp” của Ông Thị Đan Thanh [20], cuốn
“Địa lý các tỉnh thành phố Việt Nam” của Lê Thông [26], cuốn “Địa lý ba vùng

kinh tế trọng điểm Việt Nam” của Lê Thông [27], cuốn “Địa lý các vùng kinh
tế Việt Nam” của Nguyễn Minh Tuệ [36].... Các cuốn sách đã trình bày cụ thể
tình hình phát triển ngành nông nghiệp của Việt Nam nói chung và ngành
chăn nuôi nói riêng. Trên cơ sở đó, đã chỉ ra mức độ chuyển dịch cơ cấu
ngành chăn nuôi của cả nước và một số vùng miền, thậm chí còn đi sâu vào
địa bàn của từng tỉnh.
Các đề tài luận văn Thạc sĩ cũng đề cập đến vấn đề chăn nuôi cụ thể
như luận văn “Địa lý ngành chăn nuôi Việt Nam” của Chu Thị Thanh Hiền
[12], luận văn “Phát triển chăn nuôi ở thành phố Hà Nội” của Nguyễn Huy
Châu [6]… Các luận văn đã trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn về tình hình
chăn nuôi ở Việt Nam và tình hình chăn nuôi ở thành phố Hà Nội.
Viết về nông nghiệp tỉnh Thanh Hoá có cuốn “Điạ chí Thanh Hóa” [5]
cuốn sách viết khá rõ về địa bàn tỉnh, với những tiềm năng để phát triển các
ngành nghề kinh tế cụ thể cho từng vùng miền. Ngoài ra, còn có các luận văn
viết về ngành nông nghiệp của tỉnh như “Địa lý nông nghiệp tỉnh Thanh Hóa”
5


của Lai Thị Liêm [18], “Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp tỉnh Thanh Hóa” của
Dương Thị Ngọc Trang [33]… Các luận văn đã trình bày về cơ sở lý luận của
ngành nông nghiệp nói chung và ngành chăn nuôi nói riêng của tỉnh.
Trong “Quy hoạch tổng thể phát triển nông nghiệp tỉnh Thanh Hóa đến
năm 2015 và định hướng 2020, của UBND tỉnh Thanh Hóa [42], đề cập đến
hiện trạng và giải pháp phát triển ngành chăn nuôi của tỉnh trong thời gian tới.
Đây là cơ sở lý luận cho quá trình nghiên cứu về tiềm năng, thực trạng
phát triển và phân bố ngành chăn nuôi ở tỉnh Thanh Hóa của tác giả.
MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Mục tiêu nghiên cứu

3.

3.1.

Vận dụng cơ sở lý luận và thực tiễn về ngành chăn nuôi, đề tài tập
trung nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng và thực trạng phát triển, phân bố
ngành chăn nuôi của tỉnh Thanh Hóa. Từ đó, đề xuất các giải pháp nhằm thúc
đẩy ngành chăn nuôi phát triển tương xứng với tiềm năng của tỉnh.
Nhiệm vụ nghiên cứu

3.2.

Tổng quan những vấn đề lý luận và thực tiễn về ngành chăn nuôi, vận
dụng vào địa bàn nghiên cứu.
Đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển và phân bố ngành
chăn nuôi trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
Phân tích thực trạng phát triển và phân bố ngành chăn nuôi của Thanh Hóa.
Đề xuất các giải pháp phát triển chăn nuôi của tỉnh trong giai đoạn tiếp theo.
Giới hạn nghiên cứu

3.3.

Nội dung: tập trung nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng, thực trạng
phát triển và phân bố chăn nuôi theo ngành và lãnh thổ trên địa bàn tỉnh
Thanh Hoá.
Lãnh thổ nghiên cứu: toàn bộ địa bàn tỉnh Thanh Hóa, có sự phân hóa
đến cấp huyện, thành phố, thị xã.
Thời gian nghiên cứu: số liệu phân tích được lấy trong giai đoạn từ
2001 - 2012 và định hướng phát triển đến năm 2020.
4.

QUAN ĐIỂM NGHIÊN CỨU

6


4.1.

Quan điểm tổng hợp lãnh thổ
Dù là hiện tượng tự nhiên hay KT - XH, cũng đều có sự phân hóa theo
không gian gắn liền với một lãnh thổ nhất định. Quan điểm này đòi hỏi phải
phân tích đối tượng nghiên cứu trong mối quan hệ biện chứng với chỉnh thể
mà bản thân nó là yếu tố cấu thành. Do vậy, khi nghiên cứu thực trạng phát
triển chăn nuôi ở Thanh Hóa cần đặt nó trong mối quan hệ với môi trường tự
nhiên và các điều kiện KT - XH tác động đến quá trình phát triển và phân bố
của ngành chăn nuôi.
4. 2. Quan điểm hệ thống
Bất kỳ lãnh thổ hay sự vật, hiện tượng nào cũng có nhiều bộ phận nhỏ
hơn để hợp thành và bản thân nó là một bộ phận của tổng thể lớn hơn. Vì vậy,
khi nghiên cứu các đối tượng địa lí cần được xem xét trên nhiều phương diện
và đặt chúng vào mối quan hệ biện chứng với các bộ phận khác. Nghiên cứu
ngành chăn nuôi của tỉnh Thanh Hóa được đặt trong mối liên hệ với các lãnh
thổ sản xuất lớn hơn của khu vực BTB và cả nước. Giữa các thành phần trong
hệ thống sản xuất luôn có mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau. Nếu một
thành phần nào đó thay đổi sẽ tác động đến các thành phần khác, thậm chí là
cả sự biến đổi. Do vậy, nghiên cứu về chăn nuôi tỉnh Thanh Hóa phải đặt nó
trong tổng thể của tỉnh Thanh Hóa và cả nước. Nhờ vây, quá trình nghiên cứu
mới có tính logic, hợp lý và thống nhất chặt chẽ.
4. 3. Quan điểm lịch sử - viễn cảnh
Sự vật, hiện tượng địa lý đều có quá trình phát sinh, phát triển. Sự phát
triển của một ngành kinh tế là một quá trình xuyên suốt từ quá khứ đến hiện
tại và kéo dài đến tương lai. Qua đó giúp chúng ta thấy được sự biến đổi,
nguyên nhân và xu hướng phát triển của nó trong tương lai.

Quá trình phát triển ngành chăn nuôi của Thanh Hóa qua mỗi giai đoạn
cần được đặt trong mối quan hệ với những thay đổi về đường lối chính sách,
chiến lược phát triển KT - XH của tỉnh trong từng thời kỳ nhất định. Từ đó
cho phép đánh giá khả năng, triển vọng phát triển chăn nuôi trên địa bàn
nghiên cứu ở hiện tại, đề ra những phương hướng và giải pháp phát triển chăn
nuôi trong tương lai.
7


4.4. Quan điểm phát triển bền vững
Sự phát triển bền vững không chỉ được biểu hiện ở sự tăng trưởng về
kinh tế mà còn phải gắn liền với những tiến bộ về xã hội và đảm bảo sự bền
vững của môi trường. Phát triển bền vững là mục tiêu chính của chiến lược
phát triển kinh tế xã hội Việt Nam.Phát triển chăn nuôi ở tỉnh Thanh Hóa cần
dựa trên quan điểm phát triển bền vững vừa đảm bảo đáp ứng về an ninh
lương thực, đem lại hiệu quả kinh tế cao và giảm thiểu tối đa tình trạng ô
nhiễm môi trường.
5.
5.1.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp thống kê
Nghiên cứu thực trạng phát triển chăn nuôi và các lĩnh vực liên quan
đến chăn nuôi là vấn đề phức tạp. Vì vậy, việc thu thập tài liệu và thống kê số
liệu phải thông qua nhiều nguồn, vận dụng phương pháp này nhằm phân tích,
chọn lọc để có những tài liệu thực sự cần thiết đáp ứng được yêu cầu của đề
tài. Phương pháp thống kê được sử dụng để xử lý các số liệu đã thu thập được
theo mục đích của đề tài, tính toán các chỉ số phát triển, tỉ trọng ngành chăn
nuôi qua các thời kỳ để thấy được thực trạng phát triển chăn nuôi của tỉnh
Thanh Hóa.

5. 2. Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp
Sử dụng phương pháp này nhằm phân tích tổng hợp các tài liệu, thông
tin có liên quan để xử lý, thống kê, đánh giá, tổng hợp tài liệu thành một hệ
thống trên cơ sở cấu trúc của đề tài. Phương pháp so sánh giúp chúng ta thấy
được cái chung của ngành chăn nuôi ở Thanh hóa so với cả nước và các tỉnh
lân cận, đồng thời cũng cho thấy cái riêng nổi bật của ngành mà nhiều địa
phương khác không có được.
5.3. Phương pháp bản đồ, GIS
Phương pháp bản đồ là phương pháp đặc trưng cho nghiên cứu địa lí
bởi vì mọi nghiên cứu của lĩnh vực này đều mở đầu bằng bản đồ và kết thúc
bằng bản đồ. Đây là phương pháp thể hiện rất trực quan về sự phân bố
không gian, các phương án quy hoạch và tổ chức lãnh thổ. Trên cơ sở dữ
liệu GIS, tác giả đã xây dựng và sử dụng bản đồ để phân tích và minh họa
8


những kết quả nghiên cứu của đề tài như: phân tích các nhân tố ảnh hưởng
đến tình hình phát triển của ngành chăn nuôi. Phân tích thực trạng và xây
dựng định hướng phát triển ngành chăn nuôi của địa phương. Đồng thời k ết
hợp bản đồ với các tài liệu của địa phương để tìm hiểu các lĩnh vực nghiên
cứu liên quan đến đề tài.
5.4. Phương pháp thực địa
Khảo sát thực tế ở một số huyện trong tỉnh, xin ý kiến đánh giá của các
nhà quản lý, các chuyên gia trong lĩnh vực liên quan đến đề tài.Xin số liệu
thống kê của các phòng ban đề đánh giá thực trạng phát triển ngành chăn nuôi
của tỉnh Thanh Hóa. Đây là cơ sở để bổ sung những thông tin xác thực cho
quá trình đánh giá hiện trạng chăn nuôi của đề tài.
6.

ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI

-

Đúc kết, kế thừa và làm sáng tỏ thêm cơ sở lý luận và thực tiễn về phát
triển ngành chăn nuôi, áp dụng nghiên cứu trên địa bàn cấp tỉnh.

7.

-

Làm rõ các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển và phân bố ngành chăn

-

nuôi ở tỉnh Thanh Hóa.
Phân tích được thực trạng phát triển, tình hình phân bố và các hình thức

-

tổ chức sản xuất chăn nuôi ở địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
Đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy ngành chăn nuôi của tỉnh phát

triển trong thời gian tới.
CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Phần nội dung của đề tài gồm 4 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về ngành chăn nuôi
Chương 2. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển và phân bố ngành chăn
nuôi ở tỉnh Thanh Hoá
Chương 3. Thực trạng phát triển ngành chăn nuôi tỉnh Thanh Hóa
Chương 4. Định hướng và giải pháp phát triển ngành chăn nuôi ởThanh Hoá
đến năm 2020

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN CHĂN NUÔI
9


1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm

Chăn nuôi là một ngành sản xuất của nông nghiệp, có chức năng
chuyển hóa những sản phẩm của ngành trồng trọt và phụ phẩm công - nông
nghiệp thành sản phẩm vật nuôi có giá trị dinh dưỡng cao. Có chức năng tổ
chức, quản lý và nuôi dưỡng các loại gia súc, gia cầm cung cấp thực phẩm,
thức ăn bổ sung cho người và dược liệu cho y học và thú y. Theo nghĩa rộng
“chăn nuôi gồm các động vật được con người thuần hóa, nuôi giữ nhằm mục
đích sản xuất hay thương mại”. Còn theo nghĩa hẹp “chăn nuôi trong nông
nghiệp chủ yếu là gia súc và gia cầm” [6].
Từ điển bách khoa nông nghiệp cho rằng: Chăn nuôi là hệ thống các
biện pháp về giống, thức ăn, kỹ thuật, thú y… cần được áp dụng đúng quy
trình để nuôi dưỡng và chăm sóc vật nuôi nhằm đáp ứng những nhu cầu cần
thiết của con người [12].
Chăn nuôi được bắt đầu từ quá trình con người thuần hóa các loài động
vật hoang dã thành vật nuôi trong gia đình hay trên các nông trại, qua thời
gian tập tính, thói quen, vòng đời hay cả đặc điểm sinh học của vật nuôi đều
thay đổi nhanh chóng và trở thành đối tượng sản xuất chính.
Như vậy, chăn nuôi là một trong hai ngành sản xuất vật chất cơ bản của
nông nghiệp, với đối tượng chính là các loài vật nuôi, thông qua quá trình nuôi
dưỡng, chăm sóc, quản lý để tạo ra nguồn thực phẩm (trứng, thịt, sữa) hay cung
cấp da, lông, sừng và sức kéo, phục vụ cho nhu cầu cuộc sống của con người.
1.1.2.


Vai trò của ngành chăn nuôi
Trong nền kinh tế tự cấp tự túc, chăn nuôi chưa được xem là ngành sản
xuất độc lập, mà chủ yếu hỗ trợ cho trồng trọt. Nhu cầu nhỏ bé của xã hội
nông nghiệp không đủ sức kích thích sản xuất hàng hóa phát triển. Cơ chế thị
trường mở ra, người dân đã làm quen với việc sản xuất nông phẩm hàng hóa.
Nhiều nơi đã tiến hành chăn nuôi công nghiệp để cung cấp thịt, trứng, sữa, da,
10


lông… cho thị trường. Chăn nuôi vì thế đang đóng vai trò ngày càng quan
trọng trong việc cung cấp nguồn thực phẩm dinh dưỡng cho con người, tạo cơ
sở nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, góp phần đẩy mạnh xuất khẩu.
Chăn nuôi là một trong hai ngành sản xuất chính của nông nghiệp,
không chỉ có ý nghĩa quan trọng trong việc cung cấp nguồn thực phẩm có
dinh dưỡng mà còn là ngành cung cấp nhiều sản phẩm làm nguyên liệu quý,
có giá trị cho các ngành công nghiệp nhẹ (tơ tằm, lông cừu, da), công nghiệp
chế biến thực phẩm (đồ hộp) và dược liệu.
Là ngành có vai trò quan trọng trong việc cung cấp các sản phẩm đặc sản
tươi sống và sản phẩm chế biến có giá trị cho ngành xuất khẩu. Trong nông
nghiệp, chăn nuôi và trồng trọt có mối quan hệ gắn bó với nhau. Chăn nuôi
cung cấp cho trồng trọt nguồn phân bón hữu cơ quan trọng không chỉ có tác
động làm tăng năng suất cây trồng mà còn có tác dụng to lớn cho việc cải tạo
đất, tái tạo hệ vi sinh vật, góp phần bảo vệ cân bằng sinh thái và có vai trò
quan trọng trong việc cung cấp sức kéo cho ngành trồng trọt.
Chăn nuôi góp phần làm tăng thu nhập và giải quyết vấn đề việc làm cho
người dân. Tận dụng các sản phẩm phụ từ ngành trồng trọt, góp phần giảm
thiểu các chất thải ra môi trường và thúc đẩy ngành trồng trọt phát triển.
Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu sử dụng của người dân về các sản
phẩm chăn nuôi ngày càng tăng lên cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu sản

phẩm. Ngành chăn nuôi sẽ ngày càng chiếm vị thế quan trọng trong đời sống
tiêu dùng và trong các hoạt động sản xuất. Sự phát triển của ngành chăn nuôi
có thể coi là một trong những tiêu chí đánh giá một nền nông nghiệp tiên tiến.
1.1.3.

Đặc điểm của ngành chăn nuôi
Một là: Đối tượng sản xuất của ngành chăn nuôi là các cơ thể sống (vật
nuôi). Sự phát triển và sinh trưởng của chúng luôn tuân theo những quy luật sinh
học nhất định, chúng không phải là những vật vô tri vô giác mà là những cơ thể
sống có hệ thần kinh cao cấp tuân theo những quy luật sinh học nhất định.

11


Hai là: Sự phát triển và phân bố ngành chăn nuôi phụ thuộc chặt
chẽ vào cơ sở thức ăn của nó. Để tồn tại, các vật nuôi luôn cần đến một lượng
thức ăn cần thiết, thường xuyên để duy trì sự sống. Chính vì thế sản xuất chăn
nuôi phụ thuộc chặt chẽ vào cơ sở thức ăn. Thức ăn cho chăn nuôi có thể là
các đồng cỏ tự nhiên và diện tích mặt nước, phụ phẩm của ngành trồng trọt
hay nguồn thức ăn chế biến bằng phương pháp công nghiệp. Nguồn thức ăn là
cơ sở quan trọng quyết định tính chất, đặc điểm và năng suất sản phẩm của
ngành chăn nuôi [36].
Ba là: Chăn nuôi có thể phát triển tập trung mang tính chất như sản
xuất công nghiệp hoặc di động phân tán mang tính chất như sản xuất nông
nghiệp. Với các phương thức sản xuất chủ yếu như:
- Phương thức chăn nuôi tự nhiên là phương thức xuất hiện sớm nhất,
quá trình sản xuất dựa vào các nguồn thức ăn có sẵn ở các đồng cỏ tự nhiên
và khả năng vật nuôi tự kiếm sống. Chủ yếu sử dụng các giống vật nuôi địa
phương, bản địa mà vốn dĩ loại giống này đã thích nghi với môi trường sống
trên địa bàn đó. Nó không đòi hỏi cao về kỹ thuật, chi phí đầu tư song năng

suất sản phẩm rất thấp.
- Phương thức chăn nuôi công nghiệp cho phép tối đa khả năng tiếp
nhận thức ăn và giảm tối thiểu quá trình vận động để tiết kiệm hao phí năng
lượng nhằm rút ngắn thời gian tích lũy năng lượng, tăng khối lượng và năng
suất sản phẩm. Thức ăn cũng được chế biến theo quy trình công nghiệp có sử
dụng các kích thích tố tăng trưởng góp phần làm tăng năng suất và rút ngắn
thời gian nuôi dưỡng. Phương thức này đòi hỏi vốn đầu tư lớn, kỹ thuật chăn
nuôi cao, không phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên và đem lại năng suất lớn.
- Phương thức chăn nuôi sinh thái được tiến hành dựa trên những điều
kiện tiến bộ của khoa học kỹ thuật, ứng dụng những thành tựu trong công
nghệ sinh học về tạo giống và lai ghép các loài vật nuôi.

12


Bốn là: Chăn nuôi là ngành sản xuất đồng thời cho ra nhiều sản phẩm,
một loại vật nuôi có thể cho ra nhiều mục đích sử dụng khác nhau. Trong
chăn nuôi trâu, bò được nuôi với các mục đích như để lấy thịt, lấy sữa, vừa
lấy thịt và sữa, lấy sức kéo, lấy phân bón. Chăn nuôi gà, vịt cũng cho ra nhiều
sản phẩm rất đa dạng như để lấy trứng, lấy thịt, lấy lông. Ngành chăn nuôi
đồng thời một lúc cho ra nhiều sản phẩm và đôi khi giá trị của sản phẩm phụ
cũng tương đương với giá trị của sản phẩm chính.
Năm là: Trong nền nông nghiệp hiện đại, ngành chăn nuôi có nhiều
thay đổi về hình thức và hướng chuyên môn hoá. KHKT ngày càng phát triển,
nông nghiệp ứng dụng cơ giới hóa vào sản xuất và phát trển theo xu hướng
hiện đại hóa. Do vậy, ngành chăn nuôi cũng có nhiều thay đổi về hình thức
sản xuất từ chăn nuôi chăn thả sang chăn nuôi nửa chuồng trại, rồi chuồng trại
đến chăn nuôi công nghiệp. Trong chăn nuôi sản xuất theo hướng chuyên
môn hóa (lấy thịt, sữa, trứng, da, lông...) cũng ngày càng được ứng dụng rộng
khắp, làm cho số lượng, sản lượng và năng xuất trong chăn nuôi tăng vọt .

1.1.4. Cơ cấu ngành chăn nuôi

Chăn nuôi được phân thành các nhóm ngành chính như: chăn nuôi gia
súc lớn, chăn nuôi gia súc nhỏ, chăn nuôi gia cầm, sản phẩm không qua giết
thịt và các sản phẩm khác.
- Chăn nuôi gia súc gồm: Chăn nuôi gia súc lớn (trâu, bò, ngựa…);
Chăn nuôi gia súc nhỏ (lợn, dê, cừu…) trong đó trâu, bò và lợn là loài vật
nuôi giữ vai trò chủ đạo trong chăn nuôi gia súc.
- Chăn nuôi gia cầm gà, vịt, ngan, ngỗng…trong đó gà, vịt là vật nuôi chính.
- Sản phẩm không qua giết thịt (trứng, sữa, mật ong…) và các sản
phẩm chăn nuôi khác (ong, nhím, trăn, rắn…).
13


Mỗi ngành đều có những đặc trưng sản xuất riêng biệt, hướng sản xuất
chuyên môn hóa khác nhau và đều đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu của
ngành chăn nuôi.

1.1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển và phân bố ngành chăn nuôi

Sự phát triển và phân bố của ngành này phụ thuộc chặt chẽ vào hai
nhóm nhân tố: nhóm nhân tố tự nhiên và nhóm nhân tố kinh tế - xã hội
Nhóm nhân tố tự nhiên: vị trí địa lý, địa hình, đất, nước, khí hậu…
Nhóm nhân tố kinh tế-xã hội: dân cư, nguồn lao động; dịch vụ chăn
nuôi (giống, thức ăn, thú y…); cơ sở vật chất; vốn; khoa học công nghệ; thị
trường tiêu thụ; các chính sách phát triển chăn nuôi…
Vị trí địa lý

1.1.5.1.


Vị trí địa lý có ảnh hưởng lớn đến cơ cấu đàn vật nuôi, quá trình sinh
trưởng phát triển và sinh sản của vật nuôi, ảnh hưởng tới phương thức sản
xuất, tới việc trao đổi và phân công lao động trong ngành chăn nuôi.
Nhóm nhân tố tự nhiên

1.1.5.2.

Là tiền đề cơ bản để phát triển và tác động trực tiếp đến sự phân bố của
ngành chăn nuôi. Các loại vật nuôi chỉ có thể sinh trưởng và phát triển được
dựa trên những yếu tố cơ bản của khí hậu, nguồn nước ở mỗi vùng địa hình,
đất đai cụ thể. Việc đánh giá đầy đủ, chính xác các điều kiện tự nhiên và tài
nguyên thiên nhiên phục vụ cho phát triển chăn nuôi, góp phần xây dựng cơ
cấu ngành một cách hợp lý và cũng là cơ sở xây dựng quy hoạch và hoạch
định các chính sách phát triển chăn nuôi lâu dài [34].

14


* Địa hình: sự phân bố các khu vực địa hình phản ánh khá rõ bức tranh
phân bố của các loài vật nuôi có mặt trên lãnh thổ đó. Chăn nuôi gia súc lớn
thường được nuôi ở các khu vực địa hình đồi núi, vùng đồng cỏ nơi có đất đai
rộng lớn thuận lợi cho việc chăn thả. Chăn nuôi gia súc nhỏ như lợn, cừu…thì
được nuôi nhiều ở địa hình đồng bằng bằng phẳng. Kết hợp với khí hậu, nhân
tố địa hình đồng thời vừa tạo ra những thuận lợi và cả những khó khăn cho
quá trình sản xuất và áp dụng các phương thức canh tác của ngành chăn nuôi.
* Khí hậu: với các yếu tố nhiệt độ, lượng mưa, ánh sáng, độ ẩm,…có
ảnh hưởng lớn đến cơ cấu, hiệu quả và năng suất của ngành chăn nuôi. Mỗi
loại vật nuôi chỉ thích hợp với từng điều kiện khí hậu nhất định, vượt quá giới
hạn cho phép chúng sẽ chậm phát triển thậm chí là bị chết hoặc tuyệt chủng.
* Nguồn nước: là nhân tố rất quan trọng để vật nuôi uống, tắm rửa và

vệ sinh chuồng trại hàng ngày. Nước là điều kiện cần thiết cho sự sinh trưởng
và phát triển của một cơ thể sống. Thiếu nước thì bất kỳ một vật nuôi hay mọi
quá trình sản xuất đều không thể tồn tại. Nước có ảnh hưởng rất lớn đến năng
suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất của vật nuôi.
* Sinh vật: sinh vật trong tự nhiên là cơ sở để thuần dưỡng, tạo nên các
giống cây trồng, vật nuôi. Sự đa dạng về hệ động vật là tiền đề để hình thành
và phát triển các giống vật nuôi và tạo khả năng chuyển đổi cơ cấu vật nuôi
phù hợp với điều kiện tự nhiên và hệ sinh thái. Sinh vật là nhân tố quan trọng
quy định đến giống vật nuôi và cũng là cơ sở thức ăn không thể thiếu cho các
loài vật nuôi.
Nhóm nhân tố kinh tế - xã hội

1.1.5.3.

* Dân cư và nguồn lao động: ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất ngành
chăn nuôi dưới hai góc độ: lực lượng sản xuất và nguồn tiêu thụ sản phẩm.

15


- Dưới góc độ là lực lượng sản xuất: nguồn lao động là nhân tố quan
trọng để phát triển theo chiều rộng (mở rộng diện tích chăn nuôi - bãi chăn
thả, xây dựng các cơ sở chuồng trại…) và theo chiều sâu (lai ghép, tạo giống
mới, thâm canh tăng năng xuất vật nuôi…). Nguồn lao động không chỉ được
xem xét về mặt số lượng mà còn cả về mặt chất lượng như trình độ học vấn, tỉ
lệ lao động được đào tạo nghề nghiệp, tình trạng thể lực của người lao động…
sẽ là động lực thúc đẩy ngành chăn nuôi phát triển về số lượng và nâng cao
chất lượng sản phẩm vật nuôi.
- Dưới góc độ là nguồn tiêu thụ: dân cư đông tạo ra thị trường tiêu thụ
rộng lớn và góp phần kích thích hoạt động sản xuất chăn nuôi phát triển. Khi

chất lượng cuộc sống của người dân ngày càng được nâng cao thì nhu cầu tiêu
thụ nguồn thực phẩm càng lớn. Yêu cầu về số lượng cũng như chất lượng sản
phẩm ngày càng khắt khe hơn, đòi hỏi ngành chăn nuôi cần có các chiến lược
phát triển hợp lý, cung ứng đầy đủ các nhu cầu của thị trường [34].
* Dịch vụ chăn nuôi: gồm các dịch vụ về thức ăn, giống, cơ sở vật
chất, hạ tầng phục vụ các hoạt động chăn nuôi… nếu các dịch vụ này được
cung ứng đầy đủ và tận dụng được những tiến bộ của khoa học kỹ thuật sẽ là
điều kiện thuận lợi thúc đẩy ngành chăn nuôi phát triển.
* Thức ăn cho chăn nuôi: thức ăn có vai trò quan trọng đặc biệt với
ngành chăn nuôi. Đối tượng sản xuất của ngành chăn nuôi là các cơ thể sống
do vậy mà quá trình sinh trưởng, phát triển và sinh sản tuân thủ nghiêm ngặt các
quy luật sinh học và quy luật tự nhiên. Khả năng cung ứng và tính hữu hiệu của
thức ăn sẽ quyết định đến tính chất, đặc điểm, năng suất sản phẩm đàn vật nuôi.
Quy định đến sự phân bố và hình thức sản xuất ngành chăn nuôi.
Thức ăn cho chăn nuôi tương đối đa dạng: thức ăn xanh thô, thức ăn
tinh bột giàu năng lượng, thức ăn giàu protein, thức ăn bổ sung khoáng,
vitamin… Thức ăn cho chăn nuôi có thể lấy từ các nguồn khác nhau thức ăn
16


tự nhiên (đồng cỏ, bãi chăn thả…), thức ăn từ sản phẩm của ngành trồng trọt
hay thức ăn chế biến bằng phương pháp công nghiệp.
- Thức ăn tự nhiên: là nguồn thức ăn tương đối phong phú, đa dạng có
sẵn ngoài tự nhiên, nó thường có ở các khu vực như đồng cỏ tự nhiên, vùng
đồi núi, bãi đất hoang, bờ đê, ven đường, ven sông….
- Thức ăn từ sản phẩm ngành trồng trọt: nguồn cung cấp thức ăn từ các
hoạt động trồng trọt ngày càng trở thành nguồn cung cấp thức ăn chủ lực cho
ngành chăn nuôi. Sản phẩm của trồng trọt để làm thức ăn cho chăn nuôi rất đa
dạng như ngô, khoai, sắn… hoặc là các phụ phẩm như rơm, rạ, thân cây, lá
cây… là nguồn thức ăn phổ biến cho ngành chăn nuôi. Đó phần lớn là các sản

phẩm tận dụng nên chi phí thấp, song hàm lượng chất lại tương đối cao. Tuy
nhiên, ngành trồng trọt lại phụ thuộc vào khí hậu và mang tính thời vụ sâu sắc
nên không phải lúc nào, mùa nào ngành trồng trọt cũng cung ứng kịp thời
nguồn thức ăn cho chăn nuôi.
- Thức ăn chế biến bằng phương pháp công nghiệp: được phân thành
hai loại thức ăn thô và thức ăn tinh. Chế biến thức ăn thô chủ yếu nhằm dự trữ
các nguồn thức ăn xanh không sử dụng hết tại thời điểm thu hoạch. Các công
nghệ được sử dụng là chế biến khô (phơi khô, sấy khô) hoặc ngâm ủ yếm khí
dưới dạng muối. Chế biến thức ăn tinh là hoạt động đòi hỏi quy trình kỹ thuật
cao hơn, nó không chỉ nhằm bảo quản duy trì các nguồn thức ăn tinh sẵn có
mà nó còn tạo ra các loại thức ăn tinh có cơ cấu thành phần dinh dưỡng phù
hợp với đặc tính của từng loại vật nuôi. Nguồn thức ăn chế biến có ý nghĩa
quan trọng trong việc phát triển chăn nuôi tập trung mang tính công nghiệp
nhất là theo phương thức công nghiệp thâm canh cao. Sản phẩm chăn nuôi sử
dụng thức ăn chế biến thường cao và tăng nhanh hơn so với chăn nuôi tự
nhiên. Tính chất ổn định, không phụ thuộc vào tự nhiên và giàu giá trị dinh

17


dưỡng của thức ăn chế biến góp phần làm nâng cao năng suất, tăng hiệu quả
và có tính ổn định lâu dài cho ngành chăn nuôi phát triển.
* Giống vật nuôi: là quần thể vật nuôi cùng loại, cùng nguồn gốc có
ngoại hình và cấu trúc di truyền tương tự nhau được hình thành, củng cố, phát
triển do tác động của con người. Giống vật nuôi gồm giống gia súc, gia cầm,
ong, tằm và các sản phẩm giống của chúng (tinh, phôi, ấu trùng, trứng giống
và vật liệu di truyền giống). Trong hoạt động chăn nuôi, giống vật nuôi là cơ
sở quan trọng để tiến hành sản xuất, giống vật nuôi tốt mang lại hiệu quả sản
phẩm chăn nuôi cao. Do vậy, trong bất cứ hoạt động chăn nuôi nào cũng phải
tiến hành công tác chọn lọc giống nhằm đảm bảo yêu cầu sản xuất phát triển

mang lại giá trị kinh cao [11].
* Nguồn vốn: nguồn vốn có quy mô lớn được đầu tư vào sản xuất sẽ
tạo điều kiện cho việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất,
thúc đẩy ngành chăn nuôi phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Để ngành
chăn nuôi phát triển hiệu quả, một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu là
làm sao thu hút được vốn đầu tư thì mới có thể sản xuất trên quy mô lớn cũng
như áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
* Thị trường tiêu thụ: là yếu tố cơ bản tác động đến cơ cấu, quy mô và
giá trị của sản phẩm, có tác dụng thúc đẩy chăn nuôi phát triển và ngược lại.
Nhu cầu của thị trường quyết định đến hướng chuyên môn hóa của sản xuất.
Mọi biến động trên thị trường đều có tác động tích cực hoặc tiêu cực đến
hoạt động sản xuất, là yếu tố hướng dẫn và điều tiết các hoạt động sản
xuất chăn nuôi. Ngành chăn nuôi phải hướng ra thị trường để định hướng
chiến lược và chính sách phát triển trong cả hiện tại và tương lai. Các yếu
tố tự nhiên, lao động, tiến bộ KHKT, cơ sở vật chất được xem như yếu tố
đầu vào, còn thị trường chính là yếu tố đầu ra tác động đến sự phát triển
bền vững của ngành chăn nuôi.
18


* Đường lối, chính sách phát triển của nhà nước: bất kỳ nền kinh tế
nào cũng đều phát triển theo những chiến lược và định hướng của quốc gia.
Đường lối, chính sách của nhà nước có vai trò quyết định đến việc hình thành
cơ cấu vật nuôi, quy mô, trình độ phát triển và hướng chuyên môn hóa ngành
chăn nuôi. Sự điều hành của nhà nước với các chính sách đúng đắn sẽ thúc
đẩy sản xuất chăn nuôi phát triển. Ngược lại, nếu chính sách không phù hợp
sẽ kìm hãm, thậm chí đẩy lùi quá trình phát triển của ngành chăn nuôi.
Ngoài các nhân tố kể trên còn có nhiều nhân tố khác nữa như cơ sở hạ
tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ chăn nuôi, tiến bộ KHKT nông nghiệp…
Tất cả tạo thành một hệ thống cùng thúc đẩy sự phát triển của ngành kinh tế

quan trọng này.
1.1.6.

Một số hình thức tổ chức lãnh thổ ngành chăn nuôi ở Việt Nam
1.1.6.1. Hộ gia đình
Trong quá trình đổi mới và phát triển chăn nuôi theo hướng thị trường,
kinh tế hộ gia đình ở Việt Nam đã phát triển nhanh cả về lượng và chất thực
sự trở thành những đơn vị kinh tế tự chủ trong nông nghiệp nông thôn. Quy
mô chăn nuôi của hộ bước đầu chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hoá,
song vẫn chậm và không đều giữa các vùng. Chăn nuôi hộ gia đình chủ yếu
áp dụng các phương thức chăn nuôi quảng canh hoặc bán thâm canh, phân
tán, quy mô nhỏ. Quy mô đàn trâu, bò từ 1 - 2 con/hộ, đàn lợn khoảng 15 - 20
con/hộ. Chăn nuôi gà nhỏ lẻ cũng chiếm trên 60 % số hộ làm chăn nuôi [35].
Nước ta có dân số đông, kinh tế chăn nuôi vẫn chiếm ưu thế thì hình
thức hộ gia đình đóng vai trò cực kì quan trọng. Giúp giải quyết vấn đề việc
làm tại chỗ; tăng thêm thu nhập cho người dân. Về lâu dài kinh tế hộ gia đình
sẽ thúc đẩy kinh tế nông thôn phát triển, là cơ sở đảm bảo cho kinh tế tập thể
tồn tại và thúc đẩy nông thôn quá độ tiến lên một trình độ cao hơn và là tiền
đề để thực hiện quá trình CNH - HĐH nông thôn. Tuy nhiên quy mô sản xuất
của hộ gia đình ở nước ta còn manh mún, thiếu vốn đầu tư, sản xuất luôn bị
động với thị trường và gặp khó khăn trong tiếp cận công nghiệp sản xuất mới.
19


1.1.6.2.

Trang trại
Trang trại chăn nuôi ở Việt Nam trong những năm gần đây được phát

triển gắn liền với quá trình đổi mới nông nghiệp nông thôn, đóng vai trò quan

trọng trong chiến lược sản xuất ngành nông nghiệp. Số lượng các trang trại
chăn nuôi tăng nhanh khi ngành nông nghiệp đang dần chuyển dịch theo xu
hướng giảm tỉ trọng của ngành trồng trọt, tăng tỉ trọng của ngành chăn nuôi.
Năm 2001 cả nước có 1.761 trang trại, năm 2006 tăng lên gấp 10 lần 17.721
trang trại, sau thiệt hại nặng nề về chăn nuôi gia súc gia cầm năm 2006 thì
nhiều nông dân đã quay lưng lại với ngành chăn nuôi, chuồng trại bị bỏ trống
nhiều. Năm 2010 số trang trại chăn nuôi lại tăng lên 23.558 trang trại. Ngày
13/4/2011, Bộ NN&PTNN đã ra thông tư số 27/2011/TT-BNN&PTNN quy
định về tiêu chí và thủ tục cấp giấy chứng nhận kinh tế trang trại làm số trang
trại chăn nuôi giảm xuống còn 6.267 trang trại (theo tiêu chí trang trại chăn
nuôi mới), đến năm 2012 tăng lên 8.133 trang trại chăn nuôi [4].
Trong tổng số các trang trại thì miền Bắc chiếm đến 49,2 % (4002 trang
trại) số trang trại chăn nuôi cả nước. Riêng ĐBSH có đến 3174 trang trại
(chiếm 39,0% cả nước), thứ 2 là ĐNB có 1903 trang trại (chiếm 23,4%), tiếp
đó là ĐBSCL 1008 trang trại, TDMNPB 828 trang trại, BTB và DHNTB 767
trang trại, và ít nhất là Tây Nguyên 453 trang trại. Các tỉnh có số trang trại
chăn nuôi lớn như Đồng Nai 1.172 trang trại, TP. Hà Nội 919 trang trại, Vĩnh
Phúc 460 trang trại, Thanh Hóa 324 trang trại chăn nuôi…
Cơ cấu trang trại phân theo lĩnh vực sản xuất có sự chuyển dịch rõ rệt,
tỉ lệ trang trại trồng trọt giảm nhanh, giảm từ 43% (năm 2011) xuống còn
39,1% (năm 2012); tỉ lệ trang trại chăn nuôi lại tăng nhanh đến năm 2012
trang trại chăn nuôi (chiếm 35,9%), tăng lên 4,7% so với năm 2011.
Biểu đồ 1.1. Cơ cấu trang trại phân theo lĩnh vực sản xuất ở Việt Nam
giai đoạn 2011 - 2012 (đơn vị: %)[4]

20


Năm 2011


Năm 2012

Trong cơ cấu trang trại chăn nuôi ở Việt Nam, trang trại chăn nuôi lợn
vẫn chiếm tỉ trọng lớn trên 50% và tiếp đó là chăn nuôi bò. Trong quá trình
phát triển, chăn nuôi theo phương thức trang trại vẫn còn gặp nhiều khó khăn
kết quả điều tra cho thấy gần 17% số trang trại thiếu đất sản xuất; hơn 1/2
trang trại thiếu kiến thức khoa học kỹ thuật; hơn 60% trang trại thiếu vốn,
khoảng 30% trang trại thiếu thông tin về thị trường tiêu thụ sản phẩm; 15%
trang trại thiếu giống; gần 1/3 trang trại thiếu dịch vụ hỗ trợ sản xuất; hơn 1/5
trang trại thiếu lao động; 22,4% trang trại khó tiêu thụ sản phẩm [4]. Hình
thức trang trại đã thúc đẩy ngành chăn nuôi nước ta có những chuyển biến
tích cực về cơ cấu cấu vật nuôi và ngày càng phát triển theo hướng sản xuất
hàng hóa tạo ra nhiều sản phẩm xuất khẩu chủ lực của cả nước.
1.1.6.3.

Hợp tác xã
HTX là tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu, lợi

ích chung, tự nguyên cùng góp vốn, góp sức lao động lập ra theo quy định của
pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên, nhằm giúp đỡ
nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và
cải thiện đời sống, góp phần phát triển KT - XH của đất nước.
Biểu đồ 1.2. Cơ cấu HTX phân theo ngành kinh tế ở Việt Nam
giai đoạn 2008 - 2012 (đơn vị: %) [31]

Năm 2008

Năm 2012
21



Giai đoạn 2008 - 2012 cơ cấu HTX có sự chuyển dịch khá nhanh,
chuyển từ khu vực công nghiệp - xây dựng sang khu vực nông nghiệp - lâm
nghiệp - thủy sản và khu vực dịch vụ. Năm 2012, nước ta có 13.338 HTX
đang hoạt động, trong đó có 6.937 HTX hoạt động trong ngành nông nghiệp,
lâm nghiệp và thủy sản (chiếm 52% tổng số HTX); 3.214 HTX hoạt động
trong ngành công nghiệp, xây dựng (chiếm 24,1%); 3.187 HTX trong ngành
dịch vụ (chiếm 23,9%). Các HTX dịch vụ chăn nuôi đảm bảo từ khâu đầu vào
đến khâu đầu ra của sản phẩm, thực hiện tiếp cận thị trường sâu rộng và bền
vững hơn so với chăn nuôi nông hộ nhỏ lẻ. Trong điều kiện vốn đầu tư thấp,
quy mô của hệ thống trang trại chưa lớn thì chăn nuôi theo hình thức HTX tạo
nên thế mạnh cho ngành chăn nuôi, khắc phục được những hạn chế của chăn
nuôi hộ gia đình. Phát triển mô hình HTX chăn nuôi vừa có thể giải quyết
triệt để các vấn đề môi trường gây ra do hoạt động chăn nuôi, vừa có thể phát
triển ngành chăn nuôi theo theo phương thức công nghiệp phù hợp với cơ chế
thị trường. Tuy nhiên, quy mô HTX dịch vụ chăn nuôi còn quá nhỏ, vốn bình
quân có tăng nhưng còn rất thấp và thiếu; máy móc, phương tiện sản xuất của
HTX ít về số lượng, kém về chất lượng; doanh thu và lợi nhuận của các HTX
còn rất thấp.
1.1.6.4.

Khu chăn nuôi tập trung
Là nơi tập trung chăn nuôi gia súc hoặc gia cầm trên một lãnh thổ xác

định, có vị trí nằm xa khu dân cư, tỉnh lộ, quốc lộ, trường học và nguồn nước
sinh hoạt. Diện tích của khu chăn nuôi tập trung không quá lớn nhưng liền
thửa, gọn vùng và có điều kiện mở rộng sản xuất. Có các công trình hạ tầng
kỹ thuật vừa đáp ứng cho nhu cầu phát triển mà lại đem lại hiệu quả kinh tế
cao và đảm bảo vệ sinh môi trường. Hình thức này đang trở nên phổ biến ở
vùng ven đô các thành phố lớn như TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng và

các tỉnh vùng ĐBSH. Một số tỉnh, thành bước đầu xây dựng mô hình khu

22


chăn nuôi ứng dụng công nghệ cao, là cơ sở đẩy mạnh chăn nuôi phát triển
phù hợp với xu hướng chăn nuôi mới hiện nay.
1.1.6.5.

Vùng chăn nuôi trọng điểm
Chăn nuôi ngày càng phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa, tập trung

với số lượng đàn vật nuôi lớn sẽ cần đến một hình thức tổ chức sản xuất tập
trung cao hơn đó là sản xuất chuyên môn hóa. Dựa trên sự phù hợp về điều kiện
sinh thái với từng loại vật nuôi và sự thống nhất các điều kiện KT - XH, có thể
xác định hướng chuyên môn hóa sản xuất cho từng vùng, từng khu vực để nâng
cao năng suất và hiệu quả ngành chăn nuôi trên phạm vi cả nước.
- Trung du miền núi phía Bắc: có thế mạnh trong chăn nuôi gia súc,
nhất là đàn trâu, chiếm đến 55,3% tổng đàn cả nước (năm 2012). Trâu được
nuôi nhiều ở Sơn La 168,5 nghìn con; Hà Giang 158,7 nghìn con; Lào Cai
123,7 nghìn con; Điện Biên 116,2 nghìn con… Bò cũng được nuôi nhiều ở
vùng này, năm 2012 chiếm 17,4 % đàn bò của cả nước [29]. Chăn nuôi bò
sữa đang được chú trọng phát triển tại các tỉnh Sơn La, Tuyên Quang…
Ngoài ra ở vùng Đông Bắc còn thuận lợi để nuôi dê, tập trung tại các tỉnh Hà
Giang, Sơn La, Lào Cai, Yên Bái…
- Đồng bằng sông Hồng: hướng chuyên môn hóa của vùng là chăn nuôi
gia súc nhỏ (lợn) và gia cầm. Lợn được nuôi nhiều ở TP. Hà Nội, Thái Bình,
Nam Định, Hải Dương… Gia cầm được phát triển chủ yếu là đàn gà ở TP. Hà
Nội, Thái Bình… Ngoài ra, do nhu cầu thịt sữa theo các vành đai bao quanh
thành phố ngày càng tăng lên, chăn nuôi bò sữa tại các khu vực Hà Nội (chủ

yếu là Hà Tây cũ) là hướng phát triển mang lại hiệu quả kinh tế cao.
- Bắc Trung Bộ và duyên hải Nam Trung Bộ: hướng chuyên môn hóa
chính là chăn nuôi trâu, bò thịt tại các tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa…; nuôi
Ngựa ở Quảng Bình, Nghệ An…; nuôi hươu, nai ở Hà Tĩnh, Nghệ An…; nuôi
lợn ở vùng đồng bằng; nuôi Dê ở vùng núi phía Tây. Khí hậu khô hạn ở Ninh
Thuận, Bình Thuận phù hợp với sự phát triển và tăng trưởng của đàn cừu.

23


- Tây Nguyên: có thế mạnh về chăn nuôi đại gia súc. Bò, dê được nuôi
nhiều ở Gia Lai, Đắc - Lăk chủ yếu cho lấy thịt và sức kéo.
- Đông Nam Bộ: chăn nuôi lợn, bò thịt là hướng phát triển phù hợp với
điều kiện sinh thái của vùng.
- Đồng bằng sông Cửu Long: hướng phát triển chủ yếu trong chăn nuôi
của vùng là lợn và vịt đàn. Lợn được nuôi nhiều ở các tỉnh Tiền Giang, Trà
Vinh, Vĩnh Long, Kiên Giang, Đồng Tháp, Bến Tre… Vịt được nuôi nhiều ở
An Giang, Đồng Tháp, Kiên Giang, Hậu Giang, Long An… Ngoài ra, hướng
chăn nuôi trăn cũng đang được đẩy mạng ở vùng sinh thái này.
1.1.7.

Các tiêu chí đánh giá sự phát triển ngành chăn nuôi
Việc lựa chọn các chỉ tiêu để đánh giá sự phát triển của một ngành kinh

tế là vấn đề rất quan trọng nhằm đưa ra những căn cứ để đánh giá một cách
sát thực nhất về vấn đề nghiên cứu. Từ đó đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm
mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội - môi trường là cao nhất. Sự phát triển của
ngành chăn nuôi được đánh giá trên hệ thống các chỉ tiêu về giá trị sản xuất, sự
thân thiện với môi trường, bảo vệ sức khỏe vật nuôi và sự tác động của nó đến
các ngành kinh tế khác khác cũng như đối với xã hội. Các chỉ tiêu đánh giá sự

phát triển của ngành chăn nuôi thể hiện qua các chỉ số cơ bản sau:
- GDP và tỉ trọng GDP chăn nuôi so với tổng giá trị GDP của ngành
nông nghiệp và GDP toàn nền kinh tế, nó phản ánh vị trí cả ngành chăn nuôi
trong cơ cấu ngành nông nghiệp của một tỉnh, một vùng, quốc gia hay khu
vực và là thước đo để đánh giá trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
- Sự tăng trưởng về số lượng và cơ cấu đàn gia súc, gia cầm.
- Bình quân số đàn gia súc, gia cầm theo đầu người, theo số hộ.
- Sự tăng trưởng và cơ cấu sản lượng của các sản phẩm chăn nuôi: sản
lượng và sản lượng theo bình quân đầu người.
- Đảm bảo về cơ sở thức ăn, giống vật nuôi, hệ thống giết mổ, chế biến,
phòng dịch bệnh và bảo vệ môi trường [13].
1.2. Cơ sở thực tiễn ngành chăn nuôi
24


1.2.1.
1.2.1.1.

Tổng quan về phát triển chăn nuôi của Việt Nam
Vai trò ngành chăn nuôi ở Việt Nam
Ở nước ta chăn nuôi là ngành kinh tế rất quan trọng và dần trở thành
ngành kinh tế chủ đạo trong cơ cấu của ngành nông nghiệp. Chăn nuôi phát
triển trong mối quan hệ chặt chẽ với ngành trồng trọt, gắn với đời sống và
trình độ kỹ thuật của dân cư trong từng giai đoạn phát triển của KT - XH.
Trước kia hoạt động chăn nuôi ở nước ta chủ yếu ngành chăn nuôi tự
cấp, tự túc dựa vào kinh nghiệm chăn nuôi của người nông dân là chủ yếu.
Hiện nay, ngành chăn nuôi nước ta ngày càng được đầu tư và phát triển
mạnh do có đội ngũ cán bộ được đào tạo đủ khả năng để triển khai các hoạt
động KHCN trong thời kỳ mới; nhiều chính sách đầu tư cho phát triển chăn
nuôi ngày càng được chú trọng và mở rộng. Do vậy, ngành chăn nuôi ở Việt

Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, đã chuyển đổi từ nền sản xuất dựa
vào tự nhiên và kinh nghiệm sản xuất cổ truyền sang nền sản xuất nông
nghiệp hàng hóa dựa trên các tiến bộ của KHKT. Trên cơ sở những thành tựu
về thâm canh trồng trọt, nước ta đã và đang chuyển dịch cơ cấu sản xuất từ
độc canh lúa gạo sang sản xuất chăn nuôi nhằm nâng cao thu nhập cho nông
dân, nông nghiệp và nông thôn.
Bảng1.1. GTSX nông nghiệp phân theo ngành hoạt động của Việt Nam
giai đoạn 2001 - 2012, (giá hiện hành) [31]


m
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010

Tổng
130,1
144,9
153,9
172,4
183,2
197,7
236,8

377,2
430,2
540,2

Giá trị sản xuất (nghìn tỉ đồng)
Trồng trọt Chăn nuôi Dịch vụ
101,4
25,4
3,3
111,2
30,5
3,2
116,1
34,4
3,4
131,6
37,2
3,6
134,8
45,1
3,3
145,8
48,3
3,6
175,0
57,6
4,2
269,3
102,2
5,7

306,6
116,6
7,0
396,7
135,2
8,3
25

Cơ cấu giá trị sản xuất (%)
Tổng Trồng trọt Chăn nuôi Dịch vụ
100
77,9
19,6
2,5
100
76,7
21,0
2,3
100
75,5
22,3
2,2
100
76,3
21,6
2,1
100
73,6
24,6
1,8

100
73,8
24,4
1,8
100
73,9
24,3
1,7
100
71,4
27,1
1,5
100
71,3
27,1
1,6
100
73,4
25,1
1,5


×