Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

luận văn kỹ thuật môi trường ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC THU GOM, XỬ LÝ CHẤT THẢI RẮN Y TẾ TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA QUẢNG NINH VÀ ĐỀ XUẤT CÁC BIỆN PHÁP CẢI THIỆN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (479.27 KB, 89 trang )

Luận văn thạc sỹ kỹ thuật Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
MỞ ĐẦU
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Ngày nay, vấn đề môi trường đang được các quốc gia và cộng đồng
trên thế giới quan tâm. Bởi lẽ ô nhiễm môi trường, sự suy thoái và những
sự cố môi trường có ảnh hưởng trực tiếp không chỉ trước mắt mà còn ảnh
hưởng về lâu dài cho các thế hệ mai sau. Toàn thế giới đều đã nhận thức
được rằng: phải bảo vệ môi trường, làm cho môi trường phát triển và ngày
thêm bền vững.
Việc bảo vệ môi trường cũng bao gồm: việc giải quyết ô nhiễm do những
nguồn nước thải, ô nhiễm do các chất thải sinh hoạt, công nghiệp, sinh học,
các chất thải trong y tế Để xử lý các loại chất thải trên là một vấn đề thật sự
khó khăn và nan giải. Với mỗi loại chất thải, chúng ta cần có những biện pháp
xử lý khác nhau từ những khâu thu gom đến khâu tiêu hủy cuối cùng.
Một trong những loại chất thải đó thì các chất thải trong y tế khá được
quan tâm là chất thải y tế (CTYT) vì tính đa dạng và phức tạp của chúng.
Hiện tại, chất thải bệnh viện đang trở thành vấn đề môi trường và xã hội cấp
bách ở nước ta, nhiều bệnh viện trở thành nguồn gây ô nhiễm cho môi trường
dân cư xung quanh, gây dư luận trong cộng đồng.
Dân số Việt Nam ngày càng gia tăng, kinh tế cũng phát triển, dẫn đến
nhu cầu khám và điều trị bệnh gia tăng, số bệnh viện gia tăng. Từ năm 1997
các văn bản về quản lý chất thải bệnh viện được ban hành. Có 843 bệnh viện
tuyến huyện trở lên nhưng hầu hết chưa được quản lý theo một quy chế chặt
chẽ hoặc có xử lý nhưng theo cách đối phó hoặc chưa đúng. Ô nhiễm môi
trường do các hoạt động y tế mà thực tế là tình trạng xử lý kém hiệu quả các
chất thải bệnh viện.
1
Nguyễn Thị Thu Hường
1
Luận văn thạc sỹ kỹ thuật Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
Việc tiếp xúc với chất thải y tế có thể gây nên bệnh tật hoặc tổn thương.


Các chất thải y tế có thể chứa đựng các yếu tố truyền nhiễm, là chất độc hại
có trong rác y tế, các loại hóa chất và dược phẩm nguy hiểm, các chất thải
phóng xạ và các vật sắc nhọn … Tất cả các nhân viên tiếp xúc với chất thải y
tế nguy hại là những người có nguy cơ nhiễm bệnh tiềm tàng, bao gồm những
người làm việc trong các cơ sở y tế, những người bên ngoài làm việc thu gom
chất thải y tế và những người trong cộng đồng bị phơi nhiễm với chất thải do
sự sai sót trong khâu quản lý chất thải.
Nước ta có một mạng lưới y tế với các bệnh viện được phân bố rộng
khắp trong toàn quốc. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ thì cho đến nay
ngành y tế có khoảng 12.569 cơ sở khám bệnh với 172.642 giường bệnh. Các
hoạt động khám chữa bệnh, chăm sóc, xét nghiệm, phòng bệnh, nghiên cứu và
đào tạo trong các cơ sở y tế phát sinh ra chất thải. Các chất thải y tế dưới dạng
rắn, lỏng hoặc khí có chứa các chất hữu cơ, nhiễm mầm bệnh gây ô nhiễm,
bệnh tật nghiêm trọng cho môi trường bệnh viện và xung quanh bệnh viện,
ảnh hưởng xấu đến sức khỏe người dân.
Bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Ninh là một trong 2 bệnh viện lớn của
tỉnh với quy mô 900 giường bệnh và 1300 cán bộ công nhân viên đã và đang
đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân. Tuy nhiên trong quá trình
hoạt động đã phát sinh ra một lượng lớn chất thải rắn y tế nhưng hiện tại việc
thu gom, quản lý và xử lý chất thải y tế tại Bệnh viên Đa khoa tỉnh Quảng
Ninh còn nhiều hạn chế.
Trên cơ sở các số liệu điều tra thực tế lượng chất thải rắn y tế phát sinh
tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Ninh, hiện trạng phân loại, thu gom và xử
lý chất thải rắn y tế để đánh giá tải lượng và hiệu quả quản lý đối với lượng
chất thải y tế phát sinh. Từ đó tạo cơ sở cho việc lựa chọn giải pháp quản lý,
thu gom và xử lý chất thải rắn y tế tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Ninh
2
Nguyễn Thị Thu Hường
2
Luận văn thạc sỹ kỹ thuật Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội

được hiệu quả hơn góp phần giảm thiểu tới mức thấp nhất tác động của nó đối
với môi trường và sức khỏe cộng đồng
II. MỤC TIÊU ĐỀ TÀI
Y tế đã đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống của tất cả mọi
người, y tế là một trong các thành phần của sự phát triển kinh tế- xã hội của
một địa phương, một khu vực. Ngành y tế đã phòng và chữa bệnh các lọai
bệnh của các sinh vật (con người và động vật) bị nhiễm bệnh, trong đó có các
bệnh bị gây nên do ô nhiễm môi trường. Thế nhưng, chính quá trình hoạt
động của mình ngành y tế cũng đã gây nên rất nhiều vấn đề gây ô nhiễm môi
trường và ảnh hưởng đến sức khỏe của con người và hoạt động sống của các
sinh vật.
Đã từ rất lâu, việc giải quyết sự ô nhiễm môi trường trong các hoạt động
của ngành y tế đã là một vấn đề nhức nhối của toàn xã hội và trên thế giới.
Bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Ninh cũng như các bệnh viện khác đang gặp
rất nhiều khó khăn trong việc quản lý môi trường bệnh viện và chất thải phát
sinh từ các hoạt động y tế .
Luận văn được thực hiện nhằm thực hiện các mục tiêu cụ thể:
- Đánh giá lượng phát sinh và thành phần chất thải rắn y tế phát sinh tại
Bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Ninh
- Đánh giá hiện trạng thu gom, quản lý và xử lý chất thải y tế tại Bệnh
viện đa khoa tỉnh Quảng Ninh.
- Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả thu gom, quản lý và xử lý chất
thải y tế
III. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:
- Tổng quan về chất thải rắn y tế.
- Thu thập thông tin về Bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Ninh.
- Hiện trạng quản lý chất thải y tế.
3
Nguyễn Thị Thu Hường
3

Luận văn thạc sỹ kỹ thuật Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
- Đánh giá hiện trạng thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải y tế tại bệnh viện.
- Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả thu gom, quản lý và xử lý chất
thải y tế.
IV. GIỚI HẠN ĐỀ TÀI:
- Thời gian thực hiện: tháng 7/2011 đến 9/2012
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài được giới hạn trong phạm vi: “Đánh giá
hiện trạng thu gom, quản lý và xử lý chất thải rắn y tế tại bệnh viện đa khoa
tỉnh Quảng Ninh và đề xuất cỏc biện phỏp cải thiện”.
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Để thực hiện được các nội dung nghiên cứu trên các phương pháp nghiên
cứu được sử dụng:
Phương pháp thu thập thông tin tài liệu: kế thừa các kết quả nghiên cứu
đã có sẵn, thu thập phân tích qua các báo cáo, đề tài nghiên cứu, các báo
cáo đánh giá tác động môi trường.
Phương pháp khảo sát thực địa: khảo sát, thu thập số liệu tại bệnh viện .
Phương pháp khảo sát tài liệu.
4
Nguyễn Thị Thu Hường
4
Luận văn thạc sỹ kỹ thuật Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ CHẤT THẢI RẮN VÀ CHẤT THẢI Y TẾ
1.1 TỔNG QUAN VỀ CHẤT THẢI RẮN:
1.1.1 Định nghĩa về chất thải rắn
Chất thải rắn là tất các các chất thải ở dạng rắn hoặc bùn được thải ra
trong quá trình sinh hoạt, trong các quá trình sản xuất, dịch vụ và trong các
hoạt động phát triển của động thực vật.
1.1.2 Nguồn phát sinh chất thải rắn:
Chất thải rắn phát sinh trong quá trình sinh hoạt, dịch vụ, các quá trình

sản xuất công nghiệp và nông nghiệp.
Sơ đồ 1: Sơ đồ nguồn phát sinh chất thải rắn
5
Nguyễn Thị Thu Hường

CT công nghiệpCT nông nghiệpCT sinh hoạt
CT dịch vụ
Khoáng sản
Làm giàu
Sản xuất
Tái chế
Sán xuất phụ
Tiêu thụ
Thải
5
Luận văn thạc sỹ kỹ thuật Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
(Nguồn: Giáo trình chất thải rắn và chất thải nguy hại)
1. 1.3 Phân loại chất thải rắn:
Tuỳ vào tính chất và đặc điểm phát sinh chất thải mà chất thải răn được
phân loại như sau:
* Phân loại theo tính chất:
- Độc, không độc
- Cháy được, không cháy được.
- Bị phân huỷ sinh học, không bị phân huỷ sinh họck
* Phân loại theo đặc điểm nơi phát sinh:
- Chất thải sinh hoạt.
- Chất thải công nghiệp.
- Chất thải nông nghiệp.
- Chất thải y tế.
1.2. TỔNG QUAN VỀ CHẤT THẢI Y TẾ:

1.2.1. Định nghĩa về chất thải y tế:
Theo nghiên cứu của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) cho thấy trong tổng
số chất thải tạo ra từ các hoạt động y tế, gần 80% là chất thải thông thường
(tương tự như chất thải sinh hoạt) còn lại xấp xỉ 20% là những chất thải nguy
hại bao gồm chất thải nhiễm khuẩn và chất thải giải phẩu chiếm tới 15%; các
vật sắc nhọn chiếm khoảng 1%; các hóa chất, dược phẩm hết hạn chiếm
khoảng 3% và các chất thải độc di truyền, vật liệu có hoạt tán phóng xạ chiếm
khoảng 1%.
Theo qui chế về quản lý chất thải y tế ban hành kèm theo quyết định số
43/2007/ QĐ- BYT ngày 3/12/2007 của Bộ Y tế: chất thải y tế là chất thải ở
6
Nguyễn Thị Thu Hường
6
Luận văn thạc sỹ kỹ thuật Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
dạng rắn, lỏng, khí được thải ra từ các cơ sở y tế bao gồm chất thải y tế nguy
hại và chất thải thông thường.
1.2.2: Phân loại chất thải y tế
1. Chất thải lây nhiễm: gồm 4 nhóm
- Chất thải sắc nhọn (loại A): Là chất thải có thể gây ra các vết cắt
hoặc chọc thủng, có thể nhiễm khuẩn, bao gồm bơm kim tiêm, đầu sắc nhọn
của dây truyền, lưới dao mổ. đinh mổ, cưa, các ống tiêm. mảnh thuỷ tinh vỡ
và các vật sắc nhọn khác sử dụng trong các hoạt động y tế.
- Chất thải lây nhiễm không sắc nhọn (Loại B): Là chất thải bị thấm
máy. thấm dịch sinh học của cơ thể và các chất thải phát sinh từ buồng bệnh
cách ly.
- Chất thải có nguy cơ lây nhiễm cao (loại C): Chất thải phát sinh
trong các phòng xét nghiệm như: bệnh phẩm, dụng cụ đựng, dính bệnh phẩm.
- Chất thải giải phẫu (loại D): Bao gồm các mô, cơ quan, bộ phận cơ
thể người, rau thai, bào thai và xác động vật thí nghiệm.
2. Chất thải hoá học nguy hại gồm có:

- Dược phẩm quá hạn, kém phẩm chất không còn khả năng sử dụng.
- Chất hoá học nguy hại sử dụng trong y tế: có đặc tính như gây độc, ăn
mòn dễ cháy bao gồm:
- Formadehyde: được sử dụng trong khoa giải phẫu bệnh, lọc máu, ướp
xác và dùng để bảo quản các mẫu xét nghiệm ở một số các khoa.
- Các hóa chất quang hóa học: có trong các dung dịch dùng cố định và
tráng phim.
- Các dung môi: Các dung môi dùng trong cơ sở y tế bao gồm các hợp
7
Nguyễn Thị Thu Hường
7
Luận văn thạc sỹ kỹ thuật Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
chất halogen như methylen chlorid, chloroform, freons, trichloro ethylen, các
thuốc mê bốc hơi như halothan; các hợp chất không có halogen như xylen,
aceton, isopropanol, toluen, ethyl acetat và acetonitril,
- Oxit ethylene: được sử dụng để diệt khuẩn các thiết bị y tế, phòng phẫu
thuật nên được đóng thành bình và gắn với các thiết bị diệt khuẩn. Loại khí
này có thể gây ra nhiều độc tính và có thể gây ra ung thư ở người.
- Các chất hóa học hỗn hợp: bao gồm các dung dịch làm sạch và khử
khuẩn như phenol, dầu mỡ và các dung môi làm vệ sinh …
- Chất gây độc tế bào gồm: vỏ các chai thuốc, lọ thuốc, các dụng cụ dính
thuốc gây độc tế bào và các chất tiết ra từ người bệnh được điều trị bằng hoá
trị liệu.
- Chất thải chứa kim loại nặng: thuỷ ngân (từ nhiệt kế, huyết áp kế thuỷ
ngân bị vỡ, chất thải từ hoạt động nha khoa), cadimi (Cd) (từ pin, ắc quy),
dung dịch AgNO
3
thải ra sau khi rửa phim chụp X quang.
3. Nhóm chất thải phóng xạ:
Chất thải phóng xạ sinh ra trong các cơ sở y tế từ các hoạt động chẩn

đoán định vị khối, hóa trị liệu và nghiên cứu phân tích dịch mô cơ thể. Chất
thải phóng xạ tồn tại dưới cả ba dạng: rắn, lỏng và khí.
Chất thải phóng xạ rắn gồm: các vật liệu sử dụng trong các xét
nghiệm, chẩn đoán, điều trị như ống tiêm, bơm tiêm, kim tiêm, kính bảo hộ,
giấy thấm, gạc sát khuẩn, ống nghiệm, chai lọ đựng chất phóng xạ …
-Chất thải phóng xạ lỏng gồm: dung dịch có chứa nhân tố phóng xạ
phát sinh trong quá trình chẩn đoán, điều trị như nước tiểu của người bệnh,
các chất bài tiết, nước xúc rửa các dụng cụ có chứa phóng xạ …
- Chất thải phóng xạ khí gồm: các chất khí dùng trong lâm sàng như
133
Xe, các khí thoát ra từ các kho chứa chất phóng xạ …
8
Nguyễn Thị Thu Hường
8
Luận văn thạc sỹ kỹ thuật Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
4. Các bình chứa khí có áp suất.
Bao gồm bình đựng oxy, CO
2
, bình ga, bình dung khí. Các bình này dễ
gây cháy, gây nổ khi thiêu đốt.
5. Chất thải thông thường:
Chất thải thông thường là chất thải không chứa các yếu tố lây nhiễm,
hoá hịc nguy hại, phóng xạ, dễ chát nổ bao gồm:
- Chất thải sinh hoạt phát sinh từ các buồng bệnh (trừ các buồng bệnh
cách ly).
- Chất thải phát sinh từ các hoạt động chuyên môn y tế như cac chai lọ
thuỷ tinh, chai huyết thanh, các vật liệu nhựa, các loại bột bó trong gẫy xương
kín. Những chất thải này không dính máu, dịch sinh học và các chất hoá học
nguy hại.
- Chất thải phát sinh từ các công việc hành chính: giấy, báo, tài liệu, vật

liệu đóng gói, thùng các tông, túi nilon, túi đựng phim.
- Chất thải ngoại cảnh: Lá cây và rác từ các khu vực ngoại cảnh.
1.2.3: Nguồn phát sinh:
Toàn bộ chất thải rắn trong bệnh viện phát sinh từ các hoạt động diễn ra
trong bệnh viện, bao gồm:
- Các hoạt động khám chữa bệnh như: chẩn đoán, chăm sóc, xét nghiệm,
điều trị bệnh, phẩu thuật,(Sơ đồ 2)
- Các hoạt động nghiên cứu, thí nghiệm trong bệnh viện.
- Các hoạt động hàng ngày của nhân viên bệnh viện, bệnh nhân và thân nhân.
9
Nguyễn Thị Thu Hường
9
Khoa dược Phòng kế hoạch tổng hợp
Nhà bếp
Cung cấp thuốc, y cụ cần thiết Quản lý hồ sơ bệnh án
Khám bệnh
Chẩn đoán
Xét nghiệm
Điều trị ngoại trú
Điều trị nội trú tại khoa, phòng
Phẫu thuật
Cấp cứu Hồi sức cấp cứu
Xuất viện
Thăm bệnh
Tái khám
BV
Người bệnh
Dịch vụ ăn uống
Luận văn thạc sỹ kỹ thuật Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
Sơ đồ 2: Hoạt động khám và điều trị của bệnh nhân

1.2.4. Khối lượng chất thải phát sinh
Khối lượng chất thải y tế không chỉ thay đổi theo từng khu vực địa lý,
mà còn phụ thuộc vào các yếu tố khách quan khác như:
 Cơ cấu bệnh tật bình thường, dịch bệnh, thảm hoạ đột xuất.
 Loại và qui mô bệnh viện, phạm vi cứu chữa.
 Số lượng bệnh nhân khám, chữa bệnh, tỷ lệ bệnh nhân điều trị nội
trú và ngoại trú.
 Điều kiện kinh tế xã hội của khu vực.
 Phương pháp và thói quen của nhân viên y tế trong việc khám, điều
trị và chăm sóc.
 Số lượng người nhà được phép đến thăm bệnh nhân.
Tham khảo tài liệu nước ngoài cho thấy khối lượng chất thải rắn y tế
cũng được ước lượng trên cơ sở số giường bệnh và hệ số phát thải phụ thuộc
10
Nguyễn Thị Thu Hường
10
Luận văn thạc sỹ kỹ thuật Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
vào nhiều yếu tố như thay đổi theo mức thu nhập, thay đổi theo loại bệnh viện
mức phát thải khác nhau theo các khoa phòng chuyên môn cụ thể như sau:
Bảng 1.1: Lượng chất thải thay đổi theo từng nước
Chất thải bệnh viện nói
chung (kg/giường bệnh/ngày)
Chất thải y tế nguy hại
(kg/giường bệnh/ngày)
Nước thu nhập
cao
1,2 – 12 0,4 - 5,5
Nước thu nhập
trung bình
0,8 – 6 0,3 - 0,6

Nước thu nhập
thấp
0,5 – 3 0,3 - 0,4
(Nguồn: Môi trường bệnh viện nhìn từ góc độ quản lý an toàn chất thải - 2004
Bảng 1.2: Lượng chất thải thay đổi theo từng loại bệnh viện
Nguồn phát sinh Lượng chất thải theo từng bệnh viện
(kg/giường bệnh/ngày)
Bệnh viện đại học y dược 4,1 – 8,7
Bệnh viện đa khoa 2,1 – 4,2
Bệnh viện tuyến huyện 0.5 – 1,8
Trung tâm y tế 0,05 – 0,2
(Nguồn: Môi trường bệnh viện nhìn từ góc độ quản lý an toàn chất thải - 2004)
Bảng 1.3: Lượng chất thải thay đổi theo các bộ phận khác nhau
trong cùng bệnh viện
1,5
1,5 – 3
3 – 5
0,2
(Nguồn: Môi trường bệnh viện nhìn từ góc độ quản lý an toàn chất thải - 2004)
Ở một số nước trên thế giới có hệ thống y tế giống Việt Nam là có bệnh
viện tuyến Trung ương, tuyến tỉnh và tuyến huyện thì hệ số phát thải chất thải
11
Nguyễn Thị Thu Hường
11
Luận văn thạc sỹ kỹ thuật Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
rắn y tế cũng dao động khá lớn về tổng lượng thải cũng như tỷ lệ chất thải
nguy hại.
Bảng 1.4: Lượng chất thải phát sinh theo tuyến bệnh viện
Tuyến
bệnh

viện
Tổng
lượng chất
thải y tế
(kg/
giường
bệnh
/ngày)
Chất
thải y
tế nguy
hại
(kg/
giường
bệnh/n
gày)
Bệnh
viện
Trung
ương
4,1-8,7 0,4-1,6
Bệnh
viện
tỉnh
2,1-4,2 0,2-1,1
Bệnh
viện
huyện
0,5-1,8 0,1-0,4
(Nguồn: Môi trường bệnh viện nhìn từ góc độ quản lý an toàn chất thải - 2004)

1.2.5. Thành phần chất thải rắn bệnh viện
Chất thải rắn y tế phát sinh trong bệnh viện chủ yếu là do các hoạt động
chuyên môn và phụ thuộc vào số giường bệnh, số bệnh nhân nằm điều trị (tỷ
lệ sử dụng giường bệnh) và còn một lượng chất thải sinh hoạt từ nhân viên y
tế trong bệnh viện. Đối với các bệnh viện ở Việt Nam, do đặc điểm có mặt
một số lượng đáng kể người nhà bệnh nhân, người thăm nuôi, một vài dịch vụ
khác như nhà hàng ăn uống, sách báo v.v. mà số lượng người vãng lai này khá
lớn nhiều khi tương đương với số bệnh nhân nằm viện. Chính hiện trạng này
làm cho khối lượng phát sinh chất thải rắn trong bệnh viện tăng lên, đặc điểm
thành phần chất thải bệnh viện cũng thay đổi theo (có thể tăng tỉ lệ khối lượng
chất thải rắn sinh hoạt). Kết quả này dẫn tới sự quá tải hệ thống thu gom và
12
Nguyễn Thị Thu Hường
12
Luận văn thạc sỹ kỹ thuật Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
xử lý chất thải vốn được thiết kế theo số giường bệnh. Sự quá tải này cũng là
nguyên nhân dẫn đến quản lý, thu gom và phân loại và xử lý thiếu nghiêm
ngặt và không tuân thủ các qui định bắt buộc, do đó dẫn đến tình trạng là một
tỷ lệ chất thải rắn y tế nguy hại có thể bị lẫn vô chất thải rắn chung và phát tán
ra môi trường bên ngoài, trở thành nguồn gây ô nhiễm và có khả năng gây ra
các rủi ro về môi trường và sức khoẻ.
Bảng 1.5: Đặc điểm, thành phần chất thải rắn y tế bệnh viện
ST
T
Đặc điểm, thông số
Giá trị
%
A Thành phần giấy các loại bao gồm cả mảnh carton 2,9
B Thành phần kim loại, vỏ hộp kim loại 0,7
C

Thành phần thuỷ tinh, ống thuốc tiêm, lọ thuốc tiêm, bơm kim
tiêm
3,2
D Bông, gạc, băng, bột bó gãy xương, nẹp cố định 8,8
E
Chai thuốc, túi thuốc, chai dịch, túi dịch, túi máu, thành phần
chất dẻo
10,1
F Bệnh phẩm 0,6
G Rác thành phần hữu cơ 52,7
H Đất, vật rắn khó phân định 21,0
(Nguồn: Môi trường bệnh viện nhìn từ góc độ quản lý chất thải)
Chất thải rắn y tế nguy hại bao gồm các thành phần chất thải trong các
mục phân loại C,D,E,F.
1.3. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ CHẤT THẢI Y TẾ NGUY HẠI:
Có nhiều phương pháp có thể áp dụng để xử lý và tiêu hủy chất thải y tế.
Mỗi phương pháp đều có ưu và nhược điểm nhất định. Việc áp dụng các
phương pháp này còn tùy thuộc vào hoàn cảnh và điều kiện của mỗi quốc gia,
địa phương, các cơ sở y tế.
1.3.1. Các phương pháp xử lý ban đầu:
1. Tiệt trùng bằng hơi nước:
13
Nguyễn Thị Thu Hường
13
Luận văn thạc sỹ kỹ thuật Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
Trong nhiều năm qua, hơi nước vẫn được sử dụng có hiệu quả trong tiệt
trùng các thiết bị, vật tư và dụng cụ y tế.
Xử lý tiệt trùng bằng hơi nước đòi hỏi một số điều kiện như các tác nhân
lây nhiễm trong chất thải phải tiếp xúc với nhiệt độ cao trong một thời gian đủ
để tiệt trùng. Có hai loại quy trình tiệt trùng là quy trình hơi nước và quy trình

đốt nóng khô. Nếu so sánh về nhiệt độ, quy trình tiệt trùng bằng hơi nước
nhanh hơn quy trình đốt nóng khô từ 30 đến 200 lần.
Có hai thiết bị tiệt trùng thông dụng là nồi hấp (autoclve) và nồi chưng
(retort) đều được thiết kế theo kiểu dạng buồng tiệt trùng có bộ điều khiển
nhiệt độ và áp suất tiệt trùng bằng hơi nước. Tuy nhiên loại nồi hấp vẫn được
sử dụng thông dụng hơn trong tiệt trùng vì lý do thành nồi có hệ thống tiền
đốt nóng, vì vậy thời gian làm nóng chất thải nhanh hơn, dẫn tới làm giảm
quá trình đông tụ nước bên trong buồng hấp và trên chất thải.
Đối với những bệnh viện lớn, vị trí đặt các nồi hấp nên chọn ở những địa
điểm để các công ty thu gom đến thu gom các loại chất thải bệnh viện.
Nhược điểm lớn nhất của các phương tiện tiệt trùng bằng hơi nước là khó
khăn trong tiêu hủy cuối cùng các chất thải đã qua tiệt trùng. Các chất thải đã
qua tiệt trùng trông vẫn như chất thải chưa qua tiệt trùng, cho nên rất khó
thuyết phục các cơ sở thu gom và xử lý và khó được chấp nhận đưa vào xử lý
chung với rác thông thường.
Tiêu hủy cuối cùng kim tiêm và bơm tiêm đã tiệt trùng là một vấn đề nan
giải vì các chất thải sắc nhọn này có thể gây tổn thương cho công nhân xử lý
rác. Mặc dù sử lý tiệt trùng bằng nồi hấp là một phương pháp xử lý kim tiêm
hoàn hảo nhưng các kim tiêm sau khi tiệt trùng vẫn phải phá hủy hoặc bọc kín
trước khi chôn.
2. Làm mất hoạt tính/ tiệt trùng bằng nhiệt.
14
Nguyễn Thị Thu Hường
14
Luận văn thạc sỹ kỹ thuật Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
Phương pháp nhiệt khô được sử dụng để tiệt trùng các vật tư, thiết bị và
dụng cụ y tế, xử lý các chất thải lây nhiễm. Bảng dưới trình bày thời gian và
nhiệt độ cần thiết để tiệt trùng nhiệt khô trong các điều kiện lý tưởng. Các
điều kiện này rút ra từ thử nghiệm đối với giống vi trùng Gram dương, hình
que Bacillus.

0
C 121 140 150 160 170 180
0
F 250 285 300 320 340 356
Thời gian tiệt trùng(giờ) 6 3 2,5 1 0,5
Nhiệt khô kém hiệu quả hơn nhiệt ẩm khi làm tác nhân tiệt trùng và cần
nhiều thời gian hơn vì vậy chi phí tốn kém hơn là tiệt trùng bằng nước.
3. Tiệt trùng bằng hơi gas:
Nguyên lý của phương pháp này là để chất thải tiếp xúc với nồng độ cao
của hơi gas tiệt trùng trong các điều kiện cần thiết và thời gian cần thiết và
thời gian xử lý yêu cầu. Các tác nhân tiệt trùng trong các điều kiện cần thiết
và thời gian xử lý yêu cầu. Các tác nhân tiệt trùng gồm oxit etylen và foc –
man – đê – hit à hiện nay loại oxy già ( hydro peroxit) đang được nghiên cứu
làm tiệt trùng bằng hơi gas. Các chất oxit etylen và foc – man – đê – hit đều
có khả năng gây ung thư ở người và nếu để rò rỉ các chất này ra môi trường
sau khi xử lý sẽ gây ra các rủi ro tiếp xúc phải hóa chất này. Do vậy phương
pháp này hầu như không được khuyến khích sử dụng nếu chỉ sử dụng hai loại
hóa chất trên làm tác nhân tiệt trùng.
4. Khử trùng bằng hóa chất:
Phương pháp khử trùng bằng hóa chất là cách bổ sung hóa chất để diệt
hoặc làm mất hoạt tính của tác nhân lây nhiễm. Được sử dụng thường xuyên
15
Nguyễn Thị Thu Hường
15
Luận văn thạc sỹ kỹ thuật Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
trong y tế để làm sạch thiết bị và vật tư, để lau chùi sau phẫu thuật và làm
sạch sàn tường và bàn ghế, xử lý chất thải lây nhiễm.
Khử trùng bằng hóa chất áp dụng phù hợp nhất trong xử lý các chất
lỏng, đồng thời còn để xử lý chất thải rắn lây nhiễm đã được cắt vụn trước
xử lý. Các chất thải rắn lây nhiễm nguyên vẹn sẽ chỉ có khả năng xử lý khử

trùng bề mặt.
5. Chiếu xạ:
Được sử dụng để tiệt trùng một số sản phẩm và vật tư nhất định. Tuy
nhiên phương pháp này tốn kém và yêu cầu rất cao về thiết bị và trình độ
nhân viên và đặc biệt là vấn đề nan giải tiêu hủy nguồn phóng xạ.
Tia sáng cực tím không thể xuyên sâu vào vật liệu cho nên chỉ sử dụng
hạn chế cho tiệt trùng bề mặt. Các loại tấm giấy thải loại có thể sử dụng tia
sáng cực tím để tiệt trùng. Các tia grama từ đồng vị phóng xạ coban- 60 có
thể sử dụng để chiếu xạ khử trùng chất thải lây nhiễm, do có khả năng xuyên
sâu. Tuy nhiên, công nghệ này hiếm khi được áp dụng trong xử lý chất thải.
1.3.2. Phương pháp Đốt chất thải
* Định nghĩa: Đốt chất thải là quá trình oxy hóa chất thải bằng oxy
không khí (đủ hoặc dư) ở nhiệt độ cao.
Quá trình được áp dụng để xử lý các chất bã thải rắn và chất thải nguy
hiểm chứa các chất hữu cơ có thể cháy được.
* Mục tiêu:
- Để khử độc cho chất thải nguy hiểm
- Giảm thể tích và lượng chất thải cần chôn lấp
- Thu hồi nhiệt để sử dụng cho các quá trình: lò hơi, hệ thống điện công
suất nhỏ
Thành phần chất thải có tiêu hủy
16
Nguyễn Thị Thu Hường
16
Luận văn thạc sỹ kỹ thuật Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
Chai nhựa đựng hóa chất, dịch truyền, ống truyền dịch, túi đựng máu, túi
hóa chất
Bông băng, kim tiêm, ống tiêm, chai lọ thủy tinh, ống thuốc, các bệnh
phẩm sau mổ.
Khi phân tích thành phần chất thải và chất rắn nguy hiểm: C, H, O, S, W,

tro nếu hàm lượng C, H lớn sẽ thích hợp cho sử dụng phương pháp đốt, ngược
lại nếu ẩm và tro lớn nên dùng phương pháp khác.
Bảng 1.3. Các chất thải có thể và không nên đốt
Chất thải có thể đốt được Chất thải không nên đốt
- Dung môi
- Dầu thải, bùn dầu
- Chất thải bệnh viện, dược phẩm quá
hạn
- Thuốc trừ sâu, diệt cỏ
- PCBs
- Chất dẻo, cao su trơn, keo
- Gỗ, giấy, vải
- Chất thải dễ nổ
- Chất thải có điểm bắt cháy < 40
0
C
- Chất thải phóng xạ (trừ quần áo bảo
hộ)
- Chất thải vô cơ
Trong lò đốt bã thải nếu
- Nhiệt độ < 900
0
C sẽ tạo ra dioxin, furan, VOC (chất hữu cơ bay hơi)
- Nhiệt độ > 900
0
C – 1200
0
C các chất hữu cơ cháy hết
- Nhiệt độ > 1200
0

C các chất PCB
s
cháy hết
17
Nguyễn Thị Thu Hường
Khói lò: CO
2
, CO, SO
2
, NO
x
,
HCl, dioxin, furan, kim loại
thăng hoa Chất hữu cơ + O
2

Tro, xỉ
17
Luận văn thạc sỹ kỹ thuật Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
Để duy trì nhiệt độ cao > 1200
0
C trong lò đốt nếu nhiệt trị của chất thải
thấp sẽ không đạt vì vậy phải bổ sung nhiên liệu phụ như than, dầu FO, dầu
DO, khí thiên nhiên.
Thời gian lưu của chất thải trong lò đốt đủ để chất cháy hết, đối với pha
khí ít nhất là 2 giây còn với pha rắn phải một vài giờ tùy loại và kích thước
chất thải phải đảm bảo tiếp xúc tốt giữa oxy không khí với chất thỉa bằng đảo
trộn pha rắn và tăng tốc độ dòng khí.
Sản phẩm của quá trình đốt là khói lò có chứa bụi, các oxit kim loại
nặng, các khí axit vì vậy phải xử lý trước khi chất thải vào không khí.

Xử lý bằng: Cyclon, lọc điện, lọc túi, tháp rửa
Xử lý khí bằng tháp hấp thụ: dùng các dung dịch kiềm của sữa vôi, sooda
để hấp thụ hóa học.
Tro của lò đốt đem chôn l
1.3.3. Phương pháp trơ hóa:
Ổn định/ đóng rắn (Stabilization) là công nghệ trộn chất thải với ổn định/
chất đóng rắn nhằm cố định chất thải trong cấu trúc của vật liệu rắn hoặc tạo
thành thể rắn bao lấy chất thải, làm cho chất thải nguy hại ít linh động hơn do
giảm độ hòa tan, giảm độ bay hơi, ít phản ứng hơn, giảm độ độc hại của
18
Nguyễn Thị Thu Hường

Nhiên liệu
Nhiên liệu
Hệ
thống
xử lý
khói

Chất thải
Lò đốt thứ cấpLò đốt sơ cấp
Ống khói
18
Luận văn thạc sỹ kỹ thuật Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
CTBNH và giảm sự rò rỉ của CTNH ra môi trường bằng cách bao bọc cách ly
chất thải nguy hại với môi trường.
Phương pháp này bao gồm:
- Sự trộn lẫn giữa chất thải xi măng với một số vật liệu khác.
- Tiêu hủy bằng cách cố định các chất độc có trong chất thải mà không
gây ra nguy hại lớn cho nguồn nước hoặc đất.

- Thích hợp để tiêu hủy tro và các loại chất thải có chứa kim loại nặng .
Đối với chất thải y tế phương pháp trơ hóa chỉ thích hợp để xử lý tro của
lò đốt chất thải y tế. Cho vôi, nước, xi măng để trộn đều thành khối đồng nhất
dưới dạng cục, sau đó chuyển tới bãi chôn lấp.
Quá trinh này tương đối tốn kém nhưng thực hiện khá đơn giản. Không
ứng dụng được cho chất thải nhiễm khuẩn.
1.3.4. Tiêu hủy bằng chôn lấp hợp vệ sinh
Thường được coi là giải pháp tốt nhất đối với chất thải rắn thông thường
(tức là chất thải không lây nhiễm). Đây là biện pháp xử lý chất thải y tế cổ
xưa nhất và hiện nay vẫn được dùng phổ biến ở nhiều nơi trên khắp thế giới –
đặc biệt là những nước nghèo. Do phương pháp chôn lấp có công nghệ đơn
giản và đặc biệt là chi phí đầu từ và chi phí xử lý thấp nhất so với các phương
pháp khác nên có phù hợp cho hầu như tất cả các bệnh viện đều có kinh tế
khó khăn.
Tuy nhiên, phương pháp này cũng có nhiều nhược điểm như yêu cầu
phải có diện tích đất đủ lớn để chôn lấp chất thải y tế; là tác nhân gây ô nhiễm
môi trường đất và nguồn nước ngầm cao; là nguồn ủ cho các bệnh truyền
nhiễm và gây thành dịch bệnh cho xã hội. Cho nên, hiện nay người ta không
khuyến khích các bệnh viện sử dụng biện pháp chất thải y tế.
Chất thải dạng lỏng không nên chôn ở các bãi chôn lấp, tốt hơn là tiêu
hủy xuống các hệ thống cống thoát hợp vệ sinh. Các chất thải đã xử lý và cặn
19
Nguyễn Thị Thu Hường
19
Luận văn thạc sỹ kỹ thuật Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
lắng từ quá trình xử lý. Các chất thải đã xử lý theo các phương pháp như tiệt
trùng bằng hơi nước hay thiêu đốt tạo ra các phần cặn lắng như tro.
Việc chôn lấp chất thải y tế nguy hại phải có quy trình xã hội do các cơ
quan chuyên môn hướng dẫn. Hiện tại, Việt Nam và nhiều nước trên thế giới
đã có hướng dẫn kỹ thuật chôn lấp chất thải nguy hại. Việc chôn lấp chất thải

y tế nguy hại phải tuân theo hướng dẫn này.
1.4. TÌNH HÌNH QUẢN LÝ CHẤT THẢI Y TẾ TRÊN THẾ GIỚI
Trên Thế giới việc quản lý chất thải bệnh viện đã được nhiều Quốc gia
tiên tiến chú trọng từ rất lâu. Hàng năm các Quốc gia đó đều có những thống
kê chính xác chất lượng chất thải y tế phát sinh, các chi phí cho vận hành và
khấu hao thiết bị cũng như phí cho việc đầu tư nâng cấp cải tạo bệnh viện.
1.4. TÁC ĐỘNG CỦA CHẤT THẢI Y TẾ TỚI MÔI TRƯỜNG VÀ SỨC
KHỎE CON NGƯỜI:
Chất thải bệnh viện tồn tại ở ba dạng: rắn, lỏng, khí và chúng có khả
năng chuyển từ pha này sang pha khác hoặc được cố định vào một pha nào
đói do quá trình biến đổi vật lý, hóa học và sinh học. Mặc dù lượng chất thải
bệnh viện so với tổng lượng chất thải sản sinh từ sản xuất công nghiệp và sinh
hoạt không lớn, nhưng xét về mặt độc hại và tinh nguy hiểm (đặc biệt là rác
thải y tế và nước thải từ khâu điều trị bệnh, phóng xạ, ) thì chúng gây ô
nhiễm môi trường đáng kể, ảnh hưởng đến sức khỏe và quá trình phát triển
lâu dài của con người:
1.4.1. Ảnh hưởng của chất thải y tế tới môi trường:
1. Ảnh hưởng của chất thải bệnh viện đến môi trường không khí:
Hiện nay nhiều nước trên thế giới và ở Việt Nam xử lý chất thải bệnh
viện chủ yếu bằng phương pháp chôn lấp và thiêu đốt. Các phương pháp này
có nguy cơ tác động rất lớn đến môi trường không khí nếu quy trình ký thuật
không được bảo đảm đúng yêu cầu. Ví dụ, trong khâu thu gom vận chuyển
20
Nguyễn Thị Thu Hường
20
Luận văn thạc sỹ kỹ thuật Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
rác thải tới nơi thiêu đốt: bụi trong rác thải sẽ phát tán ra không khí và được
gió phát tán đi xa. Tại những bãi chôn lấp do hoạt động của các xe chở rác,
người thu gom phế liệu mà một số lượng lớn bụi rác, đặc biệt là bào tử của
nhiều loại vi sinh vật phát tán vào không khí cùng với sự bay hơi của các

dung môi hóa chất độc hại.
Các chất hữu cơ có trong rác thải bị phân hủy dưới tác dụng của các vi
sinh vật hiếu khí và yếm khí tùy điều kiện tại những nơi thu gom, vận chuyển,
chôn lấp sẽ sinh ra các khí độc khác nhau. Trong điều kiện phân hủy yếm khí
sẽ sinh ra CH4, NH3, H2S Trong rác thải xảy ra quá trình lý, hóa học khác
nhau như quá trình thủy phân, quá trình hòa tan làm cho pH giảm, các vi sinh
vật phát triển mạnh bám vào các hạt bụi và lan tỏa khắp nơi có thể gây bệnh
dịch nguy hiểm.
Hoạt động của lò đôt chưa đúng tiêu chuẩn trong bệnh viện và ngoài khu
vực thành phố thị xã, phát sinh các khí độc hại như Nox, CO, CO2, SO2.
dioxin và bụi. Nếu chất thải đốt ở nhiệt độ t ≤ 900 độ C quá trình đốt sẽ phát
sinh dioxin gây nguy hiểm cho người vận hành lò đốt.
2. Ảnh hưởng của chất thải y tế đến môi trường nước:
Rác thải bệnh viện chứa nhiều hóa chất độc hại, vi sinh vật gây bệnh
truyền nhiễm do vậy nếu không được quản lý đúng quy định chúng sẽ phát
tán vào môi trường nước gây ô nhiễm nguồn nước. Mặt khác, nước thải bệnh
viện không qua khâu xử lý nước thải ra các hệ thống cống rãnh chung là
nguồn ô nhiễm độc hại đối với các nguồn nước mặt và nước ngầm ở khu vực
xung quanh.
3. Ảnh hưởng của chất thải y tế tới môi trường đất:
Khi chất thải bệnh viện không được phân loại mà thải chung với rác thải
sinh hoạt bằng cách đem chôn lấp tại các bãi rác, không đúng quy cách, nước
21
Nguyễn Thị Thu Hường
21
Luận văn thạc sỹ kỹ thuật Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
rác sẽ ngấm xuống đất, rác tồn đọng trong đất sẽ gây ra sự thay đổi các thành
phần và gây ô nhiễm đất ở nơi chôn lấp.
Các quá trình hấp phụ chất độc hại, trao đổi ion với đất, quá trình kết tủa
và phân hủy sinh học, đều làm cho đất bị ảnh hưởng theo hướng xấu đi.

1.4.2. Tác hại của chất thải y tế lên sức khoẻ con người:
1. Các rủi ro từ chất thải y tế
Chất thải y tế bao gồm một lượng lớn chất thải có đặc điểm như chất
thải sinh hoạt chung và một tỷ lệ nhỏ hơn (khoảng 20%) các chất thải có khả
năng gây rủi ro cao. Chất thải rắn y tế có thể tạo nên những mối nguy cơ tiềm
tàng cho sức khoẻ con người.
2. Các loại hình rủi ro
Việc tiếp xúc với chất thải y tế có thể gây nên bệnh tật hoặc tổn thương.
Khả năng gây rủi ro từ chất thải y tế có thể do một hay nhiều đặc trưng cơ bản
sau đây:
 Chất thải y tế chứa đựng các yếu tố truyền nhiễm, là tác nhân
nguy hại trong rác thải y tế.
 Các hoá chất dược phẩm có thành phần độc, tế bào nguy hiểm.
 Các chất chứa đồng vị phóng xạ.
 Các vật sắc nhọn có thể gây tổn thương.
 Chất thải có yếu tổ ảnh hưởng tâm lý xã hội.
3. Những đối tượng có thể tiếp xúc với nguy cơ
Tất cả mọi cá nhân tiếp xúc với chất thải y tế nguy hại là những ngưới
có nguy cơ tiềm tàng, bao gồm những người làm việc trong các cơ sở y tế,
những người làm nhiệm vụ vận chuyển các chất thải y tế và những người
22
Nguyễn Thị Thu Hường
22
Luận văn thạc sỹ kỹ thuật Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
trong cộng đồng bị phơi nhiễm chất thải do hậu quả của sự bất cẩn và tắc
trách trong các khu quản lý và kiểm soát chất thải.
Dưới đây là những nhóm đối tượng chính có nguy cơ cao đối với tác
hại của chất thải y tế:
 Bác sĩ, y tá, hộ lý và các nhân viên hành chính của bệnh viện, những
người thực hiện các thủ thuật xâm lấn, tiêm, thay băng, v.v.

 Những người thực hiện nhiệm vụ phân loại, thu gom và vận chuyển
chất thải y tế từ ngay tại nguồn về nơi tập kết của bệnh viện.
 Bệnh nhân điều trị nội trú hoặc bệnh nhân ngoại trú.
 Khách tới thăm hoặc người nhà bệnh nhân, người thăm nuôi.
 Những công nhân làm việc trong các dịch vụ hỗ trợ bệnh viện phục
vụ cho các cơ sở khám chữa bệnh và điều trị, chẳng hạn như giặt là,
lao công, vận chuyển bệnh nhân, vệ sinh tẩy uế.
 Những người làm việc trong các cơ sở xử lý chất thải (tại bãi đổ rác
thải, các lò đốt rác) và những người bới rác, thu rác.
Chất thải y tế nguy hại phát sinh từ dịch vụ cơ sở y tế tư nhân, qui mô
lẻ, nằm rải rác cũng là nguồn thải có tiềm năng gây rủi ro về môi trường và
sức khoẻ do nguồn chất thải này thường khó kiểm soát và ít khi được chú ý
tới. Đôi khi, ngay cả những tủ thuốc gia đình hoặc một số tế nạn xã hội như
tiêm chích ma tuý cũng là nguồn phát sinh chất thải y tế nguy hại có tiềm
năng gây rủi ro cao về môi trường và sức khoẻ.
4. Các nguy cơ từ chất thải truyền nhiễm và các vật sắc nhọn:
Các vật thể trong thành phần chất thải y tế nguy hại có thể chứa đựng
một lượng rất lớn bất kỳ tác nhân vi sinh vật gây bệnh truyền nhiễm nào như
tụ cầu, HIV, viêm gan B. Các tác nhân gây bệnh có thể xâm nhập vào cơ thể
thông qua các hình thức sau:
23
Nguyễn Thị Thu Hường
23
Luận văn thạc sỹ kỹ thuật Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
 Qua da, qua một vết thủng, trầy xước hoặc vết cắt trên da do vật sắc
nhọn gây tổn thương.
 Qua các niêm mạc, màng nhầy.
 Qua đường hô hấp do xông, hít thở phải.
 Qua đường tiêu hoá do nuốt, ăn phải.
Các ví dụ về sự nhiễm khuẩn do tiếp xúc với chất thải y tế được liệt kê

trong bảng dưới đây qua đường truyền là các dịch thể như máu, dịch não tuỳ,
chất nhờn, nước mắt, tuyến nhờn.
Có một mối liên hệ đặc biệt giữa sự nhiễm khuẩn do virus gây ra hội
chứng suy giảm miễn dịch người (HIV) và virus viêm gan B, C đó là những
bằng chứng của việc lan truyền các tác nhân gây bệnh truyền nhiễm qua
đường phát thải chất thải rắn y tế. Những virus này thường lan truyền qua vết
tiêm hoặc các tổn thương do kim tiêm có nhiễm máu người bệnh.
Trong các cơ sở y tế, tính kháng đa thuốc kháng sinh của các vi khuẩn
đối với hàng loạt họ kháng sinh và các hoá chất sát khuẩn cũng có thể tạo ra
những mối nguy cơ do sự quản lý yếu kém chất thải y tế. Điều này đã được
chứng minh, chẳng hạn các plasmid từ các động vật thí nghiệm có trong chất
thải y tế được truyến cho vi khuẩn gốc qua hệ thống xử lý chất thải. Hơn nữa,
vi khuẩn E.coli kháng thuốc đã cho thấy nó vẫn còn sống trong môi trường
bùn hoạt tính mặc dù ở đó có vẻ như không phải là môi trường thuận lợi cho
loài sinh vật này trong điều kiện thông thường của hệ thống xử lý và tiêu huỷ
chất thải y tế.
Độ tập trung các các tác nhân gây bệnh và các vật sắc nhọn bị nhiễm
các vi sinh vật gây bệnh (đặc biệt là những mũi kim đã được tiêm qua da) hầu
như là những mối nguy cơ tiềm ẩn sâu sắc đối với sức khoẻ trong các loại
chất thải bệnh viện. Các vật sắc nhọn có thể không chỉ là nguyên nhân gây ra
24
Nguyễn Thị Thu Hường
24
Luận văn thạc sỹ kỹ thuật Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội
những vết cắt, vết đâm thủng mà còn gây nhiễm trùng các vết thương nếu nó
bị nhiễm các tác nhân gây bệnh. Như vậy, những vật sắc nhọn được coi là một
loại chất thải y tế rất nguy hiểm bởi nó gây những tổn thương kép: vừa gây
tổn thương lại vừa lây truyền các bệnh truyền nhiễm. Những vấn đề đáng lưu
tâm là sự nhiễm trùng có thể được lây truyền bởi sự xâm nhập qua da do các
tác nhân gây bệnh, ví dụ như nhiễm khuẩn huyết do virus. Các loại kim tiêm

đã tiêm qua da là một thành phần quan trọng nhất của loại chất thải sắc nhọn
và là mối nguy hiểm đặc biệt bởi chúng thường bị dính máu bệnh nhân.
25
Nguyễn Thị Thu Hường
25

×