MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Xuất phát từ vai trò của giáo dục đạo đức và quản lý giáo dục đạo
đức trong việc nâng cao chất lượng đạo đức cho con người và học sinh
Trong xu thế hội nhập và phát triển, đất nước ta đã và đang có nhiều
chuyển biến mạnh mẽ và rõ nét. Việc đổi mới đường lối kinh tế - xã hội đã
đem lại sự phát triển toàn diện, mạnh mẽ và sâu sắc trong đời sống xã hội,
đồng thời kéo theo đó là hệ quả về sự biến đổi hệ thống định hướng giá trị
trong mỗi cá nhân con người. Bên cạnh việc hình thành những giá trị và phẩm
chất mới mang tính tích cực thì sự phát triển, mở cửa, hội nhập nền kinh tế thị
trường và sự phát triển về khoa học công nghệ với tốc độ như vũ bão cũng
làm nảy sinh những hiện tượng tiêu cực trong xã hội, ảnh hưởng đến đạo đức,
lối sống của một bộ phận dân cư nói chung, thế hệ trẻ hiện nay nói riêng.
Từ năm 2007, Bộ chính trị đã quyết định tổ chức cuộc vận động “Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong toàn Đảng, toàn dân,
ở tất cả các cấp các ngành, trong đó có giáo dục. Thực hiện phong trào thi đua
này không chỉ nhằm mục đích tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tu
dưỡng và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đẩy lùi sự suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống và các tệ nạn xã hội…mà còn thiết thực
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ trong
các trường phổ thông.
Ngày 15/04/2009, Bộ Chính trị đã đưa bảy định hướng phát triển giáo
dục và đào tạo, trong đó nhấn mạnh “Nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện, coi trọng nhân cách, đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên, mở rộng
quy mô giáo dục hợp lý. Theo đó, cần coi trong cả ba mặt dạy làm người, dạy
chữ, dạy nghề; đặc biệt chú ý giáo dục lý tưởng, phẩm chất đạo đức, lối sống,
lịch sử, truyền thống văn hóa dân tộc, giáo dục về Đảng…”.
4
Từ xưa đến nay, giáo dục luôn đóng vai trò quan trọng trong việc hình
thành và phát triển nhân cách công dân cho thế hệ trẻ. Đó cũng chính là mục
tiêu của việc phát triển sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo của Hệ thống giáo dục
quốc dân, của sự phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam hiện nay.
Học sinh trung học phổ thông là lứa tuổi đang được hình thành và phát
triển hoàn thiện về nhân cách. Những tác động từ môi trường bên ngoài dễ
dàng thâm nhập vào nhận thức của các em. Vì vậy, cần giáo dục thói quen
hành vi để trở thành những phẩm chất đạo đức tốt trong nhân cách các em.
Điều này phụ thuộc vào công tác quản lý giáo dục đạo đức của người hiệu
trưởng. Vì vậy nghiên cứu quản lý giáo dục đạo đức nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục đạo đức cho học sinh là vô cùng cần thiết.
1.2. Thực tế đạo đức học sinh, giáo dục đạo đức cho học sinh và công
tác quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường trung học phổ thông
quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội vẫn còn có các hạn chế bất cập
quận Hoàng Mai Hà Nội là một trong những Quận mới và cũng là một
trong những địa bàn có tốc độ phát triển kinh tế - xã hội mạnh của Thành phố
hiện nay. Học sinh trung học phổ thông là đối tượng rất dễ tiếp thu những mặt
tích cực nhưng cũng dễ bị ảnh hưởng những mặt tiêu cực đang xảy ra trong cơ
chế thị trường và quá trình hội nhập quốc tế. Những biểu hiện như: bỏ học,
đánh nhau, dối trá, lười, sống hưởng thụ, ích kỉ,…trong lối sống của học sinh
ngày càng gia tăng đang ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện mục tiêu giảo
dục của nhà trường.
Đứng trước tình trạng xuống cấp về đạo đức của một bộ phận học sinh
trung học phổ thông đang diễn ra ngày càng nghiêm trọng, các nhà quản lí
giáo dục cần nhận thức sâu sắc về vấn đề này, đặc biệt là cần đi sâu nghiên
cứu tìm tòi biện pháp quản lí nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho
học sinh trung học phổ thông trên địa bàn quận Hoàng Mai.
Xuất phát từ những lý do trên, đề tài: “Quản lí giáo dục đạo đức cho
học sinh các trường trung học phổ thông quận Hoàng Mai, Thành phố Hà
5
Nội”được lựa chọn nghiên cứu nhằm mục đích nâng cao chất lượng hoạt
động giáo dục đạo đức và hành vi đạo đức hành vi trung học phổ thông thành
phố Hà Nội.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và khảo sát thực trạng giáo dục đạo đức
giáo dục đạo đức đề xuất biện pháp quản lí giáo dục đạo đức cho học sinh các
trường trung học phổ thông trên địa bàn quận Hoàng Mai nhằm góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của các trường trung học phổ thông
trên địa bàn Quận.
3. Khách thể nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động giáo dục đạo đức học sinh tại các trường trung học phổ thông
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh các trường THCS quận Hoàng
Mai, Thành phố Hà Nội.
4. Giả thuyết khoa học
Việc quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông ở
quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội đã đạt được những kết quả nhất định, tuy
nhiên vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Nếu phân tích rõ cơ sở lý luận, thực
trạng quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh các trường trung học phổ thông
của quận thì sẽ đề ra được biện pháp quản lý giáo dục đạo đức phù hợp với
thực tiễn của quận và áp dụng các biện pháp quản lý giáo dục đạo đức có thể
nâng cao được chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh đáp ứng mục tiêu
giáo dục đã đề ra.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Xác định cơ sở lý luận về quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh
trung học phổ thông
5.2. Phân tích, đánh giá thực trạng giáo dục đạo đức và quản lý giáo
dục đạo đức cho học sinh các trường trung học phổ thông quận Hoàng Mai,
Thành phố Hà Nội
6
5.3. Đề xuất một số biện pháp quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh
các trường trung học phổ thông quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội.
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
6.2. Giới hạn về đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh của Hiệu
trưởng trường trung học phổ thông Công lập.
6.2. Giới hạn khách thể khảo sát
Nhóm 1: Cán bộ quản lý
Nhóm 2: Giáo viên trung học phổ thông
Nhóm 3: Học sinh trung học phổ thông
6.3. Địa bàn khảo sát
Các trường trung học phổ thông Công lập quận Hoàng Mai, Thành phố
Hà Nội:
Trường trung học phổ thông Hoàng Văn Thụ; Trường trung học phổ
thông Trương Định; Trường trung học phổ thông Việt Ba; Trường trung học
phổ thông Ngô Thì Nhậm; Trường trung học phổ thông Ngọc Hồi
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Tiến hành sưu tầm các văn kiện, tài liệu lý luận, sách, báo, tạp chí,
nguồn internet, thư viện số, nhà sách,…các công trình liên quan đến quản lý
giáo dục, quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh. Từ đó, tiến hành phân tích,
so sánh, tổng hợp, hệ thống nhằm xây dựng thành cơ sở lý luận.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
Tiến hành xây dựng ba phiếu hỏi dành cho ba đối tượng là cán bộ quản
lý, giáo viên và học sinh nhằm thu thập những thông tin cần thiết phục vụ cho
việc phân tích và đánh giá thực trạng vấn đề nghiên cứu.
Mẫu 1: Khảo sát thực trang đạo đức và giáo dục đạo đức học sinh trung
học phổ thông
Mẫu 2. Khảo sát thực trạng quản lý giáo dục đạo đức học sinh và các
yếu tố ảnh hưởng đến quản lý giáo dục đạo đức học sinh trung học phổ thông.
Mẫu 3. Khảo nghiệm về nhận thức tính cần thiết, khả thi các biện pháp
quản lý giáo dục đạo đức.
7
7.2.2. Phương pháp phỏng vấn
Tiến hành phỏng vấn sâu đối với một số cán bộ quản lý, giáo viên và học sinh
ở một số trường trung học phổ thông trên địa bàn quận Hoàng Mai, Thành phố Hà
Nội để làm rõ hơn những kết quả thu được qua phiếu hỏi, đồng thời bổ sung thêm
những thông tin cần thiết phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài.
7.2.3. Phương pháp quan sát
Tiến hành một số quan sát sư phạm nhằm thu thập thông tin cho việc
phân tích thực trạng về hoạt động quản lý giáo dục đạo đức học sinh tại một số
trường trung học phổ thông trên địa bàn quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội.
7.2.4. Phương pháp chuyên gia
Tiến hành xin ý kiến của các chuyên gia trong nghiên cứu cơ sở lý luận,
xây dựng bộ phiếu khảo sát thực trạng và đề xuất các biện pháp quản lý giáo dục
đạo đức cho học sinh các trường trung học phổ thông quận Hoàng Mai, Thành
phố Hà Nội.
7.3. Phương pháp toán thống kê
Sử dụng các công thức toán thống kê như tính điểm trung bình, tần
suất, hệ số tương quan... để xử lý kết quả nghiên cứu, định lượng trên cơ sở
đó rút ra các nhận xét khoa học mang tính khái quát về giáo dục đạo đức và
quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo,
phụ lục, luận văn gồm ba chương sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lí giáo dục đạo đức cho học sinh
trung học phổ thông
Chương 2: Thực trạng quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh các trường
trung học phổ thông quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội
Chương 3: Biện pháp quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trung học
phổ thông quận Hoàng Mai
8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÍ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Các nghiên cứu về giáo đục đạo đức và quản lý giáo đục đạo
đức trong các tác phẩm khoa học
Đạo đức có vai trò quan trọng trong đời sống của con người và trong xã
hội. Đạo đức hướng con người tới chân , thiện, mỹ, chống lại cái giả dối, cái
ác, cái xấu. Đạo đức góp phần giữ vững ổn định chính trị xã hội và thúc đẩy
kinh tế - xã hội phát triển. Do vậy, giáo dục đạo đức luôn là vấn đề được đặc
biệt quan tâm trong mọi thời đại, mọi thể chế chính trị.
Ở phương Đông, Khổng Tử (551 - 479 TCN) trong các tác phẩm “Dịch,
Thi, Thư, Lễ, Nhạc Xuân Thu” đã rất xem trọng việc giáo dục đạo đức cho con
người. Ông coi Nhân là gốc rễ của các đức khác và các đức tụ ở cả Nhân.
Ở phương Tây, nhà triết học Socrat (470 - 399 TCN) đã cho rằng đạo
đức và sự hiểu biết quy định lẫn nhau, có được đạo đức là nhờ sự hiểu biết,
chỉ sau khi có hiểu biết mới trở thành có đạo đức. Vì vậy, giáo dục con người
chủ yếu là phải giáo dục đạo đức.
Aristoste (384 - 322 TCN) khẳng định: Phải giáo dục con người về đạo
đức để phát triển ý chí, giảng dạy văn hóa để phát triển lý trí, giảng dạy thể
dục thể thao để phát triển thể lực; tương ứng ở nhà trường phải thực hiện đức
dục, trí dục và thể dục.
Học thuyết Mác -Lênin khẳng định: Đạo đức là một hình thái ý thức xã
hội có nguồn gốc từ lao động sản xuất và đời sống cộng đồng xã hội; nó phản
ánh và chịu sự chi phối của tồn tại xã hội. Đạo đức mang tính lịch sử, tính giai
cấp và tính dân tộc. Nhà trường mọi chế độ đều giáo dục đạo đức cho học sinh.
I.A.Komenxki (1592 - 1670) đã đúc kết “Một số qui tắc trong ứng xử”
để giảng dạy cho thanh thiếu niên. Ông đặc biệt quan tâm đến phương pháp
nêu gương trong giáo dục đạo đức cho học sinh.
9
Ở Việt Nam, từ xa xưa chữ Đức luôn được coi trọng, tạo nên truyền
thống yêu nước, nhân đạo, nhân ái, thủy chung, tương thân tương ái của dân
tộc. Tiếp thu tinh hoa của cho ông và quan điểm đạo đức Mác -Lênin, Chủ
tịch Hồ Chí Minh làm một cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức. Người gọi
đó là đạo đức mới, đạo đức cách mạng. Bác khẳng định “đạo đức là nguồn
nuôi dưỡng và phát triển con người, cũng như sông có nguồn thì mới có nước,
không có nước thì sông sẽ cạn”[20]. Theo Bác “Người có bốn đức: cần - kiệm
- liêm - chính….thiếu một đức thì không thành người”[20]. Người cũng lưu ý:
“Đạo đức cách mạng không phải trên trời rơi xuống mà do đấu tranh, rèn
luyện bền bỉ hàng ngày mà có, cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng
càng luyện càng trong”[20]. Vì vậy, trong nhà trường phải dạy cho thanh
thiếu niên biết “Yêu tổ quốc, yêu đồng bào; học tập tốt, lao động tốt, kỷ luật
tốt; giữ gìn vệ sinh thật tốt; khiêm tốn, thật thà dũng cảm”.
Kế thừa tư tưởng của Hồ Chí Minh, ở nước ta đã có nhiều tác giả nghiên
cứu về đạo đức và giáo dục đạo đức như Đặng Vũ Hoạt, Phạm Minh Hạc, Hà
Thế Ngữ, Phạm Khắc Chương, Hà Nhật Thăng, Đặng Quốc Bảo,…Các tác
phẩm đề cập sâu về các phạm trù đạo đức, các vấn đề giáo dục đạo đức và đề
xuất một số phương pháp giảng dạy và giáo dục đạo đức cho học sinh trong
nhà trường phổ thông, xây dựng con người mới XHXN; còn quản lý hoạt đông
giáo dục đạo đức cho học sinh được đề cập rất sơ lược, chủ yếu là lồng ghép
trong các phương pháp giảng dạy và giáo dục đạo đức cho học sinh.
1.1.2. Các nghiên cứu về quản lý giáo dục đạo đức
Trong lĩnh vực quản lý giáo dục đã có một số công trình ở cấp độ thạc
sĩ nghiên cứu thực tiễn công tác quản lý giáo dục đạo đức ở các cấp học trên
các địa bàn khác nhau trong cả nước. Có thể kể ra một số công trình:
- Nguyễn Anh Tú (2011), Biện pháp tổ chức quản lý hoạt động giáo
dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình,
Luận văn thạc sĩ Quản lý giáo dục, trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
10
- Đặng Trần Hiếu (2012),Biện pháp quản lý giáo dục đạo đức cho học
sinh của trường trung học phổ thông Yên Viên, Gia Lâm, Hà Nội, luận văn
thạc sỹ quản lý giáo dục, Đại học giáo dục.
- Dương Thị Hòa (2014), Quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh các
trường THCS Quận Kiến An, thành phố Hải Phòng, luận văn thạc sỹ quản lý
giáo dục, Đại học sư phạm Hà Nội.
- Nguyễn Ngọc Quang (2014), Quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh
các trường trung học phổ thông huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh theo chuẩn
đầu ra về phẩm chất đạo đức của chương trình giáo dục phổ thông, luận văn
thạc sỹ quản lý giáo dục, trường Đại học sư phạm Hà Nội.
Nhận xét: Đã có nhiều công trình nghiên cứu về quản lý giáo dục đạo
đức cho học sinh trung học phổ thông ở các địa bàn khác nhau trong cả nước
nhưng trên địa bàn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội hiện tại chưa có một
công trình nghiên cứu nào mặc dù thực tiễn hành vi đạo đức của học sinh
trung học phổ thông và công tác giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường
trung học phổ thông quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội đòi hỏi cần thiết
phải có các nghiên cứu thực tiễn ở góc độ quản lý để trên cơ sở đó đề xuất các
biện pháp quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh của hiệu trưởng. Với mục
đích trên đề tài “Quản lý giáo đục đạo đức cho học sinh trường trung học phổ
thông quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội” được tiến hành nghiên cứu.
1.2. Đạo đức, giáo dục đạo đức và quản lí giáo dục đạo đức
1.2.1. Khái niệm đạo đức, chuẩn mực đạo đức
1.2.1.1. Khái niệm đạo đức
Đạo đức là một phạm trù xuất hiện từ xa xưa, nó đồng nghĩa với “luân
lý”, hay còn là chuẩn mực hành vi được xã hội quy định, được mọi người
thừa nhận và tự giác thực hiện. Theo thời gian, luân lý trở thành truyền thống
trong đạo lý ứng xử của con người với những người xung quanh. Cuộc sống
trong mối quan hệ phức tạp giữa người với người, giữa người với thế giới
11
xung quanh đòi hỏi chính con người chúng ta phải có ý thức về ý nghĩa, mục
đích hoạt động của mình trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Vậy đạo đức là gì? Sau đây là một số định nghĩa về “Đạo đức” được
tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau:
Tiếp cận vấn đề dưới góc độ xã hội tác giả Trần Hậu Kiểm cho rằng:
“Đạo đức là một hình thái ý thức sớm nhất của xã hội, bao gồm những
nguyên lý, quy tắc, chuẩn mực điều tiết hành vi của con người trong quan hệ
với người khác và với cộng đồng. Căn cứ vào những quy tắc ấy, người ta
đánh giá hành vi, phẩm giá của mỗi người bằng các quan niệm về thiện ác,
chính nghĩa, phi nghĩa, nghĩa vụ và danh dự [22.145]. Tác giả Phạm Khắc
Chương thì cho rằng: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp
những quy tắc, chuẩn mực xã hội mà nhờ nó con người ta có thể tự điều
chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người
và tiến bộ xã hội trong quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân
và xã hội”. [8.4]
Dưới góc độ cá nhân: Đạo đức là những phẩm chất, nhân cách của con
người, phản ánh ý thức, tình cảm, ý chí, hành vi, thói quen và cách ứng xử
của họ trong quan hệ giữa con người với tự nhiên, với xã hội, giữa bản thân
họ với người khác và với chính bản thân mình [7.16]
Theo nghĩa rộng, khái niệm đạo đức có liên quan chặt chẽ với phạm trù
chính trị, pháp luật, lối sống. Đạo đức là thành phần cơ bản của nhân cách của
một cá nhân được xã hội hóa. Đạo đức được biểu hiện ở cuộc sống tinh thần
lành mạnh, trong sáng, ở hành động giải quyết hợp lý, có hiệu quả những mâu
thuẫn. Khi thừa nhận đạo đức là một hình thái ý thức xã hội thì đạo đức của
mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng, mỗi tầng lớp giai cấp trong xã hội cũng phản
ánh ý thức chính trị của họ đối với các vấn đề đang tồn tại [22.145-154].
Tóm lại, có rất nhiều tác giả khi nghiên cứu về đạo đức đã đưa ra
những khái niệm khác nhau song về cơ bản các khái niệm đều có những điểm
thống nhất đó là: quá trình hình thành và phát triển đạo đức của mỗi người là
12
quá trình tác động qua lại giữa xã hội với cá nhân để chuyển hóa những
nguyên tắc, yêu cầu, chuẩn mực giá trị đạo đức – xã hội thành những phẩm
chất đạo đức cá nhân, làm cho cá nhân đó trưởng thành về mặt đạo đức, đáp
ứng tốt các yêu cầu xã hội. Từ đó có thể thống nhất với khái niệm về đạo đức
mà tác giả Trần Hậu Kiểm đã đưa ra: “ Đạo đức là một hình thái ý thức xã
hội đặc biệt bao gồm một hệ thống những quan điểm, quan niệm, những quy
tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội. Nó ra đời, tồn tại và biến đổi từ nhu cầu
của xã hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù
hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người và sự tiến bộ của xã hội trong mối
quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân và xã hội” [22.12].
1.2.1.2. Chuẩn mực đạo đức
Nói đến đạo đức là nói đến các chuẩn mực đạo đức. Vậy chuẩn mực
đạo đức là gì? Chuẩn mực đạo đức là những phẩm chất đạo đức có tính chất
chuẩn mực, được nhiều người thừa nhận, được dư luận xác định như một đòi
hỏi khách quan, là thước đo giá trị cần có ở mỗi người. Những chuẩn mực đạo
đức ấy được coi như mục tiêu giáo dục, rèn luyện ở mỗi người. Đồng thời,
chuẩn mực đạo đức đó lại có giá trị định hướng, chi phối, ước chế quá trình
nhận thức, điều chỉnh thái độ, hành vi của mỗi người, đáp ứng yêu cầu của
một xã hội, một thời đại nhất định”.
Theo tác giả Phạm Minh Hạc [14.52] thì chuẩn mực đạo đức của con
người Việt Nam thời kì CNH, HĐH có thể xác định (một cách tương đối) thành
5 nhóm, phản ánh các mối quan hệ chính mà con người phải tự giải quyết.
+ Nhóm chuẩn mực đạo đức thể hiện nhận thức tư tưởng chính trị (lý
tưởng sống của cá nhân phù hợp với yêu cầu đạo đức xã hội) như: có lý
tưởng xã hội chủ nghĩa, yêu quê hương, đất nước, tự cường, tự hào dân tộc,
tin tưởng vào Đảng và nhà nước, tôn trọng và thực hiện tốt pháp luật.
+Nhóm chuẩn mực đạo đức hướng vào sự hoàn thiện bản thân như: tự
trọng, tự tin, tự lập, giản dị, tiết kiệm, trung thành, siêng năng, hướng thiện,
biết kiềm chế, biết hối hận, có kế hoạch tự hoàn thiện.
13
+Nhóm chuẩn mực đạo đức thể hiện quan hệ với mọi người và dân tộc
khác: nhân nghĩa (biết ơn tổ tiên, cha mẹ, thầy cô, người có công với dân với
nước), khoan dung, vị tha, khiêm tốn, hợp tác, bình đẳng, lễ độ (lịch sự, tế
nhị), tôn trọng mọi người, thủy chung, giữ chữ tín.
+ Nhóm chuẩn mực đạo đức thể hiện quan hệ đối với công việc: đó là
trách nhiệm cao, tận tụy, có lương tâm, tôn trọng tri thức, tôn trọng pháp luật,
tôn trọng lẽ phải, kỉ luật, tự giác, năng động, sáng tạo, thích ứng, tích cực,
dũng cảm, liêm khiết.
+Nhóm chuẩn mực đạo đức liên quan đến xây dựng môi trường sống
(môi trường tự nhiên, văn hóa – xã hội) như: xây dựng hạnh phúc gia đình, tự
giác tham gia giữ gìn bảo vệ tài nguyên, môi trường, xây dựng xã hội dân
chủ, bình đẳng, văn minh, bảo vệ hòa bình, chống những hành vi khủng bố,
gây tác hại đến con người (tệ nạn xã hội, bệnh tật, đói nghèo), bảo vệ và phát
huy truyền thống di sản văn hóa của dân tộc và nhân loại.
1.2.2. Giáo dục đạo đức
1.2.2.1. Giáo dục
Khái niệm giáo dục được xem xét và nêu lên từ nhiều cấp độ khác
nhau. Hiện nay, các nhà giáo dục, các nhà lí luận kinh điển thường quan niệm
khái niệm này dưới 2 góc độ: Giáo dục (theo nghĩa rộng) và giáo dục (theo
nghĩa hẹp), cụ thể là:
+ Giáo dục (hiểu theo nghĩa rộng): Là sự hình thành có mục đích có tổ
chức những sức mạnh về thể chất và tinh thần của con người, hình thành thế
giới quan, bộ mặt đạo đức và thị hiếu thẩm mỹ cho con người; với nghĩa rộng
nhất, khái niệm này bao hàm cả giáo dưỡng, dạy học và tất cả những yếu tổ
tạo nên những nét tính cách và phẩm hạnh của con người, đáp ứng các yêu
cầu của kinh tố xã hội.
+ Giáo dục (hiểu theo nghĩa hẹp): Bao gồm các hoạt động tạo ra cơ sở
khoa học của thế giới quan, lí tưởng, đạo đức, thái độ thẩm mĩ đối vối hiện
14
thực của con người, kể cả việc phát triển nâng cao thể lực. Quá trình này được
xem là một bộ phận của quá trình giáo dục tổng thể [16.23].
1.2.2.2. Giáo dục đạo đức
Có thể nói từ khái niệm “giáo dục” chúng ta thấy được GDĐĐ là một
bộ phận quan trọng trong nội dung giáo dục cho người học nói chung, đúc kết
từ nhiều nguồn tài liệu có thể nêu ra khái niệm GDĐĐ như sau:
Giáo dục đạo đức là quá trình tác động tới đối tượng giáo dục để hình
thành cho họ ý thức, tình cảm và niềm tin đạo đức. Quan trọng nhất là hình
thành cho họ ý thức, tình cảm và niềm tin đạo đức. Quan trọng nhất là hình
thành cho họ hành vi, thói quen đạo đức, giáo dục đạo đức về bản chất là quá
trình biến hệ thống những chuẩn mực đạo đức từ những đòi hỏi của xã hội
đối với mỗi cá nhân thành những đòi hỏi bên trong của mỗi cá nhân, thành
niềm tin, nhu cầu thói quen của đối tượng giáo dục.
Giáo dục đạo đức cho HS THPT là quá trình tác động của gia đình, nhà
trường và xã hội đến học sinh THPT nhằm hình thành cho các em ý thức, tình
cảm, niềm tin đạo đức…và xây dựng thói quen đạo đức cho các em.
1.3. Quản lí và quản lí giáo dục đạo đức
1.3.1. Khái niệm quản lí
Quản lý là nhân tố không thể thiếu được trong đời sống và sự phát triển
của xã hội. Xã hội loài người đã trải qua nhiều thời kỳ phát triển với nhiều
hình thái xã hội khác nhau, đồng thời cũng trải qua nhiều hình thức quản lý
khác nhau. Các triết gia, các nhà chính trị từ thời cổ đại đến nay đều rất coi
trọng vai trò của quản lý trong sự ổn định, phát triển của xã hội và được bàn
luận nhiều ở các góc độ khoa học. Ở mỗi tiếp cận của các khoa học khác nhau
có thể đưa ra một cách hiểu quản lý khác nhau.
*Dưới góc độ của triết học:
“Quản lý được xem như một quá trình liên kết thống nhất giữa chủ
quan và khách quan để đạt được mục tiêu đề ra”. [2]
*Dưới góc độ của kinh tế học:
- Nhà kinh tế học người Mỹ - Frederic Wiliam Taylor (1856 - 1915)
15
cho rằng:“Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần làm và
làm cái đó thế nào bằng phương pháp tốt nhất và rẻ tiền nhất”. [1]
- Nhà lý luận quản lý kinh tế Pháp A. Fayon (1841 - 1925) cho rằng:
“Quản lý là đưa xí nghiệp tới đích, cố gắng sử dụng các nguồn lực (nhân, tài,
vật, lực) của nó”. [1]
* Dưới góc độ của toán học:
Nhà toán học A. N. Kolmogorov cho rằng: “Quản lý là quá trình là
quá trình gia công thông tin thành tín hiệu điều chỉnh hoạt động của máy
móc hay cơ thể sống”. [1]
* Dưới góc độ của khoa học quản lý:
- Tác giả Nguyễn Minh Đạo: “Quản lý là quá trình tác động liên tục có
tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý về mặt
chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa bằng một hệ thống các nguyên tắc pháp
luật, chính sách, phương pháp và giải pháp quản lý tạo ra những điều kiện
cho sự phát triển của khách thể và tạo ra uy tín”. [12]
- Tác giả Nguyễn Đức Trí: “Quản lý là một quá trình tác động có định
hướng, có tổ chức, có lựa chọn trong số các tác động có thể có, dựa trên các
thông tin về tình trạng và môi trường, nhằm giữ cho sự vận hành của đối
tượng được ổn định và làm cho nó phát triển tới mục tiêu đã định”. [12]
- Tác giả Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt: “Quản lý là một quá trình định
hướng, quá trình có mục tiêu, quản lý là một hệ thống, là quá trình tác động
đến hệ thống nhằm đạt được mục tiêu nhất định”. [21]
- Tác giả Đỗ Hoàng Toàn: “Quản lý là sự tác động có tổ chức, có định
hướng của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả
nhất các tiềm năng, các cơ hội của hệ thống để đạt mục tiêu đề ra trong điều
kiện biến động của môi trường”. [27]
- Tác giả Đặng Quốc Bảo quan niệm: “Quản lý là một tác động gây
ảnh hưởng của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đạt mục tiêu
16
chung. Và về phương diện quản lý thì, quản lý là một quá trình lập kế hoạch,
tổ chức, hướng dẫn và kiểm tra những nỗ lực của các thành viên trong một tổ
chức và sử dụng các nguồn lực của tổ chức để đạt được những mục tiêu cụ
thể”. [3]
Tuy ở các góc độ khoa học khác nhau về quản lý nhưng có thể thấy
quản lý có những nét đặc trưng cơ bản sau:
- Quản lý là một loại hình đặc biệt của hoạt động xã hội, một quá trình
tác động qua lại giữa người với người.
- Quản lý là một khoa học và nghệ thuật huy động, vận động và sử
dụng các nguồn nhân lực, vật lực, tài lực.
- Nhằm tập hợp mọi người có liên quan: bao gồm cả cấp trên, cấp dưới, bạn
bè, đồng nghiệp, trong tổ chức cũng như ngoài tổ chức, với mục đích là bảo đảm
tạo ra sự phối hợp và hợp tác thích hợp giữa các cá nhân và các lực lượng xã hội để
góp phần đạt được những mục tiêu chương trình, kế hoạch đã đề ra.
Từ đó có thể hiểu quản lý: Quản lý là sự tác động có định hướng, có mục
đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý một cách hợp quy
luật nhằm đạt được mục tiêu đề ra trong điều kiện biến động của môi trường.
1.3.2. Chức năng quản lý
Quản lý là một dạng lao động đặc biệt - lao động quản lý, có các chức
năng cơ bản:
- Chức năng lập kế hoạch: Là chức năng hạt nhân quan trọng nhất của
quá trình quản lý. Kế hoạch được hiểu là tập hợp những mục tiêu cơ bản được
sắp xếp theo một trình tự nhất định, lôgíc với một chương trình hành động cụ
thể để đạt được các mục tiêu đã được hoạch định, trước khi tiến hành thực
hiện những nội dung mà chủ thể quản lý đề ra. Kế hoạch đặt ra xuất phát từ
đặc điểm tình hình cụ thể của tổ chức và những mục tiêu định sẵn mà tổ chức
có thể hướng tới và đạt được theo mong muốn, dưới sự tác động có định
hướng của chủ thể quản lý.
17
- Chức năng tổ chức: Là sắp xếp, bố trí một cách khoa học và phù hợp
với những nguồn lực (Nhân lực, vật lực và tài lực) của hệ thống thành một hệ
toàn vẹn nhằm đảm bảo cho chúng tương tác với nhau để đạt được mục tiêu
của hệ thống một cách tối ưu nhất, hiệu quả nhất
- Chức năng chỉ đạo: Chức năng này có tính chất tác nghiệp, điều
chỉnh, điều hành hoạt động của hệ thống nhằm thực hiện đúng kế hoạch đã
định để biến mục tiêu trong dự kiến thành kết quả hiện thực. Trong quá trình
chỉ đạo phải bám sát các hoạt động, các trạng thái vận hành của hệ thống
đúng tiến trình, đúng kế hoạch đã định. Đồng thời phát hiện ra những sai sót
để kịp thời sửa chữa, uốn nắn không làm thay đổi mục tiêu, hướng vận hành
của hệ thống nhằm giữ vững mục tiêu chiến lược mà kế hoạch đã đề ra.
- Chức năng kiểm tra đánh giá:Thu thập những thông tin ngược từ đối
tượng quản lý trong quá trình vận hành của hệ thống để đánh giá xem trạng thái
của hệ thống đã đến đâu, xem mục tiêu dự kiến ban đầu và toàn bộ kế hoạch đã
đạt đến mức độ nào? Trong quá trình kiểm tra kịp thời phát hiện những sai sót
trong quá trình hoạt động để kịp thời điều chỉnh, sửa chữa mục tiêu, đồng thời
tìm ra nguyên nhân thành công, thất bại giúp cho chủ thể quản lý rút ra được
bài học kinh nghiệm để thực hiện cho quá trình quản lý tiếp theo.
Ngoài 4 chức năng nêu trên trong quá trình quản lý, chủ thể quản lý
phải sử dụng thông tin như là một công cụ hay chức năng đặc biệt để thực
hiện các chức năng trên.
Chúng ta có thể biểu diễn mối quan hệ của các chức năng quản lý theo
sơ đồ sau:
Lập kế hoạch
Kiểm tra
Thông tin
Chỉ đạo
Sơ đồ 1.1. Chức năng của quản lý
18
Tổ chức
1.3.3. Quản lí giáo dục đạo đức
Từ những khái niệm trên có thể đưa ra khái niệm về quản lí giáo dục
đạo đức như sau:
Quản lí giáo dục đạo đức là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lí
tới khách thể quản lí nhằm đưa hoạt động giáo dục đạo đức đạt tới kết quả
mong muốn bằng cách hiệu quả nhất.
Về bản chất, quản lí GDĐĐ là quá trình tác động có định hướng của
chủ thể quản lí lên các thành tố tham gia vào quá trình hoạt động nhằm thực
hiện có hiệu quả mục tiêu QLGDĐĐ.
1.4. Giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông
1.4.1. Trường trung học phổ thông trong hệ thống giáo dục quốc dân
và đặc điểm lứa tuổi học sinh trung học phổ thông
1.4.1.1. Trường trung học phổ thông trong hệ thống giáo dục quốc dân
Theo điều lệ trường THCS, trường trung học phổ thông và trường phổ
thông nhiều cấp học thì: Trường trung học phổ thông là cơ sở giáo dục phổ
thông của hệ thống giáo dục quốc dân, là một bậc học trong hệ thống giáo dục
quốc dân nước ta hiện nay. Nó kéo dài 3 năm từ lớp 10 đến lớp 12. Thông
thường độ tuổi của học sinh trường trung học phổ thông là từ 16 đến 18 tuổi.
Mục tiêu của giáo dục là: “Giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo
đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá
nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam
xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho
học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc”. [18]
Mục tiêu của giáo dục cấp trung học phổ thông, theo điều 27 Luật
giáo dục sửa đổi năm 2009 là “Giáo dục trung học phổ thông nhằm giúp
học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục trung học cơ
sở, hoàn thiện học vấn phổ thông và có những hiểu biết thông thường về kỹ
thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa
chọn hướng phát triển, tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung cấp, học nghề
hoặc đi vào cuộc sống lao động”[18]
19
Như vậy, học sinh trung học phổ thông phải có những giá trị đạo đức,
tư tưởng, lối sống phù hợp với mục tiêu, có những kiến thức phổ thông cơ bản
về tự nhiên, xã hội và con người, gắn bó với cuộc sống cộng đồng và thực tiễn
địa phương, có kỹ năng vận dụng những kiến thức đã học để giải quyết những
vấn đề thường gặp trong cuộc sống hàng ngày.
1.4.1.2. Đặc điểm của học sinh lứa tuổi trung học phổ thông
Như kết luận ở trên, học sinh trung học phổ thông có độ tuổi từ 16 - 18
tuổi, lứa tuổi này có những đặc trưng nhất định về tâm sinh lý mà không xuất
hiện ở các lứa tuổi khác. Cũng có những cách nhìn khác nhau về đặc điểm của
lứa tuổi này, nhưng tựu chung lại có thể nhận thấy, trong sự phát triển của lứa
tuổi này có các đặc trưng cơ bản sau:
+ Về độ tuổi: Học sinh trường trung học phổ thông có độ tuổi từ 16 18 tuổi (từ lớp 10 - 12), giai đoạn phát triển này gọi là tuổi thanh niên. Lứa
tuổi này có một vị trí đặc biệt quan trọng trong thời kỳ này các em tập làm
người lớn và được phản ánh bằng những tên gọi khác nhau: “thời kỳ quá độ”,
“tuổi khó bảo”, “tuổi khủng hoảng”, “tuổi bất trị”….
+ Về tâm sinh lý: Đây là lứa tuổi có bước nhảy vọt cả về thể chất lẫn
tinh thần, các em đang tách dần khỏi thời thơ ấu để chuyển sang giai đoạn
trưởng thành tạo nên sự khác biệt trong các mặt phát triển: Thể chất, trí tuệ,
tình cảm, đạo đức,…
Ở lứa tuổi thanh niên có sự tồn tại song song “vừa tính trẻ con, vừa tính
người lớn”, điều này phụ thuộc vào sự phát triển mạnh về cơ thể của các em.
Mặt khác, ở những em cùng độ tuổi cũng có sự khác biệt về mức độ
phát triển các khía cạnh khác nhau của tính người lớn - điều này do hoàn cảnh
sống khác nhau của các em tạo nên.
Những yếu tố của hoàn cảnh thúc đẩy sự phát triển tính người lớn: sự
phát triển về thể chất, về giáo dục và nhiều bậc cha mẹ quá bận, gia đình gặp
khó khăn, đòi hỏi trẻ phải lao động để sinh sống. Điều đó đưa đến cho trẻ sớm
có tính độc lập, tự chủ hơn.
Xu hướng phát triển tính ngươi lớn ở lứa tuổi này có thể xảy ra theo các
hướng sau: Đối với một số em, tri thức sách vở làm cho các em hiểu biết
20
nhiều, nhưng còn nhiều mặt khác nhau trong thực tế thì các em hiểu biết rất ít.
Có những em ít quan tâm đến việc học tập, mà chỉ để ý đến những vấn đề của
người lớn, thích giao tiếp với bạn lớn tuổi để nói chuyện, trao đổi về các vấn
đề trong cuộc sống, tỏ ra mình cũng là người lớn. Ở một số em khác không
biểu hiện tính người lớn ra bên ngoài, nhưng thực tế đang cố gắng rèn luyện
mình có những đức tính của người lớn như: dũng cảm, tự chủ, độc lập,…
Trong những giai đoạn phát triển của con người, lứa tuổi thanh niên có
một vị trí và ý nghĩa vô cùng quan trọng. Đây là thời kỳ phát triển phức tạp
nhất và cũng là thời kỳ quan trọng cho bước trưởng thành sau này.
Do đó, những nhà giáo dục, nhà quản lí giáo dục cần hiểu rõ vị trí và ý
nghĩa của giai đoạn phát triển tâm lí thiếu niên để có cách giáo dục và đối xử
đúng đắn với các em nhằm xây dựng cho các em một nhân cách toàn diện.
1.4.2. Khái niệm giáo dục đạo đức và giáo đục đạo đức cho học sinh
trung học phổ thông
Giáo dục đạo đức là quá trình tác động tới đối tượng giáo dục để hình
thành ý thức, tình cảm và niềm tin đạo đức và đặc biệt hình thành hành vi,
thói quen đạo đức. Giáo dục đạo đức về bản chất là quá trình biến hệ thống
những chuẩn mực đạo đức từ những đòi hỏi của xã hội đối với mỗi cá nhân
thành những đòi hỏi bên trong của mỗi cá nhân, thành niềm tin, nhu cầu thói
quen của đối tượng giáo dục.
Giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông là quá trình tác
động của các lực lượng giáo dục đạo đức (nhà trường, gia đình, xã hội) đến
học sinh trung học phổ thông nhằm hình thành những hành vi đạo đức tốt
phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội cho học sinh trung học phổ thông.
1.4.3. Mục tiêu giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông
Giáo đục đạo đức là một trong những yếu tố góp phần phát triển tâm
lực ở học sinh phổ thông. Mục tiêu của giáo dục phổ thông là đào tạo giáo
dục học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ và các kỹ năng
cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, là
nhân cách chứa đựng đầy đủ đức tính của con người Việt Nam mới.
21
Những đức tính đó được Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa
VIII) của Đảng ta xác định và kết luận của Hội nghị Trung ương 10 (khóa IX)
khẳng định lại gồm 5 đức tính của con người Việt Nam, mà Đảng ta đang
lãnh đạo xây dựng:
- Một là: Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo
nàn lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Đây là đức tính đầu tiên nhưng lại là phẩm chất xuyên suốt. Yêu nước
phải gắn với mục tiêu, lý tưởng xây dựng chủ nghĩa xã hội; yêu nước là phải
thể hiện ý chí quyết tâm thoát nghèo của cá nhân và cộng đồng nhằm thực
hiện mục tiêu xây dựng một nước văn hóa “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”.
- Hai là: Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu ví lợi ích chung.
Đoàn kết là truyền thống quý báu của dân tộc, nhờ đoàn kết mà dân tộc
ta đấu tranh và liên tục giành thắng lợi to lớn, vẻ vang trước các thế lực phong
kiến, thực dân, đế quốc xâm lược. Trong công cuộc đổi mới đất nước, đẩy
mạnh CNH, HĐH, tăng cường ý thức tập thể, tinh thần đoàn kết chính là thể
hiện trách nhiệm của bản thân với tập thể, với cộng đồng trong thực hiện mục
tiêu chung; mỗi người phải tự đấu tranh với chính mình, ra sức tu dưỡng rèn
luyện đạo đức, lối sống, học tập và làm việc vì lợi ích chung.
- Ba là: Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung
thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý
thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
Mỗi cá nhân không ngừng tự tu dưỡng rèn luyện, thực hành những
chuẩn mực xã hội, cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư, biết lắng nghe và
điều chỉnh hành vi đạo đức nhằm hoàn thiện mình. Đồng thời có ý thức tôn
trọng, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái vì cuộc sống cộng đồng.
- Bốn là: Lao động chăm chỉ vì lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật,
sáng tạo, năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể xã hội.
22
Việc giáo dục cho mọi người, nhất là thế hệ trẻ lao động sáng tạo có ý
thức, có tổ chức kỷ luật, có năng suất cao, chất lượng và hiệu quả là cực kỳ
quan trọng; lao động phải gắn với lương tâm, trách nhiệm của mình với công
việc, với nhiệm vụ, với sản phẩm của mình làm ra; lao động gắn lợi ích quốc
gia, dân tộc, vì sự phát triển của đất nước.
- Năm là: Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết trình độ chuyên
môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực. Trong xã hội đầy biến động ngày nay với
sự toàn cầu hóa ngày càng tăng, sự phát triển của khoa học kỹ thuật và sự
tăng vọt của thông tin, learn what và learn how trở nên hết sức cần thiết
nhưng chưa đủ. Làm sao một con người có thể hiểu biết tất cả những gì xung
quanh ta và sử dụng lượng kiến thức thu được để tác động vào thực tiễn?
Cách duy nhất là học và cập nhật kiến thức suốt quãng đời của mình để hiểu
biết, để có thể giao tiếp với người khác, để hiểu chính mình, hiểu người khác
và để có thể tồn tại. Vì thế giới ngày càng xích lại gần nhau, mỗi cá nhân là
một mắt xích trong xã hội và phụ thuộc lẫn nhau cho nên bản thân mỗi cá
nhân không chỉ học cho riêng mình mà còn học cho cả cộng đồng, học lẫn
nhau, và học để chung sống lẫn nhau.
Yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đặt trách nhiệm lên vai thế hệ trẻ, vì
vậy thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết trình độ chuyên môn, trình độ
thẩm mỹ và thể lực là yêu cầu vô cùng cần thiết.
1.4.4. Nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông
Cơ sở để xác định nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh là: nội dung
chương trình môn giáo dục công dân, các chủ điểm giáo dục ngoài giờ lên
lớp, nội dung giáo dục đạo đức kết hợp qua giáo dục văn hóa, truyền thống
văn hóa dân tộc, văn hóa địa phương…
Nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh có thể chia ra các nhóm chuẩn
mực đạo đức như sau:
- Nhóm chuẩn mực đạo đức về nhận thức tư tưởng, chính trị.
- Nhóm chuẩn mực đạo đức về quyền và nghĩa vụ của công dân.
- Nhóm chuẩn mực đạo đức hướng vào những đức tính hoàn thiện bản thân.
23
- Nhóm chuẩn mực đạo đức hướng vào tính nhân văn.
- Nhóm chuẩn mực đạo đức vì lợi ích cộng đồng.
Sự phân chia nội dung trên đây chỉ có tính chất tương đối vì nội dung
giáo dục đạo đức cho học sinh rất rộng, bao quát nhiều vấn đề thuộc nhân
sinh quan mà tựu chung là xoay quanh trục: Chân - Thiện - Mỹ và truyền
thống văn hóa của dân tộc, địa phương.
Quản lí việc xây dựng chương trình, hình thức, biện pháp giáo dục
cũng là những vấn đề đáng quan tâm. Các chương trình, hình thức giáo dục
đạo đức chủ yếu là: thông qua giảng dạy các môn văn hóa, thông qua các hoạt
động Đoàn, sinh hoạt tập thể,…Trên cơ sở những chương trình giáo dục đạo
đức cơ bản đó, Hiệu trưởng chỉ đạo các bộ phận, cá nhân có liên quan lập
chương trình giáo dục đạo đức một cách cụ thể; nêu rõ hình thức và biện
pháp, sự phân công một cách rõ ràng đối với từng nội dung giáo dục đạo đức
đã được xác định.
Nhìn chung, nội dung giáo dục đạo đức bao gồm các chuẩn mực và quy
tắc đạo đức về mục đích cuộc sống bản thân, về lối sống cá nhân, về các mối
quan hệ trong gia đình, trong tập thể và ngoài xã hội, về cuộc sống lao động
sáng tạo, về nghĩa vụ lao động và bảo vệ Tổ quốc…cụ thể là:
*Giáo dục chính trị, tư tưởng đạo đức
+ Tăng cường giáo dục thế giới quan khoa học. Giúp các em có hiểu
biết về thế giới hiện thực, những suy nghĩ đúng đắn với niềm tin khoa học.
+ Trên cơ sở tăng cường thế giới quan khoa học cần tăng cường giáo
dục tư tưởng cách mạng xã hội chủ nghĩa cho học sinh. Nâng cao lòng yêu
nước xã hội chủ nghĩa, kỉ luật, lòng yêu thương con người và hành vi ứng xử
có văn hóa.
*Giáo dục đạo đức trong mối quan hệ xã hội
Quan hệ cá nhân với xã hội, cộng đồng. Trong nhà trường phổ thông,
các phẩm chất đạo đức cần trau dồi cho học sinh được phân chia thành từng
nhóm theo mối quan hệ xã hội.
24
1.4.5. Phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ
thông
Phương pháp giáo dục đạo đức là thành tố quan trọng và tác động trực
tiếp đến kết quả của quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ
thông. Do đó, trong hoạt động giáo dục đạo đức thường sử dụng những phương
pháp sau đây:
- Nhóm phương pháp tác động đến ý thức, tình cảm, ý chí của học sinh.
Nhóm phương pháp này bao gồm:
+ Phương pháp đàm thoại: giúp học sinh ý thức một cách sâu sắc thái
độ đúng đắn của mình với hiện thực xung quanh và trách nhiệm về cá hành vi,
thói quen, lối sống của chính bản thân học sinh.
+ Phương pháp nêu gương: có tính thuyết phục học sinh bởi gương
người tốt, việc tốt và lẽ sống cao đẹp.
+ Phương pháp tổ chức hoạt động xã hội: giúp học sinh hình thành và
phát triển những hành vi, thói quen, phù hợp với chuẩn mực đạo đức.
- Nhóm phương pháp kích thích hoạt động và điều chỉnh hành vi ứng
xử. Nhóm này gồm các phương pháp sau:
+ Phương pháp thi đua: qua thi đua, mỗi tập thể lớp và cá nhân phải cố
gắng vươn lên, có ý thức trách nhiệm, thực hiện đầy đủ nội dung thi đua, phấn
đấu đạt thành tích cao nhất.
+ Phương pháp khen thưởng, trách phạt: Mục đích của phương pháp
này là làm cho phẩm chất tốt đẹp của học sinh được phát huy, uốn nắn điều
chỉnh những hành vi lệch chuẩn học sinh.
1.4.6. Hình thức tổ chức giáo dục đạo đức
Giáo dục đạo đức cho học sinh ở trường trung học phổ thông hiện nay
được tiến hành dưới nhiều hình thức, trong đó:
- Thông qua dạy học chính khóa (các môn khoa học xã hội và nhân
văn), qua học tập nội quy nhà trường, sinh hoạt dưới cờ; qua sinh hoạt của
Đoàn TNCS và công tác chủ nhiệm lớp.
- Các hoạt động ngoài giờ cũng là các hình thức tổ chức giáo đục dạo
đức mang lại hiệu quả. Đó là các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao, hoạt
động xã hội, từ thiện, các hình thức sinh hoạt giao lưu.
25