Tải bản đầy đủ (.docx) (50 trang)

Phân tích lợi thế cạnh tranh của ngành sản xuất điện thoại di động ở việt nam dựa trên mô hình kim cương của micheal porter

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 50 trang )

Phân tích lợi thế cạnh tranh của ngành sản xuất điện thoại di động ở Việt Nam dựa trên
mô hình kim cương của Micheal Porter – Nhóm 7

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU
Ngày 10 tháng 3 năm 1876 được coi là mốc son đánh dấu sự ra đời của
điện thoại. Cha đẻ của chiếc điện thoại đầu tiên là Alexandre Graham Bell.
Chiếc máy thô sơ có thể truyền được giọng nói này đã mở ra một kỷ nguyên
phát triển mới trong lịch sử thông tin liên lạc, thay thế cho điện tín. Gần 1 thể kỷ
sau, vào năm 1973, chiếc điện thoại di động đầu tiên, mang tên Motorola Dyna,
phát minh bởi nhà sáng chế Martin Cooper mới chính thức ra đời. Motorola
Dyna Tac mang hình dáng gần giống điện thoại di động ngày nay mặc dù vẫn
còn khá cồng kềnh (nặng khoảng 1 kg) và không phổ biến. Từ đó đến nay, chiếc
điện thoại di động phát triển không ngừng phát triển theo hướng nhỏ gọn hơn rất
nhiều tổ tiên của nó và ngày càng được tích hợp nhiều chức năng hơn chứ không
còn đơn thuần là nghe và gọi. Rất nhanh chóng, thiết bị này đã trở thành một
công cụ phục vụ đắc lực cho cuộc sống và tác động mạnh mẽ vào thói quen sống
của mọi người, đồng thời mở ra ngành công nghiệp sản xuất điện thoại di động
mang đến sự thay đổi lớn trong nền kinh tế các nước.
Hiện nay Việt Nam cũng đã bắt đầu bước chân vào ngành công nghiệp
mới đầy tiềm năng này và có nhiều dự đoán cho rằng chúng ta sẽ trở thành
“Người khổng lồ” sản xuất điện thoại di động. Đây có thực sự là tương lai của
ngành sản xuất điện thoại của Việt Nam? Và dựa vào những căn cứ nào để nói
rằng chúng ta có thể vượt qua rất nhiều đối thủ lớn mạnh khác trên thị trường để
trở thành “Người khổng lồ”?
Với những kiến thức thu được từ môn “Chính sách thương mại quốc tế”,
chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài “Phân tích lợi thế cạnh tranh của

1



Phân tích lợi thế cạnh tranh của ngành sản xuất điện thoại di động ở Việt Nam dựa trên
mô hình kim cương của Micheal Porter – Nhóm 7

ngành sản xuất điện thoại di động ở Việt Nam dựa trên mô hình kim cương
của Micheal Porter” để tìm câu trả lời cho những câu hỏi trên, và hướng đi
đúng đắn cho Việt Nam trong lĩnh vực này.

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT MÔ HÌNH KIM CƯƠNG CỦA
MICHAEL PORTER
1. Vài nét về Michael Porter

Giáo sư Michael Porter

Michael Eugene Porter là Giáo sư của Đại học Havard, Hoa Kỳ; nhà tư
tưởng chiến lược và là một trong những “bộ óc” quản trị có ảnh hưởng nhất
trên thế giới; chuyên gia hàng đầu về chiến lược và chính sách cạnh tranh của
thế giới; là cha đẻ của lý thuyết lợi thế cạnh tranh của các quốc gia.
Michael Porter là một trong những Giáo sư lỗi lạc nhất trong lịch sử
của Đại học Havard. Những tác phẩm kinh điển của ông như “Chiến lược cạnh
tranh” (competitive strategy), “Lợi thế cạnh tranh” (Competitive advantage),
2


Phân tích lợi thế cạnh tranh của ngành sản xuất điện thoại di động ở Việt Nam dựa trên
mô hình kim cương của Micheal Porter – Nhóm 7

“Lợi thế cạnh tranh quốc gia” (Competitive advantage of nations) được xem
như là sách gối đầu giường của giới quản trị kinh doanh và các nhà hoạch
định chính sách vĩ mô trên khắp thế giới trong suốt gần 30 năm qua.

2. Vài nét về mô hình kim cương của Michael Porter
Lý thuyết về lợi thế cạnh tranh quốc gia do Michael Porter đưa ra vào
những năm 1990. Mục đích của lý thuyết này là giải thích tại sao mọt số quốc
gia lại có được vị trí dẫn đầu trong việc sản xuất một số sản phẩm, hay nói
cách khác đi tại sao lại có những quốc gia có lợi thế cạnh tranh về một số sản
phẩm. lý thuyết này được xây dựng dựa trên cơ sở lập luận rằng khả năng
cạnh tranh của một ngành công nghiệp được thể hện tập trung ở khả năng
sáng tạo và đổi mới của ngành đó. Điều này được khái quát cho một thực thể
lớn hơn – một quốc gia. Lý thuyết của Michael Porter dã kết hợp được các
cách giải thích khác nhau trong các lý thuyết thương mại trước đó và đồng
thời đưa ra một khái niệm khá quan trọng là lợi thế cạnh tranh quốc gia.

Khối kim cương của M.Porter

Theo lý thuyết này, lợi thế cạnh tranh quốc gia được thể hiện ở sự liên
kết của 4 yếu tố:

3


Phân tích lợi thế cạnh tranh của ngành sản xuất điện thoại di động ở Việt Nam dựa trên
mô hình kim cương của Micheal Porter – Nhóm 7

Nhóm 1: Điều kiện các yếu tố sản xuất
Nhóm 2: Điều kiện về cầu
Nhóm 3: Các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan
Nhóm 4: Môi trường cạnh tranh của ngành
Mối liên kết của 4 yếu tố này tạo nên mô hình kim cương. Các nhóm yếu
tố này tác động qua lại và có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và hình thành nên
khả năng cạnh tranh của quốc gia. Ngoài ra còn có 2 yếu tố khác rất quan

trọng là chính sách của Chính phủ và cơ hội. Đây là 2 yếu tố có thể tác động
đến 4 yếu tố cơ bản kể trên.


Điều kiện các yếu tố sản xuất (Factor conditions)
Các yếu tố sản xuất chính là đầu vào của một quá trình sản xuất. Tầm

quan trọng của đầu vào cơ bản trong việc tạo ra lợi thế cạnh tranh ngày càng
giảm, ngược lại các đầu vào cao cấp hiện đang là những đầu vào quan trọng
nhất giúp doanh nghiệp tạo ra lợi thế cạnh tranh trình độ cao. Tuy nhiên
những đầu vào cao cấp của một quốc gia lại được xây dựng từ những nhân tố
đầu vào cơ bản. Như vậy, một quốc gia có thể duy trì lợi thế cạnh tranh dựa
trên đầu vào khi quốc gia có các nhân tố đầu vào cần thiết cho cạnh tranh
trong ngành cụ thể nào đó là các đầu vào cao cấp và chuyên ngành. Việc đánh
giá năng lực cạnh tranh theo yếu tố đầu vào được xây dựng từ 5 nhóm đầu
vào, đó là: nguồn nhân lực, nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn tri thức,
nguồn vốn và cơ sở hạ tầng. Mỗi nhóm yếu tố đầu vào này lại bao gồm những
yếu tố cụ thể hơn.


Điều kiện về cầu (Demand conditions)
Ba khía cạnh của cầu trong nước có ảnh hưởng lớn tới lợi thế cạnh

tranh của các Doanh nghiệp là: bản chất cầu, dung lượng và mô hình tăng
trưởng cầu, và cơ chế lan truyền cầu trong nước ra thị trường quốc tế. Theo

4


Phân tích lợi thế cạnh tranh của ngành sản xuất điện thoại di động ở Việt Nam dựa trên

mô hình kim cương của Micheal Porter – Nhóm 7

Porter, những đặc điểm của nhu cầu thị trường trong nước đặc biệt quan
trọng trong việc định hình các thuộc tính của sản phẩm và trong việc tại ra
sức ép cho sự sáng tạo đổi mới và nâng cao chất lượng sản phẩm. Porter lập
luận rằng các công ty của một nước giành được lợi thế cạnh tranh nếu những
người tiêu dùng trong nước của họ có được sự sành sỏi và đòi hỏi cao. Những
người tiêu dùng như vậy sẽ tạo ra sức ép lên các công ty trong nước phải đáp
ứng những tiêu chuẩn cao về chất lượng sản phẩm cũng như phải sản xuất ra
những sản phẩm có mẫu mã mới. Điều này sẽ làm tăng mức độ cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp trong nước, khiến cho các doanh nghiệp trong nước
ngày càng mạnh hơn và tiên tiến hơn.


Các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan (Related and
supporting industries)
Các ngành sản xuất hỗ trợ là những ngành sản xuất cung ứng đầu vào

cho chuỗi hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Trong khi đó, các
ngành sản xuất liên quan là những ngành mà doanh nghiệp có thể phối hợp
hoặc chia sẻ các hoạt động thuộc chuỗi hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc
những ngành mà sản phẩm của chúng mang tính chất bổ trợ việc chia sẻ hoạt
động, thường diễn ra ở các khâu phát triển kỹ thuật, sản xuất, phân phối, tiếp
thị hoặc dịch vụ. Lợi thế cạnh tranh của các ngành hỗ trợ và liên quan sẽ tạo
ra lợi thế tiềm tàng cho các doanh nghiệp như cung cấp trong thời gian ngắn
và với chi phí thấp; duy trì mối quan hệ hợp tác liên tục; các nhà cung ứng
giúp doanh nghiệp nhận thức và tiếp cận phương pháp và cơ hội mới để áp
dụng công nghệ mới. Ngược lại, doanh nghiệp ở khâu sau tác động, kiểm
chứng, góp ý các nỗ lực cải tiến của nhà cung ứng, trao đổi và nghiên cứu để
tìm ra các giải pháp nhanh hơn và hiệu quả hơn. Hơn nữa, ngành hỗ trợ là

chất xúc tác chuyển tải thông tin và đổi mới từ doanh nghiệp này đến doanh
nghiệp khác, đẩy nhanh tốc độ đổi mới trong nền kinh tế.

5


Phân tích lợi thế cạnh tranh của ngành sản xuất điện thoại di động ở Việt Nam dựa trên
mô hình kim cương của Micheal Porter – Nhóm 7



Môi trường cạnh tranh ngành (Firm strategy, structure and
rivalry)
Cạnh tranh trong nước có tác động mạnh tới quá trình đổi mới và

thành công trên thị trường quốc tế. Những khác biệt về trình độ quản lý và kỹ
năng tổ chức như trình độ học vấn và hướng đích của cán bộ quản lý, sức
mạnh động cơ cá nhân,các công cụ ra quyết định, quan hệ với khách hang,
thái độ đối với hoạt động quốc tế, quan hệ giữa người lao động và bộ máy
quản lý tạo ra lợi thế hoặc bất lợi thế cho doanh nghiệp.



Chính sách quản lý của Chính phủ (Government)
Chính sách của Chính phủ là yếu tố tác động tới cả 4 nhóm yếu tố trên

để tạo lợi thế cạnh tranh. Chính phủ có thể tác động tích cực bằng cách đưa
ra định hướng phát triển cụ thể, phù hợp, tạo môi trường pháp lý và kinh tế
lành mạnh, điều tiết hoạt động và phân phối lợi ích một cách công bằng, kiểm
tra kiểm soát các hoạt động kinh tế theo đúng pháp luật và đúng chính sách

đề ra tạo ra cơ hội giúp các công ty mới có thể có điều kiện tạo ra sự bất ngờ
cho phép chuyển dịch vị thế của mình cũng như các công ty đã có uy tín tiếp
tục nâng cao và khẳng định vị thế của mình không những trong nước mà còn
trên thị trường quốc tế.


Cơ hội (Chance)
Những cơ hội đặc biệt quan trọng ảnh hưởng đến lợi thế cạnh tranh

như sự thay đổi bất ngờ về công nghệ; thay đổi về chi phí đầu vào; thay đổi tỷ
giá hối đoái; thay đổi về nhu cầu tiêu dùng hàng hóa đó trên thị trường; ….
Các cơ hội rất quan trọng vì chúng tạo ra sự thay đổi bất ngờ cho phép dịch
chuyển vị thế cạnh tranh. Chúng có thể xóa đi lợi thế của các công ty thành
lập trước đó và tạo ra tiềm năng để các công ty mới có thể khai thác để có
được lợi thế đáp ứng những điều kiện mới và khác biệt.

6


Phân tích lợi thế cạnh tranh của ngành sản xuất điện thoại di động ở Việt Nam dựa trên
mô hình kim cương của Micheal Porter – Nhóm 7

7


Phân tích lợi thế cạnh tranh của ngành sản xuất điện thoại di động ở Việt Nam dựa trên
mô hình kim cương của Micheal Porter – Nhóm 7

CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH LỢI THẾ CẠNH TRANH CỦA
NGÀNH SẢN XUẤT ĐIỆN THOẠI DI ĐỘNG VIỆT NAM


1. Điều kiện các yếu tố sản xuất điện thoại di động ở Việt Nam
2.1 Nguồn nhân lực
Công nhân trí thức – nguồn nhân tài trong ngành công nghiệp hiện đại.
Công nhân trí thức hình thành từ sự phát triển của nền sản xuất công nghiệp
hiện đại. Đặc trưng lao động của công nhân trí thức là lao động chủ yếu bằng
tri thức, có kỹ năng nghề nghiệp phù hợp với công nghệ tiên tiến, nghĩa là vừa
có khả năng sử dụng trang thiết bị hiện đại, vừa có khả năng hoạt động sáng
tạo, linh hoạt với trình độ chuyên môn cao.
_

Đội ngũ công nhân trí thức là bộ phận công nhân tài năng, giỏi nghề
Đội ngũ công nhân trí thức là bộ phận phát triển nhất của giai cấp công

nhân hiện đại, gồm những người lao động có trình độ cao đẳng, đại học trở
lên, trực tiếp vận hành, sử dụng các công cụ, phương tiện sản xuất công
nghiệp tiên tiến, hiện đại với trình độ xã hội hóa, quốc tế hóa rất cao hoặc
đang trực tiếp tham gia vào việc ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất, tổ
chức, quản lý sản xuất kinh doanh, nghiên cứu và quản lý khoa học kỹ thuật
gắn với sản xuất kinh doanh.
Hiện nay, ở Việt Nam lực lượng công nhân trí thức chiếm khoảng
10,1% tổng số công nhân, có mặt trong một số ngành, lĩnh vực công nghệ cao:
công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ tự động hóa, công nghệ
laser, công nghệ vật liệu mới, công nghệ xây dựng cầu đường, trong đó có
ngành sản xuất điện thoại. với trình độ học vấn, chuyên môn cao; tư duy năng
động, sáng tạo; lĩnh vực hoạt động, cơ cấu ngành nghề đa dạng, phong phú.
Với đội ngũ trí thức thì có thể đảm nhận phần : nghiên cứu sản xuất
linh kiện, phần mềm, ứng dụng và chăm sóc khách hàng…

8



Phân tích lợi thế cạnh tranh của ngành sản xuất điện thoại di động ở Việt Nam dựa trên
mô hình kim cương của Micheal Porter – Nhóm 7

_

Đội ngũ công nhân lao động tự do
Như chúng ta đã biết ở Việt Nam có đội ngũ công nhân lao động tự do

rất cao. Họ có thể đáp ứng được nhu cầu của nhà tuyển dụng như : làm theo
giờ, theo ca, với tay nghề cao. Bên cạnh đó một số công nhân chưa đáp ứng
được tay nghề có thể được đào tạo them dưới hình thức kèm cặp , người tay
nghề cao kèm cho người thấp.
Với đội ngũ công nhân trên thì họ có thể đảm nhận vai trò gia công lắp
ráp thiết bị máy móc, phân phối trên thị trường.
Tóm lại ta có thể thấy, nguồn nhân lực ở VN vô cùng lớn, đáp ứng được
nhu cầu trong các ngành sản xuất công nghiệp hiện đại như : sản xuất điện
thoại mà chúng ta đang nói đến ở đây.
2.2 Điều kiện và tài nguyên
Khi chọn địa điểm đầu tư, nhà sản xuất hay những công ty đa quốc gia
sẽ chọn nơi nào có các điều kiện (lao động, đất đai,chính trị) cho phép họ phát
huy các lợi thế đặc thù nói trên. Những công ty đa quốc gia thường có lợi thế
lớn về vốn và công nghệ đầu tư ra các nước sẵn có nguồn nguyên liệu, giá
nhân công rẻ và thường là thị trường tiêu thụ tiềm năng... ta dễ dàng nhận ra
lợi ích của việc này!
Dễ dàng nhận thấy, một trong những điểm mạnh của Việt Nam là chính
trị ổn định. Các nhà đầu tư nước ngoài luôn mong muốn tìm kiếm một nơi đặt
nhà máy sản xuất của mình tương đối an toàn, nhằm tránh những tổn thất
không mong muốn do bất ổn chính trị gây ra.

Ngoài ra, với các chính sách ưu đãi đối với việc cho thuê đất hiện nay
của Việt Nam, các nhà đầu tư ít ngần ngại hơn trong việc đầu tư quy mô lớn ở
nước ta. Đặc biệt, đối với ngành sản xuất điện thoại di động, đòi hỏi diện tích
nhà xưởng tương đối lớn, giàu về nguồn tài nguyên đất đai nghiễm nhiên trở
thành một lợi thế đáng kể của Việt Nam.
Một trong số tập đoàn điện thoại lớn được đầu tư ở VIệt Nam : Việt
Nam sản xuất 60% điện thoại SamSung trên toàn cầu.
2.3 Nguồn vốn
9


Phân tích lợi thế cạnh tranh của ngành sản xuất điện thoại di động ở Việt Nam dựa trên
mô hình kim cương của Micheal Porter – Nhóm 7

Khi một doanh nghiệp muốn đầu tư vào VN thì họ cần phải xem xét đến
những chi phí về nguồn vốn sau đây:
Vốn tìm kiếm tài nguyên: Đây là các dòng vốn nhằm khai thác nguồn tài
nguyên thiên nhiên rẻ và dồi dào ở nước tiếp nhận, khai thác nguồn lao động
có thể kém về kỹ năng nhưng giá thấp hoặc khai thác nguồn lao động kỹ năng
dồi dào. Nguồn vốn loại này còn nhằm mục đích khai thác các tài sản sẵn có
thương hiệu ở nước tiếp nhận. Nó cũng còn nhằm khai thác các tài sản trí tuệ
của nước tiếp nhận. Ngoài ra, hình thức vốn này còn nhằm tranh giành các
nguồn tài nguyên chiến lược để khỏi lọt vào tay đối thủ cạnh tranh.
Vốn tìm kiếm thị trường: Đây là hình thức đầu tư nhằm mở rộng thị
trường hoặc giữ thị trường khỏi bị đối thủ cạnh tranh giành mất. Ngoài ra,
hình thức đầu tư này còn nhằm tận dụng các hiệp định hợp tác kinh tế giữa
nước tiếp nhận với các nước và khu vực khác, lấy nước tiếp nhận làm bàn
đạp để thâm nhập vào các thị trường khu vực và toàn cầu.
Vốn trong nước: ta có thể hiểu là vốn đầu tư phát triển từ ngân sách
Nhà nước, vốn tín dụng Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển

của Nhà nước và vốn đầu tư khác của Nhà nước. Trong tình hình kinh tế hiện
nay, lượng vốn trong nước của chúng ta không còn nhiều do phải huy động và
đầu tư vào những khoản viện trợ và các dự án bỏ dở. Vốn FDI: đầu tư phương
tiện hoạt động là hình thức FDI trong đó công ty mẹ đầu tư mua sắm và thiết
lập các phương tiện kinh doanh mới ở nước nhận đầu tư. Hình thức này làm
tăng khối lượng đầu vào.
Dễ nhận thấy, vốn trong nước của chúng ta hiện nay không đủ để đầu
tư phát triển ngành sản xuất ĐTDĐ. Do đó, phần lớn việc phát triển ngành
công nghiệp sản xuất này phụ thuộc chủ yếu vào vốn và công nghệ từ bên
ngoài; mà điển hình là từ tập đoàn SamSung. (Ngoài ra, việc bỏ ra chi phí tìm
kiếm tài nguyên và thị trường ở Việt Nam tương đối hợp lí. Điều này sẽ được
phân tích làm rõ cụ thể ở các phần sau).
Mỗi năm, Samsung Việt Nam sẽ cung ứng ra thị trường toàn cầu
khoảng 250 triệu điện thoại di động. Và lúc ấy, Việt Nam thực sự trở thành

10


Phân tích lợi thế cạnh tranh của ngành sản xuất điện thoại di động ở Việt Nam dựa trên
mô hình kim cương của Micheal Porter – Nhóm 7

trung tâm sản xuất điện thoại của thế giới. Đó là sự chuyển đổi quan trọng
của dòng vốn FDI. Nếu Tập đoàn Samsung vẫn giữ sản lượng điện thoại bán
ra một năm hiện nay khoảng 400 triệu sản phẩm, có nghĩa, chỉ riêng ở Việt
Nam đã sản xuất khoảng 60% sản lượng điện thoại của nhà sản xuất điện
thoại lớn nhất thế giới. Và lúc ấy, Việt Nam thực sự trở thành trung tâm sản
xuất điện thoại của thế giới, điều này chưa bao giờ chúng ta có được. Tuy
nhiên, cơ hội lần đầu tiên được nhìn nhận không phải chỉ ở khoản vốn lớn,
hay ở khả năng thúc đẩy xuất khẩu, giải quyết việc làm trong các dự án FDI,
mà là ở những dự án có khả năng tác động tích cực tới quá trình tái cấu trúc

nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng.

Dự án Nhà máy Sản xuất vi mạch và linh kiện điện tử cho điện thoại di động
Samsung tại Tổ hợp công nghệ cao Samsung Thái Nguyên

Trường hợp của Samsung chỉ là một ví dụ điển hình, cho dù khía cạnh
tích cực khác của dự án này chính là góp phần tạo lập ngành công nghiệp hỗ
trợ cho lĩnh vực điện tử và tạo cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam tham gia
chuỗi giá trị toàn cầu của các tập đoàn lớn.

11


Phân tích lợi thế cạnh tranh của ngành sản xuất điện thoại di động ở Việt Nam dựa trên
mô hình kim cương của Micheal Porter – Nhóm 7

Nhà máy Samsung Việt Nam tại Bắc Ninh

Bên cạnh đó các nhà máy của Samsung đã tạo ra 38 nghìn việc làm và
trong hai năm tới, sẽ là khoảng năm, sáu vạn việc làm, với thu nhập bình
quân 6 triệu đồng/người/tháng, trong đó có mấy nghìn kỹ sư, nhà quản trị
cấp cao.
Tập đoàn Samsung đánh giá rằng lao động Việt Nam thông minh, khéo
tay, và học rất nhanh. Samsung cho rằng năng suất lao động của họ bằng
80% so với công nhân ở Hàn Quốc, trong khi chi phí lao động chỉ bằng 10%.
Đó là lý do Samsung xây dựng thêm một nhà máy lắp ráp điện thoại Galaxy
thứ hai ở Thái Nguyên với số
vốn 1,2 tỷ đôla”.

Công nhân tại Nhà máy SamSung


2.4 Cơ sở hạ tầng ở VN
Cơ sở hạ tầng có thể được hiểu là hệ thống giao thông vận tải - đường
bộ, đường sông, đường biển, đường sắt, đường hàng không, đường ống; Hệ
12


Phân tích lợi thế cạnh tranh của ngành sản xuất điện thoại di động ở Việt Nam dựa trên
mô hình kim cương của Micheal Porter – Nhóm 7

thống liên lạc viễn thông, hệ thống cung cấp năng lượng, nước, v.v… Hệ thống
cơ sở hạ tầng hiện đại có một tầm quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển
của mọi nền kinh tế, vì nó đảm bảo vận tải nhanh chóng với chi phí thấp, đảm
bảo các quan hệ liên lạc thông suốt kịp thời, cung cấp đủ điện nước cho toàn
bộ hoạt động của nền kinh tế đất nước… Chính vì tầm quan trọng như vậy,
nên các quốcgia phát triển đã ngay từ đầu ưu tiên xây dựng cơ sở hạ tầng
hiện đại trong một thời gian ngắn 20-30 năm, tạo ra những tiền đề cho sự bứt
phá phát triển. từ thực tế, chúng ta có thể rút ra một số điểm mạnh của cơ sở
hạ tầng ở VN như sau:
_ Quy hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng phải được xem trọng trước hết: công

tác quy hoạch ở VN được giải quyết khá nhanh, tạo mọi điều kiện thuận
lợi cho chủ đầu tư đến thuê mặt bằng đạt tại VN. Cũng chính vì vậy mà
một số tập đoàn đt lớn trên thế giới đã đặt trụ sở lắp ráp tại VN trong
thời gian gần đây.
_ Xây dựng cơ sở hạ tầng phải ưu tiên tập trung trước hết ở hai tuyến

phát triển kinh tế trọng điểm quan trọng nhất như là : Sài Gòn, Hà
Nội…. hoặc những vùng có đất đai rộng rãi phong phú, nhân lực dồi dào
như: Thái Nguyên, Vũng Áng ( Kỳ Anh)…..

_ Nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng

trên các phương diện:



Xây dựng quy hoạch phát triển, giải phóng mặt bằng
Trong một số lĩnh vực cơ sở hạ tầng, Nhà nước có vai trò độc quyền,
nhưng nhà nước phải vận hành theo các nguyên tắc của thị trường,
chẳng hạn định giá điện, giá nước, giávé máy bay, v.v… phải theo thị
trường – có thể lấy giá thị trường khu vực làm chuẩn để điều chỉnh
phù hợp.

13


Phân tích lợi thế cạnh tranh của ngành sản xuất điện thoại di động ở Việt Nam dựa trên
mô hình kim cương của Micheal Porter – Nhóm 7



Hệ thống giao thông đường bộ, đường không, đường thủy thuận
tiện. điều này sẽ làm cho sự vận chuyện , lưu thông hàng hóa được
nhanh chóng và phù hợp.

Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng điều kiện về tài nguyên đất đai và
cơ sở hạ tầng ở Việt Nam là vô cùng phong phú, dễ dang đăng ký sử dụng ,
thuận tiện trong việc trao đổi hàng hóa và buôn bán xuất nhập khẩu.
3. Điều kiện về cầu:
3.1Cầu trong nước:

Có thể thấy với sự hội nhập mở cửa, Việt Nam đã có được sự phát triển
lớn mạnh về 1 trong những ngành nhiều tiềm năng như CNTT mà trong đó có
ngành sản xuất điện thoại di động. Việt Nam đã và đang cố gắng cập nhật
công nghệ để không chỉ lắp ráp mà còn sản xuất được điện thoại di động. Để
làm được điều đó thì cần nhiều yếu tố nhưng lợi thế lớn của chúng ta là một
lượng cầu dồi dào, phong phú từ trong nước. Dân số Việt Nam tính đến
1/4/2011 là 87.610.947 người, tới tháng 11/2013 Việt Nam đã cán mốc 90
triệu người. Theo số liệu năm 2011 thì cơ cấu dân số Việt Nam thuộc nhóm
“cơ cấu dân số trẻ”

Tháp dân số Việt Nam
theo độ tuổi và giới tính,
năm 2011
(theo nguồn Điều tra biến
động dân số-kế hoạch
hóa gia đình 4/2011,
Tổng cục Thống kê)

Chính vì cơ cấu dân số trẻ như vậy Việt Nam có xu hướng nhanh nắm
bắt, nhanh cập nhật và thích ứng với sự phát triển chóng mặt của công nghệ
14


Phân tích lợi thế cạnh tranh của ngành sản xuất điện thoại di động ở Việt Nam dựa trên
mô hình kim cương của Micheal Porter – Nhóm 7

thông tin ngày nay. Đó cũng là một trong những lợi thế của chúng ta trong sự
phát triển các ngành công nghệ thông tin nói chung và ngành sản xuất điện
thoại nói riêng.
Điện thoại di động ngày nay đã không còn xa lạ gì với người dân Việt

Nam. Một chiếc điện thoại đối với cá nhân hiện nay có vai trò rất quan trọng
bởi nó là cầu nối của cá nhân đó tới thế giới xung quanh, dù chỉ là nghe, gọi
hay gửi tin nhắn. Đó đều là những nhu cầu thiết yếu hiện nay bởi nếu không
có điện thoại, con người rất khó trao đổi thông tin, nhất là những lúc cấp
bách. Thêm vào đó, điện thoại di động đã trải qua hơn 40 năm phát triển kể
từ chiếc điện thoại đầu tiên ra đời vào năm 1973, nó đã được cải tiến thành
một công cụ thông minh với vô vàn những tính năng như: nghe nhạc, xem
phim, chụp ảnh, quay video, giải trí, định vị tìm đường, tìm kiếm thông
tin….Với lợi thế ưu việt là nhỏ gọn và tích hợp nhiều tính năng, điện thoại di
động ngày càng chiếm được nhiều ưu ái của thị trường. “Theo công ty nghiên
cứu thị trường GfK Việt Nam, ước tính trong năm 2013,Việt Nam tiêu thụ
khoảng 17 triệu chiếc điện thoại di động, mỗi năm người Việt Nam chi trả
hơn 1 tỷ USD cho việc mua sắm điện thoại di động.” Ngay cả khi nền kinh tế
khó khăn hay lạm phát thì thị trường điện thoại di động vẫn có lượng tiêu thụ
không nhỏ. “Năm 2013, tốc độ tăng trưởng của thị trường smartphone tại
Việt Nam đạt 156% so với cùng kỳ năm 2012, đứng đầu khu vực Đông Nam
Á.”
Lợi thế tiêu thụ điện thoại di động của Việt Nam là phần lớn dân số trẻ,
thích ứng nhanh với công nghệ hiện đại, nhưng cùng với điều đó, thì điện
thoại di động hiện nay cũng đã được hầu hết các đối tượng sử dụng theo
nhiều độ tuổi, giới tính hay nghề nghiệp. Bởi có sự dao động linh hoạt về giá
cả phù hợp với các chức năng của sản phẩm và có một số dòng điện thoại còn
thiết kế cho những mục đích cụ thể phù hợp với người dùng như khả năng
quay phim chụp ảnh gần như máy chuyên dụng…. Về độ tuổi thì ngày nay

15


Phân tích lợi thế cạnh tranh của ngành sản xuất điện thoại di động ở Việt Nam dựa trên
mô hình kim cương của Micheal Porter – Nhóm 7


người gia hay trẻ em cũng đều ít nhiều đã sở hữu 1 chiếc điện thoại di động
đơn giản phục vụ nhu cầu liên lạc. Hơn nữa, với 2 độ tuổi này thì nhu cầu liên
lạc là thực sự quan trọng bởi nhiều trường hợp có thể xảy ra như đi lạc…. Về
nghề nghiệp thì những người công nhân, buôn bán, những người có mức thu
nhập không cao cũng có thể có được chiếc điện thoại với giá thành hợp lý và
đáp ứng đủ nhu cầu. Hay thậm chí về các vùng miền, không chỉ thành phố mà
cả nông thôn, vùng miền núi cũng đã cập nhật sự tiện lợi và ưu việt của điện
thoại di động. Chính vì thế mà lượng người tiêu dùng tăng lên rất nhiều, thể
hiện tiềm năng lớn cho Việt Nam.
Vì “phủ sóng” một lượng người tiêu dùng rộng rãi trên nhiều vùng
miền, độ tuổi, nghề nghiệp nên điện thoại di động nếu sản xuất ra cũng cần có
sự nhanh nhạy trong đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng. Hiện nay trên thị
trường chúng ta có rất nhiều các đời máy với nhiều mẫu mã, tính năng khác
nhau và mỗi loại lại thu hút nhóm khách hàng khác nhau. Sự đa dạng về đối
tượng sử dụng dẫn đến sự cần thiết về đa dạng sản phẩm. Đây vừa là điều có
lợi, vừa là khó khăn đối với Việt Nam khi sản xuất. Lợi vì nếu sản xuất được
đa dạng sản phẩm tốt thì chúng ta sẽ có sự ủng hộ lớn từ thị trường trong
nước. Khó khăn vì với nội lực của Việt Nam, mới bắt đầu tham gia sản xuất
thì cũng không dễ để sản xuất được đa dạng sản phẩm ngay được. Điều này
có thể được coi là lợi thế trong tương lai xa.
3.2Cầu ngoài nước:
Lượng tiêu thụ điện thoại di động trên thế giới rất lớn và vẫn luôn giữ được
“nhiệt” đặc biệt là dòng điện thoại thông minh. Dự tính của IDC tới năm 2017,
dòng điện thoại thông minh sẽ vẫn phát triển nhanh và tăng dần lượng tiêu
thụ.

16



Phân tích lợi thế cạnh tranh của ngành sản xuất điện thoại di động ở Việt Nam dựa trên
mô hình kim cương của Micheal Porter – Nhóm 7

Dự đoán lượng điện thoại di động toàn cầu tới năm 2017 (nguồn IDC)

Còn dưới đây là lượng ĐTDĐ xuất xưởng trên toàn cầu tính theo hệ điều
hành,

số

liệu năm

2012



dự

năm 2016

Lượng ĐTDĐ xuất xưởng toàn cầu tính theo hệ điều hành. Nguồn IDC

17

báo


Phân tích lợi thế cạnh tranh của ngành sản xuất điện thoại di động ở Việt Nam dựa trên
mô hình kim cương của Micheal Porter – Nhóm 7


Trên thế giới, có thể nói lượng tiêu thụ điện thoại di động là vô cùng lớn
bởi sự phát triển nhanh của các nước, nhu cầu của họ cũng nhiều hơn chỉ
nghe và gọi, điện thoại đối với họ được sử dụng gần như hết công suất như để
làm định vị, nghe gọi điều khiển và tham gia các cuộc họp, trao đổi thông tin
công việc nhanh gọn…. Chính vì vậy mà dòng điện thoại thông minh rất được
ưa chuộng. Hiện tại thì Samsung và Nokia cũng là những thương hiệu đang
thống trị thị trường điện thoại di động, được nhiều nơi trên thế giới ưa thích.
Theo như hình 2 thì hệ điều hành Android, IOS và Windows sẽ còn tiếp tục
được ủng hộ thậm chí IDC còn cho biết rằng nhiều khả năng tới năm 2016
Windows sẽ phát triển nhanh hơn Android. Đó đều là những hệ điều hành mà
Samsung và Nokia sử dụng. Thêm vào đó, có sự cạnh tranh vô cùng lớn từ
nhiều hang khác trên thế giới, 2 hãng trên luôn nỗ lực đổi mới để cho ra
những sản phẩm ngày càng ưu việt hơn, sẽ được lòng nhiều thị trường hơn
nữa.
Sở dĩ chúng ta quan tâm nhiều tới thị hiếu người tiêu dùng nước ngoài
đối với hai hãng trên bởi trước hết, đó là hai hãng đã đặt nhà máy sản xuất
tại Việt Nam. Tháng 3.2014, Samsung sẽ khai trương nhà máy sản xuất điện
thoại di động lớn nhất trên thế giới tại tỉnh Thái Nguyên - miền Bắc Việt Nam.
Samsung đã đầu tư vào đây 2 tỉ USD và hy vọng cơ sở này sẽ sản xuất tới 120
triệu điện thoại mỗi năm. Trước đó, Samsung đã xây dựng một nhà máy
khổng lồ ở tỉnh Bắc Ninh. Tham vọng của tập đoàn là vào năm 2015, khoảng
40% tổng số điện thoại di động Samsung sẽ được sản xuất tại Việt Nam. Một
số nhà phân tích cho rằng, trong một tương lai gần, tỉ lệ này có thể lên tới
60%, thậm chí 70%. Từ năm ngoái, các nhà máy điện tử xuất khẩu nhiều hơn
các cơ sở gia công hàng dệt-may. Theo số liệu của hải quan Việt Nam, trong
sáu tháng đầu năm 2013, xuất khẩu điện thoại di động của Samsung đã tăng
gấp đôi, tính theo tỉ lệ cả nămvà đạt mức 10 tỉ USD. Tuy nhiên, việc Việt Nam
sẽ trở thành người khổng lồ trong lĩnh vực điện thoại di động không chỉ nhờ

18



Phân tích lợi thế cạnh tranh của ngành sản xuất điện thoại di động ở Việt Nam dựa trên
mô hình kim cương của Micheal Porter – Nhóm 7

vào mỗi các đầu tư của Samsung. Tháng 10.2013, Nokia cũng đã khánh thành
một nhà máy ở tỉnh Bắc Ninh, sản xuất điện thoại di động N105. Sản phẩm
bình dân này nhắm tới thị trường các nước đang trỗi dậy: 95% sản lượng của
Nhà máy Nokia tại Bắc Ninh sẽ được xuất khẩu. Như vậy khi Việt Nam phát
triển ngành sản xuất điện thoại di động thì cầu đối với mặt hàng này không
chỉ ở trong nước mà còn ở nước ngoài vì các nhà máy của Samsung, Nokia
đặt tại Việt Nam sẽ sản xuất chủ yếu để xuất khẩu sang các nước khác. Chính
vì những tiềm năng từ thị trường nước ngoài và nội lực của hai hãng lớn này,
Việt Nam có quyền hi vọng sẽ phát triển được ngành sản xuất điện thoại di
động lớn mạnh hơn trong tương lai.
4. Các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan
4.1

Khái quát chung về ngành công nghiệp phụ trợ

Trước khi phân tích về ngành công nghiệp phụ trợ của sản xuất điện
thoại di động, ta cùng làm rõ về khái niệm công nghiệp phụ trợ. Kể từ khi
thuật ngữ “Công nghiệp phụ trợ” được nhắc đến trong Sáng kiến chung Việt
Nam - Nhật Bản, chính thức thông qua vào năm 2003, nhằm nâng cao tính
cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong việc thu hút dòng vốn FDI, người
ta mới bàn luận nhiều về ngành công nghiệp này. Tuy vậy, khái niệm về công
nghiệp phụ trợ vẫn còn mơ hồ, thậm chí các cơ quan nhà nước hữu quan
cũng chưa thực sự hiểu rõ về bản chất của ngành công nghiệp phụ trợ. Thêm
vào đó, hiện nay trong hệ thống luật pháp vẫn chưa có định nghĩa chính xác
về công nghiệp phụ trợ.

Như vậy, khái niệm về công nghiệp hỗ trợ chỉ có tính ương đối, tùy
thuộc vào cấu trúc của sản xuất, the nghĩ ộng có thể hiểu là tất cả các ngành
công nghiệp sản xuất đầu vào. Công nghiệp phụ trợ (supporting industries) là
khái niệm chỉ toàn bộ những sản phẩm công nghiệp có vai trò hỗ trợ cho việc
sản xuất các thành phẩm chính. Cụ thể là những linh kiện, phụ liệu, phụ tùng,

19


Phân tích lợi thế cạnh tranh của ngành sản xuất điện thoại di động ở Việt Nam dựa trên
mô hình kim cương của Micheal Porter – Nhóm 7

sản phẩm bao bì, nguyên liệu để sơn, nhuộm, v.v., và cũng có thể bao gồm cả
những sản phẩm trung gian, những nguyên liệu sơ chế.
* Tầm quan trọng của các ngành hỗ trợ và liên quan.
Việt Nam là một thị trường giàu tiềm năng trong việc sản xuất cung
ứng và phân phối điện thoại di động. Các doanh nghiệp trong nước đã đầu tư
những khoản tiền lên đến hàng tỷ USD vào lĩnh vực này. Tính đến tháng
15/10/2012, theo số liệu của Tổng cục Hải quan cho thấy Việt Nam đã chi 3,7
tỷ USD cho việc nhập khẩu các mặt hàng điện thoại di động và linh kiện.
Không chỉ có các công ty trong nước, các hãng điện thoại lớn trên thế giới
cũng thi nhau đầu tư FDI và xây dựng các nhà máy sản xuất tại các tỉnh của
nước ta. Ta có thể kể ra một số nhà máy như: Samsung ở Thái Nguyên, Nokia
ở Bắc Ninh,… Ngoài ra còn có các tập đoàn Intel, Foxconn, LG, Nidec cũng đã
tăng cường đầu tư vào Việt Nam.
Các công ty, tập đoàn lớn của nước ngoài đã thiết lập nhiều nhà máy
chế tạo và lắp ráp tại Việt Nam. Điều đó chứng tỏ họ kỳ vọng vào việc cắt
giảm chi phí vận chuyển và rủi ro, vì thế nó sẽ tạo cơ hội lớn cho các nhà cung
cấp phụ tùng trong nước phát triển sản xuất. Vì vậy mà, ngành công nghiệp
hỗ trợ của Việt Nam ngày càng phát triển và có vai trò quan trọng trong việc

tham gia vào chuỗi cung ứng cũng như chuỗi giá trị toàn cầu. Nếu ngành hỗ
trợ và liên quan phát triển thì sẽ thúc đẩy ngành đó phát triển nhanh hơn.
Theo tính toán của các chuyên gia đối với một số ngành thì giá trị gia tăng
trong sản xuất công nghiệp rơi vào công nghiệp phụ trợ tới 90-95% tuỳ theo
tính chất kỹ thuật ngành. Việc phát triển công nghiệp hỗ trợ được xem là một
trong những chính sách ưu tiên hàng đầu của Việt Nam nhằm thúc đẩy sự
phát triển của ngành công nghiệp, góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp
hóa – hiện đại hóa đất nước.
4.2

Các ngành hỗ trợ và liên quan của ngành sản xuất điện thoại

20


Phân tích lợi thế cạnh tranh của ngành sản xuất điện thoại di động ở Việt Nam dựa trên
mô hình kim cương của Micheal Porter – Nhóm 7

di động ở Việt nam


Khái quát chung về các ngành hỗ trợ và liên quan của ngành sản
xuất điện thoại di dộng.
Đối với ngành điện tử tin học nói chung và ngành sản xuất điện thoại di

động nói riêng, vốn đầu tư trong nước vào lĩnh vực điện tử tin học là rất ít,
chủ yếu là các doanh nghiệp FDI; cơ cấu sản phẩm cũng mất cân đối nghiêm
trọng khi mới chỉ dừng ở sản xuất sản phẩm dân dụng, thiếu nhiều sản phẩm
điện tử chuyên dụng (chỉ chiếm 10-12% cơ cấu hàng hóa của ngành) và công
nghệ lạc hậu, khả năng cạnh tranh thấp cũng như nguyên vật liệu đang phụ

thuộc phần lớn vào nhà cung cấp nước ngoài. Đặc biệt, Việt Nam hiện chưa có
một cơ sở sản xuất công nghiệp nào tham gia vào việc sản xuất vật liệu điện
tử.
Tính chung trong 11 tháng đầu năm 2012, trị giá nhập khẩu máy tính,
sản phẩm điện tử và linh kiện vào Việt Nam lên tới gần 11,9 tỷ USD, tăng
71,8% so với cùng kỳ năm ngoái, trong khi kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 6,98
tỷ USD, tăng 69% so với cùng kỳ năm ngoái.

Biểu đồ kim ngạch nhập khẩu máy vi tính sản phẩm điện tử & linh kiện theo tháng

21


Phân tích lợi thế cạnh tranh của ngành sản xuất điện thoại di động ở Việt Nam dựa trên
mô hình kim cương của Micheal Porter – Nhóm 7

năm 2010-2011 và 11 tháng năm 2012 (Nguồn: Tổng cục Hải quan)

Cũng trong 11 tháng đầu năm, kim ngạch nhập khẩu điện thoại và linh
kiện đạt tới 4,48 tỷ USD, tăng 84,7% so với cùng kỳ năm ngoái, trong khi kim
ngạch xuất khẩu đạt 11,34 tỷ USD, tăng gấp đôi cùng kỳ năm 2011. Tuy nhiên,
phần lớn xuất khẩu vẫn nhờ vào các doanh nghiệp có vốn FDI.
Đặc biệt, đối với ngành sản xuất điện thoại di động, các ngành hỗ trợ và
liên quan ta có thể chia thành ra 2 nhóm chính: nhóm ngành hỗ trợ sản xuất
và nhóm ngành hỗ trợ cung ứng, phân phối. Ở nước ta hiện nay, các nhóm
ngành hỗ trợ này đang phát triển và hoàn thiện để đáp ứng nhu cầu trong
nước. Bây giờ, ta sẽ đi vào chi tiết sự phát triển của 2 nhóm ngành này.




Sự phát triển của công nghiệp hỗ trợ sản xuất linh kiện phục vụ
ngành sản xuất điện thoại di động ở Việt Nam.
Ở nhóm ngành hỗ trợ sản xuất, Việt Nam vẫn còn đang phát triển khá

chậm và còn phụ thuộc nhiều vào các tập đoàn nước ngoài. Việt Nam hiện nay
mới chỉ phát triển nhanh nhóm ngành lắp ráp các thiết bị điện thoại di động
mà chưa phát triển được nhóm ngành chế tạo linh kiện thiết bị. Khả năng
cung ứng nguyên phụ liệu trong nước của ngành sản xuất điện thoại di động
là rất thấp. Về vấn đề này, ta có thể nêu ra một vài nguyên nhân sau:
_

Chúng ta chủ yếu phụ thuộc vào vốn và công nghệ của các tập đoàn

_
_

lớn về công nghệ di động như Nokia, Samsung, LG,…
Chúng ta cũng chủ yếu nhập khẩu các linh kiện từ nước ngoài.
Công nghệ sản xuất linh kiện rất phức tạp, vì vậy muốn sản xuất
được linh kiện sẽ cần lượng vốn lớn và công nghệ hiện đại. Nước ta

_

hiện nay vẫn chưa đủ tiềm lực để phát triển nó.
Ở Việt Nam, công nghiệp phụ trợ còn hết sức đơn giản, quy mô nhỏ
lẻ, chủ yếu sản xuất các linh kiện chi tiết giản đơn, giá trị gia tăng
thấp và có sự chênh lệch về năng lực phụ trợ giữa các doanh nghiệp

22



Phân tích lợi thế cạnh tranh của ngành sản xuất điện thoại di động ở Việt Nam dựa trên
mô hình kim cương của Micheal Porter – Nhóm 7

vừa và nhỏ nội địa của Việt Nam với các yêu cầu của các hãng sản
_

xuất toàn cầu.
Thực tế, khi Việt Nam gia nhập WTO, hàng rào thuế quan giảm
xuống và các chi tiết cùng linh kiện theo đó cũng được giảm thuế.
Chi phí trở nên rẻ hơn, do đó các nhà đầu tư lắp ráp thường đi tìm
mua các chi tiết linh kiện từ bên ngoài vào.

Đây là vấn đề nghiêm trọng, ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành
sản xuất điện thoại di động. Ông Trương Đình Tuyển (nguyên bộ trưởng Bộ
Công thương) nhận định: “Với tình trạng phải nhập khẩu linh kiện, phụ tùng
cho sản xuất công nghiệp như hiện nay thì nguy cơ các DN lắp ráp và sản xuất
sản phẩm cuối cùng có thể rút khỏi Việt Nam do không tìm được nguồn cung
cấp linh kiện, phụ tùng tại chỗ, nhất là khi sức ép về chi phí tiền lương tăng
lên. Cho nên, cần phải nhanh chóng phát triển công nghiệp phụ trợ”.
Việc phụ thuộc quá nhiều vào linh kiện nhập khẩu sẽ làm tăng chi phí
đầu vào do tiền chuyên chở, kho vận, bảo hiểm, chưa kể rủi ro về thời gian
nhận hàng làm ảnh hưởng đến tiến độ sản xuất, làm giảm sức cạnh tranh.
Hơn nữa, công nghiệp phụ trợ kém phát triển còn làm cho môi trường đầu tư
trở nên kém hấp dẫn, hạn chế việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI) từ
những nhà sản xuất lắp ráp, nhất là trong nhóm ngành máy móc, thiết bị tỷ lệ
chi phí cho linh, phụ kiện của nhóm ngành này thường chiếm tới ~70% trong
giá thành sản phẩm (cao hơn nhiều so với chi phí lao động vẫn được coi là
còn khá rẻ ở Việt Nam).




Sự phát triển của ngành hỗ trợ cung ứng và phân phối điện thoại
di động ở Việt Nam hiện nay.
Trái với ngành hỗ trợ sản xuất, nhóm ngành hỗ trợ cung ứng, phân

phối thì phát triển khá mạnh. Lĩnh vực phân phối và sản xuất các sản phẩm

23


Phân tích lợi thế cạnh tranh của ngành sản xuất điện thoại di động ở Việt Nam dựa trên
mô hình kim cương của Micheal Porter – Nhóm 7

công nghệ có doanh thu 16.270 tỷ đồng. Còn doanh số từ phân phối và sản
xuất nhóm sản phẩm ĐTDĐ là 9.387 tỷ đồng.Hiện nay nước ta có rất nhiều
các nhà phân phối điện thoại di động thị trường nội địa như FPT, Thế giới di
động, Nguyễn Kim, Petro Setco, Phước Lập mobile, Viễn thông A,… Tuy Việt
Nam có rất nhiều các nhà máy sản xuất điện thoại ở trong nước nhưng các
nhà phân phối trên chủ yếu là nhập khẩu điện thoại từ các nước khác rồi bán
ở trong nước. Sản phẩm điện thoại di động sản xuất và lắp ráp trong nước lại
chủ yếu dùng để xuất khẩu. Trong một bài viết của báo Les Echos (Pháp) đã
chỉ ra khối lượng hàng sản phẩm của Samsung chiếm 10% tổng xuất khẩu
của Việt Nam. Từ năm 2012, các nhà máy điện tử xuất khẩu nhiều hơn các cơ
sở gia công hàng dệt may. Theo số liệu của hải quan Việt Nam, trong 6 tháng
đầu năm 2013, xuất khẩu điện thoại di động của Samsung đã tăng gấp đôi,
tính theo tỷ lệ cả năm, và đạt mức 10 tỷ USD.
Chính vì sự phát triển khá mạnh của nhóm ngành phụ trợ này nên
trong thị trường phân phối và cung ứng điện thoại có sự cạnh tranh rất
mạnh. Các nhà phân phối liên tục đưa ra các chương trình khuyến mãi hấp

dẫn, giảm giá bán để cạnh tranh thị phần và thu hút người tiêu dùng. Sự cạnh
tranh không chỉ diễn ra ở mảng khách hàng mà còn diễn ra trong mảng phân
phối chính hãng các dòng điện thoại. Người tiêu dùng ở Việt Nam luôn có tâm
lý mua điện thoại di động rất thận trọng với danh tiếng của các nhà phân
phối, luôn muốn mua điện thoại chính hãng. Người tiêu dùng có thể chấp
nhận trả với giá cao hơn để mua các điện thoại chính hãng ở các nhà phân
phối có uy tín.
Ta có thể kể ra một số nhà phân phối chính hãng ở Việt Nam của một số
thương hiệu điện thoại nổi tiếng. Nokia chọn 3 nhà phân phối dỉ địa phương
là FPT (phân phối lại cho các nhà bán lẻ: Thế Giới Di động, Viễn Thông A,
Phước Lập Mobile); PetroSetco (phân phối lại cho Mai Nguyên, Nguyễn Kim...)
và Lucky (phụ trách phân phối khu vực miền Tây). Chuỗi cung ứng của

24


Phân tích lợi thế cạnh tranh của ngành sản xuất điện thoại di động ở Việt Nam dựa trên
mô hình kim cương của Micheal Porter – Nhóm 7

Samsung thì lại bao gồm Nguyễn Kim, Thế Giới Di Động, Phước Lập Mobile,
Mai Nguyên, Viễn Thông A và Khương Việt (nhà phân phối lẻ địa phương,
chịu trách nhiệm phân phối cho các đại lý nhỏ hơn). Trong khi Samsung đang
tiến đến việc “nội địa hóa” kênh phân phối, thì RIM, nhà sản xuất điện thoại
smartphone mang thương hiệu BlackBerry, lại đi theo hướng ngược lại với
việc chọn Brightstar trở thành nhà phân phối ủy quyền chính thức của
BlackBerry tại Việt Nam hồi tháng 10/2011. Còn đối với Iphone, Phân phối
chính hãng, nhà mạng và hàng xách tay. Ngoài kênh bán hàng trực tiếp đến
người tiêu dùng với hình thức kèm sim và các gói cước điện thoại tại hệ thống
cửa hàng của hai nhà mạng Vinaphone và Viettel, FPT Distribution đã được
Apple lựa chọn là đối tác phân phối điện thoại iPhone qua hệ thống các đại lí

bán lẻ. Sau đó, FPT Distribution lại phân phối cho các đại lý như: Thế Giới Di
Động, Mai Nguyên, FPT Retail, Phong Vũ, Chiến Hạnh (iOne), D&C Mobile,
Trần Anh và Media Mart.
Các nhà phân phối này không chỉ là kênh cung ứng các sản phẩm ra thị
trường phục vụ người tiêu dùng mà còn là nơi giúp các doanh nghiệp tiếp cận
được với thị trường và khách hàng giúp các nhà sản xuất nắm được thị hiếu,
nhu cầu của người mua. Dựa vào điều này, các doanh nghiệp sẽ có chiến lược
kinh doanh hiệu quả hơn, đánh trúng tâm lý người tiêu dùng để mang lại
doanh thu và lợi nhuận tốt hơn, nâng cao vị thế của các doanh nghiệp.
Từ đây, ta có thể khẳng định được vai trò quan trọng của nhóm ngành
hỗ trợ cung ứng phân phối. Nhóm ngành này có tác động là cầu nối trung
gian của các doanh nghiệp và khách hàng. Như ở Việt Nam, sự phát triển
mạnh của nhóm ngành này sẽ là một động lực quan trọng giúp các doanh
nghiệp sản xuất điện thoại di động nước ta mở rộng và phát triển.
Một số nhà phân phối điện thoại di động lớn ở Việt Nam:
_ Thế giới di động:

25


×