Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Bài thu hoạch BDTX THCS năm 2015-2016 các module1,14,22,37.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.93 KB, 21 trang )

TRƯỜNG THCS HẠ SƠN

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập- Tự do- Hạnh phúc
Hạ Sơn, ngày

tháng 04 năm 2016

BÀI THU HOẠCH
Bồi dưỡng thường xuyên của giáo viên THCS
Năm học 2015-2016
- Họ tên giáo viên:

Năm sinh:

- Tổ chuyên môn: Khoa học Xã hội
- Trình độ chuyên môn: Đại học

Môn đào tạo: Ngữ văn

1. Những nội dung học, môđun cá nhân tự bồi dưỡng:
* Nội dung được học tập và bồi dưỡng trong suốt năm học:
1.1. Nội dung bồi dưỡng 1: 30 tiết/năm học/giáo viên.
- Bồi dưỡng về chính trị, thời sự, các nghị quyết, chính sách của Đảng, Nhà nước
như: Nghị quyết của BCH trung ương Đảng, của Tỉnh ủy Nghệ An, của cấp ủy địa
phương.
1.2. Nội dung bồi dưỡng 2:
* Giáo dục Trung học cơ sở: 30 tiết/môn/cấp học.
Tập huấn bồi dưỡng chuyên đề môn Ngữ văn-GDCD
1.3. Khối kiến thức tự chọn (Nội dung bồi dưỡng 3) 60 tiết/năm học/giáo viên.


Căn cứ nhu cầu và năng lực của cá nhân, tôi đăng ký học 4 module sau:
- Module 1: Đặc điểm tâm lí của học sinh THCS
- Module 14: Xây dựng kế hoạch dạy học theo hướng tích hợp.
- Module 22: Sử dụng một số phần mềm dạy học.
- Module 37: Giáo dục vì sự phát triển bền vững ở trường THCS.
2. Thời gian bồi dưỡng:
Từ ngày 01 tháng 8 năm 2015 đến ngày 31 tháng 5 năm 2016
3. Những kiến thức và kỹ năng cá nhân tiếp thu được: ( trả lời các câu hỏi ND1,
2, 3)

a/ Nội dung 1: ( 10 đ)

1


Anh chị hãy nêu tình hình giáo dục và đào tạo hiện nay? Mục tiêu, nhiệm vụ, giải
pháp và các quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục của Đảng và nhà nước? Thực trạng
tại đơn vị anh ( chị) đang công tác?
Kết quả đạt được: Sau khi nghiên cứu học tập, bản thân nắm bắt, tiếp thu được
những kiến thức sau:
* Đối với Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng cộng sản Việt
Nam:
A - Tình hình và nguyên nhân
1- Lĩnh vực giáo dục và đào tạo nước ta đã đạt được những thành tựu quan
trọng, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2- Tuy nhiên, chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu,
nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp.
3- Những hạn chế, yếu kém nói trên do các nguyên nhân chủ yếu sau:
- Mục tiêu giáo dục toàn diện chưa được hiểu và thực hiện đúng.
- Việc phân định giữa quản lý nhà nước với hoạt động quản trị trong các cơ sở

giáo dục, đào tạo chưa rõ. …
B- Định hướng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo
I- Quan điểm chỉ đạo
1- Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà
nước và của toàn dân
2- Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn,
cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương
pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện
3- Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang
phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học.
4- Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội
và bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ khoa học và công nghệ; phù hợp quy luật khách quan.

2


5- Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các
bậc học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo. Chuẩn hóa, hiện đại hóa
giáo dục và đào tạo.
6- Chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường,
bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục và đào tạo.
7- Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục và đào tạo, đồng
thời giáo dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để phát triển đất
nước.
II- Mục tiêu
1 Mục tiêu tổng quát
Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo;
đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập
của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất

tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng
bào; sống tốt và làm việc hiệu quả.
Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt;
có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm
các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa
và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa và bản sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình
độ tiên tiến trong khu vực.
III- Nhiệm vụ, giải pháp
1- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với đổi mới
giáo dục và đào tạo
2- Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào
tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học
3- Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả
giáo dục, đào tạo, bảo đảm trung thực, khách quan
4- Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở,
học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập

3


5- Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống
nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo; coi
trọng quản lý chất lượng
6- Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo
dục và đào tạo
7- Đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp của
toàn xã hội; nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo
8- Nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công
nghệ, đặc biệt là khoa học giáo dục và khoa học quản lý

9- Chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo dục, đào
tạo
* Đối với Công văn: Số 1432/BGDĐT-GDTrH về việc Hướng dẫn thực hiện
nhiệm vụ Giáo dục Trung học năm học 2015-2016 của Sở GD&ĐT Nghệ An .
A. NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM

1. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả, sáng tạo việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh
2. Tiếp tục chỉ đạo thực hiện tinh giản nội dung dạy học; xây dựng và triển khai dạy
học các chủ đề tích hợp; tăng cường các hoạt động nhằm giúp học sinh vận dụng kiến
thức liên môn vào giải quyết các vấn đề thực tiễn. Mở rộng, nâng cao chất lượng Cuộc
thi khoa học kỹ thuật học sinh trung học năm học 2015-2016.
3. Tiếp tục tập trung chỉ đạo đổi mới đồng bộ phương pháp dạy học và giáo dục
4. Tập trung phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục trung học về năng
lực chuyên môn, kỹ năng phát triển chương trình giáo dục nhà trường phổ thông;
5. Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu lực và hiệu quả công tác quản lý đối với các cơ sở
giáo dục trung học theo hướng tăng cường phân cấp quản lý,
B. CÁC NHIỆM VỤ CỤ THỂ

I. Thực hiện kế hoạch giáo dục

4


1. Tăng cường chỉ đạo thực hiện nghiêm túc, linh hoạt, sáng tạo chương trình, kế hoạch
giáo dục, từng bước nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giáo dục:
2. Đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá
II. Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý
1. Tăng cường xây dựng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý
2. Tăng cường nâng cao chất lượng hoạt động chuyên môn của cán bộ quản lý, giáo

viên
3. Tăng cường quản lý đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục
* Công văn bản: 430/GD&ĐT Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ GDTrH năm học
2015-2016 của Phòng GD&ĐT Nghệ An.
A. Nhiệm vụ trọng tâm
1.Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá, tạo sự chuyển
biến cơ bản về tổ chức hoạt động dạy học.
2.Tiếp tục thực hiện nội dung các cuộc vận động, phong trào thi đua các ngành phát
động.
3.Tăng cường bồi dưỡng đội ngủ giáo viên và cán bộ quản lý về năng lực chuyên môn
4.Tiếp tục đổi mới nâng cao hiện lực và hiệu quả công tác quản lý
* Các nhiệm vụ cụ thể.
I. Triển khai đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục trung học.
1. Tổ chức thực hiện chương trình và kế hoạch giáo dục
2. Đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá.
3. Đổi mới hoạt động chuyên môn.
4. Tăng cường xây dựng điều kiện dạy học.
II. Các hoạt động khác
1. Công tác xây xựng trường đạt chuẩn quốc gia.
2. Công tác phổ cập giáo dục.
III. Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý.
1. Công tác tập huấn, bồi dưỡng và tự bồi dưỡng.
2. Đổi mới công tác quản lý giáo dục.

5


IV. Hưởng ứng và tổ chức các cuộc thi
1. Các cuộc thi do Bộ tổ chức
2. Các cuộc thi do Sở, Phòng tổ chức.

V. Công tác thi đua, khen thưởng; kiểm tra, đánh giá
5. Những nội dung bản thân sẽ vận dụng vào thực tiễn giảng dạy và giáo dục tại
đơn vị:
Sau khi nghiên cứu, học tập các nội dung trên, bản thân tôi nhận thức sâu sắc
rằng để thực hiên tốt nhiệm vụ giáo dục giáo viên cần nắm vững, kiên định theo
quan điểm chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về định hướng phát triển Giáo dục –
Đào tạo, hiểu rõ mục tiêu và thực hiện tốt các nhiệm vụ, giải pháp căn bản, trọng tâm
về giáo dục và đào tạo; Giáo viên cần xác định được nhiệm vụ năm học và yêu cầu
đặt ra trong tình hình mới. Bản thân giáo viên trước hết cần phấn đấu tu dưỡng, rèn
luyện đạo đức, phẩm chất nhà giáo; nâng cao năng lực giảng dạy, nghiên cứu khoa
học, phấn đấu tự học, tự sáng tạo, luôn là tấm gương sáng cho học sinh noi theo; nâng
cao kiến thức bộ môn, phương pháp giảng dạy hiệu quả, đổi mới hình thức kiểm tra
đánh giá học sinh; bồi dưỡng, giáo dục học sinh phát triển toàn diện; Đầu tư tiết dạy
có chất lượng, xây dựng kế hoạch giáo dục và giảng dạy khoa học, hiệu quả; Thực
hiện đúng nội quy cơ quan, giữ gìn phẩm chất nhà giáo, luôn có tinh thần học tập,
nâng cao trình độ.

b/ Nội dung 2: ( 10 đ)
Nêu quá trình tự học, nhận thức bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ của anh chị trong
năm học 2015-2016 cùng việc vận dụng trong công tác giảng dạy?
Kết quả đạt được:
* Nhận thức về đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) môn Ngữ văn và GDCD
Trước những khó khăn của thực tiễn giáo dục, khi thực hiện đổi mới PPDH,
chúng ta phải chấp nhận một giải pháp quá độ mang tính cải tiến, với phương châm
là: dạy học tạo điều kiện để học sinh “suy nghĩ nhiều hơn, làm việc nhiều hơn, thảo
luận nhiều hơn”.

6



Việc cải tiến PPDH cần được thực hiện ở tất cả các khâu: xác định mục tiêu bài học;
tổ chức hoạt động học tập; sử dụng thiết bị dạy học, đánh giá kết quả học tập của học
sinh; soạn giáo án (lập kế hoạch bài học). Ở đây bản thân chỉ đề cập vấn đề: lượng
hóa mục tiêu bài học và tổ chức hoạt động học tập theo mục tiêu được lượng hóa.
1. Lượng hóa mục tiêu dạy học: Từ nhiều năm nay, giáo án của giáo viên hay
trong hướng dẫn giảng dạy, mục tiêu bài học (mục đích yêu cầu) thường viết chung
chung như: nắm được khái niệm năng suất tỏa nhiệt..., đặc điểm của quá trình nóng
chảy… Nhiều khi mục tiêu còn được hiểu là những điều mà GV sẽ phải làm, trong
quá trình giảng dạy: “Cung cấp cho HS những kiến thức cơ bản về…, củng cố khái
niệm trọng lượng, khối lượng, rèn luyện kĩ năng,...”. Với cách trình bày mục tiêu bài
học như vậy ta không có cơ sở để biết khi nào HS đạt được mục tiêu đó.
Với định hướng dạy học mới, mục tiêu của bài học được thể hiện bằng sự
khẳng định về kiến thức, kĩ năng và thái độ mà người học sẽ phải đạt được ở mức độ
nhất định sau tiết học (chứ không phải là hoạt động của GV trên lớp như trước đây).
Mục tiêu của bài học sẽ là căn cứ để đánh giá chất lượng học tập của học sinh và hiệu
quả thực hiện bài dạy của GV. Do đó mục tiêu của bài học phải cụ thể sao cho có thể
đo được hay quan sát được, tức là mục tiêu bài học phải được lượng hóa. Người ta
thường lượng hóa mục tiêu bằng các động từ hành động, một động từ có thể dùng ở
các nhóm mục tiêu khác nhau:
* Nhóm mục tiêu thái độ, thường dùng các động từ sau: tuân thủ, tán thành,
phản đối, hưởng ứng, chấp nhận, bảo vệ, hợp tác,...
* Nhóm mục tiêu kiến thức ta lượng hóa theo 3 mức độ (trong 6) mức độ nhận
thức của Bloom.
Mức độ nhận biết, thường dùng các động từ: phát biểu, liệt kê, mô tả, trình bày,
nhận dạng,…
Mức độ thông hiểu, thường dùng các động từ: phân tích, so sánh, phân biệt,
tóm tắt, liên hệ, xác định,...
* Nhóm mục tiêu kĩ năng

7



Ta tạm chia làm 2 mức độ: làm được và làm thành thạo một công việc. Các
động từ thường dùng là: nhận dạng, liệt kê, thu thập, lập dàn bài, viết bài, làm bài tập,
trình bày miệng….
2. Tổ chức cho học sinh hoạt động
a. Lựa chọn nội dung kiến thức để tổ chức cho HS hoạt động, SGK và chuẩn
kiến thức kỹ năng đã trình bày các đơn vị kiến thức theo định hướng hoạt động.
Trong từng đơn vị kiến thức, GV có thể tổ chức những hoạt động khác nhau để HS
chiếm lĩnh kiến thức. Căn cứ vào nội dung kiến thức trong SGK và chuẩn kiến thức
kỹ năng, điều kiện thiết bị, thời gian học tập và khả năng học tập của HS, GV cân
nhắc và lựa chọn nội dung để tổ chức cho HS hoạt động. Trong khi lựa chọn kiến
thức phải chú ý đến phần giảm tải.
b. Dự kiến hệ thống câu hỏi hướng dẫn Hs hoạt động
Trong mỗi hoạt động, GV dự kiến hệ thống câu hỏi xen kẽ với những yêu cầu Hs
hoạt động để hướng dẫn HS tiếp cận, tự phát hiện và chiếm lĩnh kiến thức mới. Mỗi
hoạt động đều nhằm mục tiêu chiếm lĩnh một kiến thức hay rèn luyện một kĩ năng cụ
thể phục vụ cho việc đạt được mục tiêu chung của bài học. Hệ thống câu hỏi của GV
nhằm hướng dẫn HS tiếp cận, phát hiện và chiếm lĩnh kiến thức trong từng hoạt động
giữ vai trò chỉ đạo, quyết định chất lượng lĩnh hội của lớp học
* Vận dụng
1. Lượng hóa mục tiêu dạy học:
Với những yêu cầu mới của xã hội đối với GD, mục tiêu dạy học không chỉ là
những yêu cầu thông hiểu, ghi nhớ, tái hiện kiến thức, lặp lại đúng, thành thạo các kĩ
năng như trước đây, mà còn đặc biệt chú ý đến năng lực nhận thức, năng lực tự học
của HS. Những nội dung mới về mục tiêu này chỉ có thể hình thành dần dần qua hệ
thống nhiều bài học, nhiều môn học và chỉ có thể đánh giá được sau một giai đoạn
học tập xác định (sau 1 học kì, 1 năm học, cấp học) nên thường ít được thể hiện trong
mục tiêu của bài học cụ thể.
2. Tổ chức cho học sinh hoạt động

* Tổ chức tình huống học tập (chủ yếu là xác định nhiệm vụ học tập)
* Lập kế hoạch khám phá

8


* Xử lí thông tin
* Thông báo kết quả làm việc
* Giải bài tập (định tính, định lượng, thực nghiệm)
* Làm đồ chơi, dụng cụ học tập
* Học thuộc lòng
* Một số kĩ năng đặt câu hỏi

c/ Nội dung 3: ( 10 đ) Các module: 01, 14, 22, 37.
Câu 1: Vai trò và giải pháp của việc giáo dục đạo đức học sinh trong nhà trường
hiện nay?( 2,5đ)
Trả lời:
Từ xưa, ông cha ta đã đúc kết một cách sâu sắc kinh nghiệm về giáo dục “Tiên học
lễ, hậu học văn “, “Lễ” ở đây chính là nền tảng của sự lĩnh hội và phát triển tốt các tri
thức và kỹ năng. Ngày nay, phương châm “Dạy người, dạy chữ, dạy nghề“ cũng thể
hiện rõ tầm quan trọng của hoạt động giáo dục đạo đức, như Bác Hồ đã dạy: “Dạy
cũng như học, phải chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái
gốc quan trọng. Nếu thiếu đạo đức, con người sẽ không phải là con người bình
thường và cuộc sống xã hội sẽ không phải là cuộc sống xã hội bình thường, ổn
định...”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Có tài không có đức chỉ là người vô
dụng. Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó “.
Đảng ta đã chủ trương: “Tăng cường giáo dục công dân, giáo dục tư tưởng, đạo
đức, lòng yêu nước, chủ nghĩa Mác – Lê Nin, đưa việc giáo dục tư tưởng Hồ Chí
Minh vào nhà trường phù hợp với từng lứa tuổi và bậc học...”. Bởi vậy, tu dưỡng và
rèn luyện bản thân để trở thành người có nhân cách, vừa có đức vừa có tài là hết sức

quan trọng đối với mỗi con người, là nhiệm vụ hàng đầu của thanh niên, học sinh.
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC LÀ GÌ ?

Ngày nay giáo dục đạo đức cho học sinh là giáo dục lòng trung thành đối với
Đảng, hiếu với Dân, yêu quê hương đất nước, có lòng vị tha, nhân ái, cần cù liêm
khiết và chính trực. Đó là đạo đức Xã hội Chủ Nghĩa là đạo đức của cá nhân, tập thể
và chủ nghĩa nhân đạo mang tính chân thực tích cực, khác với đạo đức vị kỷ, cá nhân.
Giáo dục đạo đức học sinh gắn chặt với giáo dục tư tưởng - chính trị, giáo dục truyền
thống và giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc, giáo dục pháp luật nhà nước XHCN, cung

9


cấp cho học sinh những phương thức ứng xử đúng trước vấn đề của xã hội ... giúp
cho các em có khả năng tự kiểm soát được hành vi của bản thân một cách tự giác, có
khả năng chống lại những biểu hiện lệch lạc về lối sống.
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC HỌC SINH:

Trong những năm gần đây, khi xu thế toàn cầu hoá, hội nhập với thế giới, mở ra
cho nước ta những thời cơ, vận hội mới. Nền kinh tế đã có những bước phát triển
vượt bậc, đời sống nhân dân được nâng lên. Công tác giáo dục đã được Đảng và Nhà
nước quan tâm chăm lo. Trong nhà trường, các tổ chức Đoàn thể đã có nhận thức
đúng về tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức học sinh, chất lượng giáo dục
ngày càng được nâng cao. Bên cạnh những thành tựu của ngành Giáo dục và Đào tạo
như: Số học sinh học giỏi, chăm ngoan vẫn nhiều … đã góp phần tạo nên những
thành quả quan trọng trong thực hiện mục tiêu của Ngành :”Nâng cao dân trí - Đào
tạo nhân lực - Bồi dưỡng nhân tài" cho đất nước. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân
khách quan và chủ quan:
- Về gia đình: Có gia đình do cha mẹ sống không gương mẫu, cha mẹ ly hôn; hay
buông lỏng giáo dục, phó mặc cho xã hội, cho nhà trường “trăm sự nhờ thầy” …

- Về Nhà trường: Có lúc, có nơi uy tín người thầy bị sa sút, các giá trị truyền
thống “Tôn sư trọng đạo“ bị nhìn nhận một cách méo mó, vật chất hóa, thực dụng; có
trường hợp người thầy không giữ được tư thế đáng kính trọng trong quan hệ thầy trò;
tình trạng vi phạm dạy thêm, học thêm đã tác động xấu đến uy tín của người thầy
trong suy nghĩ học sinh và không ít phụ huynh.
- Về Xã hội: Những hạn chế, tác động xấu từ môi trường của thời kỳ “mở cửa, hội
nhập”, những “tư tưởng văn hoá xấu, ngoại lai”; mặt trái của cơ chế thị trường …có
cơ hội xâm nhập. Đây đó, còn có những hiện tượng suy thoái về đạo đức, mờ nhạt về
lý tưởng, thích chạy theo lối sống thực dụng, thậm chí những hành động phạm pháp
của “người lớn” đã tác động xấu trực tiếp đến học sinh. Các tệ nạn xã hội có nơi, có
lúc đã xâm nhập vào trong trường học; tình trạng một số ít học sinh lún sâu vào tệ
nạn xã hội thậm chí đánh thầy, gây án, giết người, cướp của, … số này tuy không
phổ biến nhưng có xu hướng gia tăng, làm băng hoại đạo đức, tha hoá nhân cách; gây
nỗi đau, đáng lo ngaị cho các bậc cha, mẹ; đã tác động xấu tới các gía trị đạo đức

10


truyền thống, ảnh hưởng không nhỏ trực tiếp đến công tác GDĐĐ học sinh, đến an
ninh trật tự xã hội.
Vai trò giáo dục đạo đức học sinh còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như gia đình
và xã hội, nhưng không phải trường nào cũng có sự phối kết hợp nhịp nhàng 3 yếu tố:
Gia đình, nhà trường và xã hội cũng như để tăng cường công tác giáo dục toàn diện
cho học sinh trong nhà trường theo tinh thần nghị quyết Trung Ương 4 khoá IX của
ban chấp hành Trung Ương Đảng về công tác giáo dục và đào tạo. Tiếp tục thực hiện
cuộc vận động hai không với bốn nội dung: “Nói không với tiêu cực trong thi cử và
bệnh thành tích trong giáo dục. Nói không với vi phạm đạo đức nhà giáo và việc
cho học sinh không đạt chuẩn lên lớp” và phong trào thi đua xây dựng: “Trường
học thân thiện, học sinh tích cực”. Làm thế nào để chúng ta nâng cao chất lượng
giáo dục từ việc phối hợp đồng bộ các môi trường này.

* Một số giải pháp giáo dục đạo đức ở trường:
Công tác quản lý GDĐĐ học sinh trong nhà trường.
- Quản lý thông qua giáo viên chủ nhiệm:
Giáo viên chủ nhiệm (GVCN) là người trực tiếp nắm rõ đặc điểm tâm sinh lý học
sinh. Là người hiểu rõ học sinh hơn ai hết như câu hát “Mẹ của em ở trường là cô
giáo mến thương”. Việc hình thành nhân cách và những hành vi tốt, xấu của học sinh
đều phụ thuộc vào quá trình giáo dục của GVCN. Như học sinh đánh nhau, trốn học,
không học bài, làm bài, nghịch ngợm vv…GVCN đều nắm rất rõ.
Do đó ngay từ đầu năm học Phó hiệu trưởng phụ trách chuyên môn yêu cầu GVCN
phải thường xuyên chú ý đến hành vi của từng học sinh. Qua công việc hàng ngày
của GVCN như kiểm tra việc học, thực hiện nội qui trường, lớp của học sinh GVCN
sẽ biết đánh giá về mặt đạo đức của từng học sinh. Từ đó kịp thời uốn nắn sửa chữa
khi học sinh có thái độ, hành vi đạo đức không tốt. Đặc biệt công tác chủ nhiệm là
khâu quan trọng nhất trong việc GDĐĐ cho học sinh. Ngay từ đầu năm học, yêu cầu
GVCN phải tìm hiểu được hoàn cảnh, cá tính của từng học sinh, có sổ kế hoạch, sổ
chủ nhiệm để theo dõi và phổ biến nhiệm vụ của người học sinh, nội qui của trường,
của lớp, đến từng học sinh để học sinh thực hiện tốt. Lấy đó làm khuôn mẫu, chuẩn
mực chung để đánh giá đạo đức học sinh hàng ngày. Đối với học sinh có những hành

11


vi, vi phạm nghiêm trọng, hoặc giáo dục nhiều lần tại lớp không có hiệu quả thì yêu
cầu GVCN phải mời em đó lên văn phòng để TPT đội kết hợp giáo dục.
- Thông qua các môn học.
Như chúng ta đã biết một trong những chức năng của quá trình dạy học là truyền thụ
tri thức và hình thành phẩm chất đạo đức cần thiết cho học sinh, bất cứ một bài học
nào ở trường phổ thông cũng có tính giáo dục sâu sắc, hiệu quả của mỗi giờ dạy còn
phụ thuộc vào cách truyền thụ của giáo viên. Và để GVCN làm tốt việc này phụ trách
chuyên môn quan tâm theo dõi việc thực hiện giảng dạy các môn của giáo viên như

sau:
+ Đối với môn GDCD:
Chương trình môn GDCD được xem là một phương tiện quan trọng để thực hiện
nhiệm vụ giáo dục tư tưởng, tình cảm, pháp luật cho học sinh một cách trực tiếp,
hoàn chỉnh và sâu sắc. Yêu cầu giáo viên khi dạy môn GDCD là làm cho những tri
thức đạo đức, những chuẩn mực về hành vi đạo đức có trong bài học được thấm sâu,
bền vững, trở thành kĩ năng sống, thói quen hàng ngày của mỗi học sinh. Muốn vậy
giáo viên phải có phương pháp dạy thích hợp với bộ môn, phải chú tâm đi sâu tìm
hiểu đặc trưng bộ môn. Ở đây đòi hỏi khả năng tự trao dồi của giáo viên rất lớn.Yêu
cầu giáo viên dạy môn GDCD đúng theo lịch báo giảng, dạy nghiêm túc không qua
loa, không xem nhẹ môn này. Phụ trách chuyên môn luôn quán triệt đến từng giáo
viên trong việc thực hiện giảng dạy môn GDCD. Tổ chức mở chuyên đề cho giáo
viên môn GDCD để tất cả giáo viên nắm bắt. Đưa ra các phương pháp dạy học theo
hướng tích cực nhằm gây hứng thú cho học sinh như thảo luận nhóm, đóng vai,
phỏng vấn vv… và lên kế hoạch dự giờ giáo viên.
- Đối với các môn khác
Các môn học khác như Ngữ văn, Âm nhạc, Mĩ thuật, Lịch sử, Địa lí,.vv…đều có tri
thức giáo dục trong từng bài học. Do đó, nhiệm vụ của giáo viên phải làm sao cung
cấp những tri thức về các hành vi đạo đức này cho các em. Giáo dục cho học sinh
lòng yêu quê hương, yêu đất nước, con người thông qua từng nội dung môn học. Môn
Lịch sử cần giáo dục cho học sinh về truyền thống hào hùng của dân tộc, biết ơn
Đảng, Bác Hồ. Giáo dục học sinh tinh thần đấu tranh anh dũng, bất khuất của dân tộc

12


ta.
- Giáo dục đạo đức cho học sinh qua hoạt động đội Thiếu niên tiền phong.
Phong trào Đội là phong trào thu hút nhiều học sinh nhất, ở đây học sinh được rèn
luyện, vui chơi trong một tập thể đầy tình thương của bè bạn thầy cô. Hoạt động Đội

là hoạt động phong trào, phong phú và nhiều hình thức, mang tính trực quan sinh
động phù hợp với lứa tuổi học sinh tiểu học và có sức thu hút học sinh. Do đó, Tổng
phụ trách (TPT) với các hoạt động Đội luôn mang tính giáo dục cao và đầy hiệu quả.
Để vận dụng công tác đội và vai trò TPT đội trong việc GDĐĐ cho học sinh. BGH đã
thực hiện các biện pháp quản lý như sau:
+ Tạo điều kiện tốt cho TPT hoạt động:
+ TPT giỏi có khả năng tổ chức các hoạt động phong trào cho nhà trường, giỏi về
chuyên môn đội, nhiệt tình công tác.
+Yêu cầu tất cả giáo viên phải phối hợp tốt với TPT đội để phát động các phong trào
thi đua trong nhà trường. Các phong trào đội đề ra lớp phải thực hiện nghiêm túc, có
đánh giá thi đua đối với giáo viên trong các công tác này.
- Kiểm tra thường xuyên công tác đội, theo dõi tốt công tác trực chấm của sao đỏ.
- Chỉ đạo TPT đội tổ chức tốt việc “Phát thanh măng non”.
+ Phối hợp giữa chuyên môn và đội tổ chức các hoạt động ngoài giờ cho học sinh:
Ở các điểm trường lẽ không có hoặc rất ít những sân chơi để thu hút học sinh trong
giờ chơi. (Sân diện tích hẹp, không có bóng mát) Nên phần lớn học sinh tự tìm trò
chơi giải trí tùy ý và không phù hợp như: Trèo lên bàn, ghế chơi rượt đuổi, trèo cây,
nhảy dây…. Do chưa nhận thức được đúng sai, không có người quản lý nên lúc ở nhà
hoặc trước giờ vào học, học sinh dễ sa vào những trò chơi không lành mạnh.
+ Chào cờ đầu tuần và việc giáo dục đạo đức học sinh.
- Giờ chào cờ vào sáng thứ hai là tiết học quan trọng nhất. Bởi đây là tiết học đánh
giá tổng kết và đưa ra phương hướng trong một tuần, nó giáo dục đạo đức học sinh
một cách trực tiếp và có hiệu quả cao. Ở tiết học này chủ yếu là do Ban giám hiệu và
Tổng phụ trách chỉ đạo và mục đích là giáo dục đạo đức cho các em. Để giờ chào cờ
đạt được kết quả tốt, có tính giáo dục cao BGH luôn chú ý những vấn đề sau:
- Nội dung của phần chào cờ là đánh giá hoạt động đã thực hiện trong tuần của đội,

13



của nhà trường, các mặt làm tốt và tồn tại. Nêu những gương tốt. Sau đó là kế hoạch
hoạt động trong tuần.
+ Thầy cô giáo làm gương cho các em.
Như chúng ta đã biết đối với học sinh, thầy cô giáo luôn là thần tượng của các em.
Các em luôn để ý đến thầy cô, từ cách ăn nói, đến những cử chỉ hàng ngày. Và hành
vi ở trường của thầy cô tác động rất lớn đến việc hình thành nhân cách học sinh. VD:
Trong buổi chào cờ giáo viên nghiêm trang thì học sinh cũng nghiêm trang. Giáo
viên ngồi nói chuyện thì các em cũng ngồi nói chuyện. Nghe tiếng trống đánh vào
lớp giáo viên chưa lên lớp thì các em cũng từ từ không vào lớp.
Phối kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội để giáo dục đạo đức cho học
sinh.
Như ta đã biết hiện nay việc giáo dục đạo đức cho học sinh không còn là việc của
riêng nhà trường nữa mà phải có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường
và xã hội. Có như vậy chúng ta mới làm tốt công tác giáo dục và thực hiện tốt đường
lối “Xã hội hóa giáo dục” của Đảng và Nhà Nước đề ra. Một ngày có 24 giờ nhưng
học sinh chỉ ở trường hơn 4 giờ đối với trường dạy một buổi. Thứ bảy, chủ nhật học
sinh đều ở nhà. Chưa kể hai tháng hè. Do đó ta thấy thời gian học sinh sống, tiếp xúc
cùng các thành viên trong gia đình, với xã hội nhiều hơn là với thầy cô giáo, bạn bè.
Việc hình thành nhân cách học sinh cũng phụ thuộc phần lớn từ phía gia đình và xã
hội.
+ Nhà trường kết hợp với gia đình giáo dục đạo đức cho học sinh.
- Yêu cầu GVCN ngay từ đầu năm học phải nắm được sơ yếu lý lịch của từng học
sinh và điều tra hoàn cảnh cho học sinh, tình hình hoạt động sống, hoàn cảnh gia đình
mình. Từ đó GVCN phải có biện pháp giáo dục đối với từng em. Đặc biệt chú ý
những em mồ côi, sống với ông bà. Ngoài ra yêu cầu GVCN thường xuyên liên hệ
với PHHS bằng sổ liên lạc, bằng thư mời để thông báo tình hình học sinh cho phụ
huynh nắm.
- Nhà trường luôn phối hợp với ban chấp hành hội PHHS để GD đạo đức học sinh.
Hàng tháng BGH đều họp với BCH PHHS để thông báo tình hình chung của nhà
trường, và nhờ phụ huynh can thiệp, hỗ trợ cho các vụ việc nảy sinh ở nhà trường.


14


+ Nhà trường kết hợp các tổ chức, đoàn thể ở địa phương để giáo dục đạo đức cho
học sinh.
Việc phối kết hợp các tổ chức bên ngoài nhà trường để giáo dục Đạo đức học sinh là
việc làm rất quan trọng. Vì môi trường sống học sinh tốt thì học sinh mới trở thành
người tốt.
Câu 2: Anh ( chị) hãy cho biết dạy học tích hợp là gì? Vì sao việc lập kế hoạch dạy
học lại đưọc cho là cần thiết? Những điểm mới trong dạy học theo hướng tích hợp?
(3đ)
Dạy học tích hợp có nghĩa là đưa những nội dung giáo dục có liên quan vào quá trình
dạy học các môn học như: tích hợp giáo dục đạo đức, lối sống; giáo dục pháp luật;
giáo dục chủ quyền quốc gia về biên giới, biển, đảo; giáo dục sử dụng năng lượng tiết
kiệm và hiệu quả, bảo vệ môi trường, an toàn giao thông...
Việc lập kế hoạch dạy học là rất cần thiết bởi những lí do sau:
Chương trình sách giáo khoa hàng năm có thể thay đổi. Ví dụ: với sách giáo khoa
mới thay đổi hiện nay, lượng kiến thức đưa vào một bài, một chương, một giáo trình
lớn hơn rất nhiều so với sách giáo khoa cũ. Thêm nữa lại dạy theo phân ban, việc sắp
xếp thứ tự các phần có thay đổi và số lượng kiến thức cũng không như trước.
Tình hình học sinh có thể thay đổi. Ví dụ: Học sinh giữa các lớp có khác nhau về
trình độ, tỉ lệ học sinh nam, nữ... giữa năm nay với năm khác đối tượng học sinh cũng
có thay đổi. Chính vì vậy phải có kế hoạch giảng dạy sát với đối tượng.
Tình hình địa phương, trường lớp có thể thay đổi. Bộ môn có gắn bó mật thiết với đời
sống, khoa học kĩ thuật. Trong tình hình đổi mới hiện nay, sự lớn mạnh của khoa học
kĩ thuật, sự thay đổi của cuộc sống có ảnh hưởng lớn và tạo điều kiện hỗ trợ với việc
giảng dạy của giáo viên.
Tình hình thiết bị của nhà trường có thể bị thay đổi. Đó là tài liệu, sách giáo khoa,
dụng cụ, thiết bị... phải luôn đổi mới đáp ứng với việc thay sách trong mấy năm vừa

qua và chuẩn bị cho chương trình phân ban sấp tới. Trong kế hoạch ta phải thấy được
vấn đề này để có thể dự trữ mua sắm cho đồng bộ hoặc nghiên cứu sử dụng, sửa
chữa, thuyết minh cho hợp lí với yêu cầu của từng bài dạy.
Trình độ của giáo viên có thay đổi. Qua nhiều năm giảng dạy vốn kinh nghiệm được
tích lũy càng nhiều, thêm nữa giáo viên còn học hỏi được ở các bạn đồng nghiệp, ở

15


các hội nghị, vì vậy sẽ có nhiều cải tiến, có cách suy nghĩ mới về phần, bài mình sẽ
dạy.
Qua kế hoạch giảng dạy có thể đánh giá được bản thân người dạy. Đánh giá giáo viên
về nhiều mặt như tinh thần trách nhiệm, trình độ chuyên môn...
Những điểm mới của việc DHTH: Việc thực hiện các cách DHTH nêu trên không
tránh khỏi những khó khăn khi tích hợp các môn học, bởi vì mọi môn học có những
mục tiêu đặc thù, phương pháp học tập bộ môn, cách đánh giá môn học... vì vậy, để
lập được kế hoạch DHTH cần nghiên cứu kĩ chương trình và sách giáo khoa cấp học,
môn học, cách đánh giá kết quả học tập của HS...
Các giáo viên bộ môn và nhà trường cần có sự trao đổi, thống nhất về kế hoạch
DHTH để công việc này trở nên hài hoà, không gượng ép, đạt được mục tiêu đào tạo
của nhà trường.
Điều quan trọng nhất cần lưu ý không phải là tích hợp theo cách nào: tích hợp bên
trong một môn học, các hoạt động liên môn, quan điểm xuyên môn, tích hợp hoàn
toàn hơn giữa các môn học mà quan trọng là phải xác định được mục tiêu tích hợp để
làm gì, qua DHTH đó sẽ đạt được mục tiêu
phải là cách tốt

gì, và để đạt mục tiêu đó việc tích hợp có

nhất, hiệu quả nhất hay không.


Quan sát bảng dưới để thấy được những tiêu chí chủ yếu có thể định hướng việc lựa chọn
cách làm việc riêng rẽ, cách làm việc theo đề tài tích hợp hoặc sự tích hợp các môn
học xung quanh một mục tiêu tích hợp.
Các môn học riêng biệt

Làm việc theo đề tài tích hợp

Tích hợp hoàn toàn các môn học

(Mục tiêu tích hợp)
Chủ yếu ở cuổi dạy học tiểu học và
Mức độ
Chủ yếu ở dạy học tiểu học.
dạy học trung học.
Mục tiêu các môn học thể hiện Mục tiêu các môn học thể hiện ở Mục tiêu các môn học thể hiện ở thái
Mục tiêu
độ hoặc tích hợp các kiến thức đã
kiến thức.
tìm hiểu, khảo sát.
lĩnh hội.
Các môn học do các giáo viên Các môn học được dự kiến tích hợp
Các môn học dự kiến tích hợp trong
khác nhau giảng dạy (cụ thể trong chương trình hoặt ít nhất có chương trình hoặc tích hợp các kiến
Giáo viên
là các giáo viên chuyên môn thể do cùng một giáo viên giảng thức đã lĩnh hội.
hoá).
dạy.
Các nội dung bao hàm rất nhiều
Nội dung các mổi liên hệ lô gic hoặc


học tập

dựa trên một ngôn ngữ kí
hiệu.

Kĩ năng

Kĩ năng bộ môn được ưu tiên.

Môn học duy nhất là môn học “công
Các môn học gần nhau trong bản chất và
cụ" (ví dụ: Tiếng Việt, Toán học);
trong những loại kĩ năng được phát triển
các môn học khác gồm những đơn
( lịch sử - địa lí), (vật lí – hoá học –

vị nội dung không có nhiều liên
hệ với nhau.

sinh học…)

Quan tâm phát triển những kĩ năng
xuyên môn.

Quan tâm phát triển những kĩ năng
xuyên môn.

16



Ngoài ra, một số hình thức khác cũng có thể sử dụng, chẳng hạn như:
Sử dụng sách giáo khoa riêng biệt, nhưng có lựa chọn một số nội dung để tích hợp
các hoạt động liên môn.
Xây dựng một sổ tài liệu theo đề tài tích hợp trong một học kì.
Xây dựng một tài liệu tham khảo theo dạng “ngân hàng dữ liệu" cho nhiều môn học.
Câu 3: Phần mềm dạy học là gì? Tác dụng của nó trong dạy và học hiện nay? Anh
chị thường sử dụng phần mềm dạy học nào? Kết quả? ( 3 đ)
* Trả lời: ( Qua vận dụng thực tế và kết quả minh chứng)
Sau khi nghiên cứ kĩ module này, tôi nhận thấy rằng:
Hiện nay, với sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin, bên cạnh đó là giá
thành của các thiết bị, máy móc giảm đáng kể, giáo viên có nhiều cơ hội tiếp xúc với
nhiều phần mềm dạy học. Có thể kể đến một số các phần mềm thông dụng mà giáo
viên bộ môn nào cũng có thể sử dụng trong quá trình soạn thảo nội dung dạy học của
mình.
Thời gian gần đây, việc thiết kế bài giảng với sự hỗ trợ của máy tính đang là vấn
đề quan tâm của nhiều giáo viên. Có rất nhiều phần mềm máy tính hỗ trợ thiết kế
chuyên nghiệp như Articulate, Violet, Director, Flash... Tuy nhiên, đa số giáo viên
thích dùng PowerPoint hơn vì dễ sử dụng và có sẵn trong bộ phần mềm Microsoft
Office.
Với PowerPoint, giáo viên có thể sử dụng các hiệu ứng (effect), hoạt cảnh
(animation) cùng các thành phần multimedia như hình ảnh, âm thanh, siêu liên kết
(hyperlink), video nhúng trực tiếp vào PowerPoint…
Hiện nay, giáo viên đã rất quen với việc soạn thảo bài trình chiếu bằng
Powerpoint. Từ tập tin Powerpoint đã có, để tạo hồ sơ bài giảng điện tử e-Learning
theo cuộc thi do Bộ GD&ĐT phát động, chỉ cần cài đặt bổ sung phần mềm Adobe
Presenter và thực hiện thêm một số thao tác đơn giản Adobe Presenter giúp chuyển
đổi các bài trình chiếu Powerpoint sang dạng tương tác multimedia, có lời thuyết
minh, có câu hỏi tương tác, khảo sát, mô phỏng ... Điều khẳng định là Adobe
Presenter tạo ra bài giảng điện tử tương thích với chuẩn quốc tế như SCORM 2004 Đây là phần mềm tạo bài giảng điện tử, trực quan, thân thiện và dễ dùng. Phần mềm


17


có các chức năng tương tự phần mềm PowerPoint và có một số điểm mạnh hơn như
cho phép đưa vào file Flash, PDF, PowerPoint, website, ..., xuất ra nhiều định dạng
EXE, SCORM, web, tạo trắc nghiệm,...
Với nhận thức như vậy, bản thân tôi tham gia đầy đủ các lớp tập huấn sử dụng các
phần mềm của Phòng GD&ĐT như: bộ phần mềm Microsoft Office 2007, trình
chiếu bằng Powerpoint, thiết kế bài giảng Eleaning bằng Adobe Presenter, Lecture
Makler; trong quá trình giảng dạy tôi đã ứng dụng tốt các phần mềm vào soạn thảo
bài giảng trình chiếu, tham gia nhóm thiết kế bài giảng Eleaning dự thi cấp huyện và
được công nhận cấp huyện trong năm học 2015-2016.
Bên cạnh các phần mềm dạy học chung, do đặc thù của từng môn giảng dạy Ngữ
văn và GDCD, tôi đã ứng dụng một số các phần mềm phục vụ cho môn học như:
Power Point, Master Elearning.. để soạn thảo và ứng dụng trong bài giảng.
Câu 4: Anh ( chị ) hiểu phát triển bền vững là gì? Vai trò của giáo dục vì sự phát
triển bền vững ở Việt Nam? ( 2,5 đ)
Trả lời: + Phát triển bền vững là một khái niệm mới nhằm định nghĩa một sự phát
triển về mọi mặt trong xã hội hiện tại mà vẫn phải bảo đảm sự tiếp tục phát triển
trong tương lai xa. Khái niệm này hiện đang là mục tiêu hướng tới nhiều quốc gia
trên thế giới, mỗi quốc gia sẽ dựa theo đặc thù kinh tế, xã hội, chính trị, địa lý, văn
hóa... riêng để hoạch định chiến lược phù hợp nhất với quốc gia đó.
Thuật ngữ "phát triển bền vững" xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980 trong ấn
phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên và Tài
nguyên Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) với nội dung rất đơn giản: "Sự phát triển của
nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những
nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học".
Khái niệm này được phổ biến rộng rãi vào năm 1987 nhờ Báo cáo Brundtland (còn
gọi là Báo cáo Our Common Future) của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới WCED (nay là Ủy ban Brundtland). Báo cáo này ghi rõ: Phát triển bền vững là "sự

phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại
đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai..." 1. Nói cách khác,
phát triển bền vững phải bảo đảm có sự phát triển kinh tế hiệu quả, xã hội công bằng

18


và môi trường được bảo vệ, gìn giữ. Để đạt được điều này, tất cả các thành phần kinh
tế - xã hội, nhà cầm quyền, các tổ chức xã hội... phải bắt tay nhau thực hiện nhằm
mục đích dung hòa 3 lĩnh vực chính: kinh tế - xã hội - môi trường.
*Hai khái niệm gắn liền với quan điểm trên:
- Khái niệm "nhu cầu"...
- Khái niệm của sự giới hạn mà tình trạng hiện tại của khoa học kỹ thuật và sự tổ
chức xã hội áp đặt lên khả năng đáp ứng của môi trường nhằm thỏa mãn nhu cầu hiện
tại và tương lai.
Sau đó, năm 1992, tại Rio de Janeiro, các đại biểu tham gia Hội nghị về Môi trường
và Phát triển của Liên hiệp quốc đã xác nhận lại khái niệm này, và đã gửi đi một
thông điệp rõ ràng tới tất cả các cấp của các chính phủ về sự cấp bách trong việc đẩy
mạnh sự hòa hợp kinh tế, phát triển xã hội cùng với bảo vệ môi trường.
Năm 2002, Hội nghị thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững (còn gọi là Hội
nghị

Rio+10

hay Hội

nghị

thượng


đỉnh

Johannesburg)

nhóm

họp

tại Johannesburg, Cộng hòa Nam Phi với sự tham gia của các nhà lãnh đạo cũng như
các chuyên gia về kinh tế, xã hội và môi trường của gần 200 quốc gia đã tổng kết lại
kế hoạch hành động về phát triển bền vững 10 năm qua và đưa ra các quyết sách liên
quan tới các vấn đề về nước, năng lượng, sức khỏe, nông nghiệp và sự đa dạng sinh
thái.
Theo Tổ chức ngân hàng phát triển châu Á (ADB): "Phát triển bền vững là một loại
hình phát triển mới, lồng ghép quá trình sản xuất với bảo tồn tài nguyên và nâng cao
chất lượng môi trường. Phát triển bền vững cần phải đáp ứng các nhu cầu của thế hệ
hiện tại mà không phương hại đến khả năng của chúng ta đáp ứng các nhu cầu của
thế hệ trong tương lai".
+ Giáo dục vì sự Bền vững (GDBV) là một khái niệm gắn liền với Phát triển
bền vững. Đây không những là một nội dung mà còn là một yêu cầu trong giáo dục,
khi mà ô nhiễm môi trường và cạn kiệt tài nguyên không chỉ gây nguy hại đến con
người và thiên nhiên, mà còn làm tổn thất đến thế hệ tương lai.

19


Trong nhiều năm qua, giáo dục Môi trường (GDMT) đã được ngành giáo dục nước ta
quan tâm và mong muốn lồng ghép vào các môn học ở bậc phổ thông. Tuy nhiên việc
thực hiện lồng ghép GDMT qua các môn học ở bậc phổ thông nói trên chưa trở thành
phổ biến; ngoài ra, GDMT ở nước ta hiện nay cũng còn nặng về “GD về MT”, trong

khi nguyên tắc “GD vì MT và trong MT” chưa được quan tâm đầy đủ. Hơn nữa, bên
cạnh GDMT, thì Giáo dục bền vững (GDBV) cũng đang trở thành một yêu cầu cấp
thiết, đặc biệt trong tình hình nước ta đang tiến hành quá trình công nghiệp hoá và
hiện đại hóa; Cũng như quá trình đô thị hoá đang diễn ra mạnh mẽ và sự phân hoá
giàu nghèo ngày càng trở nên sâu sắc. Tuy nhiên, cho đến nay thì những hoạt động
này ở nước ta còn rất hiếm hoi.
Hiện nay, các trường học ở nước ta nói chung và TP HCM nói riêng, chưa quan tâm
đầy đủ đến vấn đề giáo dục vì sự bền vững cho học sinh-sinh viên. Tuy nhiên, dựa
trên cơ sở nước ta phấn đấu vào năm 2015 phải thực hiện được ít nhất 30 chương
trình đào tạo cử nhân tiên tiến ở một số trường ĐH và đến năm 2020 nước ta lọt vào
top 200 trường ĐH hàng đầu TG thì việc vạch ra một chiến lược nhằm đưa nội dung
GDBV vào chương trình học, bên cạnh các nội dung GD dân số, GD môi trường là
hết sức cần thiết, vì một trong những tiêu chí của một chương trình đào tạo cử nhân
tiên tiến là phải đáp ứng yêu cầu của nền giáo dục vì sự Phát triển Bền vững như
LHQ đã công bố.
Vậy để tiếp cận mục tiêu GDBV trong trường Đại học, bên cạnh nội dung, chương
trình, tài liệu, giáo trình, chúng ta cần triển khai những phương pháp và các hình
thức tổ chức dạy và học như thế nào cho phù hợp với hoàn cảnh kinh tế-xã hội và
những đặc điểm về điều kiện môi trường của nước ta.
Tóm lại GDBV là một quá trình lâu dài, đi từ nhận thức đến kiến thức, rồi đến thái
độ, và hành động. Một trong những con đường giúp thay đổi thói quen, hành vi, để
xây dựng một cuộc sống bền vững là giáo dục. Từ cấp tiểu học đến đại học, từ ngành
tự nhiên đến xã hội, từ nước đang phát triển đến nước phát triển… tất cả mọi người
đều cần được dạy cho biết cách sống hài hoà với thiên nhiên và không làm biến đổi
thiên nhiên, và quan trọng hơn, là con người phải chọn lựa cách sống bền vững.
Trong quá trình phấn đấu trở thành những trường đại học có chương trình đào tạo

20



tiên tiến, các trường đại học ở nước ta cần thiết xem GDBV không những là một nội
dung giáo dục mà còn là trách nhiệm đối với thế hệ tương lai.
4. Những nội dung khó và những đề xuất về cách thức tổ chức bồi dưỡng nhằm
giải quyết những nội dung khó này (ghi rõ từng nội dung, đơn vị kiến thức khó, ý
kiến đề xuất cho những nội dung khó nêu trên):
- Đổi mới phương pháp tuy có thực hiện nhưng các thiết bị dạy học còn chưa đồng bộ
nên trong khi triển khai còn gặp nhiều khó khăn. Đề nghị cấp bù thiết bị cho đủ và
đống bộ.
5. Tự đánh giá (nêu rõ sau khi bồi dưỡng bản thân đã tiếp thu và vận dụng được vào
thực tiễn công tác được bao nhiêu % so với yêu cầu và kế hoạch)
Sau khi học tập , bồi dưỡng và bản thân đã vận dụng các nội dung trên vào thực tiễn
công tác 85% so với yêu cầu và kế hoạch.
6. Kết quả đánh giá, xếp loại BDTX của giáo viên năm học 2015-2016:
- Loại TB: đạt từ 5 đến dưới 7 điểm, không có điểm thành phần nào dưới 5 điểm;
- Loại Khá: đạt từ 7 đến dưới 9 điểm, không có điểm thành phần nào dưới 6 điểm;
- Loại Giỏi: đạt từ 9 đến 10 điểm, không có điểm thành phần nào dưới 7 điểm.
Cả năm học 2015-2016
ĐTB
XL
Chữ ký

KQ đánh giá

Kết quả tự đánh giá của cá nhân
Kết quả đánh giá của Tổ chuyên môn
Kết quả xếp loại của nhà trường

Xếp loại:................
Hạ Sơn, ngày


Hiệu trưởng

Tổ chuyên môn

21

tháng 4 năm 2016

Người viết thu hoạch…



×