Tải bản đầy đủ (.doc) (133 trang)

QUÁ TRÌNH MỞ RỘNG VÀ XÁC LẬP CHỦ QUYỀN LÃNH THỔ VIỆT NAM (THẾ KỈ XVIIXVIII) QUA TƯ LIỆU ĐỊA CHÍ THỜI NGUYỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (585.55 KB, 133 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam từ lâu đã được biết đến với hình ảnh dải đất hình chữ “S”
hiền hòa, xinh đẹp chạy dài ven biển Đông. Hình hài ấy không chỉ là quà tặng
của tạo hóa ban cho đất nước, con người Việt Nam mà đó còn được ghi dấu
bởi biết bao mồ hôi, xương máu của người Việt trong quá trình mở rộng và
xác lập chủ quyền lãnh thổ. Quá trình ấy được ghi dấu đậm nét nhất dưới thời
kì trị vì của các vương triều phong kiến độc lập, đặc biệt là vào những thế kỉ
XVII – XVIII. Từ một dải đất chỉ tương đương với khu vực Bắc Bộ nước ta
hiện nay trong thời kì đầu dựng nước, rồi dần trải qua các triều đại Lý – Trần
– Lê sơ lãnh thổ ấy được mở rộng tới đèo Cù Mông (ranh giới giữa tỉnh Bình
Định và Phú Yên) và gần như đạt tới sự hoàn thiện như bây giờ ở các thế kỉ
XVII – XVIII. Lịch sử ghi nhận đó là quá trình “Nam tiến” mạnh mẽ của dân
tộc nhằm từng bước mở rộng và xác lập chủ quyền lãnh thổ Đại Việt.
“Bắc từ Lạng Sơn, nam Hà Tiên
Non sông một giải ba kì liền
Con Hồng cháu Lạc cùng cư tụ
Con cháu còn chăng nhớ tổ tiên?
Tổ tiên gây dựng biết bao công
Đánh Lạp bình Chiêm giải mấy đông
Nghiệp cả nối noi nên kính úy
Sao cho không hổ giống Tiên Rồng” [67; 2]
“Bắc - Nam một dải nối liền” đó chính là của cải vô giá nhất mà tổ tiên
ông cha ta qua mấy ngàn năm dựng và giữ nước đã để lại cho con cháu hôm
nay. Ở đó có biết bao nhiêu mồ hôi, nước mắt và cả xương máu của biết bao
thế hệ con người Việt Nam đã ngã xuống đòi hỏi những thế hệ trẻ hôm nay
gìn giữ và bảo vệ. Thật đáng trân trọng và tự hào.

1



Lịch sử hình thành và xác lập phạm vi lãnh thổ của dân tộc Việt Nam
gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của chế độ phong kiến, gắn liền
với quá trình mở mang bờ cõi phương Nam dưới các triều đại. Đó là cả một
quá trình gian nan và đầy khó khăn thách thức nhưng không phải ai cũng có
cái nhìn tường tận về vấn đề này nhất là đối với thế hệ trẻ hôm nay.
Chính vì vậy, để cung cấp cho mình những hiểu biết sâu rộng và hệ
thống về lịch sử mở rộng và hoàn thiện của lãnh thổ Việt Nam tôi đã quyết
định chọn đề tài: “Quá trình mở rộng và xác lập chủ quyền lãnh thổ Việt Nam
(thế kỉ XVII-XVIII) qua tư liệu địa chí thời Nguyễn” để làm đề tài luận văn
thạc sĩ của mình.
Việc tìm hiểu về quá trình mở rộng và từng bước xác lập chủ quyền
lãnh thổ Việt Nam ở những thế kỉ XVII – XVIII thông qua các bộ địa chí xưa
kia được biên soạn dưới triều Nguyễn có vai trò rất quan trọng bởi đây chính
là nguồn tài liệu có giá trị và đáng tin cậy để khẳng định chủ quyền lãnh thổ
dân tộc trong thời đại hiện nay. Đồng thời cũng cho thấy sự quan tâm, những
đóng góp của các vương triều phong kiến đối với sự khẳng định và hoàn thiện
lãnh thổ dân tộc.
Hơn nữa, là một giáo viên Lịch sử, một người con sinh ra và lớn lên
trên đất nước Việt Nam thì việc tìm hiểu quá trình mở rộng và xác lập lãnh
thổ Việt Nam thế kỉ XVII – XVIII còn giúp tôi có cái nhìn tường tận về lịch
sử hình thành của dân tộc mình, từ đó có cái nhìn khách quan trước những
luận điệu tuyên truyền sai lệch để truyền tải cho học sinh những kiến thức
chính xác nhất.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu về quá trình mở rộng và hoàn thiện lãnh thổ Việt Nam thời
phong kiến đặc biệt là ở thế kỉ XVII-XVIII là vấn đề không phải hoàn toàn
mới mẻ, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu về nhiều mặt vấn

2



đề này. Tuy nhiên việc tìm hiểu về quá trình mở rộng và từng bước xác lập
chủ quyền lãnh thổ Việt Nam thông qua các bộ địa chí được biên soạn dưới
triều Nguyễn thì lại chưa có công trình nào hoàn chỉnh.
Cho đến nay đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu hay các hội thảo,
hội nghị được tổ chức nhằm nghiên cứu về địa lý lịch sử Việt Nam qua các thời
đại ở rất nhiều khía cạnh. Đầu tiên phải kể đến tác phẩm “Đất nước Việt Nam
qua các đời” của Đào Duy Anh, NXB Thuận Hóa – Huế (1964). Đó là công
trình nghiên cứu lịch sử về cương vực, địa lý, hành chính Việt Nam qua các đời
từ thời Văn Lang - Âu Lạc cho đến thời Nhà Nguyễn. Trong công trình nghiên
cứu của mình, tác giả đã có phần nói về sự mở mang lãnh thổ vào Nam qua các
đời Lý, Trần, Hồ, Lê. Đây là một công trình nghiên cứu quan trọng, cung cấp
những tư liệu quý về cương vực lãnh thổ của nước ta qua các đời.
Tác phẩm “Việt sử xứ Đàng Trong” của Phan Khoang, do Nhà sách
khai trí xuất bản năm 1969. Đây là một công trình nghiên cứu về vùng đất
phía Nam của Đại Việt, về vương quốc Chămpa và quốc gia Chân Lạp, về
vùng đất Đàng Trong của các chúa Nguyễn. Tác giả đã dành một phần nói về
cuộc Nam tiến của Đại Việt từ thời Nguyễn Hoàng, công cuộc khai phá vùng
đất Đàng Trong, về quá trình chiếm đất Chămpa, lấn đất Thủy Chân Lạp, mở
đất Gia Định, về nhân vật Mạc Cửu và vùng đất Hà Tiên. Công trình đã cung
cấp nhiều tư liệu quý, quan trọng về một giai đoạn lịch sử nhiều biến động
của nước ta nhất là về quá trình mở đất phương Nam nền tảng cho sự hoàn
thiện lãnh thổ dưới vương triều Nguyễn.
Tiếp đó là hàng loạt những tác phẩm nghiên cứu về lịch sử Đàng Trong
cũng như quá trình mở đất phương Nam. Đây là nguồn tư liệu quan trọng
cung cấp cho chúng ta những thông tin về quá trình mở rộng và hoàn thiện
lãnh thổ Việt Nam. Đó là các cuốn “Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh với
công cuộc khai sáng miền Nam nước Việt cuối thế kỷ XVII” của Như Hiên

3



Nguyễn Ngọc Hiền, xuất bản năm 1995 tại nhà xuất bản Đồng Nai; “Xứ Đàng
Trong năm 1621” của Critstophoro Borri, do NXB Thành phố Hồ Chí Minh
xuất bản năm 1998…
Tác phẩm “Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh với công cuộc khai sáng
miền Nam nước Việt cuối thế kỷ XVII” của Như Hiên Nguyễn Ngọc Hiền xuất
bản năm 1993, là công trình nghiên cứu về thân thế và sự nghiệp của Nguyễn
Hữu Cảnh cũng như những công lao của ông trong công cuộc khai mở vùng
đất phía Nam của Đại Việt trong thế kỉ XVII. Các chương 3, 4, 5 là những
chương quan trọng nói về Nguyễn Hữu Cảnh trong công cuộc “Mở mang
miền Nam, bình định và an dân đất Chămpa” (chương 3), “Kinh lược xứ
Đồng Nai” (chương 4) và “Bình định vùng đất của Chân Lạp” (chương 5).
Đây là công trình nghiên cứu cung cấp những tư liệu quan trọng về một trong
những nhân vật có công lớn trong việc mở rộng lãnh thổ, khai phá vùng đất
mới của Đại Việt.
Cuốn “Xứ Đàng Trong năm 1621” của Critstophoro Borri, NXB Thành
phố Hồ Chí Minh (1998) ghi chép về Đàng Trong trong thời gian
Critstophoro Borri lưu trú tại đây (năm 1621). 12 chương của cuốn sách tập
hợp những ghi chép của Critstophoro Borri về quốc hiệu, vị trí và diện tích,
về khí hậu và những đặc tính của Đàng Trong, về đất đai, phong tục tập quán,
đời sống sinh hoạt của nhân dân… Những ghi chép của ông không chỉ cung
cấp cho chúng ta những tư liệu liên quan đến địa lý lịch sử Đàng Trong mà nó
còn cung cấp cho chúng ta rất nhiều tư liệu quan trọng về tình hình chính trị,
quân sự cũng như đời sống Đàng Trong, từ đó cho ta một cái nhìn tổng quát
về vùng đất này.
Cuốn “Mạc Thị Gia Phả” của Vũ Thế Dinh do Nguyễn Khắc Thuần
dịch, NXB Giáo dục, 2002 đã cung cấp tư liệu trong việc nghiên cứu vùng đất
Hà Tiên và dòng họ Mạc, những người tiên phong trong việc mở mang vùng


4


đất cực Nam của tổ quốc. Đọc Mạc Thị Gia Phả, chúng ta biết được những
chính sách của họ Mạc trong việc quy tụ dân lưu tán mở đất Hà Tiên như thế
nào, chính sách cai trị và mở mang vùng đất mới; về niên đại của sự kiện Mạc
Cửu dâng đất Hà Tiên cho chúa Nguyễn, và thấy rõ được công lao của Mạc
Cửu và dòng họ Mạc đối với vùng đất Hà Tiên và sự nghiệp mở mang bờ cõi
của các chúa Nguyễn.
Ngoài ra còn nhiều tác phẩm, công trình nghiên cứu có liên quan đến
quá trình mở rộng lãnh thổ về phía Nam của Đại Việt như “Góp phần tìm
hiểu vùng đất Nam Bộ các thế kỷ XVII, XVIII, XIX” của Huỳnh Lứa, Nhà xuất
bản Khoa học xã hội (2000); “Lịch sử khẩn hoang miền Nam” của Sơn Nam,
NXB trẻ TP Hồ Chí Minh (1997) và “Tìm hiểu đất Hậu Giang và lịch sử đất
An Giang” của nhà văn Sơn Nam (2006); “Vùng đất cổ miền Đông Nam bộ”
của Vương Liêm, “Lược sử vùng đất Nam bộ” của Vũ Minh Giang… Nhiều
tác phẩm, công trình biên khảo, công trình nghiên cứu có giá trị đã cung cấp
những tư liệu quan trọng và những kiến giải khoa học cho việc tìm hiểu về
quá trình mở rộng và sự hoàn thiện lãnh thổ của Đại Việt.
Nghiên cứu về vấn đề địa lý lịch sử Việt Nam còn có các luận án thạc
sĩ, tiến sĩ như luận án Tiến sĩ lịch sử của Nguyễn Nhã với đề tài “Quá trình
xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng sa và Trường sa” năm
2009; hay luận án “Công cuộc mở đất Tây Nam Bộ thời chúa Nguyễn” của Đỗ
Quỳnh Nga (2012). Đó đều là những công trình nghiên cứu có giá trị về địa lý
lịch sử Việt Nam ở đất liền cũng như hải đảo.
Bên cạnh đó cũng có rất nhiều hội thảo đã được tổ chức nhằm nghiên cứu
về quá trình mở rộng và hoàn thiện lãnh thổ Việt Nam nhất là dưới thời các chúa
Nguyễn và vương triều Nguyễn. Trong số đó tiêu biểu là cuộc hội thảo khoa học
về chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn được tổ chức ở Thanh Hóa (tháng
12/2008) đã góp phần cung cấp thêm tư liệu và nhận định về quá trình này.


5


Điểm qua quá trình nghiên cứu của các tác giả từ xưa đến nay như vậy
cho chúng ta có cái nhìn khái quát nhất về vấn đề nghiên cứu địa lý lịch sử
dân tộc nhưng một điều chúng ta dễ nhận thấy là các công trình đó mới chỉ đề
cập tới những khía cạnh nhất định của vấn đề mà chưa công trình nào đề cập
một cách hệ thống nhất về quá trình mở rộng và hoàn thiện lãnh thổ Việt Nam
như thế nào. Cho đến nay, một sự nghiên cứu có hệ thống và đầy đủ về quá
trình này vẫn đang là mối quan tâm, là sự cần thiết đối với những người
nghiên cứu và học tập lịch sử.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm sáng tỏ từng bước quá trình
mở rộng lãnh thổ nước ta về phương Nam, đồng thời với đó là quá trình “hợp
thức hóa” vùng lãnh thổ ấy vào trong lãnh thổ Đại Việt để từ đó có sự nhìn
nhận chính xác nhất về một trong những nội dung vô cùng quan trọng của lịch
sử dân tộc – đó là vấn đề chủ quyền biên giới lãnh thổ.
3.2. Nhiệm vụ của đề tài
Trước hết, nghiên cứu vấn đề này nhằm dựng lại một bức tranh có hệ
thống về quá trình Nam tiến mở rộng và từng bước xác lập chủ quyền lãnh thổ
Việt Nam dưới các triều đại phong kiến. Từ đó cho chúng ta có những đánh giá
chính xác về công lao của các triều đại phong kiến với quá trình từng bước mở
rộng và hoàn thiện lãnh thổ dân tộc.
Thứ hai, nghiên cứu vấn đề này còn cho ta thấy sự phát triển của nền
văn hóa Việt Nam dưới triều Nguyễn nhất là về sự phát triển của các tác phẩm
lịch sử, địa chí… Đây chính là một trong những đóng góp quan trọng của nhà
Nguyễn với lịch sử dân tộc mà chúng ta không thể phủ nhận.
Đồng thời đây còn là nguồn tư liệu quan trọng nhằm khẳng định chủ

quyền lãnh thổ đất nước nhất là vùng biển đảo hiện nay.

6


4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Lịch sử hình thành và phát triển của lịch sử lãnh thổ Việt Nam từ xưa
đến nay luôn là đối tượng quan tâm nghiên cứu của rất nhiều học giả. Chính
vì vậy có rất nhiều bộ sách, các công trình nghiên cứu, các hội thảo được tổ
chức về vấn đề này. Tuy nhiên trong phạm vi có hạn, luận văn chỉ tập trung
nghiên cứu về quá trình Nam tiến mở rộng và xác lập chủ quyền lãnh thổ Việt
Nam chứ không phải nghiên cứu về tất cả sự thay đổi địa giới hành chính qua
các triều đại.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Không gian: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về quá trình Nam tiến mở
rộng và hoàn thiện lãnh thổ Việt Nam thông qua một số bộ địa chí tiêu biểu
được biên soạn dưới triều Nguyễn cuối thế kỉ XIX. Đó chính là các cuốn Đại
Việt địa dư toàn biên (1882) của Nguyễn Văn Siêu và Đại Nam nhất thống
chí (1882) của Quốc Sử quán triều Nguyễn.
Thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu, làm sáng tỏ quá trình Nam tiến
mở rộng và hoàn thiện lãnh thổ Việt Nam từ thế kỉ XVII đến thế kỉ XVIII.
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu.
5.1.Nguồn tư liệu
Nguồn tư liệu gốc đó là các bộ địa chí được biên soạn dưới triều Nguyễn
như Đại Việt địa dư toàn biên (1882) của Nguyễn Văn Siêu; Đại Nam nhất thống
chí (1882) do Quốc sử quán biên soạn.
Các bộ chính sử do nhà nước phong kiến hay cá nhân biên soạn như:
Đại việt sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn,
Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú...


7


Bên cạnh đó còn có các giáo trình, sách chuyên khảo, các bài viết, các
công trình có liên quan đến đề tài như: Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam,
Lịch sử Việt Nam…
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Về phương pháp luận, chúng tôi dựa trên quan điểm sử học Mác-xit là
kim chỉ nam trong quá trình thực hiện đề tài.
Về phương pháp cụ thể, trong đề tài sử dụng các phương pháp chuyên
ngành: phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic… Ngoài ra, còn sử dụng kết hợp
các phương pháp khác như phương pháp sưu tầm, chọn lọc tài liệu, phương pháp
tổng hợp, phân tích, đối chiếu, so sánh và giám định tư liệu để đưa ra những nhận
xét, đánh giá.
6. Đóng góp của đề tài
Thực hiện đề tài này tôi mong muốn có một vài đóng góp sau:
Thứ nhất: Đề tài mong muốn cung cấp bức tranh khái quát nhất về quá
trình Nam tiến mở rộng và xác lập chủ quyền lãnh thổ Việt Nam qua các thời
kì lịch sử nhất là dưới thời các chúa Nguyễn thế kỉ XVII _ XVIII.
Thứ hai: Từ đó có sự nhìn nhận, đánh giá đúng đắn về vai trò cũng như
đóng góp của nhà Nguyễn với lịch sử dân tộc trong quá trình mở rộng lãnh
thổ, nhất là trên lĩnh vực văn hóa.
Thứ ba: Thực hiện đề tài này còn nhằm khơi gợi tinh thần yêu nước và
ý thức trách nhiệm của các thế hệ trẻ trong thời đại ngày nay nhằm bảo vệ sự
toàn vẹn lãnh thổ non sông - tài sản vô giá mà ông cha ta để lại.
Thứ tư: Đây còn là nguồn tài liệu tham khảo để giảng dạy, học tập và
nghiên cứu lịch sử Việt Nam.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, bố

cục của đề tài còn gồm 3 chương:

8


Chương 1: Nhu cầu mở rộng lãnh thổ và quá trình Nam tiến trong lịch
sử dân tộc trước thế kỉ XVII.
Chương 2: Một số bộ địa chí tiêu biểu được biên soạn dưới triều Nguyễn
và quá trình mở rộng - xác lập chủ quyền lãnh thổ (thế kỉ XVII – XVIII).
Chương 3: Ý nghĩa của quá trình mở rộng, hoàn thiện lãnh thổ đất
nước đối với lịch sử dân tộc.

9


CHƯƠNG I: NHU CẦU MỞ RỘNG LÃNH THỔ VÀ QUÁ TRÌNH
NAM TIẾN TRONG LỊCH SỬ DÂN TỘC TRƯỚC THẾ KỈ XVII
1.1. Nhu cầu mở rộng lãnh thổ dưới các triều đại phong kiến Đại Việt
1.1.1. Động lực thúc đẩy quá trình mở rộng biên giới lãnh thổ
Lịch sử là những gì đã xảy ra và Nam tiến là điều có thật trong dòng
chảy của lịch sử dân tộc Việt. Không phải ngẫu nhiên mà từ một vùng lãnh
thổ chỉ tương ứng với vùng Bắc Bộ Việt Nam ngày nay thời mới lập quốc mà
đến những năm cuối thế kỉ XVII-XVIII lãnh thổ ấy đã được mở rộng chưa
từng thấy và dần định hình như bây giờ kéo dài từ Bắc xuống Nam tới tận mũi
Cà Mau. Vậy nguyên do từ đâu?
Cũng giống như các dân tộc khác trên thế giới, Việt Nam đã từng trải
qua thời kì lịch sử phong kiến kéo dài với nhiều biến động thăng trầm, thịnh
có, suy có. Nếu tính từ sự kiện năm 938, Ngô Quyền xưng vương sau khi
chiến thắng quân Nam Hán trên dòng Bạch Đằng, mở đầu thời kì phong kiến
độc lập tự chủ của dân tộc tới sự kiện Bảo Đại – vị vua cuối cùng thoái vị

năm 1945 thì chế độ phong kiến Việt Nam đã trải qua hơn 10 thế kỉ tồn tại
với nhiều triều đại khác nhau. Cùng nhìn lại và không thể phủ nhận rằng:
nhiều giá trị lịch sử - văn hóa của dân tộc được sản sinh và phát triển rực rỡ ở
thời đại này. Cũng không thể phủ nhận rằng đã từng có sự tồn tại của một
quốc gia Đại Việt hùng mạnh bậc nhất khu vực Đông Nam Á cả về kinh tế chính trị - quân sự trong lịch sử. Sức mạnh nội lực ấy đã từng tô vẽ cho thần
dân Đại Việt một cuộc sống thái bình thịnh trị; đã từng khống chế được cơn
tham vọng muốn nuốt trọn một vùng lãnh thổ phía Nam trù phú của các triều
đại phong kiến phương Bắc và sức mạnh ấy cũng đã từng khiến cho các nước
láng giềng lân bang nhỏ bé hơn phải kiêng nể, hơn cả đây còn là “vũ khí”
quan trọng để các bậc đế vương từng bước khẳng định giấc mộng phương

10


Nam của mình. Ý thức vươn mình tới những vùng đất mới ở phương Nam để
sinh sôi, để sinh tồn luôn được quan dân Đại Việt lưu tâm ngay từ những buổi
đầu mới gây dựng giang sơn cơ đồ.
Trong hơn 10 thế kỉ tồn tại ấy, trải qua các triều đại từ Ngô – Đinh –
Tiền Lê, Lý, Trần…tới Lê sơ, Lê Trung Hưng rồi nhà Nguyễn, lịch sử chế độ
phong kiến Việt Nam thịnh suy theo từng triều đại, từng thời kì khác nhau.
Nếu như từ thế kỉ X đến XV được coi là thời kì xác lập của chế độ phong kiến
Việt Nam với đỉnh cao là nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập
quyền đạt tới sự hoàn thiện thời Lê sơ thì những thế kỉ tiếp theo được lịch sử
ghi nhận là thời kì có những bước phát triển mới và từng bước suy vong của
chế độ phong kiến. Sự phát triển này gắn liền với những biến động của tình
hình chính trị cũng như sự hưng khởi của nền kinh tế hàng hóa mà biểu hiện
của nó là sự nở rộ của hàng loạt các đô thị, các trung tâm buôn bán sầm uất.
Hơn thế, thời kì này còn ghi nhận sự mở rộng phạm vi lãnh thổ chưa từng có
trong lịch sử dân tộc, về cơ bản, hình hài đất nước được hoàn thiện gần như
ngày nay. Cũng cần thấy rằng, không chỉ đến thời kì này, tức là từ thế kỉ XVI

trở đi, đặc biệt dưới thời các chúa Nguyễn, quá trình mở rộng lãnh thổ mới
được tiến hành mà quá trình ấy đã manh nha ngay từ những thế kỉ XI, XII.
Nhưng điểm khác biệt ở đây là, nếu ở những thế kỉ trước, đất có được thường
là thành quả của những cuộc chiến chinh phạt với mục đích bảo vệ biên giới
lãnh thổ trước sự quấy rối của ngoại xâm là chính thì đến những thế kỉ XVIXVIII, sự mở rộng ấy còn là cơ sở cho sự sinh tồn của quốc gia dân tộc.
Chính vì vậy mà lịch sử đã được chứng kiến quá trình mở rộng lãnh thổ như
vũ bão của Đại Việt chỉ trong khoảng một, hai thế kỉ vào giai đoạn cuối của
lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam.
Cần thấy rằng, lãnh thổ kéo dài đó của nước Việt ta là sản phẩm của cả
tiến trình lịch sử bắt đầu từ lúc hình thành Nhà nước đầu tiên, nước Văn Lang

11


- Âu Lạc thời Hùng Vương, An Dương Vương, rồi tiếp tục với công cuộc xây
dựng và bảo vệ đất nước qua các thời kỳ lịch sử cho đến giữa thế kỷ XVI đã
mở rộng vào đến vùng Thuận Quảng. Thời kỳ các chúa Nguyễn và vương
triều Nguyễn kế thừa thành quả đó và mở mang vào đến tận đồng bằng sông
Cửu Long.
Vậy, bối cảnh nào đã thúc đẩy các vua chúa Đại Việt đẩy mạnh quá
trình mở rộng biên giới lãnh thổ, đặc biệt là ở những thế kỉ XVII-XVIII?
Không thể phủ nhận rằng một trong những cơ sở quan trọng giúp
đẩy mạnh quá trình mở rộng biên giới lãnh thổ ở những thế kỉ XVII –
XVIII chính là nhờ sức mạnh nội lực của quốc gia phong kiến Đại Việt
được tạo lập từ những thế kỉ trước, đặc biệt là ở thế kỉ XV dưới thời trị vì
của các vị vua triều Lê sơ.
Sau khi “Ngô Vương Quyền nối lại quốc thống”, chấm dứt hơn 1000
năm Bắc thuộc, mở ra cơ đồ mới cho dân tộc thì ngay sau đó các triều đại
phong kiến Ngô – Đinh – Tiền Lê đến Lý, Trần, Hồ, Lê sơ đã nối tiếp nhau
xây dựng và phát triển hệ thống quốc gia ngày một hoàn chỉnh. Có thể coi các

vương triều Ngô – Đinh – Tiền Lê là đại diện cho một thời kì lịch sử quá độ
từ ngoại thuộc qua tự chủ đến độc lập. Đây là những thế kỉ bản lề góp phần
đặt nền móng cho sự nghiệp khôi phục độc lập, thống nhất quốc gia, xây dựng
chính quyền quân chủ tự chủ cả về kinh tế - chính trị - văn hóa. Sự nghiệp đó
sẽ được củng cố và phát triển lên một tầm cao mới trong những thế kỉ tiếp
theo. Quả đúng vậy.
Dưới các triều đại Lý – Trần, sau đó là Lê sơ, lịch sử một mặt ghi nhận
quá trình chuyển đổi mô hình chính trị mạnh mẽ, từ nền quân chủ chuyên chế
trung ương tập quyền mang đậm nét quý tộc với rường cột là Phật giáo sang
nền quân chủ Nho giáo quan liêu. Đỉnh cao của sự chuyển đổi đó là sự hoàn
bị của bộ máy nhà nước quân chủ chuyên chế - quan liêu thời vua Lê Thánh

12


Tông (1460 - 1498). Bộ máy chính quyền ở trung ương, địa phương ngày
càng hoàn thiện với đầy đủ các bộ phận riêng lẻ, cai quản từng công việc cụ
thể trong nước. Hệ thống luật pháp cũng được chú trọng đảm bảo việc duy trì
ổn định trật tự của xã hội.
Đại Việt thời kì này cũng đã xây dựng được cho mình một lực lượng
quân sự hùng mạnh, tinh nhuệ. Đây chính là công cụ để duy trì ổn định trong
nước, bảo vệ đất nước khi giặc ngoại xâm đồng thời là vũ khí để thể hiện sức
mạnh với bên ngoài. Trải qua các triều đại, lực lượng quân đội ngày càng
được tổ chức có quy mô và hoàn chỉnh hơn trong công tác huấn luyện và
trang bị vũ khí. Sức mạnh của lực lượng quân sự Đại Việt được thể hiện
thông qua các thắng lợi trong các cuộc chiến tranh chống sự xâm lược của các
triều đại phong kiến phương Bắc cũng như trong quá trình dẹp yên sự quấy
rối biên giới lãnh thổ của các nước nhỏ lân bang. Mà một trong những láng
giềng không mấy thân thiện chính là Cham pa, Chân Lạp ở phía Nam.
Sự hùng mạnh của một quốc gia còn thể hiện trên các lĩnh vực kinh tế,

văn hóa - xã hội. Thời kì này nền kinh tế - văn hóa dân tộc có nhiều khởi sắc,
sức mạnh quốc gia được củng cố vững bền. Chính sách chung của các triều
đại đều là đề cao vai trò chỉ đạo và sự can thiệp của nhà nước vào đời sống
kinh tế - xã hội, duy trì sự cân bằng giữa những yếu tố nhà nước và dân gian,
công hữu và tư hữu. Thời kì này, nhân dân Đại Việt ra sức xây dựng một nền
kinh tế tự chủ, toàn diện, vừa đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu nhất của đời
sống, trao đổi buôn bán với nước ngoài vừa sẵn sàng đáp ứng các nhu cầu làm
chỗ dựa cho một cuộc kháng chiến lâu dài khi có giặc ngoại xâm.
Ngay sau khi đất nước thoát khỏi ách đô hộ của phong kiến phương
Bắc, các triều đại nối tiếp nhau đã thực hiện nhiều chính sách nhằm khôi
phục, phát triển nền kinh tế, chăm lo đến đời sống của nhân dân.

13


Trong các thế kỉ XI-XV, kinh tế nông nghiệp được coi là nền tảng chủ
yếu, sản xuất nông nghiệp vì vậy cũng được khuyến khích phát triển. Trên
danh nghĩa, nhà vua vẫn là người có quyền sở hữu tối cao về ruộng đất trong
cả nước. Các triều đại đều không ngừng mở rộng ruộng đất công, thi hành
nhiều chính sách quan trọng về ruộng đất và tập trung phát triển các ngành
kinh tế đất nước.
Chính sách “ngụ binh ư nông” đều được các triều đại chú trọng nhằm
vừa tập trung lực lượng phát triển sản xuất nông nghiệp vừa đảm bảo duy trì
lực lượng thường trực cho quân đội khi có chiến sự. Hàng năm tất cả quân
lính, thợ thủ công của nhà nước và phu dịch trong hoàng cung thay nhau về
sản xuất nông nghiệp, sức kéo trâu bò cũng được bảo vệ. Đồng thời, để đảm
bảo nền sản xuất và sự sống bình thường của nhân dân các làng ven sông, ven
biển, các ông vua còn chú tâm tới công tác chăm lo đê điều, nhiều con đê
ngăn nước mới được xây dựng như đê Cơ Xá thời Lý, đê Quai Vạc thời Trần,
đê Hồng Đức thời Lê sơ…

Để trông coi việc xây đắp, bảo vệ đê điều, thực thi các chính sách
khuyến nông, vua cho đặt ra chức quan Hà đê sứ, trông coi việc đê điều. Nhờ
những chính sách đó đã góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy sự phát triển
của nông nghiệp. Năng xuất mùa màng ngày càng được nâng cao, đời sống
nhân dân được cải thiện và ổn định. Trong nước đâu đâu cũng thấy cảnh phồn
thịnh. Vì thế dân gian thời kì này vẫn thường lưu truyền:
Đứng mãi nào hay ngày đã muộn
Khắp đồng lúa tốt tựa mây xanh
Hay
“Đời vua Thái Tổ, Thái Tông
Con bế con dắt, con bồng, con mang...
Đời vua Thái Tổ, Thái Tông
Thóc lúa đầy đồng trâu chẳng buồn ăn”

14


Không chỉ nông nghiệp mà các ngành kinh tế thủ công nghiệp và
thương nghiệp cũng được nhà nước quan tâm phát triển. Nhiều làng nghề thủ
công xuất hiện với các nghề như: làm gốm, nghề dệt, đúc chuông, tạc tượng,
làm đồ thủ công mĩ nghệ…chợ búa mọc lên khắp nơi. Đơn vị tiền tệ và đo
lường được chấn chỉnh và thống nhất.
Về thương nghiệp, tuy chính sách chung của các triều đại đều là “trọng
nông ức thương” nhưng cũng có thể thấy những bước khởi sắc. Việc buôn bán
với nước ngoài ngày càng phát triển, thuyền buôn các nước tới Việt Nam buôn
bán ngày càng đông, từ nhiều vùng khác nhau, nhiều nhất là thuyền buôn Trung
Quốc, Java và Xiêm La…Vân Đồn trở thành một trung tâm buôn bán lớn với
người nước ngoài thời bấy giờ, kinh thành Thăng Long trở thành một nơi buôn
bán sầm uất. Hàng hóa dùng để buôn bán cũng đa dạng và phong phú hơn, chủ
yếu là các mặt hàng như tơ lụa, đồ gốm, các sản vật địa phương.

Có thể khẳng định, sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, văn hóa, quân sự
của Đại Việt từ thế kỉ XI-XV đã tạo nên một quốc gia phong kiến hùng mạnh ở
Đông Nam Á, sánh ngang với các triều đại phong kiến phương Bắc. Đất nước
phát triển, đời sống nhân dân được nâng cao, dân số tăng lên nhanh chóng. Nhu
cầu về đất đai cho sản xuất, địa bàn cư trú ngày càng trở thành nhu cầu không
thể thiếu trong chính sách đối nội của các triều vua. Điều đó đã thúc đẩy các hoạt
động khai khẩn, di dân tới các vùng đất còn hoang vu, xa xôi.
Những cơ sở kinh tế - chính trị - quân sự đó giúp Đại Việt có thể đương
đầu với mọi khó khăn lúc bấy giờ, bảo vệ được đất nước trước những hành
động xâm lược, quấy phá từ bên ngoài. Sức mạnh ấy không chỉ giúp Đại Việt
lần lượt đánh bại âm mưu xâm lược của phong kiến phương Bắc mà còn giúp
cho “cái uy nước lớn” trong tư thế với các nước nhỏ lân bang được củng cố.
Còn nhớ, chiến thắng vang dội trên dòng Như Nguyệt trong kháng chiến
chống Tống thời Lý, thắng lợi vẻ vang trong ba lần kháng chiến chống Mông

15


– Nguyên thời Trần, rồi tới khởi nghĩa Lam Sơn vang dội giành lại độc lập
cho dân tộc… Những thắng lợi ấy không những giúp cho Đại Việt hiên ngang
trong quan hệ với các triều đại phong kiến phương Bắc mà còn khiến cho các
nước láng giềng kiêng nể.
Bấy giờ, hai nước láng giềng phía Nam Đại Việt là Chăm pa - Chân
Lạp rất hiếu chiến. Ban đầu, những cuộc xung đột nhỏ giữa hai nước chỉ diễn
ra ở vùng vùng biên giới, nhưng sau đó có những lần Chăm pa, Chân Lạp còn
tấn công vào sâu trong lãnh thổ Đại Việt. Vì lẽ đó, chính quyền phong kiến
Đại Việt đã phát binh đi đánh dẹp nhằm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và dân cư
của mình. Và trong mỗi trận chiến đó, có nước thắng trận, có nước bại trận.
Không thể phủ nhận vì lớn mạnh nên Đại Việt thường xuyên là người chiến
thắng. Những chiến thắng mà sau này không chỉ còn bó hẹp ở vùng biên giới

hai nước mà nó đã trở thành những chiến thắng quân sự lớn trên lãnh thổ của
các nước láng giềng. Chiến lợi phẩm thu được sau mỗi cuộc chiến cũng lớn
hơn. Đầu tiên là châu báu, vàng bạc sau đó là chiếm đất, giành dân.
Như vậy, có thể thấy đặt trong bối cảnh chung trong quan hệ của các
quốc gia Đông Nam Á bấy giờ thì những chiến thắng quân sự đó giống như
một chất xúc tác thúc đẩy nhanh hơn nữa những tham vọng mở rộng lãnh thổ
về phía các nước láng giềng phía Nam Đại Việt. Sức mạnh trong nước, nhu
cầu về đất đai cho sản xuất và cư trú cùng với những chiến lợi phẩm thu được
trong các thắng lợi quân sự là động lực thúc đẩy việc mở rộng lãnh thổ. Mặc
khác, trong hoàn cảnh thế giới khép kín thời xưa, lẽ sinh tồn của các dân tộc
nhỏ không được bảo vệ, cũng như tham vọng đất đai của các nước mạnh
không bị ngăn chặn bởi luật lệ của các định chế quốc tế hay khả năng can
thiệp quốc tế như hiện nay. Chính vì vậy, quá trình Nam tiến được manh nha
ngay dưới triều Lý thế kỉ XI, trải qua các triều đại Trần – Hồ - Lê sơ tiếp tục
phát triển, đặc biệt là đẩy mạnh hơn bao giờ hết sau thế kỉ XVI.

16


Thế kỉ XVI là thế kỉ chứng kiến biết bao thăng trầm của chế độ phong
kiến Việt Nam. Từ thế kỉ XVI trở đi những biến động liên tiếp về chính trị xã hội, rồi sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế hàng hóa… giống như đòn bẩy
giúp đẩy nhanh hơn nữa quá trình mở rộng lãnh thổ về phương Nam nhằm
mở rộng không gian sinh tồn của các thế lực phong kiến Đại Việt.
Ngay từ cuối thế kỉ XV đầu thế kỉ XVI, mô hình tổ chức nhà nước cũng
như các chính sách của nhà Lê sơ đã bộc lộ những hạn chế và mâu thuẫn
nghiêm trọng. Hệ thống quan lại hoàn bị nay trở thành một bộ máy quan liêu
cồng kềnh, nạn tham nhũng tràn lan. Đặc biệt, thời kì những ông “vua quỷ”
Lê Uy Mục và “vua lợn” Lê Tương Dực nắm quyền, triều đình hoàn toàn mất
hết vai trò tích cực, vua quan lao vào con đường ăn chơi sa đọa. “Vua quỷ”
Uy Mục là người u tối, lại có tật nghiện rượu, hoang dâm, hiếu sát “Từ khi

lên ngôi, vua đêm nào cũng cùng cung nhân uống rượu vô độ. Khi rượu say
thì giết cả cung nhân” [43; 131]. Hay Lê Tương Dực cũng không kém phần
sa đọa “Xa hoa, dâm dục quá độ, hình phạt nặng, thuế khóa nhiều, giết hết
các thân vương, can qua xảy ra khắp nơi, người thời ấy gọi là vua lợn” [43;
132]. Vua quan sao nhãng việc triều chính, xây dựng cung điện, lăng tẩm liên
miên. Thiên tai, mất mùa, nạn đói thường xuyên diễn ra, đè nặng lên vai
những người nông dân khốn khổ. Quan lại ra sức tung hoành, nhũng nhiễu
cướp bóc trong nhân dân. Giặc dã nổi lên nhiêu nơi. Triều đình, chia bè kéo
phái, chém giết lẫn nhau, bọn quần thần tìm cách thâu tóm quyền lực, ngôi
vua chúa bị thay lên đổi xuống liên tục. Chưa bao giờ trong lịch sử chế độ
phong kiến Việt Nam lại có sự náo loạn về chính trị như vậy.
Chính trong bối cảnh đó, Thái phó Mạc Đăng Dung đã bức vua Lê phải
nhường ngôi cho mình, lập ra nhà Mạc. Không chấp nhận điều đó, một bộ
phận cựu thần Nhà Lê đã nổi dậy chống đối.

17


Cụ thể, năm 1532, An Thành hầu Nguyễn Kim đã lập một người con
của vua Lê Chiêu Tông tên là Ninh lên làm vua (ở Thanh Hóa), kêu gọi
những người ủng hộ nhà Lê nổi dậy đấu tranh chống nhà Mạc. Một triều đình
mới được thành lập ở Thanh Hóa, đối địch với nhà Mạc ở Thăng Long, sử cũ
gọi là Nam triều, để phân biệt với nhà Mạc ở Thăng Long là Bắc triều.
Cuộc chiến Nam – Bắc triều kéo dài hơn 60 năm, từ năm 1533 đến năm
1592, với hơn 30 trận lớn nhỏ để lại biết bao tang thương cho nhân dân, tàn
phá nghiêm trọng nền kinh tế của quốc gia. Cuộc chiến chỉ chấm dứt vào năm
1592, khi quân Mạc bị thua to, tháo chạy lên Cao Bằng.
Những tưởng cuộc chiến tranh Nam – Bắc triều kết thúc thì đất nước được
thái bình nhưng ngay sau đó, đất nước lại phải chứng kiến sự đối chọi giữa các
tập đoàn phong kiến mà sử cũ gọi là thời kì Trịnh – Nguyễn phân tranh. Đối lập

với chính trị, kinh tế Đại Việt có sự phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, sự phát triển
này lại không mang định hướng như những thế kỉ trước, kinh tế nông nghiệp
không còn là chủ đạo, mà nhường chỗ cho sự phát triển của thương nghiệp. Đó
chính là biểu hiện của sự phát triển nền kinh tế hàng hóa.
Sự biến động về chính trị cũng như kinh tế - xã hội những thế kỉ XVI –
XVIII được coi là nền tảng quan trọng, là động lực chính thúc đẩy quá trình mở
rộng và xác lập chủ quyền về phương Nam của chính quyền các chúa Nguyễn.
Trong lúc Nam Triều đang hưng thịnh, năm 1545 Thái sư Hưng quốc
công Nguyễn Kim đã bị một hàng tướng của nhà Mạc đầu độc. Sau khi
Nguyễn Kim chết, vua Lê trao toàn bộ quyền hành cho Trịnh Kiểm là con rể
của Nguyễn Kim. Ngay lập tức Trịnh Kiểm tìm mọi cách loại bỏ thế lực của
Nguyễn Kim, sát hại anh vợ là Nguyễn Uông. Nhận biết được mưu đồ của
Trịnh Kiểm đối với dòng họ của mình, Nguyễn Hoàng là em của Nguyễn
Uông đã cho người đến hỏi ý kiến Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.

18


Lại nói về nhân vật này. Người Việt Nam dường như ai cũng biết đến
nhân vật Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585). Giới có học ngưỡng
mộ văn thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm qua tác phẩm trứ danh “Bạch Vân thi tập”.
Còn quảng đại quần chúng lại biết đến ông qua những điều tiên tri về thời
cuộc, vì thế mà dân gian vẫn lưu truyền Sấm Trạng Trình.
Điển hình là khi Nguyễn Hoàng có ý “Nam tiến” đã cho người tới hỏi
Trạng Trình, ông phán rằng: “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân” nghĩa
là một dãy Hoành Sơn kia có thể yên thân được muôn đời. Nghe theo,
Nguyễn Hoàng đã nhờ chị gái mình là Ngọc Bảo – vợ của Trịnh Kiểm xin
anh rể cho vào trấn thủ vùng đất Thuận Hoá với hi vọng sẽ vừa tránh được âm
mưu sát hại của Trịnh Kiểm, vừa có thể âm thầm chuẩn bị lực lượng cho riêng
mình, chờ cơ hội để giành lại quyền lực.

Phải chăng lời tiên tri của Trạng Trình chính là động lực tâm lý, củng
cố thêm quyết tâm Nam tiến của Nguyễn Hoàng, để rồi từng bước gây dựng
nên cơ đồ?
Nhận thấy đất Thuận Hóa xa xôi, hiểm trở nên Trịnh Kiểm nhận lời.
Trịnh Kiểm dâng biểu tâu vua Lê Anh Tông rằng: “Thuận Hóa là nơi quan
trọng, quân và của do đấy mà ra, buổi quốc sơ nhờ đấy mà nên nghiệp lớn.
Nay lòng dân hãy còn tráo trở, nhiều kẻ vượt biển đi theo họ Mạc, sợ có kẻ
dẫn giặc về cướp, ví không được tướng tài trấn thủ vỗ yên thì không thể xong.
Đoan Quận Công là con nhà tướng, có tài trí mưu lược, có thể sai đi trấn ở
đấy, để cùng với tướng trấn thủ Quảng Nam cùng nhau giúp sức thì mới đỡ lo
đến miền Nam” [22; 15]. Vua Lê nghe theo và trao cho trấn tiết, phàm mọi
việc đều ủy thác, mỗi năm chỉ việc nộp thuế cho triều đình mà thôi.
Vì lẽ đó, năm 1558, Nguyễn Hoàng từ vùng đất Tống Sơn (Thanh Hoá)
đã đưa toàn bộ gia quyến cùng trung thần ở Thanh Hóa, Nghệ An theo đường
biển vào trấn thủ vùng đất Thuận Hoá, nuôi ý đồ xây dựng cơ nghiệp lâu dài.

19


Từ khi vào trấn thủ vùng đất Thuận Hoá, trước mắt bề ngoài Nguyễn
Hoàng vẫn tỏ ra thần phục vua Lê – Chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, việc cống nạp
được duy trì đều đặn. Nhưng, bên trong Nguyễn Hoàng ngấm ngầm tìm cách
nhanh chóng khai phá dải đất Đàng Trong, tạo thực lực để đối chọi với tập
đoàn phong kiến Lê – Trịnh về sau. Ý đồ lớn lao đó được thể hiện qua lời
chăng chối của Nguyễn Hoàng đối với người con thứ sáu Nguyễn Phúc
Nguyên: “Đất Thuận Quảng phía Bắc có Hoành Sơn và Linh Giang, phía
Nam có Hải Vân và Thạch Bi, địa thế hiểm trở, thật là nơi để cho người anh
hùng dụng võ. Nếu biết dạy bảo nhân dân, luyện tập binh sĩ, kháng cự lại nhà
Trịnh thì sẽ gây dựng được cơ nghiệp muôn đời” [22; 20]. Như vậy, ngay cả
lúc sắp trút hơi thở cuối cùng, Nguyễn Hoàng vẫn sáng suốt di ngôn cho con

cháu và quần thần tiếp tục thực hiện sự nghiệp còn dang dở, thể hiện tầm nhìn
xa trông rộng của một vị quân vương có tài.
Không chỉ vậy, chân dung Nguyễn Hoàng còn được khắc sâu bởi hành
động hết lòng lo cho dân chúng và biết thu phục hào kiệt. Chúa Nguyễn chiêu
mộ dân chúng, khuyến khích khẩn hoang, cho phép lập ruộng tư; cấp lương
thực, nông cụ cho tù binh, biến họ thành lực lượng khai hoang. Đồng thời
dùng chính sách khoan hoà, chinh phục cư dân Champa, Chân Lạp. Đó là
những chính sách mà ông đã tạo ra để đẩy mạnh cuộc khẩn hoang, mở rộng
lãnh thổ. Mặt khác, ông còn chú tâm thu hút hào kiệt để công cuộc Nam tiến
và xây dựng lực lượng chính quyền Đàng Trong có hiệu quả cao “Bấy giờ ở
miền Nam lại có những người tôi giỏi giúp rập như các ông Nguyễn Hữu Dật,
Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu Tiến... Những người ấy giúp chúa Nguyễn, bày
mưu định kế, luyện tập quân lính, xây đồn đắp luỹ để chống với quân Trịnh”
[24; 39-40]. Những việc làm trên đã để lại trong lòng người dân Đàng Trong
sự kính trọng và biết ơn vô cùng đối với Nguyễn Hoàng. Danh xưng “Chúa
Tiên” vì đó mà ra đời.

20


Như vây, Nguyễn Hoàng là vị chúa vừa mưu lược, vừa khôn ngoan lại
có lòng nhân đức, biết thu phục hào kiệt, vỗ về dân chúng, chú tâm phát triển
kinh tế, biết nhẫn nhịn chờ thời cơ, lập chí lớn, mở mang bờ cõi, gây dựng cơ
nghiệp lâu dài để lại cho con cháu mai sau. Tất cả những việc làm ấy chỉ có
thể có được ở những nhân vật kiệt xuất, những tên tuổi lớn của lịch sử.
Quả không sai khi nhận xét: “Đoan Quận Công có uy lược, xét kỹ,
nghiêm minh, không ai dám lừa dối. Cai trị hơn 10 năm, chính sự khoan hòa,
việc gì cũng thường làm ơn cho dân, dùng phép công bằng, răn giữ bản bộ,
cấm đoán kẻ hung dữ. Quan dân hai xứ thân yên tín phục, cảm nhân mến
đức, dời đổi phong tục, chợ không bán hai giá, người không ai trộm cướp,

cửa ngoài không phải đóng, thuyền buôn ngoại quốc đều đến mua bán, đổi
chác phải giá, quân lệnh nghiêm trang, ai cũng cố gắng, trong cõi đều an cư
lạc nghiệp. Hàng năm nộp thuế má giúp việc quân, việc nước, triều đình cũng
được nhờ...” [16; 42]
Sau khi nối nghiệp cha, Nguyễn Phúc Nguyên đã tiếp tục củng cố chính
quyền, tách khỏi sự phụ thuộc vào họ Trịnh, chỉ nộp thuế hàng năm. Năm
1623, Nguyễn Phúc Nguyên tuyệt giao với họ Trịnh, không chịu nộp thuế
nữa. Lấy cớ đó, năm 1627, họ Trịnh mang quân vào tấn công Thuận Hóa,
cuộc chiến tranh Trịnh – Nguyễn bùng nổ.
Cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn kéo dài suốt từ năm 1627 đến năm
1672 với bảy trận chiến lớn nhưng không mang lại thắng lợi cho bên nào, hai
bên đã lấy sông Gianh làm ranh giới chia cắt Đàng Trong và Đàng Ngoài. Từ
đó nước ta rơi vào tình trạng bị chia cắt lãnh thổ trong suốt 100 năm. Cả chính
quyền ở Đàng Ngoài và Đàng Trong sau đó đã ra sức xây dựng bộ máy chính
quyền riêng của mình. Đáng ghi nhận hơn cả, đó chính là quá trình các vị
chúa Nguyễn nối tiếp nhau mở mang bờ cõi Đại Việt về phương Nam bằng
nhiều cách thức, con đường khác nhau.

21


Nạn chiến tranh liên miên giữa các thế lực phong kiến Nam - Bắc triều
buộc nhân dân phải phiêu tán, ách áp bức bóc lột của địa chủ quan lại đã làm
nông dân khốn cùng, thiên tai liên tiếp trong nửa cuối thế kỷ XVI trở thành
những “nhân hoạ” và “thiên tai” cho nhân dân. Để mưu sinh, nhân dân vùng
Thanh Nghệ phải chạy vào Thuận Quảng và xa hơn, lúc bấy giờ còn là đất
Champa, Chân Lạp xưa.
Đặc biệt, ở những thế kỉ XVI – XVII, mặc dù lãnh thổ bị chia cắt, song
nền kinh tế của Đại Việt vẫn có bước phát triển mạnh mẽ, đạt được nhiều thành
quả quan trọng. Kinh tế trong nước phát triển, việc buôn bán với nước ngoài

cũng được đẩy mạnh. Thời kì này, kinh tế Đàng Trong phát triển hơn cả.
Ở Đàng Trong chính quyền họ Nguyễn đã thực hiện nhiều chính sách
nhằm khai hoang, mở rộng điện tích đất sản xuất nông nghiệp. Chính sách
khẩn hoang đã mang lại nhiều kết quả tốt đẹp. Đối với các vùng đất mới khẩn
hoang được chính quyền Đàng Trong thực hiện “pháp chế khoan dung giản
dị”, nhờ vậy mà kinh tế nông nghiệp phát triển mạnh mẽ, đời sống nhân dân
được chăm lo. Điều này trái ngược hoàn toàn với bức tranh xã hội Đàng
Ngoài. Lúc này, ruộng đất công trở thành cơ sở để nuôi quân lính của chính
quyền họ Trịnh, dẫn tới tình trạng nhân dân thiếu ruộng đất để sản xuất, ruộng
tư ngày càng lấn át ruộng công. Kinh tế nông nghiệp ở Đàng Ngoài ngày càng
giảm sút. Đời sống của nhân dân ngày càng khó khăn.
Các thương nhân nước ngoài đến buôn bán với cả hai miền ngày một
đông, với khối lượng hàng hóa trao đổi ngày càng lớn, phong phú và đa dạng
về chủng loại. Trong đó nổi bật là các thương nhân phương Tây như Bồ Đào
Nha, Hà Lan, Pháp, Anh. Các thương nhân và tàu buôn các nước phương
Đông vẫn tiếp tục đến buôn bán, nổi bật là thương nhân Trung Quốc và
thương nhân Nhật Bản, chợ búa mọc lên khắp nơi. Hàng hóa dùng trao đổi
buôn bán đa dạng, phong phú nhiều chủng loại và với số lượng ngày càng lớn.

22


Thương nhân ngoại quốc tới nước ta để mua những sản phẩm như tơ lụa, đồ
gốm, trầm hương, các sản vật địa phương. Việc buôn bán với thương nhân
phương Tây khá phát triển và đó là một tín hiệu lạc quan và có tác động lớn
đến sự phát triển kinh tế trong nước và những thay đổi trong xã hội, nhưng
các vua chúa ban đầu chỉ lợi dụng thương nhân các nước phương Tây để mua
bán vũ khí, phục vụ cho lợi ích, quyền lợi riêng cho mình. Bởi vậy mà các
mối quan hệ duy trì không được bền lâu.
Như vậy, có thể khẳng định rằng sự biến động về chính trị thế kỉ XVI, đặc

biệt là ở đầu thế kỉ XVII đã trở thành động lực chính thúc đẩy quá trình Nam tiến
mở rộng lãnh thổ của dân tộc. Đất đai lúc này không chỉ đơn thuần là thành quả dĩ
nhiên mà chiến thắng trong chiến tranh mang lại, mà nó còn là điều kiện tiên
quyết quyết định sự tồn tại của chính quyền phong kiến Đàng Trong.
Mặt khác, nhu cầu mở rộng biên giới lãnh thổ, nhất là quá trình Nam
tiến càng được đẩy mạnh hơn nữa cùng với nhu cầu mở rộng diện tích đất đai
phục vụ sản xuất nông nghiệp cũng như sự gia tăng dân số ngày càng nhanh
của Đại Việt. Khai hoang mở rộng diện tích canh tác và diện tích cư trú sẽ
đáp ứng tình trạng dân số gia tăng nhanh chóng của một nước nông nghiệp.
Xuất phát điểm là nước nông nghiệp nên đa số dân cư Đại Việt là nông
dân. Hầu hết người dân Việt đều sống trong không gian làng xã, gắn bó với
ruộng đất công làng xã. Tuy nhiên, mỗi làng xã cũng chỉ có một diện tích
ruộng đất nhất định. Trong khi đó, dân số thì không ngừng gia tăng. Nếu các
làng vẫn giữ mãi số diện tích ruộng đất cũ thì sẽ gây ra tình trạng đông đúc,
thiếu đất canh tác hoặc chí ít cũng gây ra những hạn chế do vốn đất hẹp.
Chính lẽ đó, công cuộc khai hoang càng trở nên có ý nghĩa. Dưới triều Lý –
Trần công cuộc khai hoang chủ yếu hướng về phía biển. Nhưng càng về sau,
cùng với dấu chân đi mở đất mà diện tích quốc gia Đại Việt tiến dần về
phương Nam. Người Việt tiến về phương nam để mở đất bằng những biện

23


pháp hoà bình cùng làm ăn và giúp đỡ nhau với người Chăm. Do các dân tộc
cùng đến miền đất mới để làm ăn, cuộc sống quá khó khăn, thiên nhiên khắc
nghiệt đã làm cho họ nương tựa vào nhau. Và chính những lớp cư dân Đại
Việt đầu tiên này đã từng bước đặt cơ sở xã hội cho công cuộc Nam tiến của
chính quyền phong kiến Đại Việt sau này, nhờ họ mà quá trình sáp nhập lãnh
thổ Cham pa, Chân Lạp vào lãnh thổ Đại Việt được tiến hành nhanh chóng và
thuận lợi hơn rất nhiều. Như vậy, công cuộc khai hoang không chỉ có ý nghĩa

là mở rộng diện tích đất canh tác cho nông nghiệp mà còn có ý nghĩa vô cùng
quan trọng trong mở rộng diện tích quốc gia dân tộc.
Các triều đại phong kiến đều phát triển theo quy luật thịnh suy. Sự hưng
thịnh thường chỉ gắn với thời kì đầu của các vương triều khi nhà nước còn chăm
lo tới đời sống nhân dân. Còn càng về cuối triều đại, vua quan càng sao nhãng,
ăn chơi vô độ, kinh tế ngày càng thất kém, mất mùa xảy ra liên miên. Vua quan
ăn chơi xa xỉ, tiềm lực của đất nước không còn vững mạnh như trước nữa. Đời
sống nhân dân khổ cực, mùa màng thất bát, đất đai sản xuất ngày càng bị thoái
hóa và thu hẹp lại. Đặc biệt, từ thế kỉ XV trở đi, khi ruộng đất tư ngày càng
chiếm ưu thế thì nhu cầu về đất đai sản xuất, địa bàn cư trú mới của nhân dân
nghèo đói càng trở nên cấp thiết hơn. Rồi, tình trạng chiến tranh giữa các tập
đoàn phong kiến diễn ra liên miên, xã hội rối loạn. Điều đó đã làm cho số lượng
dân đi li tán, bỏ quê hương đi nơi khác kiếm sống ngày càng nhiều. Họ rời bỏ
gia đình, quê hương của mình để đi tìm một vùng đất mới có thể cho họ cuộc
sống tốt đẹp hơn. Một bộ phận đã di cư về phía Nam bằng đường bộ và cả trên
những chiếc thuyền nhỏ đến cư trú sinh sống trên lãnh thổ của các vương quốc
phía nam Đại Việt là Champa, Chân Lạp.
Như vậy, sự phát triển mọi mặt của quốc gia phong kiến Đại Việt từ thế
kỉ XI đến thế kỉ XV, đặc biệt là những biến động của nền kinh tế - chính trị ở
những thế kỉ XVI – XVIII đã trở thành động lực chính thúc đẩy quá trình mở
rộng biên giới lãnh thổ, nhất là về phương Nam.

24


Cũng chính sự phát triển trong nước làm cho những nhu cầu về phát
triển kinh tế, xã hội xuất hiện. Những vấn đề về dân số, địa bàn cư trú, sản
xuất của người dân ngày càng gia tăng. Những chính sách di dân đi khai phá
các vùng đất mới được các triều đại chú trọng và thúc đẩy. Chính những nhu
cầu này khiến các triều đại đẩy mạnh hơn việc mở rộng lãnh thổ. Lúc đầu chỉ

là về phía biển để tăng diện tích sản xuất, nhưng khi những biến đổi lớn về
tình hình chính trị trong nước và những thay đổi trong tương quan lực lượng
giữa các nước trong khu vực thì nhu cầu mở rộng lãnh thổ về phương Nam
ngày càng bức thiết hơn. Chính quyền của họ Nguyễn ở Đàng Trong bị chính
quyền họ Trịnh ở Đàng Ngoài tìm cách tiêu diệt, buổi đầu sức yếu họ phải
đẩy mạnh việc khai phá mở rộng sản xuất trên vùng đất Thuận Quảng. Nhưng
càng về sau, quá trình Nam tiến càng được thúc đẩy mạnh mẽ, vấn đề lãnh thổ
đã trở thành vấn đề sống còn cho sự sinh tồn của thế lực phong kiến họ
Nguyễn để rồi sau này khai sinh ra triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử
chế độ phong kiến Việt Nam. Đó là vương triều Nguyễn.
Hơn nữa, sự tranh chấp để xác lập và bảo vệ chủ quyền giữa các quốc
gia cũng nằm trong bối cảnh chung của những cuộc chiến tranh Đông Nam Á
ở thời điểm bấy giờ. Quốc gia Chiêm Thành, nằm ở phía Nam nước ta là một
vương quốc tuy không mạnh nhưng luôn sẵn sàng tấn công xâm chiếm Đại
Việt khi đủ lực lượng. Nhân dân vùng biên giới luôn phải chịu sự quấy nhiễu
của quân Chiêm. Sống ở những thung lũng chật hẹp dọc duyên hải, phía tây
ngăn cách bởi núi cao, phía đông là biển cả nên họ phải đi tìm những gì họ
không có. Người Chàm thường mưu đồ tiến ra Bắc, vào Nam xâm chiếm các
vùng đồng bằng màu mỡ phì nhiêu của Đại Việt và Chân Lạp. Các vua Chàm
phần nhiều đều hiếu chiến nên thường duy trì một đội quân đông đảo. Với đội
quân đó, người Chiêm Thành đã bao phen làm khốn khổ các lực lượng đô hộ
Trung Quốc, quấy phá nước Việt, làm cho Mông Cổ hùng mạnh bậc nhất phải

25


×