Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Phân tích khả năng thanh toán tại công ty cổ phần xây lắp hải long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.67 MB, 76 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh kinh tế như hiện nay, các doanh nghiệp muốn đứng vững trên
thương trường cần phải nhanh chóng đổi mới, trong đó đổi mới về quảng lý tài chính
là một trong các vấn đề được quan tâm hàng đầu và có ảnh hưởng trực tiếp đến sự
sống còn đối với nhiều doanh nghiệp Việt Nam. Bởi lẽ, để hoạt dộng kinh doanh của
doanh nghiệp đạt hiệu quả thì nhà quản lý cần phải nhanh chóng nắm bắt những tín
hiệu của thị trường, xác định đúng nhu cầu về vốn, tìm kiếm và huy động nguồn vốn
để đáp ứng nhu cầu kịp thời, sử dụng vốn hợp lý, đạt hiệu quả cao nhất. Muốn vậy, các
doanh nghiệp cần nắm những nhân tố ảnh hưởng, mức độ và xu hướng tác động của
từng nhân tố đến tình hình tài chính doanh nghiệp. Điều này chỉ có thể thực hiện trên
cơ sở phân tích tài chính. Tuy vậy, trong khả năng hạn hẹp của mình, em chỉ xin phép
được trình bày một phần nhỏ nhưng cũng chiếm vị trí khá quan trọng trong hoạt động
phân tích tài chính. Đó là phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp
Việc thường xuyên phân tích khả năng thanh toán sẽ giúp nhà quản lý doanh
nghiệp thấy rõ thực trạng tình hình thanh toán của doanh nghiệp mình, lường trước
được những rủi ro xảy đến trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó có thể
làm căn cứ để hoạch định phương án hành động phù hợp cho tương lai và đồng thời đề
xuất những giải pháp hữu hiệu để ổn định và tang cường tình hình tài chính giúp nâng
cao chất lượng doanh nghiệp.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, trong thời gian thực tập tại công ty
Cổ phần Xây lắp Hải Long, trực tiếp tìm hiểu khả năng thanh toán của công ty, em
quyết định chọn đề tài: “ Phân tích khả năng thanh toán tại công ty Cổ phần xây lắp
Hải Long” làm khóa luận tốt nghiệp.

2. Mục đích nghiên cứu
Nội dung đề tài là tập trung nghiên cứu khả năng thanh toán của doanh nghiệp
để thấy rõ thực trạng, tình hình thanh toán của doanh nghiệp, trên cơ sở đó đề xuất
những giải pháp và kiến nghị giúp cải thiện tình hình tài chính và giúp doanh nghiệp
hoạt động hiệu quả hơn.


1


3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được vận dụng trong đề tài chủ yếu là phương pháp so
sanh và tổng hợp số liệu thực tế thu thập được trong quá trình thực tập tạo doanh
nghiệp. Các số liệu trên báo cáo tài chính và các thong tin có được từ việc phỏng vấn
trực tiếp các nhân viên phòng kế toán để xác định xu hướng phát triển, mức độ biến
động của các số liệu cũng như các chỉ tiêu và từ đó đưa ra nhận xét. Ngoài ra còn sử
dụng các phương pháp khác như: phương pháp phân tích tỷ số, phương pháp liên hệ…

4. Phạm vi nghiên cứu
Về mặt không gian: Công ty cổ phần xây lắp Hải Long là doanh nghiệp hoạt
động với nhiều ngành nghề kinh doanh. Tuy nhiên, đề tài của em chỉ tập trung nghiên
cứu về tình hình tài chính mà cụ thể ở đây là khả năng thanh toán toàn công ty chứ
không đi sâu phân tích tài chính từng lĩnh vực hoạt động.
Về mặt thời gian: Đề tài được phân tích cụ thể trong giai đoạn 2012 - 2014

5. Kết cấu chuyên đề
Kết cấu chuyên đề ngoài lời mở đầu và kết luận gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về khả năng thanh toán trong doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng về khả năng thanh toán tài công ty cổ phần xây lắp Hải Long
giai đoạn 2012 – 2014
Chương 3: Biện pháp hoàn thiện nâng cao khả năng thanh toán tại công ty cổ phần
xây lắp Hải Long

2


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ KHẢ NĂNG THANH TOÁN

TRONG DOANH NGHIỆP
1.1 Khả năng thanh toán trong doanh nghiệp
1.1.1 Khái niệm
Khả năng thanh toán được hiểu như khả năng chuyển hóa thành tiền mặt của
các tài sản công ty để đối phó với cái khoản nợ đến hạn, thông số khả năng thanh toán
còn được gọi là thông số hoán chuyển tiền mặt vì nó bao hàm khả năng chuyển đổi các
khoản thành tiền trong thời gian ngắn, quy thành một chu kỳ kinh doanh thường nhỏ
hơn hoặc bằng một năm, ý nghĩa chung của thông này là biểu hiện khả năng trả nợ
bằng cách chỉ các quy mô, phạm vi tài sản có thể dùng để trang trải các yêu cầu của
chủ nợ với thời gian phù hợp. Thông qua phân tích khả năng thanh toán có thể đánh
giá thực trạng khả năng thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp, từ đó có thể đánh
giá được tình hình tài chính của doanh nghiệp, thấy được những tiềm năng cũng như
nguy cơ trong hoạt động huy động và hoàn trả của doanh nghiệp để có biện pháp quản
lý kịp thời.
Khả năng thanh toán là một thuật ngữ dùng đề chỉ khả năng thực hiện các
khoản phải thu, các khoản phải trả của một số tổ chức kinh tế, của ngân hàng, của
ngân sách nhà nước trong một thời kỳ nhất định. Với mỗi đối tượng cụ thể nó lại có
một cách định nghĩa khác nhau:
Đối với doanh nghiệp: Khả năng thanh toán là khả năng của một doanh nghiệp
có thể hoàn trả các khoản nợ đến hạn. Khi một doanh nghiệp, một công ty mất khả
năng thanh toán, tòa án tuyên bố phá sản, vỡ nợ. Khả năng thanh toán của doanh
nghiệp thể hiện trên nhiều mặt khác nhau như: khả năng thanh toán chung ( khả năng
thanh toán tổng quát), khả năng thanh toán nợ ngắn hạn, khả năng thanh toán nhanh,
tức thời… Một doanh nghiệp được xem là đảm bảo khả năng thanh toán khi và chỉ khi
doanh nghiệp bảo đảm đáp ứng đủ các mặt khác nhau của khả năng thanh toán. Trên
thực tế, có khá nhiều doanh nghiệp mặc dù khả năng thanh toán chung rất cao nhưng
khả năng thanh toán nợ ngắn hạn hay khả năng thanh toán nhánh, tức thời không đảm
bảo. Tương tự cũng khá nhiều doanh nghiệp có thừa khả năng thanh toán tức thời hay
khả năng thanh toán nhanh nhưng lại không đảm bảo khả năng thanh toán nợ ngắn hạn
và khả năng thanh toán tổng quát… Chính vì vậy, việc đánh giá khái quát khả năng

thanh toán của doanh nghiệp phải được xem xét đầy đủ, toàn diện về khả năng thanh

3


toán tổng quát, khả năng thanh toán nợ ngắn hạn, nợ dài hạn, khả năng thanh toán
nhanh và khả năng thanh toán tức thời.
Mặc dù có khá nhiều quan điểm cũng như chỉ tiêu sử dụng khi đánh giá về khả
năng thanh toán nhưng hầu hết đều thống nhất: Khả năng thanh toán tổng quát của một
doanh nghiệp thể hiện ở khả năng chung trong việc trang trải các khoản nợ nói chung
về mặt tổng thể, trong thời gian dài; còn khả năng thanh toán ngắn hạn dùng để đo
lường khả năng trả các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp như nợ và các khoản phải
trả bằng các tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp như tiền mặt, các khoản phải thu, hàng
tồn kho. Phân tích khả năng thanh toán ngắn hạn là việc đánh giá khả năng đáp ứng
các nghĩa vụ trả nợ có thời hạn trong vòng một năm. Và khả năng thanh toán dài hạn
là chỉ tiêu đánh giá đáp ứng nghĩa vị trả nợ có thời hạn trên một năm bao gồm việc
phân tích khả năng thanh toán nợ dài hạn và khả năng thanh toán lãi vay.
Trong nền kinh tế thị trường, khả năng thanh toán là chỉ khả năng của người tiêu
thụ có đủ sức mua bằng tiền để mua hàng hóa trên thị trường.
1.1.2 Phân loại khả năng thanh toán
Dựa vào đặc điểm của hoạt động thanh toán, khả năng thanh toán chia thành:
-

Thanh toán các khoản phải thu

-

Thanh toán các khoản phải trả

Dựa vào đối tượng thanh toán, khả năng thanh toán chia thành:

-

Thanh toán với nhà cung cấp

-

Thanh toán với cấp trên và ngân sách nhà nước

-

Thanh toán với khách hàng

-

Thanh toán với công nhân viên chức trong doanh nghiệp

-

Thanh toán nội bộ doanh nghiệp

-

Thanh toán với ngân hàng và tổ chức tín dụng

-

Thanh toán với đối tượng khác

Dựa vào thời hạn thanh toán, khả năng thanh toán chia thành:
-


Thanh toán các khoản nợ ngắn hạn

-

Thanh toán các khoản nợ dài hạn

1.1.3 Ý nghĩa khả năng thanh toán
Việc phân tích khả năng thanh toán có vai trò rất quan trọng đối với nhà quản lý
doanh nghiệp cũng như các đối tượng quan tâm:
• Đối với nhà quản lý: Việc phân tích này giúp cho nhà quản lý có thể thấy được
xu thế vận động của các khoản nợ phải thu và khoản nợ phải trả, đánh giá khả năng

4


thu hồi đúng hạn, trễ hạn hay không có khả năng thu hồi các khoản lãi vay, gốc cho
vay và tiền hàng bán chịu. Từ đó xem xét nguyên nhân vì sao nó tăng cao để có biện
pháp hữu hiệu và tăng cường đôn đốc công tác thu hồi công nợ, cũng như kế hoạch trả
nợ và điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn hợp lý tránh nguy cơ mất khả năng thanh toán
• Đối với chủ sở hữu: Phát hiện dấu hiệu cho việc mất quyền kiểm soát hoặc thất
thoát vốn đầu tư trong tương lai. Thông qua việc phân tích này họ còn có thể rút ra
nhận xét là doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả hay không từ đó đưa ra quyết định có tiếp
tục đầu tư hay không.
• Đối với chủ nợ: Họ có thể đánh giá khả năng chuyển đồi tài sản thành tiên hay
khả năng tạo tiền để thực hiện các nghĩa vị trả nợ đúng hạn, đánh giá được tình hình
tài chính cũng như năng lực hiện tại và tương lai của doanh nghiệp. Từ đó chủ nợ sẽ
quyết định có cho doanh nghiệp vay vốn thêm hay không, cũng như việc bán chịu
hàng hóa cho doanh nghiệp tránh nguy cơ mất vốn.


1.2 Các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán trong doanh nghiệp
1.2.1 Khả năng thanh toán ngắn hạn
Để đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp ta thường xem xét đến mối
quan hệ giữa khả năng thanh toán và nhu cầu thanh toán. Vì vây, phân tích khả năng
thanh toán ngắn hạn là để xem xét tài sản của doanh nghiệp có đủ trang trải cho các
khoản nợ phải trả trong ngắn hạn hay không. Hay nói cách khác, đó là khả năng thanh
toán ngắn hạn của doanh nghiệp có đáp ứng đủ các nhu cầu thanh toán trong ngắn hạn
của doanh nghiệp hay không?
Khả năng thanh toán ngắn hạn bao gồm tất cả các loại tài sản ngắn hạn của
doanh nghiệp ở thời điểm hiện hành. Tài sản ngắn hạn là các tài sản có khả năng thu
hồi vốn trong vòng 12 tháng hoặc một chu kỳ kinh doanh. Thuộc tài sản ngắn hạn bao
gồm:
- Tiền và các khoản tương đương tiền: Tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, tiền đang
chuyển, chứng khoán dễ thanh toán..
- Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn: Cổ phiếu, trái phiếu.
- Các khoản phải thu ngắn hạn: Phải thu của người mua, phải thu người bán,
phải thu nội bộ, phải thu theo tiến độ kế hoạch hợp đồng xây dựng, phải thu khác,…
- Hàng tồn kho: Vật liệu, thành phẩm, hàng hóa, công cụ
- Các tài sản ngắn hạn khác
Nhu cầu thanh toán ngắn hạn bao gồm nhu cầu thanh toán đến hạn hay quá hạn
bao nhiêu ngày hoặc cũng có thể sắp xếp theo các đối tượng phải trả.

5


- Phải trả cán bộ công nhân viên bao gồm tiền lương, tiền thưởng, bảo hiểm xã
hội…
- Phải trả cho ngân hàng Nhà nước bao gồm: thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập
doanh nghiệp và các loại thuế khác.
- Phải trả các khoản tiền vay ngắn hạn cho các đối tượng tài chính như ngân

hàng, kho bạc hay các tổ chức tài chính.
- Phải trả người bán về các số tiền mua vật tư, hàng hóa, dịch vụ
- Phải trả cho các đối tượng khác
Trên cơ sở phân tích này các nhà quản lý thường tiến hành so sánh giữa khả
năng thanh toán và nhu cầu thanh toán của từng thời điểm phân tích theo các nội dụng
tương tự. Thông qua các thông tin thu nhận được để đưa ra các quyết định cho từng
hoạt động kinh doanh hàng ngày và kỳ tới nhằm tăng cường khả năng thanh toán góp
phần cho việc ổn định tài chính của doanh nghiệp. Khi phân tích khả năng thanh toán
ngắn hạn ta thường sử dụng các chỉ tiêu sau đây:
 Hệ số khả năng thanh toán ngay
Hệ số khả năng thanh toán ngay =

Tiền
Nợ quá hạn và đến hạn

Chỉ tiêu này cho biết doanh nghiệp có khả năng thanh toán ngay bao nhiêu nợ
đến quá hạn, đến hạn bằng các khoản tiền và tương đương tiền hiện có, đồng thời chỉ
tiêu này thể hiện việc chấp hành kỷ luật thanh toán của doanh nghiệp với chủ nợ.
Nguyên tăc cơ bản có thể để đưa ra đánh giá mức độ thanh toán ngay bằng tiền là là
1:1, nghĩa là tỷ lệ này phải lớn hơn hoặc bằng 1 thì doanh nghiệp đảm bảo khả năng
thanh toán tức thời, nếu nhỏ hơn 1 tức là doanh nghiệp đang dự trữ quá ít tiền, không
đảm bảo được khả năng thanh toán.
Tuy nhiên, tỷ lệ này cũng không được quá cao, vì khi tỷ lệ này quá cao đồng
nghĩa với việc sử dụng không hiệu quả quỹ tiền mặt, doanh nghiệp luôn sẵn tiền để trả
nợ, nhưng thời điểm xảy ra trả nợ không liên tục, nguồn tiền sẽ đứng im không vận
động, như vậy sẽ rất lãng phí. Tỷ lệ này thấp quá kéo dài chứng tỏ doanh nghiệp
không có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn và quá hạn. Trong trường hợp
chỉ tiêu này thấp quá kéo dài liên tiếp ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp và có
thể dẫn tới doanh nghiệp bị giải thể hoặc phá sản.


6


 Hệ số khả năng thanh toán nhanh trong thời hạn 3 tháng
Hệ số khả năng thanh toán nhanh =

Tiền và các khoản tương đương tiền
Nợ ngắn hạn

Chỉ tiêu này cho biết khả năng thanh toán nhanh của tiền và các khoản tương
đương tiền đối với các khoản nợ ngắn hạn. Chỉ tiêu này cao quá, kéo dài chứng tỏ khả
năng thanh toán nhanh tốt, tuy nhiên chỉ tiêu này quá cao có thể dẫn tới hiệu quả sử
dụng vốn giảm. Chỉ tiêu này thấp quá, kéo dài chứng tỏ doanh nghiệp không đủ khả
năng thanh toán các khoản công nợ ngắn hạn, dấu hiệu rủi ro tài chính xuất hiện nguy
cơ phá sản có thể xảy ra. Ta có thể tham khảo hệ số khả năng thanh toán nhanh (k),
qua thực tế nghiên cứu các doanh nghiệp: k < 0,5 thấp; 0,5 ≤ k ≤ 1 trung bình và k > 1
cao.
 Hệ số khả năng thanh toán nhanh bình thường
Hệ số khả năng thanh toán nhanh bình thường =

TSNH - HTK
Nợ ngắn hạn

Chỉ tiêu này phản ánh khả năng thanh toán nợ ngắn hạn bằng tài sản ngắn hạn
của doanh nghiệp trừ đi hàng tồn kho. Loại bỏ hàng tồn kho của doanh nghiệp trong hệ
số này là do hàng tồn kho của doanh nghiệp là tài sản có tính thanh khoản kém nhất,
chi phí tài chính bỏ ra để chuyển đổi là nhiều nhất nên khi xét khả năng thanh toán
nhanh trong doanh nghiêp ta loại bỏ hàng tồn kho. Đây là chỉ tiêu mà chủ nợ quan tâm
để đánh giá tại thời điểm phân tích doanh nghiệp có khả năng thanh toán ngay các
khoản nợ ngắn hạn hay không, chủ nợ yên tâm hơn nếu chỉ tiêu này cho thấy doanh

nghiệp luôn có khả năng phản ứng nhanh và đảm bảo được hầu hết các khoản nợ ngắn
hạn. Hệ số khả năng thanh toán nhanh cho biết tương ưng với một đồng nợ ngắn hạn
có bao nhiêu đồng tài sản ngắn hạn có thể thanh lý nhanh chóng để trả nợ
Ngưỡng so sánh của chỉ tiêu này là 0.5, tức là nếu khả năng thanh toán nhanh
của doanh nghiệp nhỏ hơn hoặc bằng 0.5, điều đó có nghĩa là hàng tồn kho của doanh
nghiệp khá lớn chiếm trên 50% tài sản ngắn hạn, lượng vốn của doanh nghiệp bị ứ
đọng nhiều trong hàng tồn kho dẫn đến doanh nghiệp thiếu các phương tiện để thực
hiện khả năng thanh toán nhanh.
 Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn
Tỷ lệ thanh toán nợ ngắn hạn thể hiện mối quan hệ so sánh giữa tài sản ngắn
hạn và nợ ngắn hạn.

7


Khả năng thanh toán nợ ngắn hạn =

Tài sản ngắn hạn
Nợ ngắn hạn

Tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp thường bao gồm các khoản tiền, các loại
chứng khoán ngặn hạn, các khoản phải thu và dự trữ; còn nợ ngắn hạn thường bao
gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác, các
khoản phải trả nhà cung cấp, phải trả, phải nộp khác…Tài sản ngắn hạn và nợ ngắn
hạn có thời hạn nhất định – tới một năm. Tỷ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn là
thước đo khả năng thanh toán ngắn hạn trong doanh nghiệp, tỷ lệ này cho biết cứ
tương ưng với một đồng nợ ngắn hạn thì có bao nhiêu đồng tài sản ngắn hạn dùng để
thanh toán. Tỷ lệ này cho thấy khả năng thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp có
được đảm bảo hay không, chỉ tiêu càng cao chứng tỏ doanh nghiệp hoàn toàn đủ khả
năng để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn.

Tuy nhiên tỷ lệ này quá cao cũng không hẳn là tốt, nó chỉ cho thấy sự dồi dào
đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp, nhưng có thể dẫn đến việc quản lý và
sử dụng không hiệu quả các loại tài sản của mình và điều này có thể làm cho tình hình
tài chính của doanh nghiệp không lành mạnh.
Nguyên tắc cơ bản cho thấy tỷ lệ này là 1:1 hay ngưỡng so sánh của tỷ lệ này là
1, điều này có nghĩa là tỷ lệ này lớn hơn hoặc bằng 1 thì doanh nghiệp sẽ đảm bảo
được khả năng thanh toán nợ ngắn hạn, tình hình tài chính bình thường. Tuy nhiên sự
biến động của hệ số này còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố và điều kiện khác nhau của
doanh nghiệp như: Loại hình kinh doanh, chu kỳ hoạt động của doanh nghiệp
Thông thường nếu hệ số này thấp sẽ thể hiện khả năng thanh toán nợ ngắn hạn
của doanh nghiệp là yếu và cũng là những dấu hiệu báo cho thấy việc mạo hiểm về tài
chính vì mất cân bằng tài chính, công ty đã dùng một phần nguồn vốn ngắn hạn để đầu
tư dài hạn.
Để đánh giá khả năng thanh toán ngắn hạn, thông thường chúng ta thường phân
tích thêm chỉ tiêu khả năng chuyển đổi tài sản ngắn hạn thành tiền của doanh nghiệp.
Hệ số chuyển đổi thành tiền từ TSNH =

Tiền
Tài sản ngắn hạn

Chỉ tiêu này cho biết khả năng chuyển đổi của tài sản ngắn hạn doanh nghiệp
thành tiền tại thời điểm phân tích. Chỉ tiêu này cao quá, chứng tỏ khả năng chuyển đổi

8


thành tiền lớn dẫn đến tình trạng thanh toán dồi dào. Chỉ tiêu này nhỏ khả năng chuyển
đổi kém, gây áp lực tài chính trong quá trình đi tìm kiếm nguồn thanh toán. Chỉ tiêu
này thường phụ thuộc vào điều lệ thanh toán của doanh nghiệp đối với các khách hàng
trong các hợp đồng kinh tế. Ngưỡng so sánh của trị số được so sánh với:

- Khi trị số <0,1: Tính thanh khoản của tài sản ngắn hạn kém, khả năng thanh toán
không được đảm bảo
- Khi trị số ≥0,5: Tính thanh khoản của tài sản quá cao dẫn đến việc sử dụng nguồn
vốn không tốt.
- Khi trị số thỏa mãn 0,1≤ trị số ≤0,5: Tài sản ngắn hạn có tính thanh khoản tốt, đảm
bảo khả năng thanh toán
Qua các chỉ tiêu trên có thể thấy thông thường nếu các tỷ số trên cao, có thể
đem lại sự an toàn về khả năng bù đắp cho sự giảm giá trị của tài sản ngắn hạn. Điều
đó thể hiện tiềm năng thanh toán cao so với nghĩa vụ phải thanh toán. Tuy nhiên trong
thực tế các tỷ số này được chấp nhận là cao hay thấp còn tùy thuộc vào đặc điểm, tính
chất kinh doanh, mặt hàng kinh doanh của mỗi ngành kinh doanh, cơ cấu, chất lượng
của tài sản ngắn hạn… Vì vậy, trong phân tích cần hiểu rõ các yếu tố cấu thành chỉ
tiêu, những nhân tố tác động đến sự chuyển hóa thành tiền của các yếu tố cấu thành
trong mỗi doanh nghiệp, với ngành kinh doanh cụ thể, trong các điều kiện cũng như
hoàn cảnh cụ thể.
 Vốn lưu động ròng
Vốn lưu động ròng = TSNH – Nợ ngắn hạn
= NVDH – TSDH
Vốn lưu chuyển hay vốn lưu động ròng là bộ phận của nguồn vốn dài hạn sau
khi đã tài trợ cho tài sản dài hạn và còn dư thừa. Bộ phận dư thừa sẽ được chuyển sang
đầu tư tài sản ngắn hạn. Chỉ tiêu nay phản ánh phần tài sản lưu động được tài trợ từ
nguồn vốn cơ bản, lâu dài mà không cần đòi hỏi chi trả trong thời gian ngắn, vốn lưu
động dòng càng lớn phản ánh khả năng chi trả càng cao khi đến hạn. Đây cũng là yếu
tố quan trọng và cần thiết cho đánh giá điều kiện cân bằng tài chính của doanh nghiệp.
Nó được xác định là phần chênh lệch giữa tổng tài sản lưu động và tổng nợ ngắn hạn,
hoặc là phân chênh lệch giữa vốn thường xuyên ổn định với TSCĐ ròng. Khả năng
đáp ứng nghĩa vụ thanh toán, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh và khả năng nắm
bắt thời cơ thuận lợi của nhiều doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào vốn lưu động ròng.

9



Do vậy sự phát triển của không ít doanh nghiệp còn thể hiện ở sự tăng trưởng của vốn
lưu động ròng.
Nguồn vốn ngắn hạn được dùng để đầu tư TSLĐ, còn nguồn vốn dài hạn được
dùng để đầu tư TSCĐ. Nếu vốn dài hạn được dùng để đầu tư vào TSNH thì sẽ tạo ra
khe hở kỳ hạn, chính là phần vốn lưu động ròng, khe hở kỳ hạn càng lớn thì rủi ro của
doanh nghiệp càng cao, khe hở kỳ hạn càng nhỏ thì rủi ro càng thấp.
-

VLĐ ≥ 0 tức là khả năng thanh toán của doanh nghiệp khả quản, TSLĐ đủ để

doanh nghiệp chi trả các khoản nợ ngắn hạn.
- VLĐ < 0 nghĩa là TSLĐ không đủ để đáp ứng nhu cầu thanh toán nợ ngắn hạn,
cán cân thanh toán của doanh nghiệp mất cân bằng. Doanh nghiệp phải dùng một phần
TSCĐ để thanh toán nợ ngắn hạn đến hạn trả.
 Các khoản phải thu
Vòng quay các khoản phải thu=

Doanh thu thuần
Các khoản phải thu bình quân

Chỉ tiêu này cho biết mức hợp lý của số dư của các khoản phải trả và hiệu quả
của việc thu hồi nợ. Nếu số vòng luân chuyển các khoản phải thu lớn, chứng tỏ doanh
nghiệp đã làm tốt công tác thu hồi nợ, ít bị chiếm dụng vốn vì khả năng chuyển các
khoản phải thu thành tiền càng nhanh, đáp ứng nhu cầu thanh toán và các khoản nợ
đến hạn. Tuy nhiên số vòng luân chuyển các khoản phải thu quá cao sẽ không tốt vì
ảnh hưởng đến việc tiêu thụ hàng hóa, làm giảm hiệu quả kinh doanh do phương pháp
thanh toán của khách hàng với doanh nghiệp quá chặt chẽ.
Thời gian 1 vòng quay các khoản phải thu

=

Thời gian của kỳ phân tích
Vòng quay các khoản phải thu

Thời gian quay vòng các khoản phải thu ngắn chứng tỏ tốc độ thu hồi tiền hàng
càng nhanh, doanh nghiệp ít bị chiếm dụng vốn. Ngược lại nếu thời gian quay vòng
các khoản phải thu càng dài, chứng tỏ tốc độ thu hồi tiền càng chậm.
Tuy nhiên thời gian 1 vòng quay các khoản phải thu cao hay thấp trong nhiều
trường hợp chưa thể kết luận chắc chắn mà còn phải xem xét lại mục tiêu và chính
sách của doanh nghiệp như: mục tiêu mở rộng thị trường, chính sách tín dụng của
doanh nghiệp.
 Hàng tồn kho

10


Hàng tồn kho là những tài sản được giữ bán để trong kỳ sản xuất – kinh doanh
bình thường; đang trong quá trình sản xuất kinh doanh dở dang; nguyên vật liệu, công
cụ, dụng cụ để sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh hay cung cấp dịch vụ. Hệ
số vòng quay hàng tồn kho thể hiện khả năng quản trị hàng tồn kho. Vòng quay hàng
tồn kho là số lần mà hàng hóa tồn kho bình quân luân chuyển trong kỳ. Hệ số vòng
quay hàng tồn kho được xác định bởi công thức sau:
Giá vốn hàng bán
Hàng tồn kho bình quân
Hệ số này thường được so sánh qua các năm để đánh giá năng lực quản trị hàng
Vòng quay hàng tồn kho

=


tồn kho là tốt hay xấu qua từng năm. Hệ số này lớn cho thấy tốc độ quay vòng của
hàng tồn kha là nhanh, hệ số này càng cao càng cho thấy doanh nghiệp bán hàng
nhanh và hàng tồn kho không ứ đọng nhiều, đẩy mạnh khả năng thanh toán của doanh
nghiệp. Nếu hệ số này nhỏ, cho thấy tốc độ quay hàng tồn kho thấy, doanh nghiệp bị ứ
động vốn lớn làm giảm khả năng thanh toán trong ngắn hạn của doanh nghiệp
Tuy nhiên, khi hệ số này quá cao cũng không tốt, vì như vậy có nghĩa là lượng
hàng dự trữ không nhiều, nếu nhu cầu thị trường tăng đột ngột thi có khả năng doanh
nghiệp bị mất khách hàng và bị đối thủ cạnh tranh giành thị phần. Hơn nữa, dự trữ
nguyên vật liệu đầu vào cho khâu sản xuất không đủ khiến sản xuất bị ngưng trệ.
Kỳ luân chuyển hàng tồn kho

=

360

Vòng quay hàng tồn kho
Kỳ luân chuyển hàng tồn kho cho biết khoảng thời gian cần thiết để công ty có
thể thanh lý được hết số hàng tồn kho của mình bao gồm cả hàng hóa đang trong quá
trình sản xuất. Thời gian kỳ luân chuyển ngắn chứng tỏ tốc độ thanh lý hàng tồn kho
nhanh, thu hồi được vốn bị ứ đọng, nâng cao khả năng thanh toán. Ngược lại thời gian
lỳ luân chuyển dài thì lượng vốn ứ đọng dài, khả năng thanh toán kém.
Tuy nhiên, hàng tồn kho mang đậm tính chất ngành nghề kinh doanh nên không
phải mức tồn kho thấp là tốt, cao là xấu.
1.2.2 Khả năng thanh toán dài hạn
Bên cạnh những chỉ tiêu phân tích đảm bảo khả năng thanh toán ngắn hạn được
trình bày ở phần trên chúng ta cần phải xem xét triển vọng của doanh nghiệp trong
tương lại. Nợ dài hạn là các khoản nợ mà đơn vị có nghĩa vụ thanh toán trong thời hạn
trên một năm kể từ ngày phát sinh. Nợ dài hạn của doanh nghiệp là một bộ phận của
nguồn vốn ổn định dung để đầu tư các tài sản dài hạn khác như tài sản cố định, bất
động sản đầu tư, chứng khoán dài hạn… Mặc dù việc thanh toán các khoản nợ dài hạn


11


có thời gian trả nợ lâu hơn các khoản nợ ngắn hạn, doanh nghiệp ít bị sức ép hơn của
việc thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Tuy nhiên, các khoản nợ dài hạn rồi cũng đến
lúc doanh nghiệp phải chịu thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Để đánh giá khả năng thanh
toán dài hạn của doanh nghiệp ta thường sử dụng các chỉ tiêu sau:
1.2.2.1 Khả năng thanh toán tổng quát
Đây là một chỉ tiêu tài chính cơ bản, nhằm cung cấp thông tin cho các cấp quản
lý đưa ra các quyết định đúng đắn phục vụ cho hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Các quyết định cho doanh nghiệp vay bao nhiêu tiền, thời hạn bao nhiêu, có
nên bán chịu hàng hóa cho khách hàng không… Tất cả những quyết định đó đều dựa
vào thông tin về khả năng thanh toán tổng quát của doanh nghiệp. Khả năng thanh
toán tổng quát của doanh nghiệp càng cao, càng tốt đó là nhân tố quan trọng hấp dẫn
các tổ chức tín dụng cho vay tiền. Khả năng thanh toán tổng quát quá thấp có thể dẫn
đến nguy cơ doanh nghiệp bị giải thể hoặc phá sản. Vì vậy để đánh giá chính xác khả
năng thanh toán tổng quát của doanh nghiệp, ta thường xem xét mối quan hệ giữa khả
năng thanh toán và nhu cầu thanh toán. Khả năng thanh toán và nhu cầu thanh toán là
tổng hợp các chỉ tiêu tài chính phản ánh tại một thời điểm phân tích. Do vậy, khi phân
tích chỉ tiêu này cần liên hệ với đặc điểm và ngày nghề kinh doanh của doanh nghiệp.
Khả năng thanh toán của doanh nghiệp bao gồm tất cả các tài sản mà doanh
nghiệp có khả năng thanh toán tại thời điểm nghiên cứu. Các tài sản đó được sắp xếp
theo trình tốc độ vòng quay về vốn lần lượt về tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn. Ở
phần trên khi phân tích về khả năng thanh toán ngắn hạn đã nhắc đến khả năng và nhu
cầu trong ngắn hạn, sau đây sẽ trình bày thêm về tài sản dài hạn để hiểu rõ và đánh giá
chính xác được khả năng thanh toán tổng quát trong doanh nghiệp.
Tài sản dài hạn của doanh nghiệp bao gồm: Các khoản phải thu dài hạn như các
khoản phải thu của khách hàng, phải thu nội bộ, phải thu khác; Giá trị thực của tài sản
cố định hữu hình và vô hình; Đầu tư bất động sản; Các khoản đầu tư tài chính dài hạn

như góp vốn liên doanh, mua cổ phiếu dài hạn…
Nhu cầu thanh toán trong dài hạn bao gồm: phải trả tiền vay Ngân hàng, các tổ
chức tín dụng, công ty tài chính; Số tiền mua vật tư, hàng hóa; Phải trả các đối tượng
khác về việc nhận ký cược, ký quỹ…
Khi phân tích khả năng thanh toán tổng quát của doanh nghiệp ta thường xác
định như

Khả năng thanh toán tổng quát =

Tổng tài sản
Tổng nợ phải trả

12


Hệ số này cho biết mối quan hệ giữa tổng tài sản mà doanh nghiệp đang quản
lý, sử dụng với tổng nợ mà doanh nghiệp phải trả (gồm cả nợ ngắn hạn và nợ dài hạn).
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vay nợ có mấy đồng tài sản đảm bảo. Nếu hệ số này
quá cao thì cần phải xem xét lại vì khi đó việc sử dụng đòn bẩy tài chính của công ty
sẽ kém hiệu quả. Chỉ tiêu này càng nhỏ có thể dẫn đến doanh nghiệp sắp bị giải thể
hoặc phá sản trong tương lại.
Trên cơ sở phân tích trên kết hợp với việc phân tích khả năng và nhu cầu thanh
toán trong ngắn hạn ta có thể tóm tắt trong bảng sau.

13


Bảng 1.1: Mối quan hệ giữa nhu cầu thanh toán và khả năng thanh toán
Khả năng thanh toán
1. Khả năng thanh toán kỳ hiện hành


Nhu cầu thanh toán
1. Nhu cầu thanh toán kỳ hiện hành

- Tiền mặt: Tiền Việt Nam, vàng bạc, kim - Các khoản công nợ quá hạn: Cán bộ
loại, đá quý, ngoại tệ.

công nhân viên, thuế nộp ngân sách Nhà

- Tiền gửi ngân hàng: tiền Việt Nam, vàng nước, phải trả người bán, phải trả cho các
bạc, kim loại, đá quý, ngoại tệ.

đối tượng cho vay, phải trả nội bộ và phải

- Tiền đang chuyển

trả khác.

- Chứng khoán dễ thanh khoản: Cổ phiếu, - Các khoản nợ đến hạn: phải trả người
trái phiếu

bán, phải trả tiền vay, thuế phải nộp…

2. Khả năng thanh toán của kỳ tới

2. Nhu cầu thanh toán kỳ tới

- Các khoản phải thu của khách hàng

- Các khoản thuế phải nộp


- Các khoản đầu tư ngắn hạn

- Các khoản phải trả cho người bán

- Các khoản tiền thu từ bán hàng tồn kho
3. Khả năng thanh toán của các tháng tiếp
theo.
Cộng xxxx
Chỉ tiêu này có ngưỡng so sánh là 1
-

Cộng xxxx

Khi khả năng thanh toán tổng quát ≥ 1: Chứng tỏ doanh nghiệp có đủ và thừa

khả năng thanh toán, khi đó tình hình doanh nghiệp có vẻ khách quan, tác động tích
cực đến hoạt động kinh doanh.
-

Khi khả năng thanh toán tổng quát < 1: Doanh nghiệp không đủ khả năng thanh

toán các khoản nợ, dẫn đến khả năng phá sản.
Trên thực tế, mặc dù lượng tài sản có đủ hay thừa dùng để trang trải nợ nhưng
khi đến hạn trả nợ, nếu không đủ tiền và tương đương tiền, hiếm khi các doanh nghiệp
đem bán tài sản của mình để trả nợ. Do đó, thông thường trị số này ≥ 2 thì các chủ nợ
mới thu hồi được nợ khi đáo hạn.
1.2.2.2 Khả năng thanh toán nợ dài hạn
 Khả năng thanh toán nợ dài hạn
Tài sản dài hạn

Nợ dài hạn
Chỉ tiêu này cho biết tương ứng với một đồng nợ dài hạn thì có bao nhiêu đồng
Khả năng thanh toán nợ dài hạn

=

tài sản dài hạn dùng để thanh toán. Nguyên tắc cơ bản để đánh giá khả năng thanh toán
nợ dài hạn 1:1, tức là khả năng thanh toán nợ dài hạn lớn hơn 1 thì doanh nghiệp đảm

14


bảo khả năng thanh toán ngược lại doanh nghiệp không đảm bảo được khả năng thanh
toán trong dài hạn.
Khi xem xét chỉ tiêu này cần lưu ý: Mặc dù trị số của chỉ tiêu càng lớn, khả
năng đảm bảo thanh toán nợ dài hạn càng cao nhưng nếu trị số này quá lớn, doanh
nghiệp sẽ dễ lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ ngắn hạn do một bộ phận
tài sản dài hạn được hình thành từ nợ ngắn hạn. Vì thế, khi xem xét chỉ tiêu “ khả năng
thanh toán nợ dài hạn”, cần phải kết hợp với chỉ tiêu “ Hệ số giới hạn đầu tư an toàn
vào TSDH” đề đánh giá.
Tài sản dài hạn
Hệ số giới hạn đầu tư an
=
toàn vào TSDH
Tổng nợ dài hạn và vốn chủ sở hữu
Để đảm bảo khả năng thanh toán nợ dài hạn mà không ảnh hưởng đến khả năng
thanh toán nợ ngắn hạn, tránh cho doanh nghiệp không bị rơi vào tình trạng phá sản,
các nhà quản lý cần thiết phải xác định giới hạn đầu tư an toàn vào TSDH. Nguyên tắc
đầu tư TSDH đòi hỏi tổng các khoản nợ dài hạn và vốn chủ sở hữu phải luôn luôn lớn
hơn hoặc bằng tổng giá trị tài sản dài hạn.

Nếu trị số của chỉ tiêu này > 1, doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong thanh toán
nợ ngắn hạn, nguy cơ lâm vào tình trạng phá sản dễ xảy ra. Trong thường hợp này,
một bộ phân nợ ngắn hạn đã được doanh nghiệp sử dụng để đầu tư tài sản dài hạn. Vì
thế, các nhà quản lý doanh nghiệp phải có giải pháp kịp thời huy động và tăng cường
các nguồn lực để đảm bảo khả năng thanh toán nợ ngắn hạn; đồng thơi, phải nhanh
chóng xử lý số TSDH không cần dùng hoặc điều chỉnh cơ cấu đầu tư.
Trong trường hợp trị số này < 1 nhưng hệ số khả năng thanh toán lại có trị số
≥1, doanh nghiệp không những đảm bảo được khả năng thanh toán nợ dài hạn mà còn
thừa khả năng thanh toán nợ ngắn hạn. An ninh tài chính của doanh nghiệp trong
trường hợp này hoàn toàn đảm bảo cho hoạt động của doanh nghiệp. Còn trường hợp
chỉ tiêu hệ số giới hạn đầu tư vào TSDH và chỉ tiêu khả năng thanh toán nợ dài hạn
đều < 1, doanh nghiệp sẽ không đảm bảo được khả năng thanh toán nợ dài hạn nhưng
an ninh tài chính vẫn đảm bảo, doanh nghiệp không gặp khó khăn trong thanh toán.
 Khả năng thanh toán nợ dài hạn đến hạn phải trả của doanh nghiệp.
Chỉ tiêu này được sử dụng dựa trên quan điểm:
Các khoản tiền vay dài hạn của doanh nghiệp dùng để đầu tư tài sản cố định, bất
động sản kinh doanh

15


-

Gốc tiền vay dài hạn được thanh toán cho các tổ chức tín dụng theo từng năm

đã quy định trong hợp đồng vay.
- Doanh nghiệp áp dụng phương pháp khâu hao bình quân đối với tài sản cố đinh
và bất động sản kinh doanh để thu hồi vốn đầu tư.
=


Chỉ tiêu này cho biết khả năng thanh toán nợ dài hạn đến hạn phải trả của năm
tới bằng nguồn vốn khấu hao thu về theo dự kiến và lợi nhuận sau thuế. Chỉ tiêu này
càng cao chứng tỏ doanh nghiệp có đủ và thừa khả năng thanh toán các khoản tiền gốc
vay dài hạn đến hạn phải trả, đó là nhân tố giúp cho các chủ doanh nghiệp chủ động
trong các kế hoạch tài chính của mình. Chỉ tiêu này thấp (<1) chứng tỏ doanh nghiệp
cần phải có các biện pháp huy động vốn để chuẩn bị thanh toán nợ gốc tiền vay đến
hạn thanh toán.
Chỉ tiêu khả năng thanh toán nợ dài hạn đến hạn phải trả phụ thuộc vào chính
sách khấu hao tài sản cố định của doanh nghiệp, điều khoản thanh toán tín dụng vay
dài hạn theo các năm hay cuối kỳ, kết quả kinh doanh…
 Hệ số khả năng thanh toán lãi tiền vay
Khả năng thanh toán lãi tiền vay =

LNTT và chi phí lãi vay
Chi phí lãi vay

Chỉ tiêu này là cơ sở để đánh giá khả năng đảm bảo của doanh nghiệp đối với
vay nợ dài hạn. Nó cho biết bằng toàn bộ lợi nhuận trước thuế và lãi váy sinh ra trong
mỗi kỳ có thể đảm bảo cho doanh nghiệp thanh toán được bao nhiêu lần tổng lãi vay
phải trả từ huy động nguồn vốn nợ.
Khi khả năng trả nợ lãi nợ vay càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn càng
cao lợi nhuận tạo ra được sử dụng để thanh toán nợ vay và tạo phần tích lũy cho quá
trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Qua kinh nghiệm phân tích người ta rút ra rằng: Khi hệ số này lớn hơn 2 thì
doanh nghiệp được đánh giá là có khả năng đảm bảo cho việc thanh toán các khoản nợ
dài hạn (theo lý thuyết ngưỡng so sánh của chỉ tiêu này là 1). Nếu chỉ tiêu này nhỏ hơn
2 hay cụ thể là nhỏ hơn hoặc bằng 1 chứng tỏ doanh nghiệp sử dụng vốn không hiệu
quả và doanh nghiệp phải sử dụng hết vốn chủ sở hữu để trả lãi nợ vay. Tuy nhiên vấn

16



đề này còn phụ thuộc vào khả năng tạo ra lợi nhuận lâu dài của doanh nghiệp và chỉ
tiêu này cũng để đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.3 Khả năng thanh toán qua báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là BCTC tổng hợp phản ánh việc hình thành và sử
dụng lượng tiền phát sinh trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp. Đây là một báo cáo tài
chính mới được quy đinh nhằm trình bày và cung cấp thông tin về các dòng tiền thu
vào và chi ra trong kỳ, cung cấp thông tin về hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính
của doanh nghiệp làm cơ sở cho các đối tượng khác nhau với mục đích sử dụng khác
nhau ra quyết định phù hợp.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cho phép người sử dụng báo cáo tài chính đánh giá
khả năng của doanh nghiệp trong việc tạo ra các luồng tiền tệ và nhu cầu của doanh
nghiệp về việc sử dụng luồng tiền tệ này. Sử dụng báo cáo lưu chuyển tiền tệ cho phép
dự đoán các luồng tiền trong kỳ tiếp theo cũng như hình thành các chỉ số đáng tin cậy
để kiểm tra khả năng thanh toán và xác định khả năng hoạt động liên tục của một
doanh nghiệp. Để phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp thông qua báo cáo
lưu chuyển tiền tệ ta cần tập chung phân tích và so sanh dòng tiền thu chi từ các hoạt
động.
 Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh
Hoạt động kinh doanh là hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp, trong một thời
gian dài cần thiết phải tạo ra dòng tiền dương từ hoạt động kinh doanh thì doanh
nghiệp mới có khả năng tồn tại. Dòng tiền thuẩn từ hoạt động kinh doanh dương thì sẽ
duy trì hoạt động của doanh nghiệp, từ các hoạt động đầu tư cho đến các hoạt động tài
chính. Doanh nghiệp có tạo ra đủ dòng tiền từ hoạt động kinh doanh thì mới đảm bảo
được khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn, trả lãi tiền vay,…các cổ đông và chủ
nợ sẽ dựa vào đó để quyết định có đầu tư vào doanh nghiệp hay không.
 Dòng tiền từ hoạt động đầu tư
Nếu như dòng tiền từ hoạt động kinh doanh phải dương thì mới thể hiện được
hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thì dòng tiền từ hoạt động đầu tư

không nhất thiết phải dương mới là tốt. Dòng tiền từ hoạt động này có thể âm nhưng
doanh nghiệp vẫn hoạt động hiệu quả, bởi trong kỳ doanh nghiệp có thể đã phải chi
nhiều cho khoản các hoạt động như mua sắm đầu tư TSCĐ, đầu tư xây dựng cơ bản…
Nó đòi hỏi doanh nghiệp phải chi nhiều nhưng chưa thu hồi được ngay trong kỳ báo

17


cáo. Do đó, các doanh nghiệp có dòng tiền từ hoạt động này âm có thể là các doanh
nghiệp đang phát triển.
 Dòng tiền từ hoạt động tài chính
Do bản chất của hoạt động tài chính thông thường là các hoạt động vay mượn,
phát hành cố phiếu, hay trả những khoản nợ lớn xảy ra không thường xuyên. Do đó,
dòng tiền âm từ hoạt động tài chính thể hiện cho sự thành công của doanh nghiệp vì
như vậy là doanh nghiệp đã trả được các khoản nợ cho nhà đi vay hay các đơn vị đầu
tư trong kỳ nhiều hơn khoản đi vay, không vay mới, trả nợ cũ,…điều này cũng thể
hiện khả năng thanh toán của doanh nghiệp là rất tốt.
Việc phân tích khả năng thanh toán qua báo cáo lưu chuyển tiền tệ được thực
hiện trên cơ sở xác định tỷ trọng dòng tiền thu của từng hoạt động, tỷ trọng này cho
biết mức đóng góp của từng hoạt động trong việc tạo tiền của doanh nghiệp.

1.3 Nhân tố ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp
Đối với mỗi doanh nghiệp, để quản lý khả năng thanh toán một cách có hiệu
quả, không những phải kiểm soát chính mình mà còn phải hiểu rõ những nguyên nhân
và những nhân tố ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
1.3.1 Nhân tố chủ quan


Cơ cấu tài sản và cơ cấu tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp
Cơ cấu tài chính là tỷ số giữa nguồn vốn ngắn hạn và nguồn vốn dài hạn của


doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có tổng nợ ngắn hạn lớn hơn tài sản ngắn hạn của
mình thì tình hình tài chính của doanh nghiệp đó thiếu tính lành mạnh, khả năng thanh
toán quá yếu kém.
Trong các nguồn tài trợ của doanh nghiệp, nợ ngắn hạn là nguồn tài trợ có chi
phí tương đối nhỏ song nó lại yêu cầu doanh nghiệp phải theo dõi một cách chặt chẽ,
sao sát bởi nó gây áp lực nên hoạt động thanh toán của doanh nghiệp.
Khả năng doanh nghiệp có thể trì hoãn được các khoản nợ ngắn hạn là rất thấp
hoặc nếu có trì hoãn được thì chi phí cũng sẽ rất cao. Thông thường doanh nghiệp sẽ
cố gắng duy trì mức nợ ngắn hạn bằng 50% tổng tài sản ngắn hạn. Tuy nhiên, việc duy
trì tỷ trọng nợ ngắn hạn trong cơ cấu tài chính của doanh nghiệp còn phụ thuộc vào
nguồn vốn tự có của doanh nghiệp, khả năng huy động vốn dài hạn, khả năng linh hoạt
về tài chính của doanh nghiệp.
 Hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp

18


Doanh nghiệp sử dụng vốn hợp lý sẽ tạo điều kiện bảo toàn và phát triển vốn,
tránh làng phí vốn, đồng thời tạo được uy tín với bạn hàng. Việc doanh nghiệp tiết
kiệm được nhiều vốn lưu động sẽ giúp doanh nghiệp một cách gián tiếp nâng cao khả
năng thanh toán.
Vì vây, trong quản lý vốn lưu động, doanh nghiệp cần xác định được lượng vốn
lưu động cần thiết trong kỳ kinh doanh, nhanh chóng thu hồi các khoản phải thu nhằm
ngăn chặn hiện tượng chiếm dụng vốn, tránh ứ đọng vốn, thúc đẩy tốc độ luân chuyển
vốn và thường xuyên tiến hàng phân tích tình hình sử dụng vốn lưu động để có biện
pháp điều chỉnh kịp thời, đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
 Quan hệ với khách hàng và nhà cung cấp
Một doanh nghiệp có quan hệ tốt với khách hàng và nhà cung cấp thì có rất
nhiều điều kiện thuận lợi trong hoạt động kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường,

các doanh nghiệp có thể tận dụng nguồn vốn bằng cách mua bán hàng hóa chịu lẫn
nhau. Đây là hình thức tín dụng nhà cung cấp hay hình thức tín dụng thương mại. Hình
thức tín dụng này xuất hiện do sự cách biệt giữa sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, gây ra
hiện tượng có một số nhà doanh nghiệp có hàng hóa muốn bán nhưng không có nhu
cầu ngay về tiền mặt trong khi đó có một số nhà doanh nghiệp muốn mua nhưng
không có tiền mặt. Trong điều kiện như vậy, doanh nghiệp với tư cách là người bán có
thể bán chịu hàng hóa của minh cho người mua, mà thực chất là cho vay dưới dạng
hàng hóa, dịch vụ và sẽ thu lại giá trị cho vay cùng với lợi tức bằng tiền. Ngược lại,
với tư cách người mua, doanh nghiệp có thể mua chịu hàng hóa.
Một doanh nghiệp có mối quan hệ tốt với nhà cung cấp không chỉ tận dụng
được các khoản tín dụng thương mại với các điều kiện ưu đãi mà còn có khả năng trì
hoãn các khoản nợ phải trả với chi phí thấp hơn, giảm bớt áp lực lên hoạt động thanh
toán.
Thêm vào đó, một doanh nghiệp có uy tín với người mua sẽ khiến cho khách
hàng tín nhiệm tin tưởng, do đó sẽ có ý thức thanh toán cho doanh nghiệp một cách
đúng hạn nghiêm chỉnh hơn. Doanh nghiệp giảm được ít nhiều nguy cơ bị chiếm dụng
vốn, hàng hóa được tiêu thụ dễ dàng hơn, nâng cao được khả năng thanh toán.
 Năng lực bản thân của doanh nghiệp
Trong nhiều trường hợp, phía người mua trả chậm (doanh nghiệp vay nợ) có
những sai sót chủ quan, thậm chí cố ý không trả món nợ; các khoản nợ này thuộc
nhóm rủi ro đạo đức. Một số công ty trong ngành xây dựng trúng thầu với giá bỏ thầu

19


quá thấp, bị thua lỗ, không thể trả nợ đúng hạn, thậm chí có nguy cơ phá sản. Nhiều
doanh nghiệp không dự đoán đúng thị trường, mức bán hàng và doanh số; quyết định
mua một khối lượng hàng hóa, dịch vụ quá lớn, thanh toán trả chậm nhưng không thể
bán được hàng hoặc các nguyên nhân làm ứ đọng hàng hóa dẫn đến việc không thể
thanh toán các khoản nợ phải trả. Nhiều doanh nghiệp chưa có khả năng kiểm soát

luồng tiền của doanh nghiệp, mất cân đối về luồng tiền dẫn đến mất khả năng thanh
toán.
1.3.2 Nhân tố khách quan
 Cơ chế chính sách của nhà nước
Đây là những yếu tố mà doanh nghiệp buộc phải nắm rõ và tuân thủ vô điều
kiện vì yếu tố này thể hiện ý chí của Nhà nước. Những quy định trong các văn bản
Pháp luật của Nhà nước ảnh hưởng chặt chẽ đến mọi hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, trong đó có khả năng thanh toán.
Ngoài ra, các chính sách ưu tiên, khuyến khích hay hạn chế phát triển đối với
ngành nghề kinh doanh cũng ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng thanh toán của
doanh nghiệp.
 Sự biến động của tỷ giá hối đoái
Đối với mọi doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu thì tỷ giá
hối đoái là một nhân tố có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Nhu cầu thanh toán của doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào sự biến động
của tỷ giá, do đó khả năng thanh toán cũng bị ảnh hưởng. Rõ ràng, tỷ giá biến động đã
có tác động rất lớn đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
 Sự phát triển của thị trường tài chính
Kinh tế hàng hóa và thị trường luôn là những khái niệm gắn bó với nhau.
Những hàng hóa thông thường được mua bán trên thị trường hàng hóa thông thường,
còn những hàng hóa đặc biệt, tài sản tài chính, lại được mua bán trên thi trường đặc
biệt-thị trường tài chính.
Do chu kỳ về thu nhập, chỉ tiêu và đầu tư khác nhau nên ở mỗi thời điểm nhất
định trong nền kinh tế, về phương diện tài chính, luôn tồn tại hai nhóm: nhóm người đi
vay và nhóm người cho vay. Thị trường tài chính là thị trường trong đó vốn được
chuyển từ người hiện có vốn dư thừa sang những người thiếu vốn. Thị trường này thực
hiện chức năng cơ bản bằng cách truyền dẫn vốn từ người tiết kiệm sang người đầu tư.
Đối với doanh nghiệp, thị trường tài chính không chỉ là nơi để họ huy động vốn với

20



các kỳ hạn khác nhau mà còn là nơi giúp họ nâng cao khả năng thanh toán, đáp ứng
được các nhu cầu thanh toán ngắn hạn.
 Nhân tố thị trường cạnh tranh
Là một chủ thể kinh tế, khả năng thanh toán của doanh nghiệp gắn bó chặt chẽ
với nhân tố thị trường. Thị trường chính là mội trường hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Trong môi trường này, các doanh nghiệp phải tự đổi mới, nâng cao chất
lượng sản phẩm, đồng thời phải cạnh tranh với nhiều doanh nghiệp khác để chiếm lĩnh
thị trường. Một doanh nghiệp chiếm lĩnh được thị trường thì dễ dàng trì hoãn được các
khoản nợ đến hạn, đồng thời khả năng chuyển hàng tồn kho thành tiền một cách nhanh
chóng mà không mất nhiều chi phí, do đó đáp ứng được nhu cầu thanh toán.

21


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ KHẢ NĂNG THANH TOÁN TẠI
CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY LẮP HẢI LONG
2.1 Giới thiệu chung về công ty cổ phần xây lắp Hải Long
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của công ty
Tên công ty: Công ty Cổ phần Xây lắp Hải Long ( Hai Long JSC)
Địa chỉ: Số 97 Bạch Đằng – Hạ Lý – Hồng Bàng – Hải Phòng
Điện thoại: (+84)0313.769.036
Fax: (+84)0313.769.036
Email:
Người đại diện: Ông Phạm Anh Tiến – Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng
giám đốc.
Vốn đăng kí kinh doanh: 60.000.000.000 đồng
Vốn điều lệ: 39.600.000.000 đồng
Mệnh giá cổ phần: 10.000 đồng

Tổng số cổ phần: 3.960.000 cổ phần
Các cơ sở trực thuộc:
1.Nhà máy thép tiền chế Bạch Đằng tại huyện An Lão - Hải Phòng
2. Văn phòng đại diện công ty tại Hà Nội
3. Trung tâm tư vấn thiết kế xây dựng
4.Trung tâm xúc tiến khách hàng
5. Xí nghiệp 1
Công ty Cổ phần Xây lắp Hải Long được hình thành theo quyết định số 1046
QĐ/BXD ngày 27/10/1996 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng về việc xác định giá trị doanh
nghiệp thực hiện cổ phần hóa và quyết định số 1106 QĐ/BXD ngày 29/09/1999 của
Bộ trưởng Bộ Xây dựng về việc phê duyệt phương án cổ phần hóa và chuyển bộ phận
doanh nghiệp là nhà máy: Tấm lợp xà gồ kim loại của công ty Xuất nhập khẩu và xây
dựng thuộc tổng công ty Xây dựng Bạch Đằng thành công ty Cổ phần Xây lắp Hải
Long.
Công ty Cổ phần Xây lắp Hải Long có đầy đủ tư cách pháp nhân; có con dấu
riêng; độc lập về tài sản; được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước, các ngân hàng
trong và ngoài nước theo quy định của Nhà nước.
Công ty Cổ phần Xây lắp Hải Long được thành lập để huy động và sử dụng vốn
có hiệu quả trong việc phát triển xây dựng, sản xuất kinh doanh nhằm mục đích thu lợi
nhuận tối đa tạo công ăn việc làm ổn định cho người lao động, tăng lợi tức cho cổ
đông, đóng góp cho ngân sách Nhà nước và phát triển công ty ngày càng lớn mạnh.

22


Là một trong những doanh nghiệp được cổ phần hóa rất sớm từ doanh nghiệp
Nhà nước, có bề dày kinh nghiệm trên 10 năm hoạt động, với đội ngũ cán bộ nhân
viên có trình độ, dày dạn kinh ngiệm, nhiệt tình sáng tạo, đội ngũ thợ lành nghề cùng
hệ thống nhà xưởng và trang thiết bị máy móc hiện đại và đồng bộ. Công ty Cổ phần
Xây lắp Hải Long đã tham gia tổ chức thi công cho một số dự án trọng điểm trên cả

nước như: Nhà máy Xi măng Sao Mai – Kiên Giang, nhà máy Xi măng Hoàng Mai –
Nghệ An, Nhà luyện thép – Nhà máy gang thép Thái Nguyên, Nhà máy Xi măng Tam
Điệp – Ninh Bình, Hệ thống đóng tàu Vinashin, Khu công nghiệp Tràng Duệ… Đặc
biệt công ty Cổ phần Xây lắp Hải Long đã khẳng định được uy tín đối với các khách
hàng nước ngoài thông qua các hợp đồng tổng thầu với các đối tác đến từ Nhật Bản,
Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc,…như: Công ty Masuoka, Công ty Rayho, Công ty
Meicorp, Công ty Daeyang, Công ty Đông Long,… Hơn nữa, sản phẩm thép tiền chế
của công ty Cổ phần Xây lắp Hải Long đã có mặt tại Nhật Bản thông qua tập đoàn
Sugatec và tập đoàn Yamaguchi. Đồng thời cùng với lợi thế gần cảng thuận tiện cho
việc xuất nhập khẩu, công ty Cổ phần Xây lắp Hải Long đã từng bước phát triển vững
mạnh như hiện nay.
2.1.2 Đặc điểm chung về hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty
Theo giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp với mã số 0200372213 do Sở kế
hoạch và Đầu tư thành phố Hải Phòng cấp và thay đổi lần thứ 11 ngày 17/06/2013,
lĩnh vực hoạt động kinh doanh đa dạng gồm nhiều ngành nghề như: Sản xuất cấu kiện
kim loại; Xây dựng công trình đường sắt và đường bộ Chi tiết: Xây dựng công trình
giao thông; Bán buôn thực phẩm; Hoạt động kiến trúc và tư vấn kỹ thuật có liên quan
Chi tiết: Thiết kế xây dựng công trình; Xây dựng dân dụng, công nghiệp; Phá dỡ; Lắp
đặt hệ thống điện; Hoàn thiện công trình xây dựng; Bán buôn máy móc, thiết bị và phụ
tùng máy khác Chi tiết: Bán buôn các loại máy móc ngành nhựa Sản xuất sản phẩm
khác bằng kim loại chưa được phân vào đâu Chi tiết: Sản xuất tấm lợp và xà gồ kim
loại; Xây dựng công trình kỹ thuật dân dụng khác Chi tiết: Xây dựng công trình viễn
thông; Xây dựng công trình thủy lợi; Thi công, lắp đặt đường dây và trạm biến áp đến
35KV; Xây dựng công trình công ích Chi tiết: Xây dựng công trình công nghiệp, hạ
tầng khu công nghiệp, hạ tầng kỹ thuật khu đô thị; Xây dựng hệ thống cầu cống, âu đà,
cầu cảng, các công trình cảng biển nhưng các hoạt động chính, chủ yếu của công ty là:
-

Tư vấn thiết kế các công trình dân dụng và công nghiệp.


-

Sản xuất lắp dựng khung nhà thép tiền chế.

-

Xây dựng các công trình dân dụng và công nghiệp.

-

San lấp mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng.

23


2.1.3 Đặc điểm bộ máy quản lý của công ty
Sơ đồ 2.1 Bộ máy tổ chức quản lý của công ty
Hội đồng quản trị

Ban kiểm soát

Tổng giám đốc

Phó TGĐ dự án

Xưởng sản xuất tấm
lợp-xà gồ kim loại

Nhà máy thép tiền
chế Bạch Đằng


Phòng
Phòng sản
sản xuất
xuất

Phòng
Phòng kế
kế hoạch
hoạch đầu
đầu tư


Phòng
Phòng vậy
vậy tư


Phó TGĐ kỹ thuật

Phòng
Phòng kỹ
kỹ thuật
thuật thi
thi công
công

Phòng
Phòng KCS
KCS


Trung
Trung tâm
tâm tư
tư vấn
vấn thiết
thiết kế
kế
xây
xây dựng
dựng

Phòng
Phòng kế
kế toán
toán

Phòng
Phòng kinh
kinh doanh
doanh

Phòng
Phòng tổ
tổ chức
chức hành
hành chính
chính

Phó TGĐ sản xuất


Xí nghiệp chi nhánh
thuộc công ty

(Nguồn: website hailongjsc.vn)

Chức năng nhiệm vụ của các bộ phận.
 Ban lãnh đạo
Tổng giám đốc công ty: người có quyền lãnh đạo cao nhất, chịu trách nhiệm về
toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
Phó tổng giám đốc kĩ thuật: có chức năng công tác quản lý và giám sát kỹ
thuật, chất lượng. Tham mưu công tác điều động các phương tiện, thiết bị, vật tư giữa
các đơn vị trong công ty.
Phó tổng giám đốc sản xuất: Phụ trách việc lập kế hoạch, tiến hành chế tạo và
sản xuất sản phẩm, nghiên cứu tham mưu cho giám đốc các kế hoạch sản xuất của
công ty.

24


Phó tổng giám đốc dự án: Giúp Giám đốc điều hành và chịu trách nhiệm trực
tiếp các lĩnh vực được phân công sau: Công tác kỹ thuật đầu tư xây dựng cơ bản. Công
tác quản lý dự án, giám sát các dự án do Ban làm chủ đầu tư.
 Các phòng ban chức năng
Phòng tổ chức hành chính: Tham mưu và giúp Giám đốc về công tác tổ chức
và nhân sự, công tác lao động, tiền lương, thi đua khen thưởng, thanh kiểm tra, an ninh
quốc phòng, pháp chế. Xây dựng quy hoạch phát triển nhân lực phù hợp với kế hoạch
chiến lược phát triển và kế hoạch sản xuất của công ty.
Phòng kinh doanh: Tham mưu cho Giám đốc quản lý các lĩnh vực sau: Công
tác xây dựng kế hoạch, chiến lược. Công tác thống kê tổng hợp sản xuất. Xây dựng

chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh của Công ty trong từng giai đoạn.
Phòng kế toán:Tham mưu và lập kế hoạch cùng thực hiện các công việc sau:
Công tác tài chính, công tác kế toán tài vụ, công tác quản lý tài sản, kiểm soát các chi
phí của công ty.
Phòng sản xuất: tiến hành sản xuất và thực hiện các kế hoạch sản xuất theo
đúng quy định và kế hoạch được giao, thẩm định và kiểm tra chất lượng sản phẩm.
Phòng KSC:làm nhiệm vụ kiểm trả chất lượng
Phòng kỹ thuật thi công: Tham mưu cho Ban Tổng Giám đốc trong lĩnh vực
quản lý kỹ thuật, thi công; các biện pháp kỹ thuật, quy trình, quy phạm. Lập thiết kế
quy hoạch tổng mặt bằng, thiết kế cơ sở, thiết kế kỹ thuật và dự toán đầu tư xây dựng.
Trung tâm tư vấn thiết kế xây dựng: đưa ra các ý kiến, kế hoạch, bản vẽ công
trình,xác định thời gian kinh phí thực hiện công trình.
Phòng vật tư: có chức năng cung cấp thông tin kinh tế, giá cả thị trường các
chủng loại vật tư nguyên vật liệu cho các phòng ban liên quan. Mua sắm, cung cấp vật
tư nguyên vật liệu để sản xuất sản phẩm, thi công các công trình.
Phòng kế hoạch đầu tư: hướng dẫn, giám sát về công tác đấu thầu, thẩm định
trình Trưởng ban phê duyệt công tác đấu thầu; giám sát việc thực hiện hợp đồng; đánh
giá đầu tư các dự án do Ban làm chủ đầu tư.
2.1.4 Khái quát kết quả đạt được của công ty giai đoạn 2012 - 2014
Bảng 2.1 Một số chỉ tiêu kinh tế chủ yếu của công ty Hải Long
Đơn vị tính: triệu đồng

CHỈ TIÊU

Năm 2012

Năm 2013

Năm 2014


Chênh lệch

Chênh lêch

2013/2012

2014/2013

25


×