LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này, em xin cảm ơn Ban Giám hiệu và các thầy
cô trong Bộ môn Kĩ thuật Môi trường, Viện Môi trường trường Đại học Hàng
hải Việt Nam đã tạo mọi điều kiện tốt nhất giúp em hoàn thành đề tài tốt
nghiệp này.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến Thạc Sỹ Phạm Thị
Dương – người đã quan tâm, dìu dắt và tận tình hướng dẫn em trong suốt quá
trình làm đồ án tốt nghiệp. Đồng thời, em xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến chị
Phạm Thị Thủy – Trưởng phòng hành chính bệnh viện đa khoa Thái Bình đã
nhiệt tình hướng dẫn em có những đóng góp ý kiến giúp em hoàn thiện đề tài
này.
Được sự đồng ý của Nhà trường, Viện Môi trường trường Đại học Hàng
hải Việt Nam, Bộ môn Kỹ thuật Môi trường và sự hướng dẫn của cô giáo
Phạm Thị Dương, em đã thực hiện khóa luận tốt nghiệp với đề tài: “Đánh giá
hiện trạng quản lý chất thải rắn y tế tại bệnh viện đa khoa Thái Bình và đề
xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý”.
Đồng thời, xin gửi lời cám ơn tới tất cả các bạn sinh viên lớp KMT 52ĐH đã đóng góp ý kiến, giúp đỡ, động viên và khuyến khích tôi trong suốt
thời gian học tập và thực hiện đồ án tốt nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn !
Hải Phòng, ngày 30 tháng 11 năm 2015
Người thực hiện
Sinh viên
Bùi Thị Diến.
1
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số
bảng
1.1
2.1
2.2
2.3
2.4
Tên bảng
Yêu cầu màu sắc, túi, thùng đựng và biểu tượng chỉ chất thải
y tế.
Thống kê hoạt động y tế bệnh viện đa khoa Thái Bình giai
đoạn 2001-2014.
Phân loại và xác định nguồn phát sinh chất thải.
Nguồn phát thải chất thải rắn y tế nguy hại của bệnh viện đa
khoa Thái Bình.
Lượng chất thải lây nhiễm phát sinh.
Tran
g
10
17
18
19
19
DANH MỤC CÁC HÌNH
Số hình
Tên hình
1.1
3.1
Nguồn phát sinh chất thải rắn y tế.
Cơ cấu tổ chức Hội đồng kiểm soát nhiễm khuẩn ở bệnh
viện đa khoa Thái Bình.
2
Tran
g
3
27
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, vấn đề môi trường đã được các quốc gia và cộng đồng trên thế
giới quan tâm. Bởi lẽ, suy thoái ô nhiễm và những sự cố môi trường có ảnh
hưởng trực tiếp không chỉ trước mắt mà còn về lâu dài cho thế hệ mai sau.
Toàn thế giới đều đã nhận thức được rằng: phải bảo vệ môi trường thì xã hội
loài người mới phát triển bền vững.
Trong số các loại chất thải, chất thải rắn y tế được xem là khá nguy hại vì
tính chất của chúng là khá phức tạp và khả năng lây nhiễm cao, ảnh hưởng
lớn tới sức khỏe cộng đồng. Việc quản lý tốt, xử lý triệt để các loại chất thải
này là vấn đề mà chính quyền và lãnh đạo nhiều cơ sở y tế các cấp đặc biệt
quan tâm.
Dân số Việt Nam ngày càng gia tăng, kinh tế đang đà phát triển dẫn đến
nhu cầu khám và điều trị ngày càng gia tăng, một số cơ sở khám chữa bệnh và
bệnh viện tăng mạnh mẽ. Từ năm 1997, các văn bản quản lý chất thải bệnh
viện đã được ban hành. Theo thống kê cả nước hiện nay có 1087 bệnh viện
tuyến huyện trở lên nhưng hầu hết các cơ quan này chưa đảm bảo quản lý và
xử lý chất thải y tế theo đúng quy định. Ô nhiễm môi trường do hoạt động y tế
có thể chứa đựng các yếu tố truyền nhiễm, là các chất độc hại trong chất thải
y tế, các loại hóa chất, dược phẩm nguy hiểm, các chất phóng xạ và các vật
sắc nhọn...
Nước ta có một mạng lưới y tế với các bệnh viện được phân bố rộng khắp
toàn quốc. Các hoạt động khám chữa, chăm sóc, xét nghiệm phòng bệnh
nghiên cứu và đào tạo các cơ sở y tế đều phát sinh ra chất thải. Các chất thải
phát sinh có thể là chất rắn, chất lỏng, chất khí có chứa các chất hữu cơ, mầm
bệnh gây ô nhiễm, bệnh tật nghiêm trọng cho môi trường bệnh viện và môi
trường xung quanh bệnh viện, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe người dân.
Bệnh viện đa khoa Thái Bình là nơi tiếp nhận và điều trị lớn nhất tỉnh
Thái Bình. Theo dự báo chất thải y tế sẽ tăng nhanh trong thời gian tới. Vì vậy
3
việc phát sinh và thải bỏ chất thải y tế nếu không được kiểm soát chặt chẽ sẽ
gây nguy hại đến môi trường xung quanh và ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe
của người dân. Do tính nguy hại trực tiếp hoặc tiềm ẩn của chất thải y tế gây
ra với con người và môi trường, đòi hỏi phải có những biện pháp hữu hiệu để
nâng cao hiệu quả công tác kiểm soát chất thải y tế của bệnh viện.
Xuất phát từ thực tiễn trên, em đã lựa chọn đề tài: “Đánh giá hiện trạng
quản lý chất thải rắn y tế tại bệnh viện đa khoa Thái Bình và đề xuất một
số biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý”.
2. Mục đích của đề tài
- Đánh giá tổng hợp mức độ ô nhiễm môi trường chung và công tác
quản lý chất thải rắn y tế tại bệnh viện đa khoa Thái Bình.
- Đề xuất một số biện pháp quản lý phù hợp và hiệu quả hơn trong hoạt
động quản lý chất thải rắn y tế tại bệnh viện đa khoa Thái Bình.
3. Nội dung của đề tài
- Giới thiệu tổng quan về chất thải rắn y tế.
- Tìm hiểu thông tin tình hình khám chữa bệnh của bệnh viện đa khoa
Thái Bình.
- Tìm hiểu công tác bảo vệ môi trường tại bệnh viện thông qua tài liệu
liên quan hiện có và khảo sát, đánh giá hiện trạng ô nhiễm môi trường
chung tại bệnh viện.
- So sánh các yêu cầu của quy định (từ Bộ Y tế và bệnh viện) và hiện
trạng hiện nay nhằm tìm ra các vấn đề còn bất cập.
- Đề xuất biện pháp quản lý chât thải rắn y tế đối với bệnh viện dựa trên
các vấn đề bất cập đã phân tích ở trên.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: bệnh viện đa khoa Thái Bình, thành phố Thái
Bình
- Phạm vi nghiên cứu: bệnh viện đa khoa Thái Bình
- Thời gian: 20/9/2015 đến 30/11/2015
- Lĩnh vực đề cập: thông tin về chất thải rắn y tế.
5. Phương pháp nghiên cứu khoa học
Phương pháp luận: nêu mối quan hệ giữa các yếu tố: khái niệm, thành
phần, phân loại, nguyên nhân, tác hại của chất thải rắn y tế; tình hình
công tác quản lý của bệnh viện, nhận thức về chất thải y tế của cán bộ
nhân viên và đặc biệt là bộ phận làm việc trực tiếp với chất thải rắn y
4
tế. Từ đó rút ra kết luận và đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu
quản lý chất thải rắn y tế tại bệnh viện.
Phương pháp tổng hợp số liệu:
- Sưu tầm và thu thập số liệu khách quan đã được nghiên cứu, được công
bố có liên quan đến chât thải y tế tại bệnh viện đa khoa Thái Bình.
- Tìm hiểu các bài luận văn mẫu, các bài khoa học cấp quốc gia có liên
quan đã được công nhận thông qua các phương tiện như báo chí,
internet…
- Tham khảo các bài giảng có nội dung liên quan của các giảng viên các
trường để bài luận văn được hoàn chỉnh hơn.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa khoa học của đề tài:
- Đề tài là dữ liệu đầy đủ nhất về chất thải rắn y tế của bệnh viện đa khoa
Thái Bình, giúp cho các nhà quản lý dễ dàng nắm bắt được tình hình
quản lý và quy hoạch chất thải rắn y tế tại bệnh viện.
- Đề xuất được những giải pháp tối ưu nhất nhằm giải quyết những vấn
đề chất thải rắn y tế của bệnh viện trong thời gian tới.
Ý nghĩa thực tiễn của đề tài:
- Đề tài là cơ sở để so sánh hiện trạng quản lý môi trường với các cơ sở
bệnh viện khác, tạo môi trường khám chữa bệnh trong sạch cho mọi
người.
- Giảm thiểu được chi phí đầu tư trong việc xử lý chất thải rắn y tế tại cơ
cở.
- Đề xuất các giải pháp quản lý chất thải y tế tinh tế và hợp lý nhất.
5
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN
KHÁT QUÁT VỀ NGÀNH Y TẾ
Sự kết hợp giữa y học cổ truyền và y học hiện đại đã tạo nên nét đặc
trưng cơ bản của ngành y tế. Sự kết hợp này mang lại hiệu quả cao trong công
tác phòng bệnh cũng như chữa bệnh cho nhân dân. Vì thế lĩnh vực y tế ngày
càng được quan tâm đặc biệt.
Mặt khác đây cũng là ngành có cơ sở rộng khắp toàn quốc vì nó đảm bảo
cho người về mặt thể chất và luôn có nhiều đối tượng so với các ngành khác.
Chính vì vậy ngành luôn được sự quan tâm và chú trọng đặc biệt trong hầu
hết tất cả các lĩnh vực.
Kèm theo mối quan tâm đó thì công tác bảo vệ môi trường trong sạch
cũng là vấn nạn đáng lo ngại của hầu hết tất cả các cơ sở y tế toàn quốc. Vì
thế, Y tế là một ngành có vai trò quan trọng trong việc chăm sóc và bảo vệ sức
khỏe nhân dân, giải quyết các hậu quả xã hội và bảo vệ sức khỏe nhân dân.
1.2. Đặc trưng của chất thải rắn y tế
1.2.1. Một số khái niệm về chất thải rắn y tế
Theo Quyết định số 43/2007/QĐ-BYT ngày 30 tháng 11 năm 2007 của
Bộ trưởng Bộ Y tế về việc ban hành quy chế quản lý chất thải y tế được hiểu
như sau:
1. Chất thải rắn y tế là vật thể rắn được thải ra từ các cơ sở y tế bao gồm
chất thải y tế nguy hại và chất thải thông thường.
2. Chất thải rắn y tế nguy hại là chất thải y tế chứa nhiều yếu tố nguy hại
cho sức khỏe con người và môi trường, dễ lây nhiễm, gây ngộ độc,
phóng xạ, dễ cháy, dễ nổ, dễ ăn mòn hoặc có đặc tính nguy hại khác
nếu những chất thải này không được tiêu hủy an toàn.
3. Quản lý chất thải rắn y tế là hoạt động quản lý việc phân loại, xử lý
ban đầu, thu gom, vận chuyển, lưu giữ, giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế,
xử lý, tiêu hủy chất thải y tế và kiểm tra, giám sát việc thực hiện.
4. Giảm thiểu chất thải y tế là các hoạt động làm hạn chế tối đa sự phát
thải chất thải y tế, bao gồm: giảm lượng chất thải y tế tại nguồn, sử
dụng các sản phẩm có thể tái chế, tái sử dụng, quản lý tốt, kiểm soát
chặt chẽ quá trình thực hiện và phân loại chất thải chính xác.
1.1.
6
5. Tái sử dụng là việc sử dụng một sản phẩm nhiều lần cho đến hết tuổi
thọ sản phẩm hoặc sử dụng sản phẩm theo một chức năng mới, mục
đích mới.
6. Tái chế là việc tái sản xuất các vật liệu thải bỏ thành những sản phẩm
mới.
7. Thu gom chất thải tại nơi phát sinh là quá trình phân loại, tập hợp,
đóng gói và lưu giữ tạm thời chất thải tại địa điểm phát sinh trong cơ sở
y tế.
8. Vận chuyển chất thải là quá trình chuyên chở chất thải từ nơi phát sinh
tới nơi xử lý ban đầu, lưu giữ, tiêu hủy.
9. Xử lý ban đầu là quá trình khử khuẩn hoặc tiệt khuẩn các chất thải có
nguy cơ lây nhiễm cao tại nơi chất thải phát sinh trước khi vận chuyển
tới nơi lưu giữ hoặc tiêu huỷ.
10. Xử lý và tiêu huỷ chất thải là quá trình sử dụng các công nghệ nhằm
làm mất khả năng gây nguy hại của chất thải đối với sức khỏe con
người và môi trường.
Chất thải y tế là một trong những chất thải nằm trong danh mục những
chất thải nguy hại, vì vậy việc quản lý chất thải y tế cần tuân theo những quy
định có liên quan đến chất thải nguy hại. Do giới hạn đề tài chỉ tập trung vào
chất thải rắn y tế nên nội dung tiếp theo em chỉ tập trung vào loại chất thải
nguy hại này.
1.2.2. Nguồn phát sinh chất thải rắn y tế
Nguồn phát sinh chất thải rắn y tế chủ yếu là bệnh viện, các cơ sở y tế
khác nhau như: trung tâm vận chuyển cấp cứu, phòng khám sản phụ khoa,
nhà hộ sinh, phòng khám ngoại trú, trung tâm lọc máu, các trung tâm xét
nghiệm và nghiên cứu y sinh học, ngân hàng máu…. Hầu hết chất thải rắn y
tế đều có tính chất độc hại và chủ yếu là ở các khu vực xét nghiệm, khu vực
phẫu thuật, bào chế dược. [3]
7
Phòng mổ
Phòng xét nghiệm chụp và rửa phim
Phòng cấp cứu
Phòng bệnh nhân không lây nhiễm
Phòng bệnh nhân truyền nhiễm
Khu bào chế dược phẩm
Khu vực hành chính
Đường thải chung
Buồng tiêm
Chất thải sinh hoạt
Chất thải lâm sàng
Bình áp suất
Chất thải phóng xạ
Chất thải hóa học
Hình 1.1. Nguồn phát sinh chất thải y tế.
Chất thải y tế nguy hại là chất thải có một trong các thành phần như: máu,
dịch cơ thể, chất bài tiết, các bộ phận hoặc cơ quan người và động vật, bơm
kim tiêm và các vật sắc nhọn, dược phẩm, hóa chất và các chất phóng xạ dùng
trong y tế.
Chất thải bệnh viện bao gồm 2 thành phần chính là phần không độc hại
được xử lý đơn giản như rác thải sinh hoạt và phần độc hại cần những biện
pháp xử lý thích hợp để tránh nguy cơ rủi ro ô nhiễm môi trường và ảnh
hưởng xấu đến sức khỏe con người.
Như vậy, việc xác định nguồn gốc phát sinh chất thải là khâu rất quan
trọng. Do đó, mỗi cơ sở y tế cần xác định lượng và loại chất thải phát sinh từ
mỗi nguồn để phân bố chi phí, đưa ra phương pháp thu gom, phân loại ngay
từ nguồn một cách hợp lý, tạo điều kiện thuân lợi cho việc nâng cao hiệu quả
và giảm thiểu chi phí xử lý chất thải bệnh viện.
8
1.2.3. Phân loại chất thải rắn y tế
Căn cứ vào tính chất lý hóa, sinh học và tính nguy hại mà chất thải rắn y
tế được chia thành 5 nhóm theo quy chế quản lý chất thải y tế của Bộ Y tế:
- Chất thải lây nhiễm
- Chất thải phóng xạ
- Chất thải hóa học nguy hại
- Chất thải thông thường
- Các bình chứa khí nén có áp suất.
a) Chất thải lây nhiễm:
Chất thải lây nhiễm được chia thành 4 nhóm theo quy định của Bộ Y tế:
- Nhóm A: bao gồm các vật liệu bị thấm máu, bông, băng gạc, dây
chuyền máu, bột bó gãy xương, các chất thải bị nhiễm khuẩn bởi vi
khuẩn, vius, kí sinh trùng, nấm…
- Nhóm B: gồm các vật liệu sắc nhọn như bơm tiêm, mảnh thủy tinh vỡ,
lưỡi dao mổ, hay những vật sắc nhọn có khả năng đâm chọc thủng.
- Nhóm C: bao gồm các chất thải có nguy cơ lây nhiễm phát sinh từ
phòng xét nghiệm như: găng tay, túi đựng máu, ống nghiệm, lăng kính,
bệnh phẩm sau khi xét nghiệm…
- Nhóm D: bao gồm các cơ quan người - động vật, mô cơ thể (nhiễm
khuẩn hay không nhiễm khuẩn), bào thai, nhau thai...
b) Chất thải phóng xạ:
Tại các cơ sở y tế, chất phóng xạ phát sinh từ các hoạt động chuẩn
đoán, trị liệu và nghiên cứu, chất thải phóng xạ bao gồm: dạng rắn,
dạng lỏng và dạng khí.
- Chất thải phóng xạ rắn bao gồm: các vật liệu sử dụng trong các xét
nghiệm, chuẩn đoán, điều trị như bơm tiêm, ống tiêm, kim tiêm, gạc sát
khuẩn, ống nghiệm, kính bảo hộ, chai lọ đựng chất phóng xạ…
- Chất thải phóng xạ lỏng bao gồm: dung dịch có chứa chất phóng xạ
phát sinh trong quá trình chuấn đoán, điều trị như các chất bài tiết,
nước súc rửa, nước tiểu của người bệnh, các dụng cụ có chất phóng
xạ…
- Chất thải phóng xạ khí bao gồm: các khí thoát ra từ các kho hóa chất
chứa chất phóng xạ…
c) Chất thải hóa học nguy hại:
Chất thải hóa học nguy hại gồm:
- Dược phẩm quá hạn, kém phẩm chất không còn khả năng sử dụng.
- Các dung môi dùng trong cơ sở y tế: hợp chất halogen, chlorfom,
holothane, axeton, etyl axetat…
9
- Các chất quang hóa: được sử dụng trong khoa X-quang.
- Formaldehit: đây là hóa chất thường được sử dụng trong bệnh viện, nó
được sử dụng để làm vệ sinh, khử khuẩn dụng cụ, bảo quản bệnh phẩm
hoặc khử khuẩn các chất lỏng nhiễm khuẩn. Nó được sử dụng trong các
khoa giải phẫu bệnh, lọc máu, ướp xác….
- Các chất hóa học hỗn hợp: bao gồm các dung dịch làm sạch và khử
khuẩn như phenol, dầu mỡ và các dung môi làm vệ sinh…
- Các chất thải chứa kim loại nặng: thủy ngân (từ nhiệt kế, huyết áp kế
thủy ngân vỡ, chất thải từ hoạt động nha khoa), cadimi (Cd) (từ pin, ắc
quy), chì (từ tấm gỗ bọc chì hoặc vật liệu tráng chì sử dụng ngăn tia xạ
từ các khoa chuẩn đoán hình ảnh, xạ trị).
- Các chất gây độc tế bào như: lọ thuốc, vỏ chai thuốc, các chất tiết từ
người bệnh được trị bằng hóa liệu và các dụng cụ dính thuốc gây độc tế
bào.
d) Chất thải thông thường:
Chất thải thông thường là chất thải không chứa các yếu tố lây nhiễm,
hóa học, nguy hại, phóng xạ, dễ cháy nổ, chúng bao gồm:
- Chất thải phát sinh từ công việc hành chính: giấy báo, tài liệu, vật liệu
đóng gói, thùng, bìa carton, túi nilon, túi đựng phim…
- Chất thải sinh hoạt từ các buồng bệnh, trừ các buồng cách ly.
- Chất thải phát sinh từ các hoạt động chuyên môn y tế như các chai
huyết thanh, các loại bột bó trong gãy xương kín, các chai lọ thủy tinh,
các vật liệu nhựa…, những chất thải này không dính máu, dịch sinh
học và các chất thải nguy hại.
- Chất thải ngoại cảnh như: lá cây và rác ngoại cảnh trong bệnh viện.
10
e) Các bình chứa khí nén có áp suất:
Các bình chứa khí nén có áp suất như: bình đựng oxy, CO2, bình gas, bình
chứa khí chỉ sử dụng một lần… Hầu hết các bình chứa khí nén này đều dễ
cháy nổ, có nguy cơ xảy ra tai nạn cao nếu không được tiêu hủy đúng cách”.
[1]
1.2.4. Thành phần của chất thải rắn y tế
a) Thành phần vật lý:
Thành phần vật lý của chất thải rắn y tế bao gồm các loại sau:
- Giấy: hộp đựng dụng cụ, giấy gói, giấy thải từ nhà vệ sinh…
- Bông vải sợi: gồm bông, băng gạc, quần áo cũ, khăn lau, vải trải…
- Nhựa: hộp đựng, bơm tiêm, dây chuyền máu, túi đựng hàng…
- Kim loại: dao kéo mổ, kim tiêm…
- Thủy tinh: chai lọ, ống tiêm, ống nghiệm, bơm tiêm thủy tinh…
- Bệnh phẩm, máu mủ dính ở băng gạc…
- Rác rưởi, lá cây, đất đá…
b) Thành phần hóa học:
Thành phần hóa học của chất thải rắn y tế bao gồm:
- Vô cơ: hóa chất, thuốc thử…
- Hữu cơ: đồ vải sợi, phần cơ thể, thuốc…
c) Thành phần sinh học:
Thành phần sinh học của chất thải rắn y tế bao gồm:
- Máu, những loại dịch tiết, bệnh phẩm…
- Bộ phận cơ thể bị cắt bỏ, những động vật làm thí nghiệm, đặc biệt là
các vi trùng gây bệnh…
1.3. Ảnh hưởng của chất thải rắn y tế tới môi trường và sức khỏe con
người
1.3.1. Ảnh hưởng của chất thải rắn y tế tới môi trường
Xét về mức độ độc hại và dơ bẩn thì chất thải rắn y tế có xếp vào loại ô
nhiễm bậc nhất trong số các loại chất thải rắn xả thải ra môi trường. Do vậy,
chúng sẽ gây ra nhiều tác động xấu đến môi trường và sức khỏe cộng đồng.
a) Ảnh hưởng của chất thải rắn y tế đối với môi trường đất:
Khi chất thải rắn y tế không được phân loại mà thải chung với rác thải
sinh hoạt và đem chôn lấp tại các bãi rác không đúng quy cách, nước rác sẽ
thấm vào đất, rác tồn đọng trong đất sẽ gây ra sự thay đổi các thành phần và
tính chất hóa lý của đất, gây ô nhiễm vùng đất nơi chôn lấp. Các quá trình hấp
phụ các chất độc hại, trao đổi ion với đất, quá trình kết tủa và phân hủy sinh
học đều làm cho thành phần đất bị ảnh hưởng theo hướng xấu đi.
11
b) Ảnh hưởng của chất thải rắn y tế đối với môi trường nước:
Chất thải rắn y tế chứa nhiều hóa chất độc hại, vi sinh gây bệnh truyền
nhiễm, nếu không được quản lý đúng theo quy định thì chúng sẽ phát tán vào
môi trường nước gây ô nhiễm nguồn nước.
Tác động đầu tiên là sự ngập úng gây mất vệ sinh môi trường bệnh viện.
Khi gặp mưa lớn và kéo dài sẽ gây ra sự ngập úng ở những vị trí thấp, đặc
biệt là những bệnh viện không có hệ thống thoát nước hay hệ thống thoát
nước kém hoặc không đảm bảo sẽ gây tích tụ chất bẩn, chất độc hại trong
bệnh viện, gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng đến vệ sinh môi trường
chung của bệnh viện.
Các dược phẩm, hóa chất được thải vào hệ thống cống sẽ gây ảnh hưởng
tới hệ thống xử lý nước thải hoặc gây ảnh hưởng độc hại tới các hệ sinh thái
tự nhiên tiếp nhận nguồn nước này, gây khó khăn trong việc xử lý nước thải ô
nhiễm.
c) Ảnh hưởng của chất thải rắn y tế đối với môi trường không khí:
Hiện nay ở nhiều nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam xử lý chất thải
y tế chủ yếu bằng phương pháp chôn lấp và thiêu đốt. Các phương pháp này
có nguy cơ tác động lớn đến môi trường không khí nếu quy trình kĩ thuật
không được đảm bảo đúng yêu cầu. Cụ thể trong khâu thu gom, vận chuyển
rác thải tới nơi thiêu đốt, chôn lấp bụi trong rác thải sẽ phát tán trong không
khí và được gió phát tán đi xa. Tại các bãi chôn lấp, do hoạt động của các xe
chở rác, những người thu gom phế liệu; một số lượng bụi rác, đặc biệt là bào
tử của nhiều loại vi sinh vật phát tán vào không khí cùng với sự bay hơi của
các dung môi hóa chất độc hại.
Các chất hữu cơ có trong rác thải bị phân hủy dưới tác dụng của các vi
sinh vật hiếu khí và yếm khí tùy theo từng điều kiện tại nhưng nơi thu gom,
vận chuyển, chôn lấp sẽ sinh ra các khí độc hại khác nhau. Trong điều kiện
phân hủy yếm khí sẽ sinh ra CH 4, NH3, H2S… Trong các rác thải sinh hoạt
xảy ra các quá trình lý, hóa khác nhau như quá trình thủy phân, quá trình hòa
tan…làm cho pH giảm, các vi sinh vật gây bệnh phát triển mạnh, bám vào các
hạt bụi và lan tỏa khắp nơi có thể gây bệnh dịch nguy hiểm.
Hoạt động của các lò đốt chưa đúng tiêu chuẩn trong bệnh viện và ngoài
khu vực của thành phố thị trấn… phát sinh các khí độc hại như CO 2, SO2, CO,
12
NOx, dioxin và bụi. Nếu chất thải đốt ở nhiệt độ t o < 900oc thì quá trình đốt sẽ
phát sinh dioxin gây nguy hiểm cho người vận hành lò đốt.
1.3.2. Ảnh hưởng của chất thải rắn y tế đối với sức khỏe con người
a) Đối tượng chịu ảnh hưởng trực tiếp chất thải rắn y tế
Hầu hết các đối tượng tiếp xúc với chất thải y tế nguy hại đều có nguy cơ
chịu ảnh hưởng, bao gồm những người làm việc trong các cơ sở y tế và những
người làm công việc thu gom, vận chuyển chất thải y tế. Dưới đây là nhóm
đối tượng có nguy cơ lây nhiễm cao:
- Bác sỹ, y tá, hộ lý và các nhân viên hành chính của bệnh viện
- Bệnh nhân khám chữa, điều trị nội trú và ngoại trú
- Người nhà bệnh nhân tới chăm sóc hay tới thăm nom
- Những người thu gom rác và làm việc trong các cơ sở xử lý chất thải
như các lò đốt rác, bãi đổ rác…
- Những công nhân làm việc trong các dịch vụ hỗ trợ, phục vụ cho các cơ
sở khám chữa bệnh và điều trị như giặt là, lao công, vận chuyển bệnh
nhân…
b) Tác động từ chất thải rắn y tế
Từ các chất thải truyền nhiễm và các vật sắc nhọn:
Thành phần của chất thải rắn y tế có chứa một lượng rất lớn những tác
nhân vi sinh gây bệnh và truyền bệnh, một trong những mối nguy cơ lớn nhất
hiện nay đó là virus gây hội chứng suy giảm miễn dịch HIV, các virus lây qua
đường máu như viêm gan B… và rất nhiều bệnh truyền nhiễm khác có thể lan
truyền qua con đường rác thải y tế tới cộng đồng. Hầu hết những virus này
thường lan truyền qua các vết tiêm hoặc tổn thương do kim tiêm có nhiễm
máu của người bệnh, chúng xâm nhập vào cơ thể thông qua các con đường
sau:
- Qua hô hấp: do hít, xông phải
- Qua da: do trầy xước hoặc do vết cắt, vết thủng trên da
- Qua đường tiêu hóa
- Qua niêm mạc (màng nhầy).
Từ loại chất thải hóa chất và dược phẩm:
Nhiều loại hóa chất và dược phẩm được sử dụng trong bệnh viện, các cơ
sở y tế là những mối nguy cơ đe dọa sức khỏe con người như: chất dễ cháy
nổ, chất ăn mòn, chất gây độc gen, các độc dược… các loại này thường chiếm
số lượng nhỏ trong chất thải y tế, và với số lượng lớn hơn khi chúng sử dụng
13
dư thừa, quá hạn hoặc hết tác dụng cần thải bỏ. Các hóa chất và dược phẩm
này có thể gây độc khi tiếp xúc cấp tính hoặc mãn tính, gây ra các tổn thương
như ngộ độc, bỏng… và chúng xâm nhập vào cơ thể qua da, qua đường hô
hấp, qua niêm mạc, qua đường tiêu hóa. Nhưng tổn thương hay gặp nhất là
các vết bỏng và những tổn thương tới da, mắt hoặc niêm mạc vì đây là những
con đường xâm nhập nhanh nhất của các hóa chất, dược phẩm đi vào cơ thể
con người.
Từ các chất gây độc hại tế bào:
Mức độ ảnh hưởng của các chất gây độc hại tế bào đối với các nhân viên
y tế phụ thuộc vào bản chất của chất gây độc, phạm vi và khoảng thời gian
tiếp xúc với chất độc đó. Sự tiếp xúc này có thể xảy ra trong lúc chuẩn bị hoặc
trong quá trình điều trị bằng các thuốc đặc biệt hoặc bằng hóa trị liệu. Phương
thức tiếp xúc chính là hít dạng bụi hoặc phun sương qua đường hô hấp, qua
đường tiêu hóa do ăn phải thực phẩm có nhiễm thuốc, hóa chất… Mối nguy
hiểm này cũng có xảy ra khi tiếp xúc với các loại dịch thể, chất bài tiết của
bệnh nhân đang được điều trị bằng hóa trị liệu.
Từ các loại chất phóng xạ:
Các chất thải phóng xạ này cũng giống như các hóa chất, dược phẩm,
cũng là một loại độc hại gen ảnh hưởng tới các yếu tố di truyền; mức độ ảnh
hưởng từ các chất phóng xạ cũng phụ thuộc vào loại chất thải và phạm vi tiếp
xúc, biểu hiện có thể là buồn nôn, chóng mặt và nhiều bất thường khác. Khi
tiếp xúc với các nguồn phóng xạ có hoạt tính cao như các nguồn phóng xạ của
máy chụp cắt lớp, máy X-Quang… có thể gây ra một loạt các tổn thương như
phá hủy các mô tế bào, dẫn đến việc xử lý loại bỏ hoặc cắt cụt các phần cơ
thể.
1.3.3. Ảnh hưởng của chất thải rắn y tế đối với kinh tế và xã hội
Nhiều ảnh hưởng của chất thải bệnh viện tới đời sống kinh tế, xã hội
chúng ta không thể nhận thấy bằng mắt thường. Ví dụ, việc phát tán các chất
độc hại và sinh vật gây ra các dịch bệnh làm ảnh hưởng tới kinh tế và trật tự
đời sống. Tuy vậy, ít người có khả năng nhận ra đó là những hậu quả của việc
quản lý chất thải không đạt yêu cầu vệ sinh.
Đối với các cơ sở y tế và cơ sở liên quan khác có chất thải y tế đặc biệt là
những chất lây nhiễm nếu không có biện pháp kiểm soát và kế hoạch quản lý
14
sẽ phải chi phí tốn kém để tiêu hủy các loại chất thải này. Ngoài ra, các Công
ty Môi trường đô thị hay các cơ sở xử lý có thể từ chối phục vụ các cơ sở y tế
thiếu trách nhiệm về phân loại chất thải tại nguồn, thậm chí không cấp phép
sử dụng các bãi chôn lấp, như vậy sẽ ảnh hưởng tới kinh phí và công tác quản
lý của các cơ sở y tế, và để giải quyết bắt buộc họ phải nâng cao trách nhiệm
của mình.
1.4. Quản lý chất thải rắn y tế
Quản lý chât thải rắn y tế là quản lý từ khâu phân loại rác thải y tế tại
nguồn, thu gom, lưu giữ và vận chuyển tới nơi xử lý và xử lý sao cho đảm
bảo vệ sinh an toàn môi trường; cuối cùng là đề xuất biện pháp để giảm lượng
chất thải phát sinh trong môi trường bệnh viện.
1.4.1. Giảm thiểu tại nguồn
Các hoạt động tái chế, tái sinh cũng như giảm thiểu tại nguồn đang được
áp dụng phổ biến tại các cơ sở y tế. Giảm thiểu tại nguồn là giảm về số lượng,
độc tính của bất kì loại chất thải nào khi đi thải ra môi trường; những biện
pháp giảm thiểu tại nguồn là:
- Chọn nhà cung cấp hậu cần cho bệnh viện mà sản phẩm của họ ít phế
thải, ít độc.
- Tăng cường tiến hành công tác phân loại, khử trùng và tẩy uế.
- Thực hiện biện pháp khử trùng, lý học nhiều hơn biện pháp cơ học để
giảm thiểu chất thải nguy hại.
1.4.2. Quản lý và kiểm soát ở bệnh việc
Việc quản lý và kiểm soát chất thải ở bệnh viện được thực hiện như sau:
- Quản lý thống nhất các loại thuốc, dược phẩm, hóa chất nguy hại.
- Giám sát chặt chẽ việc chuyển lưu dược phẩm, hóa chất ngay từ khâu
nhập kho, sử dụng, tiêu hủy và thải bỏ.
1.4.3. Quản lý kho hóa chất, dược chất
Việc quản lý kho hóa chất và những dược phẩm cụ thể là:
- Nhập hàng với số lượng vừa đủ tiêu thụ, tránh dư thừa hay quá hạn sử
dụng
- Sử dụng hết lô hàng cũ trước, hàng mới dùng sau
- Thường xuyên kiểm tra hạn sử dụng của các loại thuốc, dược phẩm
- Nhập hàng theo đợt để dễ dàng kiểm soát, quản lý kho.
1.4.4. Thu gom, phân loại và vận chuyển
a) Tách – phân loại:
15
Đây là khâu đầu tiên và quan trọng nhất trong công tác quản lý chất thải y
tế vì nó tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tiếp theo cho đến khâu tiêu hủy
cuối cùng. Vì vậy, đòi hỏi sự tách, phân loại chính xác chất thải thông thường
và chất thải y tế nguy hại.
Việc tách và phân loại phải có thùng chứa, hộp đựng vật sắc nhọn, túi
nilon lót trong thùng … và yêu cầu màu sắc, túi nilon, thùng đựng và biểu
tượng chỉ chất thải y tế phù hợp với quy định của cơ sở y tế cũng như Bộ Y tế
đề ra.
Bảng 1.1 Yêu cầu màu sắc, túi, thùng đựng và biểu tượng chỉ chất thải y tế
Loại chất thải
Chât thải lây nhiễm cao
Chất thải lây nhiễm,
bệnh phẩm, giải phẫu
Vật sắc nhọn
Chất thải y tế có đồng
vị phóng xạ
Chất thải y tế
thông thường
Chất thải có khả năng
tái chế
Màu và đánh dấu
nhãn
Vàng, kí hiệu nhiễm
khuẩn cao
Vàng, có nguy cơ
nhiễm khuẩn
Vàng, đề chữ
“vật sắc nhọn”
Đen, logo có bức xạ
theo quy định
Xanh, như túi đựng rác
sinh hoạt
Trắng, biểu tượng chất
thải có thể tái chế
Loại thùng, túi
Thùng nhựa, túi nhựa
bền chắc chắn.
Thùng nhựa,
túi nhựa bền.
Túi nhựa bền, hoặc hộp
giấy, chai nhựa.
Hộp chì, kim loại có
dán nhãn bức xạ.
Túi nilon, thùng nhựa,
kim loại.
Túi nilon, thùng chứa,
kim loại.
(Nguồn: theo quy chế quản lý chất thải y tế của Bộ Y tế, 2007)
16
b) Thu gom tại khoa, phòng:
- Chất thải phải được thu gom hàng ngày và chuyển về nơi lưu giữ chất
thải của bệnh viện.
- Hộ lý, nhân viên y tế phải tiến hành phân loại, tách chất thải y tế ngay
trong quá trình khám chữa, hoạt động này phải duy trì thường xuyên và
liên tục.
- Sau khi thu gom tại các khoa, phòng, rác được phân loại sẵn sẽ chuyển
về thùng lưu chứa tập trung, sau đó vận chuyển về khu lưu giữ chất thải
y tế nguy hại của bệnh viện.
- Yêu cầu trên các túi, thùng thu gom chất thải phải ghi rõ chất thải từ
phòng, khoa, ngày, giờ phát sinh.
- Phải có túi, thùng chứa khác thay thế khi túi, thùng cũ chuyển đi.
c) Lưu chứa:
- Chất thải thông thường và chất thải nguy hại phải được lưu giữ trong
các buồng bệnh khác nhau, tránh để tập trung.
- Khu lưu giữ chất thải phải được xây riêng, tách biệt và cách xa với khu
khám chữa bệnh của bệnh viện.
- Thời gian lưu chứa có thể đến 72 giờ nếu chất thải được chứa trong
thùng lạnh hoặc nhà bảo quản lạnh.
- Tốt nhất là vận chuyển và xử lý chất thải rắn y tế nguy hại ngay trong
ngày, thời gian lưu chứa không quá 48 giờ đối với các khu lưu chứa
thông thường.
d) Vận chuyển:
Chất thải y tế được vận chuyển bằng xe chuyên dụng, đảm bảo các tiêu
chuẩn: có nắp, có thành, đáy kín, dễ cho chất thải vào, dễ lấy chất thải ra, dễ
làm sạch, tẩy uế và làm khô. [1]
1.5. Hiện trạng quản lý chất thải rắn y tế tại Việt Nam và ở Thái Bình
1.5.1. Hiện trạng quản lý chất thải rắn y tế tại Việt Nam
a) Thực trạng quản lý chất thải rắn y tế ở Việt Nam
Chất thải y tế nói chung, chất thải y tế nguy hại nói riêng hiện đang trở
thành vấn đề môi trường và xã hội cấp bách ở nhiều quốc gia trên thế giới,
trong đó có Việt Nam. “Theo số liệu thống kê của Bộ Y tế, hiện cả nước có
13.511 cơ sở y tế các loại bao gồm: 1.361 cơ sở khám chữa bệnh thuộc tuyến
Trung ương, tỉnh, huyện, bệnh viện ngành và bệnh viện tư nhân; 789 cơ sở
thuộc hệ dự phòng tuyến Trung ương, tỉnh và huyện; 77 cơ sở đào tạo y dược
tuyến Trung ương, tỉnh; 180 cơ sở sản xuất thuốc và 11.104 trạm y tế xã.
17
Tổng lượng chất thải rắn phát sinh từ các cơ sở y tế vào khoảng 450 tấn/ ngày,
trong đó có 47 tấn/ ngày là chất thải rắn y tế nguy hại phải được xử lý bằng
những biện pháp phù hợp. Số lượng và mạng lưới y tế như vậy là lớn so với
các nước trong khu vực, song vấn đề đảm bảo vệ sinh môi trường, xử lý chất
thải tại các cơ sở từ trung ương tới địa phương còn quá yếu, hầu hết chưa có
hệ thống xử lý rác thải, môt vài nơi tuy có hoạt động nhưng chưa đạt yêu cầu
kỹ thuật”. [1]
Theo Bộ Y tế, trung bình mỗi ngày đêm, một giường bệnh thải ra môi
trường khoảng 2,5 kg rác thải trong đó từ 10-15% là chất độc hại.
Khoảng 95% lượng rác thải y tế ở các bệnh viện được thu gom trong đó
70% lượng rác thải được xử lý bằng phương pháp đốt trong các lò đốt.
“Tổng số lò đốt là gần 200 lò nhưng hiện phải xử lý rác thải y tế cho 435
bệnh viện (chiếm khoảng 40% số bệnh viện). Hơn nữa, các lò đốt rác chủ yếu
tập trung ở các bệnh viện tỉnh trở lên và một số bệnh viện tuyến huyện thuộc
các thành phố, thị xã. Còn lại khoảng 33% bệnh viện tuyến huyện và một
vài bệnh viện tuyến tỉnh không có hệ thống lò đốt này, phải xử lý chất thải y
tế nguy hại bằng các lò đốt thủ công (tự xây). Còn lại 27% đốt chất thải y tế
ngoài trời hoặc chôn lấp trong khu đất của bệnh viện”. (Dantri.com.vn/vẫn
còn nhiều chất thải y tế chưa được xử lý)
Tại các cơ sở y tế, 12,5% số công nhân xử lý chất thải bị tổn thương do
kim tiêm đâm xảy ra trong quá trình xử lý chất thải y tế. Nguyên nhân chủ
yếu là do sự thiếu các thiết bị bảo đảm an toàn và sự yếu kém về nhận thức
của đội ngũ công nhân y tế.
b) Những khó khăn trong công tác quản lý chất thải rắn y tế
Về kĩ thuật :
Bộ Y tế đã ban hành quyết định số 43/2007/QĐ-BYT về việc ban hành
quy chế quản lý chất thải y tế và Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành
thông tư số 12/2001/TT-BTNMT ngày 14/01/2011 của Bộ Tài nguyên và Môi
trường quy định về quản lý chất thải nguy hại nhưng tại các tuyến cơ sở vẫn
còn nhiều bất cập trong công tác quản lý, nguyên nhân chính là do các công
đoạn như phân loại, thu gom, lưu giữ, vận chuyển và xử lý chưa được thực
hiện nghiêm túc tại các cơ sở y tế và các cơ quan, cụ thể là:
18
- Các cơ sở y tế, cơ quan phụ trách thu gom và xử lý chưa đủ các phương
tiện chuyên dụng thu gom và vận chuyển chất thải y tế.
- Lao công, hộ lý, nhân viên bệnh viện chưa được tập huấn hoặc tập huấn
chưa đầy đủ kiến thức về công tác quản lý chất thải bệnh viện.
- Các cơ sở y tế địa phương chưa đủ khả năng xử lý chất thải y tế nguy
hại như chưa có lò đốt hoặc có lò đốt nhưng chưa đủ công suất.
Về tài chính:
Cơ sở hạ tầng của hầu hết các bệnh viện đã xuống cấp do đã xây dựng lâu
năm nhưng thiếu nguồn kinh phí để tu bổ và xây dựng các khu xử lý rác thải y
tế đúng tiêu chuẩn. Một số địa phương và bệnh viện vẫn chưa được lắp đặt hệ
thống lò đốt chất thải y tế nguy hại, nhiều địa phương đã có hệ thống lò đốt
nhưng vẫn chưa đủ nguồn kinh phí để vận hành đưa hệ thống lò đốt vào hoạt
động thường xuyên.
Về công tác quản lý:
Thiếu đội ngũ cán bộ quản lý và chuyên gia có trình độ kinh nghiệm để
hướng dẫn triển khai các quy trình quản lý chất thải y tế, thiếu phòng chức
năng quản lý chất thải bệnh viện, chưa phân định rõ trách nhiệm về công tác
thanh tra, kiểm tra, kiểm soát môi trường bệnh viện theo từng quý, chưa có
nhiều lớp tập huấn về quản lý chất thải y tế, chưa có được sự quan tâm đúng
mức của chính quyền địa phương.
c) Các biện pháp quản lý của nhà nước trong công tác quản lý chất thải
y tế
Các biện pháp chính sách (cơ sở pháp lý)
Đảng và Nhà nước đã ban hành các pháp luật, chính sách quy định nhằm
ngăn chặn suy thoái môi trường và bảo vệ sưc khỏe con người, các văn bản
pháp luật đó là:
- Nghị quyết số 52/2005/QH11, Chương 8 của luật bảo vệ Môi trường
được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2005 và có hiệu lực từ ngày
01/07/2006.
- Nghị định số 80/2006/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 09/8/2006
về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều lệnh của
Luật bảo vệ Môi trường.
- Nghị định số 59/2007/NĐ-CP, của Chính phủ ban hành ngày
09/04/2007 về quản lý chất thải rắn.
19
- Quyết định số 43/2007/QĐ-BYT, ngày 30/11/2007 của Bộ Trưởng Bộ
Y tế ban hành quy chế quản lý chất thải rắn y tế nhằm tăng cường quản
lý chặt chẽ chất thải y tế.
- Thông tư 36/2015/TT-BTNMT, ngày 14/04/2011 của Bộ tài nguyên
Môi trường quy định về quản lý chất thải nguy hại.
Đầu tư xử lý ô nhiễm môi trường
Song hành với việc ban hành các chính sách, tăng cường các biện pháp
quản lý về bảo vệ môi trường, Chính phủ cũng đã và đang tiến hành một số
dự án hợp tác với nước ngoài để xử lý chất thải nói chung và chất thải y tế nói
riêng. Tại các thành phố lớn như Hà Nội, Đà Nẵng, Hải Phòng được xây dựng
các bãi chôn lấp hợp vệ sinh với vốn vay tín dụng đặc biệt của nước ngoài.
Các phương tiện thu gom và lắp đặt lò thiêu đốt chất thải y tế hiện đại tại
thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội và các dự án trang bị lò đốt chất thải rắn y
tế cho các bệnh viện tuyến địa phương của Bộ Y tế.
Thực trạng quản lý chất thải rắn bệnh viện ở Việt Nam tuy chưa tới mức
độ cực kỳ nguy hiểm song ngay từ lúc này cần phải có những biện pháp chiến
lược trong quan điểm và tầm nhìn để từng bước tháo gỡ khó khăn, giúp cải
thiện môi trường ngành y tế nói riêng và môi trường cả nước nói chung.
1.5.2. Hiện trạng quản lý chất thải rắn y tế tại Thái Bình
Cơ sở y tế trên địa bàn thành phố Thái Bình hiện bao gồm:
1. Tuyến khu vực, ngành: bệnh viện Đại học Y Thái Bình 200 giường.
2. Tuyến tỉnh: bệnh viện đa khoa tỉnh; bệnh viện phụ sản; bệnh viện tâm
thần; bệnh viện nhi; bệnh viện mắt; bệnh viện y học cố truyền; bệnh
viện điều dưỡng phục hồi chức năng; bệnh viện lao và phổi. Với tổng
số giường bệnh là gần 1600 giường bệnh.
3. Tuyến thành phố: bệnh viện đa khoa thành phố; trung tâm y tế thành
phố, với gần 100 giường bệnh.
4. Tuyến phường, xã: bao gồm 19 trạm y tế trong các phường, xã với gần
100 giường.
5. Tuyến ngoài công lập như: bệnh viện đa khoa Lâm Hoa 50 giường,
bệnh viện đa khoa Hoàng An với 45 giường.
Dự án khu trung tâm y tế Thái Bình rộng 42ha có các dự án như: bệnh
viện đa khoa tỉnh 1000 giường bệnh, bệnh viện nhi, bệnh viện mắt, bệnh viện
tâm thần, trung tâm vận chuyển cấp cứu 115, trung tâm giám định y khoa,
bệnh viện đa khoa Lâm Hoa cơ sở 2, bệnh viện phụ sản tư nhân, phòng khám
20
tư vấn chăm sóc sức khỏe và vận chuyển cấp cứu… đang được triển khai
nhưng công tác xây dựng là khá chậm so với tiến độ đề ra”.
( ).
Hàng năm bệnh viện kiện toàn lại hội đồng kiểm soát nhiễm khuẩn. Hội
đồng tổ chức họp, xây dựng kế hoạch hoạt động của hội đồng và phân công
nhiệm vụ cho các thành viên, các thành viên chịu trách nhiệm phụ trách công
tác kiểm soát nhiễm khuẩn tại lĩnh vực mình được phân công và thường
xuyên kiểm tra giám sát, đôn đốc các cán bộ trong phạm vi mình được phụ
trách thực hiện tốt công tác kiểm soát nhiễm khuẩn.
Như vậy, hiện trạng quản lý chất thải rắn y tế ở Việt Nam nói chung và ở
Thái Bình nói riêng đểu có những bất cập và những mối lo ngại đáng được
quan tâm hơn nữa. Cần phải thay đổi chính sách, chủ trương kịp thời và phù
hợp để nâng cao chất lượng hiệu quả quản lý chất thải rắn y tế tại các cơ sở
khám chữa bệnh tại bệnh viện, các cơ sở khám chữa trên toàn quốc nói chung
và bệnh viện đa khoa Thái Bình nói riêng.
21
CHƯƠNG 2: HIỆN TRẠNG VÀ ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC QUẢN LÝ
CHẤT THẢI RẮN Y TẾ TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA THÁI BÌNH
2.1. Giới thiệu về bệnh viện đa khoa Thái Bình
2.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
- Địa điểm: 530 Lý Bôn, phường Quang Trung, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái
Bình
- Điện thoại: 0363 834 281
- Email:
- Vị trí: Nằm ở vị trí trung tâm của tỉnh.
Bệnh viện đa khoa Thái Bình được công nhận bệnh viện hạng 1 từ năm
2007 với diện tích sàn hơn 100.000m2, diện tích đất 12ha. Được sự quan tâm
của tỉnh, cộng với sự nỗ lực phấn đấu của tập thể cán bộ - công nhân viên,
nhiều năm qua bệnh viện luôn phát triển ổn định và liên tục là đơn vị dẫn đầu.
Bệnh viện đang phấn đấu trở thành trung tâm y tế chuyên sâu, trung tâm đào
tạo có uy tín của khu vực các tỉnh Đồng bằng Sông Hồng.
Bệnh viện không chỉ đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh ngày càng tăng,
yêu cầu ngày càng cao của nhân dân, mà còn là nơi đào tạo và chỉ đạo tuyến
các bệnh viện trong tỉnh và là cơ sở thực hành chính của thực tập sinh trường
Đại học y và trường Cao đẳng y Thái Bình.
2.1.2. Cơ sở pháp lý thành lập và phát triển bệnh viện
Trải qua chặng đường 110 năm xây dựng và trưởng thành (1903 - 2013),
Nhà thương Thái Bình là tiền thân của bệnh viện đa khoa Thái Bình đã có
nhiều cống hiến được ghi nhận trong sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ
nhân dân. Trước năm 1945, ngoài việc khám chữa bệnh, Nhà thương Thái
Bình còn chú trọng tuyên truyền vệ sinh phòng bệnh và phương pháp chữa
bệnh bằng Tây y cho người dân, đồng thời thành lập mạng lưới khám chữa
bệnh tại các phủ huyện.
Sau cách mạng tháng Tám 1945, bệnh viện hoạt động dưới sự quản lý của
chính quyền nhân dân. Từ năm 1945 đến năm 1954, bệnh viện đã thực hiện
nhiệm vụ chăm sóc sức khoẻ, khám chữa bệnh cho các tầng lớp nhân dân và
tham gia phục vụ cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong giai đoạn 1954 -1975,
miền Bắc giải phóng và bước vào phát triển kinh tế - xã hội, làm nhiệm vụ
hậu phương lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, bệnh viện Thái Bình đã
tích cực thực hiện nhiệm vụ khám chữa bệnh, phục vụ sự nghiệp chung. Từ
22
năm 1994 đến 2013 là thời kỳ lớn mạnh và trưởng thành của bệnh viện đa
khoa tỉnh Thái Bình. Được UBND tỉnh phê duyệt các dự án đầu tư, nâng cấp
cải tạo bệnh viện một cách toàn diện, cơ sở vật chất của bệnh viện đa khoa
tỉnh Thái Bình đã trở nên khang trang, hiện đại. Với quá trình đổi mới toàn
diện, đến nay bệnh viện đã trở thành một cơ sở khám chữa bệnh đầu ngành có
uy tín, chất lượng, đáp ứng yêu cầu chăm sóc sức khoẻ và khám chữa bệnh
của nhân dân địa phương.
Bên cạnh nhiệm vụ khám chữa bệnh, bệnh viện còn là cơ sở đào tạo và
thực hành chính của trường Cao đẳng y Thái Bình và trường Đại học y Thái
Bình, góp phần đào tạo ra lực lượng cán bộ y tế cho đất nước và hai nước bạn
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Vương quốc Campuchia.
2.1.3. Chức năng của bệnh viện
a) Khám, chữa bệnh và phục hồi chức năng:
- Tiếp nhận tất cả các ca bệnh từ các tuyến khác chuyển đến nhập viện,
cấp cứu, khám chữa bệnh nội trú và ngoại trú.
- Chuyển người bệnh lên tuyến trên khi bệnh viện không đủ điều kiện
giải quyết.
- Tổ chức khám sức khỏe và chứng nhận sức khỏe theo quy định của
Nhà nước.
- Tổ chức khám giám định sức khỏe, giám định pháp y khi hội đồng
giám định y khoa, tỉnh, thành phố, hoặc cơ quan bảo vệ pháp luật trưng
cầu.
- Có trách nhiệm giải quyết hầu hết các bệnh tật trong tỉnh, thành phố và
trực thuộc Trung Ương và các ngành.
b) Phòng chống các dịch bệnh:
-
Phối hợp với các cơ sở y tế dự phòng thực hiện thường xuyên phòng
bệnh, dịch bệnh.
- Tổ chức nghiên cứu, hợp tác nghiên cứu các đề tài y học ở cấp nhà
nước, cấp bộ hoặc cấp cơ sở, chú trọng nghiên cứu về y học cổ truyền
với y học hiện đại và các phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc.
- Kết hợp với bệnh viện tuyến trên và các bệnh viện chuyên khoa đầu
ngành để phát triển kĩ thuật của bệnh viện.
c) Nghiên cứu khoa học:
- Nghiên cứu khoa học và hợp tác nghiên cứu về dịch tễ học lâm sàng,
các yếu tố liên quan đến lây truyền bệnh nhằm xây dựng các biện pháp
23
phòng chống các dịch bệnh truyền nhiễm và nguy hiểm, các dịch bệnh
mới phát sinh.
- Nghiên cứu ứng dụng, chuyển giao công nghệ, thử nghiệm lâm sàng và
triển khai các dịch vụ khoa học kĩ thuật tiên tiến thuộc chuyên ngành
các bệnh truyền nhiễm nhằm nâng cao sức khỏe cho nhân dân.
d) Đào tạo cán bộ y tế:
- Là cơ sở để thực hành về chuyên khoa và đào tạo cán bộ y tế bậc đại
học và cao đẳng y tế trong khu vực và các tỉnh thành lân cận.
- Bệnh viện tổ chức đào tạo liên tục cho các thành viên trong bệnh viện
tuyến dưới nâng cao trình độ chuyên môn.
e) Quản lý đơn vị:
- Quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của đơn vị, sắp xếp tổ
chức bộ máy, biên chế, quản lý cán bộ, viên chức, lao động, tiền lương,
tài chính, vật tư, trang thiết bị kỹ thuật của đơn vị theo quy định của
Nhà nước.
- Thực hiện tốt các chủ trương xã hội hóa ngành y tế của Đảng và Nhà
nước để huy động nguồn vốn trong xã hội nhằm đầu tư, nâng cấp bệnh
viện đúng pháp luật.”
(benhnhietdoi.vn)
2.1.4. Quy mô và cơ cấu tổ chức của bệnh viện
Bệnh viện đa khoa Thái Bình hoạt động với quy mô hiện tại gồm 240
phòng bệnh, 1440 giường bệnh, cùng với các ban phòng có quy mô hiện đại
để đáp ứng nhu cầu của người bệnh. Năm 2014, bộ máy của bệnh viện gồm
có: 40 khoa phòng ban: (9 phòng ban, 23 khoa lâm sàng, 8 khoa cận lâm sàng.
Các phòng ban: phòng kế hoạch tổng hợp, phòng tổ chức hành chính,
phòng tài chính kế toán, phòng điều dưỡng, phòng chỉ đạo tuyến, phòng quản
trị, phòng vật tư kĩ thuật, phòng công nghệ thông tin, phòng ban bảo vệ.
Các khoa lâm sàng: khoa ngoại tổng hợp, khoa ngoại tiết niệu, khoa ung
bướu, khoa gây mê phẫu thuật, khoa chấn thương chỉnh hình - bỏng, khoa
phẫu thuật thần kinh cột sống, khoa mắt, khoa tai mũi họng, khoa răng hàm
mặt, khoa khám bệnh, khoa nội A, khoa nội B, khoa nội tim mạch, khoa nội
tiết, khoa nội tiêu hóa, khoa hồi sức tích cực - chống độc, khoa cấp cứu, khoa
truyền nhiễm, khoa y học cổ truyền, khoa phục hồi chức năng, khoa thận nhân
tạo.
24
Các khoa cận lâm sàng: khoa dược, khoa chẩn đoán hình ảnh, khoa huyết
học, khoa hóa sinh, khoa vi sinh, khoa giải phẫu bệnh, khoa kiểm soát nhiễm
khuẩn, khoa dinh dưỡng.
Đến năm 2014 bệnh viện có 776 cán bộ: 186 bác sỹ (49 bác sỹ chuyên
khoa I, 15 bác sỹ chuyên khoa II), 35 thạc sỹ, 29 dược sỹ (04 dược sỹ chuyên
khoa I, 03 dược sỹ đại học), 350 điều dưỡng (10 đại học, 49 cao đẳng), 59 kỹ
thuật viên y (03 đại học, 11 cao đẳng), 29 đại học và 86 cán bộ khác. Với số
lượng cơ cấu và trình độ cán bộ hiện có, bệnh viện cơ bản đã đáp ứng được
nhiệm vụ của bệnh viện hạng I trong công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe
nhân dân.
Kinh tế - xã hội của tỉnh ngày càng có bước phát triển, đời sống vật chất
của nhân dân dần dần được cải thiện nên bệnh viện đã tập trung mọi nguồn
lực để phát triển kỹ thuật: đào tạo cán bộ, đẩy mạnh công tác chăm sóc người
bệnh toàn diện, tăng cường kiểm soát nhiễm khuẩn, nâng cao tinh thần thái
độ, ý thức trách nhiệm phục vụ người bệnh. Bệnh viện đã hoàn thành vượt
mức các chỉ tiêu kế hoạch, năm sau cao hơn năm trước thể hiện qua số liệu
thống kê chuyên môn.
2.1.5. Tình hình hoạt động y tế tại bệnh viện
Tình hình khám chữa bệnh của bệnh viện đa khoa Thái Bình được trình
bày như sau:
25