Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

tiểu luận Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa các dân tộc thiểu số huyện sông hinh, thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.85 KB, 36 trang )

MỞ ĐẦU
Văn hóa nói chung, di sản văn hóa nói riêng, luôn có vị trí, vai trò quan trọng
trong đời sống con người cũng như trong bản sắc của mỗi dân tộc. Văn hóa không chỉ
làm nên sự khác biệt, tính đặc thù của mỗi dân tộc mà qua đó làm cho đời sống nói
chung thêm phong phú, đa dạng, giúp cho con người vun đắp lòng tự hào đối với bản
sắc của dân tộc mình.
Di sản văn hóa Việt Nam kết tinh trí tuệ, tình cảm, truyền thống của các thế hệ.
Mặc dù phải trải qua biết bao biến cố của lịch sử, bị mất mát, hủy hoại bởi chiến
tranh và điều kiện khắc nghiệt của thiên nhiên, nhưng kho tàng di sản văn hóa ấy vẫn
vô cùng phong phú và đa dạng, đang và sẽ là bệ đỡ tinh thần cho dân tộc vững vàng
trong quá trình phát triển và hội nhập toàn diện với cộng đồng quốc tế.
Di sản văn hóa rất dễ bị mai một và luôn tiềm ẩn nguy cơ biến mất nhanh
chóng. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay công cuộc đổi mới toàn diện, hội nhập sâu
rộng với thế giới đã tác động sâu sắc đến di sản văn hóa dân tộc. Bởi vậy, bảo tồn,
phát huy giá trị của di sản văn hóa dân tộc trong sự phát triển toàn diện đất nước, làm
cho di sản văn hóa tiếp tục tỏa sáng trong giao lưu, hội nhập là nhiệm vụ quan trọng,
có ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
Những thách thức đó đã được Đảng ta sớm nhận định, cụ thể nhất là Hội nghị
lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, Đảng ta đã ra một nghị quyết
riêng về Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc, đồng thời đề ra 10 nhiệm vụ thực hiện, trong đó có nhiệm vụ bảo tồn, phát huy
và phát triển vǎn hóa các dân tộc thiểu số.
Không nằm ngoài nhiệm vụ đó, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên tự hào là địa
phương đang lưu giữ một kho tàng lớn về di sản văn hóa với nhiều loại hình văn hóa
vật thể và phi vật thể, đặc biệt là ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số. 19 dân tộc
thiểu số từ khắp mọi miền đất nước đến đây hội tụ tạo nên sự phong phú, đa dạng
trong đời sống văn hóa vùng đất mới Sông Hinh.
Sau gần 30 năm xây dựng và phát triển, huyện Sông Hinh đã đạt được những
thành tựu đáng kể trên các lĩnh vực kinh tế - văn hóa - xã hội, an ninh quốc phòng.



Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân từng bước được nâng cao. Nhiều di sản
văn hóa vật thể và phi vật thể được gìn giữ, phát huy. Tuy vậy, cũng như các địa
phương khác, những tác động mặt trái của cơ chế thị trường, sự bùng nổ của các
phương tiện thông tin nhất là Internet, vấn đề lợi dụng dân tộc và tôn giáo của các thế
lực thù địch nhằm phá hoại nền văn hoá truyền thống các dân tộc thiểu số, nên đã nảy
sinh lối sống thực dụng, hướng ngoại, phủ nhận vănhoá dân tộc trong một bộ phận
người đồng bào dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó, những hạn chế kéo dài trong công tác
bảo tồn, phát huy di sản văn hóa chưa được khắc phục triệt để, nhiều di sản văn hóa
của đồng bào các dân tộc thiểu số huyện Sông Hinh đang có nguy cơ bị mai một, thất
truyền, hoặc biến dạng, pha tạp. Các nghệ nhân hiểu biết về các loại hình văn hóa
ngày càng ít, trong khi đó thế hệ trẻ thờ ơ, thiếu sự quan tâm với các hoạt động văn
hóa tốt đẹp của đồng bào dân tộc mình.
Những lý do trên đặt ra nhiệm vụ cấp thiết trong việc bảo tồn, phát huy di sản
văn hoá các dân tộc thiểu số địa bàn huyện Sông Hinh. Là một phóng viên của Đài
TT-TH huyện, được giao phụ trách công tác tuyên truyền lĩnh vực văn hóa, tôi thấy
rằng bảo tồn phát huy di sản văn hóa dân tộc thiểu số không những góp phần thực
hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị tại địa phương, mà còn có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng vào việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, góp phần thực hiện thành công mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”. Vì vậy, tôi đã chọn chủ đề“Bảo tồn và phát huy di sản
văn hóacác dân tộc thiểu số huyện Sông Hinh, thực trạng và giải pháp” làm đề
tài tốt nghiệp khóa Trung cấp LLCT-HC K63 huyện Sông Hinh 2012-2014.


Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO TỒN, PHÁT HUY
DI SẢN VĂN HÓA VIỆT NAM
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm văn hóa
Theo quan điểm của UNESCO,văn hoá hôm nay có thể coi là tổng thể những

nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã
hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hoá bao gồm nghệ thuật và văn
chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá
trị, những tập tục và tín ngưỡng.
Theo Chủ Tịch Hồ Chí Minh,“vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống,
loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật,
khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về
mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ các sáng tạo và phát minh đó tức là
văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện
của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi
hỏi của sự sinh tồn” [1].
Trong cuốn giáo trình Cơ sở văn hoá Việt Nam, nhà ngôn ngữ học Trần Ngọc
Thêm định nghĩa văn hoá: “Văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và
tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong
sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội”[2].
1.1.2. Khái niệm di sản văn hoá
Di sản văn hoá là toàn bộ những sản phẩm, những giá trị vật chất và tinh thần
của dân tộc đã sáng tạo, để lại, lưu giữ và trao truyền nhiều thế hệ.
Luật Di sản văn hoá của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xác
định: “di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể,
là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền
từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam”[3].
1.1.3. Phân loại di sản văn hoá


Theo quan niệm của UNESCO, di sản văn hóa bao gồm hai loại:
Di sản “văn hóa vật thể” được hiểu là những sản phẩm văn hóa có thể “sờ thấy
được”. Văn hóa vật thể là một dạng thức tồn tại của văn hóa chủ yếu dưới dạng vật
thể có hình khối, có chiều cao, chiều rộng, trọng lượng, đường nét, màu sắc, kiểu
dáng tồn tại trong không gian và thời gian xác định. Di sản văn hóa vật thể được tạo

tác từ bàn tay khéo léo của con người, để lại dấu ấn lịch sử rõ rệt. Di sản văn hóa vật
thể luôn chịu sự thách thức của quy luật bào mòn của thời gian, trong sự tác động của
con người thời đại sau. Di sản văn hóa vật thể luôn đứng trước nguy cơ biến dạng
hoặc thay đổi rất nhiều so với nguyên gốc.
Di sản văn hóa phi vật thể là dạng thức tồn tại của văn hóa không phải chủ yếu
dưới dạng vật thể có hình khối trong không gian và thời gian, mà nó tiềm ẩn trong trí
nhớ, ký ức cộng đồng, tập tính, hành vi ứng xử của con người và thông qua các hoạt
động sống của con người trong sản xuất, giao tiếp xã hội mà thể hiện ra. Đặc trưng rõ
nhất của văn hóa phi vật thể là nó luôn tiềm ẩn trong tâm thức của một cộng đồng xã
hội và chỉ bộc lộ ra qua hành vi và hoạt động của con người. Văn hóa phi vật thể
được lưu giữ trong thế giới tinh thần của con người và thông qua các hình thức diễn
xướng, nó được bộc lộ sinh động trong tư cách một hiện tượng văn hóa.
Cũng giống như di sản văn hóa vật thể, các hiện tượng văn hóa phi vật thể
cũng có thể bị mai một, biến dạng, hoặc mất đi vĩnh viễn bởi thử thách của thời gian,
bởi sự vô ý thức của con người. Trên cơ sở đồng thuận với quan niệm của UNESCO,
Luật Di sản văn hoá của Việt Nam phân loại di sản văn hóa như sau:
“Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hóa,
khoa học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng truyền miệng,
truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ, lưu truyền khác, bao gồm tiếng nói,
chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng
dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết về nghề thủ công truyền thống, tri thức
về y, dược học cổ truyền, về văn hóa ẩm thực, về trang phục truyền thống dân tộc và
các tri thức dân gian khác. Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch
sử, văn hóa, khoa học, bao gồm các di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh,


di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia (...) Giá trị đặc biệt quý hiếm của bảo vật quốc gia
được thể hiện bằng các tiêu chí sau đây:
a)


Hiện vật nguyên gốc, độc bản;

b)

Hình thức độc đáo;

c)

Có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa, khoa học thể hiện:
-

Là vật chứng của một sự kiện lớn hoặc gắn bó với cuộc sống, sự
nghiệp của anh hùng dân tộc, danh nhân kiệt xuất.

-

Là tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng về giá trị tư tưởng - nhân văn, giá
trị thẩm mỹ và hình thức thể hiện tiêu biểu cho một khuynh hướng, một
phong cách, một thời đại;

-

Là sản phẩm được phát minh, sáng chế tiêu biểu có giá trị thực tiễn
cao, có tác dụng thúc đẩy xã hội phát triển ở một giai đoạn lịch sử nhất
định;

d) Được Thủ tướng Chính phủ quyết định công nhận sau khi có ý kiến của
thẩm định của Hội đồng Di sản văn hóa Quốc gia”[4].
Có thể nói, di sản văn hóa phi vật thể luôn sống trong tâm trí con người, đồng
hành cùng con người, được con người nắm giữ các tri thức về nó để trình diễn các kỹ

năng thực hành biểu hiện giá trị của nó. Di sản văn hóa vật thể tồn tại trong tri giác,
được nhận biết thông qua các giác quan của con người, trong sự thừa nhận của một
cộng đồng xã hội kéo dài theo thời gian lịch sử xã hội.
1.1.4. Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa
Trước hết là quan điểm bảo tồn di sản văn hóa. Theo từ điển Tiếng Việt: “bảo
tồn là giữ lại không để cho mất đi”, còn “phát huy là làm cho cái hay, cái tốt tỏa sáng
tác dụng và tiếp tục nảy nở thêm” .
Bảo tồn là bảo vệ và giữ gìn sự tồn tại của sự vật hiện tượng theo dạng thức
vốn có của nó. Bảo tồn là không để mai một, không để bị thay đổi, biến hóa hay biến
thái. Đối tượng bảo tồn phải được nhìn là tinh hoa, là một “giá trị” đích thực được
thừa nhận minh bạch, không có gì phải hồ nghi hay bàn cãi.
Bảo tồn nguyên vẹn (bảo tồn trong dạng “tĩnh”) là tiến hành điều tra sưu tầm,
thu thập các dạng thức văn hóa phi vật thể như nó hiện có theo quy trình khoa học


nghiêm túc chặt chẽ, “giữ” chúng trong sách vở, các ghi chép, mô tả bằng băng hình
(video), băng tiếng (audio), ảnh.v.v... Tất cả các hiện tượng văn hóa phi vật thể này có
thể lưu giữ trong các kho lưu trữ, các viện bảo tàng.
Bảo tồn trên cơ sở kế thừa (bảo tồn trong dạng “động”): Tức là bảo tồn các
hiện tượng văn hóa đó ngay chính trong đời sống cộng đồng. Bởi lẽ, cộng đồng
không những là môi trường sản sinh ra các hiện tượng văn hóa phi vật thể mà còn là
nơi tốt nhất để giữ gìn, bảo vệ, làm giàu và phát huy văn hóa phi vật thể trong xã hội
theo thời gian. Các hiện tượng văn hóa phi vật thể tồn tại trong ký ức cộng đồng,
nương náu trong tiếng nói, trong các hình thức diễn xướng, trong các nghi lễ, nghi
thức, quy ước dân gian.
Văn hóa phi vật thể luôn tiềm ẩn trong tâm thức và trí nhớ của con người mà
chúng ta thường mệnh danh họ là những nghệ nhân, do đó xã hội cần thừa nhận các
tài năng dân gian, tôn vinh họ trong cộng đồng, tạo điều kiện tốt nhất để trong hoàn
cảnh có thể, để họ sống lâu, sống khỏe mạnh, phát huy được khả năng của họ trong
quá trình bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống.

1.2. Quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về bảo tồn
và phát huy di sản văn hóa
Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa ra đời. Ngay sau khi giành được chính quyền, Đảng và Nhà nước ta đã rất quan
tâm đến giữ gìn di sản văn hóa dân tộc. Ngày 23/11/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
lập tức ký và công bố Sắc lệnh số 65/SL về bảo tồn cổ tích trên toàn cõi Việt Nam.
Công cuộc đổi mới với những thay đổi sâu sắc nhất bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế,
ở đó, thay vì nền kinh tế quan liêu, bao cấp, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương thực
hiện phát triển nền kinh tế thị trường - nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, có
nhiều thành phần tham gia theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để có những thay đổi
mang tính chất cách mạng trong đời sống chính trị - kinh tế - xã hội và vănhóa, Đảng
và Nhà nước ta đã ban hành hàng loạt các chủ trương, định hướng, luật, chính sách;
những văn bản có tác động sâu sắc đến quá trình giữ gìn bảo vệ và phát triển của di
sản văn hóa.


Trong thời kỳ đầu của quá trình đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm
đến việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc. Trong điều 30, Hiến
pháp Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 quy định rõ rằng: “Nhà
nước và xã hội bảo tồn, phát triển nền văn hóa Việt Nam: dân tộc, hiện đại, nhân
văn; kế thừa và phát huy những giá trị của nền văn hiến các dân tộc Việt Nam, tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phát
huy mọi tài năng sáng tạo trong nhân dân.
Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp văn hóa. Nghiêm cấm truyền bá tư
tưởng và văn hóa phản động, đồitrụy; bài trừ mê tín, hủ tục”[5].
Tháng 11/1993, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII họp Hội nghị lần
thứ IV đã dành riêng một Nghị quyết về một số nhiệm vụ văn hóa văn nghệ trong
những năm trước mắt. Trong sáu định hướng về công tác tư tưởng, có một định
hướng lớn là phát triển văn hóa với hai nội dung cơ bản là phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Trong đó, bản sắc văn hóa dân tộc

được xác định "bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của các cộng đồng
các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng
nước và giữ nước"[6]; “Bảo vệ bản sắc dân tộc phải gắn kết với mở rộng giao lưu
quốc tế, tiếp thu chọn lọc những cái hay, cái tiến bộ trong văn hóa các dân tộc khác.
Giữ gìn bản sắc dân tộc phải đi liền với chống lạc hậu, lỗi thời, trong phong tục tập
quán, lề thói cũ”[7]; “Di sản văn hóalà tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là
cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa.
Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống (bác
học và dân gian), văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể”[8].
Trên tinh thần Nghị quyết Trung ương V khóa VIII, hàng loạt các giải pháp xây
dựng và phát triển văn hóa, nâng cao đời sống tinh thần cho người dân đã ra đời. Chỉ
thị số 27-CT/TW ngày 12/01/1998, của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng về việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội; Chỉ thị
số 14/1998/TC-TTg ngày 28/3/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện nếp
sống văn minh trong việc cưới hỏi, việc tang, lễ hội.


Ngày 19/01/1993, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 25/TTg về một số
chính sách nhằm xây dựng và đổi mới sự nghiệp văn hóa nghệ thuật, trong đó xác
định việc phát triển văn hóa mang bản sắc dân tộc Việt Nam là trách nhiệm, nghĩa vụ
của toàn dân, Nhà nước tạo điều kiện, xây dựng cơ sở hạ tầng và trang bị phương tiện
cho việc phát triển văn hóa nghệ thuật mang bản sắc dân tộc. Quyết định cũng chỉ ra
cũng chính sách cụ thể như đầu tư cho việc sưu tầm, chỉnh lý, biên soạn, bảo quản lâu
dài, phổ biến văn học dân gian, các điệu múa, các làn điện âm nhạc của các dân tộc,
giữ gìn các nghề thủ công truyền thống, các loại nhạc dân tộc, đồng thời khen thưởng
những người có công trong việc sưu tầm và bảo tồn giá trị văn hóadân tộc.
Tại văn bản số 4739/KG-TW ngày 26/8/1994, Thủ tướng Chính phủ đã cho
phép Bộ VHTT triển khai Chương trình Mục tiêu Quốc gia. Đây là sự thể hiện một
sự đầu tư đúng hướng, trên cơ sở các định hướng chính sách đúng đắn của Đảng
và Nhà nước đối với sự nghiệp bảo vệ và phát huy di sản văn hóa.

Luật Di sản văn hóa được Quốc hội khóa 10, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày
14/6/2001, có hiệu lực từ ngày 01/01/2002 là cơ sở pháp lý cao nhất nhằm bảo vệ và
phát huy giá trị di sản văn hóa ở Việt Nam. Với các điều khoản cụ thể, rõ ràng hơn so
với các văn bản dưới luật khác, phạm vi điều chỉnh của bộ luật trên giờ đây đã bao
gồm cả văn hóa phi vật thể và văn hóavật thể, quy định cụ thể việc kiểm kê, sưu tầm
vốn văn hóa truyền thống của người Việt và các tộc người thiểu số; bảo tồn các làng
nghề truyền thống, các tri thức về y, nghệ sĩ bậc thầy trong các ngành, nghề truyền
thống. Luật Di sản văn hóa cũng có những quy định về quản lý bảo vệ và phát huy
giá trị của các di sản văn hóa và trách nhiệm của Nhà nước trong việc cung cấp ngân
sách cho hoạt động bảo vệ và phát huy di sản văn hóa.
1.3. Sự cần thiết phải bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa trong giai
đoạn hiện nay
Từ năm 1986, Việt Nam đã thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước.
Sau hơn 25 năm đổi mới, Việt Nam đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa
lịch sử. Kinh tế tăng trưởng theo hướng đi lên, đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân được cải thiện một bước đáng kể.


Bối cảnh toàn cầu hóa và giao lưu văn hóa quốc tế hiện nay đã tác động mạnh
mẽ đến vấn đề bảo tồn và phát huy di sản văn hóa. Bên cạnh nhận thức của Đảng,
Nhà nước và nhân dân đối với di sản văn hóa ngày một nâng lên, trân trọng di sản
văn hóa là “tài sản vô giá” của dân tộc thì quá trình đổi mới toàn diện đất nước, phát
triển nền kinh tế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã tác động
nhiều chiều đến vấn đề bảo tồn và phát huy di sản văn hóa. Bên cạnh những tác động
tích cực, quá trình đổi mới toàn diện với mặt trái của kinh tế thị trường đang khiến
nhiều di sản đang dần bị mai một.
Xu thế toàn cầu hoá hiện nay tạo không gian văn hoá ngày càng được mở rộng,
sự giao lưu giữa các quốc gia, dân tộc cũng không ngừng được tăng cường. Các giá
trị văn hoá của nhân loại được chuyển tải qua các phương tiện thông tin đã góp phần
đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hoá ngày càng cao của nhân dân. Tuy nhiên, mặt trái

đã tác động xấu tới văn hoá truyền thống Việt Nam với những biểu hiện như “đồng
văn hóa”, “xâm lăng văn hóa” làm phai mờ truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
Bên cạnh đó, các thế lực thù địch vẫn không từ bỏ âm mưu “diễn biến hòa
bình”, “bạo loạn lật đổ” với các chiêu bài tự do, tôn giáo, lợi dụng vùng dân tộc thiểu
số, vùng sâu vùng xa để lôi kéo, kích động, nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc,
xa rời truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
Văn hóa dân tộc hiển thị trong hệ thống di sản văn hóa, tiềm ẩn những giá trị
tinh thần to lớn của dân tộc, có tác dụng hình thành phẩm chất, tư tưởng và tính cách
của con người, điều chỉnh hành vi xã hội của con người. Bảo tồn và phát huy di sản
văn hóa là phương thức có hiệu quả nhất để giữ gìn những giá trị văn hóa cổ truyền
trong sự nghiệp xây dựng kiến thiến đất nước, vững vàng trong giao lưu hội nhập
quốc tế, đồng thời sẽ tạo điều kiện thuận lợi, có tác dụng tích cực trong việc thực hiện
phát triển kinh tế, xã hội.
Tóm lại, di sản văn hóa Việt Nam là kết tinh trí tuệ, tình cảm, truyền thống của
các thế hệ. Di sản văn hóa với tư cách là nguồn lực quan trọng đóng góp trực tiếp vào
sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước. Vì vậy di sản văn hóa cần được
bảo tồn, kế thừa và phát huy một cách đúng đắn, khoa học, hợp lý.


Chương 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY DI SẢN VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN SÔNG HINH GIAI ĐOẠN 2009-2014
2.1. Đặc điểm kinh tế- xã hội vùng dân tộc thiểu số huyện Sông Hinh.
2.1.1. Đặc điểm về tự nhiên, xã hội của huyện Sông Hinh.
Huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên được thành lập vào ngày 25/02/1985 với diện
tích tự nhiên là 885km2 , là huyện miền núi nằm ở phía Tây Nam Tỉnh Phú Yên, các
trung tâm tỉnh Phú Yên 60km. Phía Bắc giáp huyện Sơn Hòa, phía Nam giáp huyện
Ninh Hòa và huyện Vạn Ninh (tỉnh Khánh Hòa), phía Đông giáp huyện Krông Năng,
huyện Mđrắc tỉnh Đăk Lăk.

Dân số 52.118 người; gồm 10 xã, 01 thị trấn (thị trấn Hai Riêng, xã Ea Bia, Ea
Trol, Ea Bá, Ea Bar, Ea Lâm, Ea Ly, Đức Bình Đông, Đức Bình Tây, Sơn Giang và xã
Sông Hinh), với 83 thôn, buôn, khu phố; trong đó có 07 xã đặc biệt khó khăn; 11
thôn, buôn đặc biệt khó khăn các xã khu vực I, II thuộc diện đầu tư của Chương trình
135 giai đoạn III.
2.1.2. Đặc điểm, tình hình đồng bào các dân tộc thiểu số đang sinh sống
trên địa bàn huyện Sông Hinh:
Đồng bào các dân tộc thiểu số huyện Sông Hinh sống với nhau theo dòng họ,
hình thành nên các buôn, làng và cũng có sự đan xen với người Kinh ở tất cả các xã,
thị trấn. Trước đây ở Sông Hinh chủ yếu là dân tộc Êđê, Ba Na và một ít người dân
tộc Chăm Hroi. Từ năm 1993 đến nay, thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước đi xây dựng vùng kinh tế mới nên đồng bào từ các tỉnh phía Bắc và từ đồng
bằng đến Sông Hinh để lập nghiệp, đã hình thành nên cộng đồng các dân tộc ở huyện
Sông Hinh rất đa dạng và phong phú. Đến nay toàn huyện có 20 dân tộc, trong đó có
19 dân tộc thiểu số với dân số 21.274 người, chiếm 41,5% dân số toàn huyện. Trong
đó: Êđê 14.451 người chiếm 27,73%; Ba Na 1.119 người, chiếm 2,15%; Chăm Hroi
244 người, chiếm 0,49%; Gia Rai 53 người, chiếm 0,1%; Nùng 2.078 người, chiếm
3,73%; Tày 2.002 người, chiếm 3,84%; Sán Dìu 46 người, chiếm 0,09%; người Hoa


11 người, chiếm 0,01%; Dao 1.014 người, chiếm 1,95%; Mường 122 người, chiếm
0,23%; Sán Chay 15 người, chiếm 0,01%; Thái 26 người, chiếm 0,04%; Xơ Đăng 11
người, chiếm 0,01 %; Khơ me 17 người, chiếm 0,02%; Hê rê 13 người chiếm 0,01%;
Chu Ru 1 người, chiếm 0,008%; Cơ Ho 2 người, chiếm tỷ lệ 0,009 %; Thổ 5 người,
chiếm 0,01 %; Mông 44 người, chiếm tỷ lệ 0,1 %. Mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa
riêng, góp phần tạo nên sự đa dạng, phong phú của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc.
Phần lớn đồng bào các dân tộc thiểu số gắn bó với nông nghiệp, nương rẫy.
Thu nhập bình quân đầu người đến năm 2014 đạt 14 triệu đồng/năm. Tỷ lệ hộ nghèo
toàn huyện 41,87%, tỷ lệ hộ cận nghèo: 17,38%, trong đó tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu

số chiếm 58,5%, tỷ lệ hộ cận nghèo dân tộc thiểu số chiếm 31,53% so với hộ nghèo
toàn huyện.
2.1.3. Kết quả thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc
thiểu số trên địa bàn huyện Sông Hinh giai đoạn 2009-2014.
Thành tựu
Trong những năm qua, nhờ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước nên đời sống của
đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Phú Yên nói chung, huyện Sông Hinh nói riêng đã và
đang được thay đổi đáng kể trên các lĩnh vực của đời sống, xã hội; các dân tộc luôn
chung sức, chung lòng, tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, yêu nước, tôn trọng,
giúp đỡ nhau xây dựng quê hương giàu đẹp, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
Về phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo nâng cao đời sống vật chất tinh thần
cho người dân.
- Trên lĩnh vực nông, lâm nghiệp: đã hình thành được các vùng chuyên canh
cây lương thực, các vùng trồng cây công nghiệp ngắn ngày, dài ngày có giá trị kinh tế
cao, gắn với các nhà máy chế biến. Đồng bào ứng dụng các tiến bộ khoa học – kỹ
thuật vào sản xuất, nên năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi tăng nhanh. Tổng
diện tích gieo trồng năm 2013 là 21.861 ha, tăng 21,1%, so với năm 2009, trong đó
lúa nước là 3.509 ha, tăng 24,7% (diện tích do đồng bào dân tộc thiểu số sản xuất
chiến 75%); với năng suất ổng định 50 tạ/ha/vụ cao hơn năng suất lúa rẫy 4 lần, đã


làm thay đổi tập quán canh tác, góp phần quan trọng đưa sản lượng lương thực hàng
năm đạt từ 18.500 tấn đến 20.573 tấn (năm 2013),bảo đảm an ninh lương thực tại
chỗ.
Trong những năm gần đây với lợi thế về đất đai mầu mỡ, nhiều vùng cây công
nghiệp từng bước được quy hoạch và phát triển với các loại cây trồng như: cà phê,
cây cao su; cây công nghiệp ngắn ngày như sắn, cây mía... cung cấp nguyên liệu ổn
định cho các nhà máy hoạt động, hầu hết các loại cây trồng đều được thay thế giống
mới có năng suất, chất lượng cao; mang lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần làm cho

đời sống đồng bào ngày càng được cải thiện, bộ mặt nông thôn miều núi không
ngừng được khởi sắc.
Tiếp tục quan tâm đầu tư phát triển chất lượng đàn bò, tính đến nay tổng đàn
bò của huyện là 20.000 con, trong đó tỷ lệ bò lai 27,88% tổng đàn. Mục tiêu bảo vệ
và phát triển rừng đã nâng tỷ lệ độ che phủ rừng lên 42,55%, tăng 2,8% so năm 2009.
- Kết quả thực hiện các chương trình, dự án: Trong giai đoạn 2009 – 2014:
Tổng nguồn vốn đầu tư: 54.922 triệu đồng, qua đó, đường giao thông nông thôn, xóa
nhà tạm, sửa chửa, chỉnh trang nhà ở và phát triển sản xuất mạng lưới điện quốc gia;
hệ thống cấp nước sinh hoạt tập trung… đã được xây dựng và đưa vào sử dụng, hoạt
động có hiệu quả, từng bước đáp ứng nhu cầu sử dụng nước của nhân dân, góp phần
phát triển kinh tế - xã hội, làm cho bộ mặt vùng đồng bào dân tộc thiểu số thay đổi rõ
nét. Bên cạnh đó, thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ như: hỗ trợ tiền trực tiếp cho
16.164 lượt hộ nghèo; hỗ trợ tiền cho học sinh nghèo: Tổng kinh phí thực hiện: 1.185
triệu đồng; Hỗ trợ học sinh, sinh viên theo Nghị định 49/NĐ-CP, tổng kinh phí thực
hiện: 8.082 triệu đồng cấp cho 21.570 lượt học sinh, sinh viên. Cấp báo miễn phí
phục vụ nhu cầu thông tin của đồng bào dân tộc. Thông qua Phòng giao dịch Ngân
hàng Chính sách xã hội huyện đã cho 16.235 lượt hộ vay vốn ưu đãi, tổng doanh số
cho vay 191.563 triệu đồng. Đồng bào dân tộc thiểu số rất phấn khởi, tích cực, hăng
hái trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và phát triển kinh tế gia đình, ổn định cuộc
sống.
Thực hiện Chính sách đối với người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số
theo quyết định 18/2011/QĐ-TTg: Hiện toàn huyện có 52 người là những vị có uy


tín, tiêu biểu trong đồng bào dân tộc thiểu số trong đó: Người Dân tộc Ê đê có 35
người, Dân tộc Ba Na có 05 người, Tày có 07 Người, Nùng có 02 Người, Dao 02
người, Chăm 01 người. Trong những năm qua Huyện đã thực hiện tốt chủ trương,
quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với người uy tín trong đồng bào
dân tộc. Các chế độ, chính sách đối với người có uy tín bước đầu đã đem lại những
kết quả nhất định, góp phần củng cố niềm tin của người có uy tín đối với Đảng, Nhà

nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Phát triển văn hóa – xã hội.
+ Về giáo dục và đào tạo: Chất lượng giáo dục - đào tạo vùng dân tộc, miền
núi ngày càng đi vào chiều sâu. Trẻ em đến trường đúng độ tuổi. Huyện được công
nhận hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở và 11/11 xã, thị trấn đạt chuẩn
quốc gia về phổ cập giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi. Các trường phổ thông dân tộc
nội trú, bán trú ở huyện tiếp tục phát huy vai trò đào tạo, bồi dưỡng con em đồng bào
các dân tộc thiểu số. Hàng năm đã lựa chọn đưa hàng chục con em người dân tộc
thiểu số đi học các lớp cử tuyển hệ Cao đẳng, Đại học và nhiều học sinh học tại các
trường Trung học chuyên nghiệp, trường dạy nghề của tỉnh, để tạo nguồn cán bộ cho
các xã và huyện.
- Về y tế và chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân tộc thiểu số: Đã mua và cấp
48.479 lượt thẻ bảo hiểm y tế cho người đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện
để được khám chữa bệnh miến phí tại các cơ sở y tế và 100% trẻ em dưới 6 tuổi được
khám chữa bệnh miến phí. 100% xã có trạm y tế xã; 9/11 xã, thị trấn có Bác sĩ. Hiện
toàn huyện có 25 Bác sĩ (tuyến huyện có 16 bác sĩ, tuyến xã có 09 bác sĩ), trong đó có
12 bác sĩ là người đồng bào dân tộc thiểu số, qua đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho
việc chăm sóc sức khỏe bước đầu cho nhân dân ngay tại cơ sở.
- Về văn hóa, thông tin: đến nay 100% địa bàn dân cư được phủ sóng Đài phát
thanh và truyền hình. Các di sản văn hóa của đồng bào dân tộc được bảo tồn, phục
dựng. Các cuộc vận động xây dựng gia đình văn hóa, thôn buôn văn hóa và phong
trào toàn dân xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư trở thành phòng trào toàn dân và
tác động sâu sắc đến các hoạt động đời sống xã hội, đến nay, toàn huyện có 12.065 hộ
gia đình văn hóa, 46/83 thôn, buôn, khu phố văn hóa và 48/83 thôn, buôn, khu phố có


nhà sinh hoạt cộng đồng được xây dựng kiên cố. Hệ thống thông tin liên lạc điện
thoại cố định và điện thoại di động đã phủ ở 11 xã, thị trấn đáp ứng nhu cầu của nhân
dân.
Về tôn giáo, tín ngưỡng, tổ chức hội đoàn.

Hiện nay trên địa bàn huyện có 03 tôn giáo chính đó là Phật giáo, Công giáo và
Tin lành; Tổng số 909 hộ, 4.094 khẩu, chiếm tỉ lệ 8,61% dân số toàn huyện. Công tác
quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo được tăng cường, dần đi vào nền
nếp, tạo điều kiện thuận lợi để chức sắc, nhà tu hành và đồng bào tín đồ các tôn giáo
sinh hoạt, bầy tỏ niềm tin tôn giáo “sống tốt đời, đẹp đạo” và ngày càng tin tưởng vào
sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, góp phần xây dựng và phát triển đất nước.
Xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vùng dân tộc.
Song song với đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, huyện tập trung chỉ đạo củng
cố, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong
tình hình mới. Tỷ lệ người dân tộc thiểu số tham gia hội đồng nhân dân, ủy ban nhân
dân các cấp đạt 32,14%. Hiện nay, hầu hết thôn, buôn và trường học trên địa bàn đều
có Chi bộ đảng. Việc phát triển đảng viên, đoàn viên, hội viên, cán bộ thôn, buôn,
khu phố tại địa phương được thực hiện khá tốt; tổng số đảng viên là người dân tộc
thiểu số là 676 người, chiếm 34,21% so với tổng số đảng viên toàn huyện. Nhìn
chung đa số các đảng viên, đoàn viên, hội viên là người dân tộc đều gắn kết với các
hoạt động của ban ngành, đoàn thể và ý thức trách nhiệm trong mọi sinh hoạt, tổ chức
phân công.
Công tác cán bộ đối với người dân tộc thiểu số được chú ý đúng mức, chọn
những đảng viên có phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực công tác để đảm nhận các
chức danh chủ chốt, như Bí thư hoặc Phó Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch
hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân ở các xã, thị trấn; thường xuyên quan tâm công
tác đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số. Đến nay,
đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số đang công tác ở các cơ quan Đảng, nhà nước và các
đoàn thể từ huyện đến xã có 116/396 cán bộ, chiếm 29,29%. Trong đó cán bộ có trình
độ cấp III có 116 đồng chí; về chuyên môn: đại học có 40 đồng chí, cao đẳng có 01


và trung cấp chuyên môn, nghiệp vụ có 74 đồng chí, chưa qua đào tạo 01 đồng chí.
Lý luận chính trị: cao cấp 10 đồng chí, trung cấp 56 đồng chí và Sơ cấp 29 đồng chí;

có 83/83 thôn, buôn, khu phố có đủ các tổ chức trong hệ thống chính trị đạt tỷ lệ
100%.
Đảm bảo an ninh- quốc phòng.
Phối hợp chặt chẽ với Mặt trận và các Hội, Đoàn thể trong công tác tuyên
truyền, vận động các tầng lớp nhân dân nâng cao cảnh giác cách mạng, góp phần đấu
tranh làm thất bại âm mưu "Diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch; tiếp tục
kiện toàn củng cố các tổ chức quần chúng làm công tác an ninh trật tự ở cơ sở. Quan
tâm xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc;
tổ chức triển khai và thực hiện tốt Pháp lệnh Dân quân tự vệ, Pháp lệnh lực lượng dự
bị động viên.
Hạn chế, khó khăn
Nhưng kết quả nêu trên là điều kiện thuận lợi, tác động tích cực đến công tác
bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa các dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện. Tuy
nhiên, bên cạnh những thuận lợi, công tác bảo tồn, phát huy di sản văn hóa các dân
tộc thiểu số huyện Sông Hinh vẫn còn đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, đó là:
- Địa bàn rộng, đa sắc tộc, trong khi đó mặc dù đội ngũ cán bộ làm công tác
văn hóa nói chung, công tác bảo tồn nói riêng đã qua đào tạo nhưng thực tế vẫn còn
hạn chế về năng lực.
- Kinh phí đầu tư cho công tác bảo tồn di sản văn hóa hết sức hạn hẹp, chưa đáp
ứng được nhu cầu kinh phí cho hoạt động. Trong khi đó một bộ phận lớn người dân tộc
thiểu số còn khó khăn về kinh tế, chưa có điều kiện bảo tồn, phát huy các di sản văn
hóa của mình.
- Nhận thức của một bộ phận không nhỏ người dân trong vùng đồng bào dân tộc
thiểu số về di sản văn hóa và ý thức bảo vệ di sản đó còn thấp, chưa nhận thấy được
giá trị to lớn của di sản văn hóa đối với quá trình sinh tồn của con người vì thế ý thức
bảo vệ và giữ gìn chưa cao dẫn đến tình trạng mai một.
- Các thế lực thù địch âm mưu lợi dụng vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng
khó khăn huyện Sông Hinh chống phá Đảng, Nhà nước, kích động gây mất trật tự địa



phương, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở buôn làng, lôi kéo bà con buôn làng
xa dần bản sắc văn hóa tốt đẹp truyền thống của mình.
Có thể khẳng định, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa đồng bào các dân tộc
thiểu số là một trong những vấn đề luôn được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm
và coi đó là nội dung quan trọng thực hiện chính sách dân tộc. Tăng cường công tác
lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đối với vấn đề bảo tồn, phát huy di sản văn hóa các dân
tộc thiểu số ở Sông Hinh là góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của Đảng trong việc
xây dựng nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc.
Huyện Sông Hinh có 19 dân tộc thiểu số cùng sinh sống, mỗi dân tộc có một
sắc thái khác nhau, nhưng luôn hòa quyện tạo lên cộng đồng văn hóa đặc sắc của
huyện miền núi Sông Hinh. Tuy nhiên, đời sống kinh tế- xã hội của đồng bào các dân
tộc thiểu số huyện Sông Hinh vẫn còn nhiều khó khăn, nhiều di sản văn hóa đang có
nguy cơ mai một, khó phục hồi. Vì vậy, nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn và phát
huy giá trị di sản văn hóa các dân tộc thiểu số huyện Sông Hinh là góp phần xây dựng
nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc, đẩy lùi các hủ tục lạc hậu, mê tín dị
đoan, củng cố tinh thần đoàn kết, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, góp phần
thúc đẩy xã hội phát triển trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
2.2. Công tác bảo tồn di sản văn hóa đồng bào dân tộc thiểu số trên địa
bàn huyện Sông Hinh giai đoạn 2009-2014.
2.2.1. Kết quả khảo sát di sản văn hóa các dân tộc thiểu số địa bàn huyện
Sông Hinh hiện nay.
Văn hóa vật thể
- Di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh: 09 di tích.
+ Di tích lịch sử văn hóa có 02 di tích: Miếu Tuy Bình, Mộ Ông thuộc
thôn An Hòa, xã Đức Bình Tây.
+ Di tích lịch sử cách mạng có 01 di tích: Đồn Tuy Bình xã Đức Bình
Tây.
+ Di tích lịch sử chiến tranh có 01 di tích: Lô cốt ngụy quyền thuộc thôn
Đồng Phú, xã Đức Bình Tây.



+ Di tích khảo cổ có 03 di tích: Tiền cổ và phế tích Tháp Chàm thuộc
thôn Hà Giang, xã Sơn Giang; Phát hiện mộ chum và các công cụ sản xuất của
người Nguyên Thủy ở khu vực buôn Suối Mây, thị trấn Hai Riêng.
+ Danh lam thắng cảnh có 04 hồ thủy điện: Hồ Thủy điện Sông Hinh,
hồ thủy điện Sông Ba Hạ, hồ thủy điện Krông Năng, hồ trung tâm Thị Trấn
Hai Riêng. Ngoài ra, còn nhiều sông, suối, thác ghềnh... có cảnh quan đẹp,
hùng vĩ.
- Cồng chinh: 555 bộ: Bộ 05 cái: 14 bộ ( thiếu 01 cồng); Bộ 06 cái : 350 bộ;
Bộ 08 cái : 183 bộ; Bộ 09 cái: 08 bộ; Trống: 07 cái; Chinh lớn (chinh sal): 51 cái;
Cồng lớn ( Plao): 01 cái; Aráp : 12 bộ ( hư 01 bộ)- Ngoài ra còn có các vật dụng
phục vụ sản xuất và sinh hoạt, các loại nhạc cụ dân gian...
- Kiến trúc nhà ở: Bao gồm nhà truyền thống, nhà nửa truyền thống, nhà nửa
hiện đại (khoảng hơn 3.000 nhà, chủ yếu là nhà sàn dài của người Ê Đê, Ba Na, nhà
sàn của người Dao, người Tày còn rất ít).
- Trang phục truyền thống các dân tộc, đồ dùng trong sinh hoạt, công cụ lao
động (đang mai một)
Văn hóa phi vật thể.
Có các loại hình văn hóa: Tín ngưỡng, Ngữ văn dân gian, Tập quán xã hội, Lễ
hội truyền thống, Tri thức dân gian, Nghề thủ công truyền thống, Nghệ thuật trình
diễn, với tổng cộng khoảng 60 di sản các loại. Tuy nhiên hiện nay chỉ còn vài di sản
tồn tại hoạt động thường xuyên như: cúng mừng tuổi, lễ bỏ mả, diễn tấu cồng
chiêng...; một số di sản hoạt động nhưng hạn chế như: dệt thổ cẩm, đan lát, ủ rượu
ché, cúng về nhà mới, cúng mừng lúa mới... Phần lớn còn lại đang đứng trước nguy
cơ mai một, thất truyền.
- Nghệ nhân: Bao gồm các nghệ nhân đan lát, nghệ nhân làm nhà ở, nhà mồ,
đẽo tượng, Kuts, Klao, nghệ nhân dệt vải, nghệ nhân kể sử thi… với khoảng 600
người.
2.2.2. Kết quả thực hiện nhiệm vụ bảo tồn và phát huy di sản văn hóa các
dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Sông Hinh giai đoạn 2009-2014.



- Đã tiến hành đồng bộ thực hiện các cuộc khảo sát, thống kê về bảo tồn văn
hóa vật thể và phi vật thể của các dân tộc thiểu số sinh sống trên địa bàn huyện.
- Tổ chức 01 lớp tập huấn về công tác điều tra, công tác quản lý di sản văn hóa
cho cán bộ làm công tác văn hóa và Phó Chủ tịch ủy ban nhân dân phụ trách công tác
văn hóa ở 11/11 xã, thị trấn.
- Tổ chức 01 lớp truyền dạy đánh cồng chiêng, aráp từ các nghệ nhân cho các
thanh niên vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tổ chức được 5 lần liên hoan văn hóa
cồng chiêng tại huyện.
- Tổ chức sưu tầm, bảo tồn, lưu giữ được một số di sản, cụ thể:
Về di sản văn hóa vật thể:
+ Nhạc cụ:
Bộ A rap đầy đủ 27 món: A Na Chinh: 03 cái; Pơ Chinh: 02 cái; P Bhă
Chinh: 06 cái; Đai Chinh: 14 cái; 01 Trống nhỏ; 01 xập xèng.
01 bộ Cồng một chinh năm (06 cái); 01 bộ Cồng ba chinh năm (08 cái).
Trống đại: 01 cái; trống đôi: 02 cái; Đàn gonl 12 dây: 01 cây; Đàn Kní:
01 cây; Đinh guh: 01 cây; Đinh năm: 01 cây.
+ Đồ dùng sinh hoạt của người Ê đê: 03 cái bầu đựng nước uống của người Ê
đê; 02 ché rượu cần;
+ Công cụ lao động: Trất sẩy gạo: 02 cái; Cối giã gạo: 01 cái; Gùi lớn: 01 cái;
Gùi nhỏ: 01 cái; Nỏ: 01 cái.
+ Trang phục (Ê Đê): Áo nữ: 01 chiếc; Váy: 01 chiếc; Mũ: 01 cái; Áo nam: 01
chiếc; Quần nam: 01 chiếc.
Về văn hóa phi vật thể
+ Phối hợp phục dựng lễ hội đâm trâu của người Ê đê M’dhur.
+ Tổ chức liên hoan dân ca nhạc cụ dân tộc huyện Sông Hinh năm 2011.
+ Đã thu âm 03 trường ca và 09 truyện cổ tích; được ghi thành 20 đĩa CD
(chuẩn bị thành lập hội đồng nghiệm thu), gồm:
Trường ca: Ka Đăm Di chặt đọt mây; Sing Ngã lạc rừng; Ka Đăm Dang

tuốt lúa.


Truyện cổ tích: Y Du và ông trời; Ma Kơ Đunh Và Ma Nen; Tìm số
phận; Tìm hồn; Y Đơn; Con cóc hóa thành người (Y Rố); Chàng Y Rít Và Chim
TaLa Hờ Bia Kốp Mah; Hờ Lúi Chẻ Củi; Y Bút và Y Tan.
+ Thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia đưa văn hóa về cở sở, đã trang bị
08 bộ cồng chiêng cho các thôn, buôn, hiện nay trên địa bàn huyện có 15 đội cồng
chiêng hoạt động khá tốt.
+ Một số xã đã đầu tư kinh phí để thành lập câu lạc bộ đàn hát dân ca như xã
EaLy, thị trấn Hai Riêng, xã Sông Hinh, EaBia. Tổ chức liên hoan đẽo tượng và chế
tác các loại nhạc cụ của đồng bào các dân tộc thiểu số, qua liên hoan đã phát hiện
nhiều nghệ nhân ở các thôn buôn biết đẽo tượng, chế tác và sử dụng các loại nhạc cụ
của đồng bào dân tộc thiểu số.
+ Mở 05 lớp dạy tiếng Ê Đê, duy trì chuyên mục phát thanh tiếng Ê Đê hàng
tuần trên sóng đài Truyền thanh- Truyền hình huyện.
+ Việc sưu tầm, biên soạn và xuất bản các tác phẩm về văn học, nghệ thuật đã
và đang được địa phương chú trọng. Trong những năm qua hàng chục đầu sách, ấn
phẩm về văn hóa được xuất bản. Tiêu biểu trong vấn đề này là nhà văn Y Điêng, già
làng Ma Vi, Y Thư (Phó Giám đốc Trung tâm VH-TT huyện Sông Hinh). Văn hóa phi
vật thể đã được chú trọng bảo tồn qua việc thu âm, nghi đĩa hình, đồng thời được
khuyến khích bảo tồn qua các hoạt động sinh hoạt cuộc sống của người dân địa
phương.
2.2.3. Nhận xét về công tác bảo tồn, phát huy di sản văn hóa các dân tộc
thiểu số trên địa bàn huyện
Ưu điểm:
Ngay từ những ngày đầu thành lập huyện năm 1985, mặc dù phải đối mặt với
vô vàn khó khăn, nhưng Đảng bộ, Chính quyền huyện Sông Hinh đã dành nhiều sự
quan tâm chỉ đạo đến lĩnh vực văn hóa nói chung, công tác bảo tồn di sản văn hóa nói
riêng. Nhiều hoạt động được tổ chức như: “thi diễn cồng chiêng, văn nghệ, đua

thuyền, bắn nỏ, đi cà kheo, kéo co, đẩy gậy, hát sử thi. Tổ chức lễ hội xoay cột con
trâu, một lễ hội có qui mô lớn nhất của đồng bào dân tộc thiểu số”[9]. Đồng thời
khẳng định “đây là hình thức bảo tồn và phát huy giá trị độc đáo của đồng bào mà


còn là sân chơi lành mạnh, bổ ích, giúp cho các dân tộc anh em sống trên địa bàn có
điều kiện giao lưu, học hỏi, thắt chặt tình đoàn kết, hiểu biết lẫn nhau”[10]
Kể từ đó đến nay, nhiệm vụ bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa đồng bào
dân tộc luôn được đề cập và nêu rõ trong các kỳ đại hội của Đảng bộ huyện Sông
Hinh. Cụ thể hóa chủ trương của Đảng bộ huyện, ngày 26 tháng 7 năm 2006, Hội
đồng nhân dân huyện Sông Hinh khóa VI đã ra nghị quyết về việc “Tiếp tục thực hiện
các biện pháp nhằm phát triển và bảo tồn giá trị văn hóa đồng bào dân tộc thiểu số”,
trên cơ sở đó, đến kỳ họp thứ IX, Hội đồng nhân dân huyện khóa VI đã phê chuẩn Đề
án Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa các dân tộc thiểu số huyện Sông Hinh
và chính thức tiển khai từ tháng 01/2007. Để án được triển khai rộng khắp, nhận thức
của cán bộ, đảng viên và nhân dân ngày một nâng lên với công tác bảo tồn, phát huy
di sản văn hóa các dân tộc thiểu số trong huyện.
- Bên cạnh đó, các cơ quan, ban ngành, các hội đoàn thể từ huyện đến cơ sở
từng bước có sự phối hợp thực hiện công tác bảo tồn, nhiều di sản văn hóa các dân
tộc thiểu số được sưu tầm, gìn giữ, phục dựng, qua đó phổ biến giáo dục rộng rãi cho
nhân dân, nhất là thế hệ trẻ nhận rõ về giá trị di sản văn hóa của dân tộc.
- Việc tổ chức các lớp tập huấn, các lớp truyền dạy kinh nghiệm đã tạo điều
kiện cho thế hệ trẻ giao lưu, học hỏi kinh nghiệm quí báu từ các nghệ nhân vốn đã
lớn tuổi; đồng thời qua đó nhận thức trong đội ngũ cán bộ đảng viên, và nhân dân về
văn hóa và bảo tồn di sản văn hóa được nâng lên.
- Việc thực hiện Đề án bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa của đồng bào
các dân tộc thiểu số huyện Sông Hinh đã tạo được sự chuyển biến về mặt nhận thức
trong cán bộ, Đảng viên và nhân dân về công tác bảo tồn, phát huy các giá trị di sản
văn hóa truyền thống tốt đẹp của đồng bào các dân tộc thiểu số, và đây được coi là
một nhiệm vụ quan trọng trong suốt quá trình chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế xã hội của chính quyền từ huyện đến cơ sở.

- Phòng trưng bày di sản văn hóa truyền thống của huyện đã đi vào hoạt động
với gần một trăm hình ảnh, hiện vật di sản văn hóa các dân tộc, qua đây đã tạo điều
kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu, bảo tồn, lưu trữ, phổ biến và làm giàu thêm kho
tàng di sản về lịch sử văn hóa của đồng bào các dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện,


đồng thời góp phần giáo dục tư tưởng, tình cảm cho mọi thế hệ người dân tộc thiểu số
về di sản văn hóa của dân tộc mình. Đây cũng là môi trường thuận lợi để giới thiệu,
quảng bá những nét đẹp văn hóa truyền thống ra phạm vi rộng.
- Việc bảo tồn, khai thác và phát huy các danh thắng gắn với lễ hội truyền
thống đã được địa phương chú trọng. Trong những năm gần đây, văn hóa gắn với lễ
hội truyền thống của các dân tộc đang được phục hồi và phát huy tác dụng làm phong
phú thêm đời sống tinh thần của nhân dân. Trong đó tiêu biểu là lễ hội đua thuyền
truyền thống hàng năm, Lễ đâm trâu của người Ê Đê, người Ba Na, biểu diễn cồng
chiêng- ráp, uống rượu cần, đốt lửa trại truyền thống...
- Phong trào xây dựng đời sống văn hóa với những nội dung thiết thực, ngày
càng đi vào chiều sâu, qua đó tính cộng đồng được phát huy, đồng bào các dân tộc
tích cực giúp nhau xóa đói giảm nghèo, xóa bỏ dần phong tục tập quán lạc hậu, phát
huy nét văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc mình.
Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác bảo tồn, phát huy di sản văn hóa
các dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Sông Hinh vẫn còn nhiều hạn chế, đó là:
- Các cấp ủy đảng, chính quyền còn xem nhẹ văn hóa, thiếu quan tâm đầu tư,
khai thác các nguồn lực cho việc phát triển văn hoá, còn có những thiếu sót trong sự
chỉ đạo, đánh giá về các giá trị di sản văn hóa, để phân loại xem loại nào cần phải loại
trừ, loại nào được cần giữ lại, loại nào cần cải tiến nâng cao cho phù hợp với xu thế,
thời đại mới. Nhìn chung công tác trên chỉ mới dừng lại ở phương châm, nguyên tắc
chung, chưa đi sâu vào nghiên cứu cụ thể, chỉ đạo cụ thể đối với từng loại di sản văn
hóa.
- Các chương trình, dự án phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở huyện

hiện nay hầu như chưa chú ý thích đáng đến vấn đề văn hóa, chưa gắn chặt chẽ thành
bộ phận hữu cơ giữa văn hóa với các chương trình phát triển Kinh tế- Xã hội. Thiếu
sự đầu tư thích đáng cho công tác bảo tồn văn hóa. Đơn giản như Đề án bảo tồn, phát
huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số thực hiện từ năm 2009 đến nay mới chỉ đầu tư
được trên 170 triệu đồng, bằng 4/10 so với yêu cầu đề án.


- Tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào nhà nước vẫn còn tồn tại nặng nề ở một bộ phận
cán bộ và nhân dân, làm ảnh hưởng không nhỏ đến sự năng động sáng tạo trong xây
dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư và ý thức tự giác giữ gìn bản sắc văn hoá của
các dân tộc. Công tác xã hội hoá văn hoá nói chung và trong lĩnh vực bảo tồn nói
riêng, nhất là bảo tồn văn hoá phi vật thể còn gặp nhiều khó khăn.
- Đội ngũ cán bộ làm công tác văn hoá vùng dân tộc thiểu số tuy đã được hình
thành nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu cần thiết. Hoạt động thiết chế văn hóa vùng
đồng bào dân tộc thiểu số còn hạn chế, các hoạt động văn hóa, nghệ thuật tổ chức
không được thường xuyên, còn sơ sài. Cơ sở vật chất, sản phẩm, phương tiện văn hóa
phục vụ đời sống văn hóa tinh thần cho nhân dân ở vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào
dân tộc ít người còn thiếu và lạc hậu... đã ảnh hưởng lớn đến việc bảo tồn văn hóa
dân tộc trên địa bàn, nhất là các giá trị văn hóa tinh thần mang đậm bản sắc văn hóa
đồng bào dân tộc thiểu số.
- Một số phong tục tập quán lạc hậu chưa được đẩy lùi, ví dụ như: người ở
buôn khác chết không cho khiêng qua buôn mình; tục nhậm nước để giải quyết mâu
thuẫn giữa hai người, hai gia đình hoặc hai dòng họ; nếp sinh hoạt ăn ở, vệ sinh môi
trường, phòng chống dịch bệnh còn yếu kém, hầu hết các hộ gia đình người dân tộc
thiểu số chưa có nhà xí hợp vệ sinh.
Một số lễ hội rườm rà, kéo dài, hao tiền tốn của và có biểu hiện pha tạp. Ví như
Lễ mừng tuổi của người Ê Đê, một đời người ít nhất phải qua 07 lần cúng mới coi là
trưởng thành, trong đó lễ lớn nhất là Lễ cúng Ché bảy, gia chủ cần có ít nhất một con
heo to, từ một đến ba con bò và mời dân làng ăn uống ba ngày, ba đêm. Nhiều người
đến nay đã già mà vẫn chưa được cúng Ché bảy, chưa được công nhận đã trưởng

thành vì thiếu tiền.
- Nhận thức nói chung, hiểu biết về chính sách, pháp luật nói riêng của đồng
bào dân tộc thiểu số còn hạn chế, dễ bị kích động, lôi kéo, lợi dụng của các thế lực
thù địch. Từ đó đã dễ dàng từ bỏ các phong tục, tập quán, các giá trị văn hóa truyền
thống tốt đẹp để đi theo các đạo giáo trái phép, làm mất đi bản sắc văn hoá dân tộc,
trái với truyền thống đạo đức, quên đi nguồn gốc của mình, gây mất đoàn kết trong
cộng đồng. Điều này thực tế đã xảy ra ở xã Ea Lâm, Ea Ly và một số nơi khác đỉnh


điểm là những cuộc nổi loạn, biểu tình chống phá chính quyền cơ sở năm 2004, 2006
và đến nay vẫn âm ỉ tồn tại.
- Sự xâm nhập ồ ạt của tư tưởng văn hóa ngoại lai, lối sống thực dụng, duy ý trí
đã đưa lớp thanh niên dân tộc thiểu số tiếp cận nhanh chóng với những trào lưu mới,
với lối sống hưởng thụ xa rời các phong tục tập quán truyền thống
- Lực lượng nghệ nhân ngày càng thiếu vắng, các giá trị nghệ thuật không được
ghi chép, truyền dạy cho thế hệ sau; Các tác phẩm văn hóa, văn học truyền thống
ngày một mai một.
- Kinh tế thị trường tác động tiêu cực đến công tác bảo tồn di sản văn hóa, biểu
hiện như khi đời sống nhân dân càng nâng lên, thì nhiều hộ gia đình không còn mặn
mà với việc làm rượu cần truyền thống, dệt thổ cẩm… thay vào đó là các đồ uống
nhanh, quần áo may sẵn…
Nguyên nhân hạn chế
- Nguyên nhân chủ quan của mặt hạn chế là do một số cấp ủy, chính quyền
nhận thức chưa sâu sắc, toàn diện về công tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa các
dân tộc thiểu số trong tình hình mới. Chưa quan tâm đúng mức đến công tác tuyên
truyền, phổ biến, nâng cao nhận thức trong toàn đảng, toàn dân về vai trò quan trọng
của văn hóa với đời sống nhân dân và phát triển kinh tế- xã hội
- Cơ chế thu hút đầu tư phát triển du lịch gắn với bảo tồn di sản văn hóa thưa
thông thoáng, hiệu quả mang lại không cao. Công tác xã hội hóa trong việc bảo vệ,
giữ gìn, phát huy giá trị di sản văn hóa còn xem nhẹ, chưa đề cao.

- Công tác kiểm tra, giám sát còn lỏng lẻo, chưa thực hiện tốt Luật di sản văn
hóa
- Chế độ ngộ với người làm công tác văn hóa thấp, chưa tương xứng với yêu
cầu nhiệm vụ đề ra, khiến đội ngũ cán bộ văn hóa ở cơ sở không ổn định, thường
xuyên thay đổi. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ người dân tộc thiểu số chưa được
quan tâm đúng mức, chất lượng cán bộ có nâng lên nhưng chưa xứng tầm với yêu cầu
thực tế.
- Vai trò của lực lượng cốt cán, già làng, trưởng thôn, buôn, người có uy tín,
các nghệ nhân chưa được phát huy đúng mức.


- Chính sách hỗ trợ của nhà nước chưa đầy đủ, kịp thời
- Về khách quan do những bất cập, vướng mắc trong cơ chế nên việc thực hiện
chính sách dân tộc, trong dó có chính sách văn hóa, chưa kịp thời, đồng bộ, đời sống
kinh tế một bộ phận nhân dân vùng dân tộc còn khó khăn; Nguồn ngân sách huyện
hạn hẹp, chủ yếu nhờ cấp trên cấp về, gây khó khăn trong công tác đầu tư cho bảo tồn
văn hóa; Tình hình thời tiết diễn biến bất thường, giá cả các mặt hàng nông sản không
ổn định, chi phí sản xuất nông nghiệp ngày càng cao, ảnh hưởng không nhỏ đến sản
xuất, đời sống của nhân dân; Đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống ở địa bàn rộng
lớn, địa hình phức tạp, khó khăn cho việc tuyên truyền phổ biến chủ trương, chính
sách của Đảng, Nhà nước, nhất là trong lĩnh vực bảo tồn văn hóa; Các thế lực thù
địch vẫn luôn tìm cách chống phá Đảng, Nhà nước, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc
thiểu số với âm mưu “diến biến hòa bình” trên mặt trận văn hóa.
Tóm lại, trong những năm qua, dưới sự quan tâm của Đảng bộ, chính quyền
huyện Sông Hinh, công tác bảo tồn phát huy di sản văn hóa các dân tộc thiểu số trên
địa bàn huyện Sông Hinh đã có khởi sắc, nhiếu nét văn hóa đặc sắc được bảo tồn, ý
thức của người dân về di sản văn hóa đã được nâng lên. Tuy nhiên thực tế cho thấy
vẫn tồn tại khá nhiều hạn chế bởi những nguyên nhân khách quan, chủ quan tác động
đang làm mai một những giá trị di sản quí giá của các dân tộc. Sẽ khó tái tạo, phục
hồi nếu không có sự vào cuộc quyết liệt với những giải pháp cụ thể của toàn hệ thống

chính trị và của từng người dân địa phương.
Chương 3
GIẢI PHÁP BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY
DI SẢN VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC HUYỆN SÔNG HINH
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
3.1. Phương hướng
Tư tưởng về xây dựng nền văn hóa mới trong Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã được Hội nghị Trung ương Đảng phát
triển đầy đủ phong phú hơn. Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa VII nhấn mạnh: nền văn hóa mà Đảng ta lãnh đạo toàn dân xây dựng là nền văn


hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Tại Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa VIII, lần đầu tiên Đảng ra nghị quyết riêng về Xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nghị quyết nêu
rõ: “Phương hướng chung của sự nghiệp văn hóa nước ta là phát huy chủ nghĩa yêu
nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức dộc lập tự chủ, tự cường xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm cho văn hóa
thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và
cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người,
tạo nên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát
triển, phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã
hội”[11]
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX phát triển quan điểm của Nghị quyết
Trung ương V, khóa VIII, đã khẳng định: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã
hội”[12]. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X đã nhấn mạnh: “Tiếp tục phát triển
sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc

dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế, xã hội, làm cho văn
hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”[13]
Từ những quan điểm trên, phương hướng bảo tồn và phát huy di sản văn hóa
các dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Sông Hinh trong thời gian tới như sau:
3.1.1. Bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc
thiểu số ở Sông Hinh trước hết phải nhằm hướng tới mục tiêu xây dựng một nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Việt Nam là một quốc gia thống nhất, đa dân tộc. Văn hóa Việt Nam là nền văn
hóa thống nhất, chứa đựng những giá trị văn hóa chung cho tất cả 54 dân tộc trên
lãnh thổ Việt Nam, bản sắc của bất kỳ một dân tộc nào cũng được tôn trọng, giữ gìn,
phát huy.


×