Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

BÀI THUYẾT MINH CHƯƠNG TRÌNH DU LỊCH hà nội hội AN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.66 KB, 56 trang )

Bài thuyết trình ngày 1.Chuyến đi Hà Nội – Hội An
 5g30 Khởi hành
 Nói lời chào mừng đến đoàn khách
 Giới thiệu bản thân và lái xe
 Thông báo lịch trình ngày đầu tiên
 Lưu y các vấn đề liên quan ở dọc đường
 Xoá tan những lo lắng có thể gặp phải của khách
 Nội dung bài thuyết trình
Giới thiệu những nét đặc trưng tại các địa điểm dọc tuyến đường
mà xe đi qua
Chúng ta sẽ tạm thời rời xa thủ đô ngàn năm văn hiến trong ít ngày
để đi khám phá những miền đất mới lạ. Để thấy quê hương ta đất
nước ta giàu và đẹp như thế nào?
1. Tỉnh Hà Tây
Hiện giờ xe của chúng ta đang lăn bánh trên địa phận tỉnh Hà
Tây, một tỉnh giáp danh và bao quanh thủ đô về phía Tây Nam.
Hà Tây nổi tiếng với loại hình du lịch tâm linh, với chùa Hương,
chùa Thầy, chùa Tây Phương.
Theo cách nhìn địa- văn hoá, Hà Tây là vùng địa linh. Dải đất nằm
trải dọc dưới chân núi Tản Ba Vì: thời Thánh Tản đứng đầu hàng
“Tứ bất tử”. Vùng Quốc Oai nổi lên “Thập bát tú sơn” được coi là
vịnh Hạ Long cạn. Xuôi xuống phía Nam có dãy núi đá vôi Hương
Sơn, nơi có những di chỉ khảo cổ đồ đá giữa và động Hương Tích
lưu dấu tu hành của bà Chúa Ba, một động đẹp nhất trời Nam như
Tĩnh Vương Trịnh Sâm từng hạ bút ghi “Nam thiên đệ nhất động”.
1


Hà Tây có nhiều sông cổ chảy qua: sông Đà, sông Hồng, sông
Tích, sông Đáy, sông Nhuệ…Những con sông ấy xưa kia là huyết
mạch giao *-thông đường thuỷ đắp đầy những truyền thuyết dựng


làng giữ nước, với những địa danh in dấu vào lịch sử “Thứ nhất
kinh kỳ, thứ nhì Bợ Bạt”, cửa sông Hát, bến Chương Dương…
Hà Tây vùng “Địa linh nhân xuất kiệt”, “Thiên bảo bút sinh hoa”,
thời nào cũng đóng góp nhiều anh tài cho nước nhà, góp phần quan
trọng vào công cuộc dựng nước, giữ nước vĩ đại của dân tộc. Tên
tuổi của các danh nhân đã ghi lịch sử như: Đỗ Kinh Tu, Nguyễn
Trãi, Nguyễn Trực, Ngô Sĩ Liên, Lý Tử Tấn, Phùng Khắc Khoan,
Phan Huy Chú, Nguyễn Thượng Hiền…Đất Đường Lâm (xứ Đoài
cũ), một ấp hai Vua (Phùng Hưng, Ngô Quyền). Làng Nhị Khê (xứ
Sơn Nam cũ) có Nguyễn Trãi, anh hùng giải phóng dân tộc, nhà
văn hoá lớn của nhân loại. Thời nay có Hoà Xá, đơn vị anh hùng
lực lượng vũ trang nhân dân với phong trào chiếc gậy Trường Sơn,
thanh niên lên đường chống Mỹ cứu nước. Ba địa điểm này đang
xây dựng dự án bảo tồn di sản văn hoá tạo thành thế chân kiềng
phát triển tuyến du lịch liên hoàn với các vùng phụ cận, đó là:
tuyến Phùng Hưng- lăng Ngô Quyền- chùa Mía- đền và thành cổ
Sơn Tây, tuyến Hoà Xá- Quan Sơn- Hương Sơn- khu Cháy- Vạn
Phúc, tuyến di tích Nguyễn Trãi- chùa Đậu, lăng đá Quận Vân- bãi
Tự Nhiên. Đặc biệt: từ xa xưa, núi Tản có đền Thượng thờ Tam vị
Thánh Tản Viên, nay có đền thờ Bác Hồ và K9 (khu di tích lưu
niệm) sẽ là tuyến du lịch hấp dẫn. Những địa danh lịch sử đó là:
thành Ô Diên một thời là kinh đô của Lý Phật Tử, Ninh Kiều, Tốt
Động bạt vía kinh hồn giặc Minh xâm lược. Hà Hồi quân Thanh bỏ
giáo xin hàng. Thành cổ Sơn Tây, chiến luỹ Phù Sa và chiến khu
2


du kích Chợ Cháy kiên cường thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Cô
gái Suối Hai, chàng trai Cầu Giẽ anh hùng thời kỳ chống giặc Mỹ
ác liệt, lừng lẫy chiến công…Những di tích đi vào lịch sử, những

lưu niệm danh nhân của quê hương đất nước trở thành địa điểm du
lịch giáo dục truyền thống.
Hà Tây còn là miền nổi danh về các di tích lịch sử văn hoá- danh
lam thắng cảnh, có tới 2.388 di tích, trong đó 820 đình, 890 chùa
còn lại các loại hình đền, miếu, nhà thời danh nhân…Trong các di
tích ở Hà Tây phải kể đến 12 danh lam cổ tự nổi tiếng được Bộ
Văn hoá Thông tin xếp vào loại quan trọng: chùa Thầy gắn với tên
tuổi thiền sư Từ Đạo Hạnh, chùa Bối Khê, chùa Trăm Gian với
đức thánh Nguyễn Bình An, chùa Tây Phương tinh hoa văn hoá
thời Tây Sơn. Ngoài ra còn có chùa Đậu, chùa Mía nổi tiếng trong
vùng. Những ngôi đình Tây Đằng, Chu Quyến, Tường Phiêu,
Mông Phụ, Hoàng Xá…Các di tích ấy là một bộ phận của di sản
văn hoá gắn liền với những sự tích, truyền thuyết tín ngưỡng liên
quan đến sự hình thành phát triển của cộng đồng là tài sản vô giá
kết tinh trí tuệ, công sức của nhân dân trong suốt quá trình lịch sử.
Tại đó, nhân dân đã sáng tạo ra những sinh hoạt văn hoá dân gian
độc đáo như: múa rồng, tế cung đình, hát dô, hát chèo tầu, hát
trống quân, múa rối nước… diễn xướng trong hội.Giờ đây Hà Tây
được biết đến là tỉnh duy nhất trong cả nước có hai thành phố trực
thuộc tỉnh đó là Thành phố Sơn Tây và Thành phố Hà Đông
Cùng với đó Hà Tây trong những năm gần đây đã thu hút
lượng lớn vốn đầu tư nước ngoài cho phát triển những loại hình du
lịch mới như sân gôn Đồng Mô, các khu du lịch sinh thái nổi tiếng
khác như Ao Vua, Khoang Sanh, Đầm Long, Thác Đa…..Đó trở
3


thành những điểm nghỉ ngơi cuối tuần ly tưởng cho du khách đến
từ thủ đô.
Phát triển du lịch trên cơ sở quy hoạch tổng thể phát triển

kinh tế- xã hội và phát huy những lợi thế của Tỉnh về tự nhiên gắn
với thủ đô Hà Nội. Tính chất của du lịch Hà Tây là du lịch sinh
thái và nghỉ dưỡng là chủ yếu, tập trung ở 3 khu vực trọng điểm:
Ba Vì- Sơn Tây; Hương Sơn (Mỹ Đức); Hà Đông và vùng phụ
cận, trong đó Ba Vì- Sơn Tây là trung tâm. Nhà nước chủ yếu tập
trung đầu tư kết cấu hạ tầng và các công trình công cộng; các
doanh nghiệp đầu tư cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch.
. Mục tiêu chung và một số chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2010 là:
- Phát triển du lịch để trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của
Tỉnh.
- Đến năm 2010 đón từ 4 đến 4,5 triệu lượt khách du lịch trong
đó khách quốc tế từ 5 đến 10%, tốc độ tăng trưởng bình quân
10%/năm.
- Doanh thu xã hội về du lịch đến năm 2010 đạt trên 600 tỷ
đồng, tốc độ tăng bình quân 15%/năm.
- Xây dựng 06 khu du lịch tổng hợp với các sản phẩm du lịch
sinh thái, nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí… có khoảng 2.400 phòng
khách sạn; xây dựng một số khách sạn đạt tiêu chuẩn 3 sao trở lên
tại các trọng điểm du lịch.
Bằng các giải pháp:
Sớm hoàn chỉnh việc quy hoạch tổng thể và quy hoạch vùng về du
lịch, công bố công khai rộng rãi các quy hoạch. Tập trung quy
4


hoạch các khu vực trọng điểm như: hồ Suối Hai, sườn Đông, sườn
Tây núi Ba Vì, khu Văn Thánh Đường Lâm, khu vực hồ Quan
Sơn, hồ Văn Sơn, khu Hương Sơn. Phối hợp với Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn khai thác Vườn Quốc gia Ba Vì để phát
triển du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí.

Tập trung đầu tư, cải tạo nâng cấp kết cấu hạ tầng ở các khu du
lịch trọng điểm, trước hết cần đầu tư xây dựng các đường giao
thông đến các điểm du lịch: đường Tế Tiêu- Yến Vĩ, đường vào hồ
Suối Hai, đường vào sườn tây núi Ba Vì và đường nối các điểm du
lịch hiện có ở khu vực núi Ba Vì vv…
Một số khu danh thắng của Hà Tây:
Đền thờ Hai Bà Trưng-Đền Hát Môn
Đền được xây dựng trên đất của làng Hát Môn, xã Hát Môn, huyện
Phúc Thọ, cách Hà Nội khoảng 40 km. Hát Môn vốn là một ngôi
làng cổ gần cửa sông Hát, vào năm 40 trước Công nguyên, tại đây
diễn ra lễ tế cáo trời đất khởi nghĩa đánh đuổi giặc Đông Hán của
Hai Bà Trưng và cửa Sông Hát cũng là nơi hai Bà tự vẫn để giữ
trọn khí tiết khi thua trận trước Mã Viện.
Thành cổ Sơn Tây
Thành Sơn Tây nằm giữa thị xã Sơn Tây cách Hà Nội hơn 40 km
là một công trình kiến trúc quân sự cổ. Hoàn thành vào năm 1822,
thành hình tứ giác có chu vi dài 1.304m, xung quanh có hào nước
sâu 3m rộng 20m dài 1.795m, tường bằng đá ong cao 5m nên có
tên khác là Thành đá ong. Trong thành có vọng lâu cao 18m, vọng
cung, cột cờ và điện Kính Thiên.
Chùa bối khê
5


Chùa được xây dựng từ thế kỷ XIV đời Trần, thuộc địa phận xã
Tam Hưng, huyện Thanh Oai, cách Hà Nội khoảng 30 km. Tên
chữ là Đại Bi tự nhưng do xây trên đất làng Bối Khê nên có tên là
chùa Bối Khê. Chùa là công trình kiến trúc tôn giáo theo kiểu tiền
phật hậu thần phổ biến ở vùng đồng bằng Bắc bộ, phần trước chùa
thờ phật, phần sau thờ Đức thánh Bối Nguyễn Bình An, người đã

tu hành đắc đạo dưới đời Trần trở thành vị thánh bảo hộ cho người
dân
Chùa đậu
Tên chữ là Thành Đạo tự, thờ bà Đậu tức nữ thần Pháp vũ trong tín
ngưỡng của cư dân nông nghiệp nên còn gọi là Chùa Đậu hay Pháp
Vũ tự. Chùa nằm bên dòng Sông Nhuệ, thuộc địa phận xã Nguyễn
Trãi, huyện Thường Tín, cách Hà Nội khoảng 27 km. Theo truyền
thuyết, chùa có từ thời Bắc thuộc nhưng theo văn bia cổ còn lưu
giữ, chùa được xây dựng vào thế kỷ XI thời Lý.
Làng Việt Cổ đá ong Đường Lâm
Làng Đường Lâm thuộc địa phận xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây,
cách Hà Nội khoảng 45 km, nơi sinh ra hai vị vua anh hùng trong
lịch sử Việt Nam đó là Phùng Hưng, Bố Cái Đại Vương và Ngô
Vương Ngô Quyền, người mở ra thời kỳ độc lập tự chủ lâu dài của
dân tộc sau chiến thắng Bạch Đằng lừng lẫy năm 938
Chùa Mía
Chùa Mía thuộc xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, cách Hà Nội
khoảng 45 km. Chùa có tên chữ là Sùng Nghiêm tự nhưng còn gọi
là Chùa Mía do được xây trên vùng đất có tên nôm là tổng Mía.
Theo truyền thuyết, chùa vốn có từ lâu đời nhưng có quy mô như
ngày nay nhờ bà Nguyễn Thị Ngọc Dong, phi tần của Chúa Trịnh,
6


kêu gọi thiện nam tín nữ trong vùng tổng Mía đóng góp công quả
xây dựng vào thế kỷ XVII. Để ghi nhớ công đức của bà dân trong
vùng tôn kính gọi là bà chúa Mía và đặt điện thờ bà trong chùa
Khu danh thắng Hương Sơn – Chùa Hương
Khu danh thắng Hương Sơn thuộc địa phận xã Hương Sơn, huyện
Mỹ Đức, cách Hà Nội 60 km là một quần thể di tích phật giáo lớn

của Việt Nam với hàng chục ngôi chùa lớn nhỏ được bố trí hài hoà
với thung, suối, hang, động... tạo nên phong cảnh nên thơ.

2. Tỉnh Hà Nam
Rời Hà Tây chúng ta sẽ đến với mảnh đất Hà Nam
Hà Nam là nơi đoàn chúng ta sẽ dừng lại ăn sáng tại thị xã Phủ Lý
trong ít phút nữa.
Hà Nam chưa bao giờ được biết đến là một miền đất giàu tiềm
năng cho phát triển du lịch, nhưng điều đó không có nghĩa là ở đầy
không có điểm du lịch nào hấp dẫn.
Cách thị xã Phủ Lý chừng 30 km bạn sẽ tới được khu danh lam
thắng cảnh Ngũ Động Sơn thuộc huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam.
Ngũ Động Sơn gồm 5 động liên hoàn, trong đó có động lớn có thể
chứa được hàng nghìn người . Thắng cảnh này nằm trong dãy núi
Cấm, đã đi vào thơ ca Việt Nam từ xa xưa.
Đến Ngũ Hành Sơn, bạn sẽ được chiêm ngưỡng muôn hình thù kì
lạ của nhũ đá và nghe thấy những bản hoà tấu của gió, của đá trong
một “sân khấu” thiên nhiên đầy huyền ảo.
Du lịch văn hóa tiêu biểu ở Hà Nam

7


Chùa Long Đọi Sơn nằm trên núi Đọi Sơn thuộc xã Đọi Sơn huyện
Duy Tiên, cách Phủ Lý khoảng 8 km về phía Bắc. Chùa Đọi được
xây dựng vào năm 1054 và được trùng tu năm 1118-1121. Đây là
ngôi chùa cổ có nhiều nét văn hoá nghệ thuật kiến trúc tinh xảo,
mang đậm dấu ấn qua các thời kỳ lịch sử. Hàng năm vào ngày 21/3
âm lịch chùa Đọi Sơn mở hội. Với vị trí địa lý thuận lợi, phong
cảnh thiên nhiên đẹp, nơi đây sẽ là một điểm du lịch khá hấp dẫn.

Đền Lảnh Giang nằm gần bờ sông Hồng thuộc xã Mộc Nam,
huyện Duy Tiên, cạnh quốc lộ 38 đi cầu Yên Lệnh. Đền Lảnh
Giang còn có tên gọi là Lảnh Giang linh từ, đền tọa lạc trong
khuôn viên 3.000m2, nơi đây không có núi đồi, nhưng bạt ngàn
màu xanh của cây trái. Cửa đền nhìn ra hướng đông dòng sông Nhị
Hà (sông Hồng), bốn mùa mênh mang sóng nước.
Kề bên đền Lảnh Giang về phía bờ sông là ngôi đền thờ Cô Bơ
Thoải Phủ. Đền thờ Tam vị Đại Vương thời Hùng - Duệ - Vương
có công đánh Thục và thờ Tiên Dung công chúa, một trong Tứ Bất
Tử của Việt Nam.
Mỗi năm có 2 kỳ lễ hội vào tháng 6 và tháng 8 âm lịch. Kỳ hội
tháng 6 diễn ra từ ngày 18 đến ngày 25, kỳ hội tháng 8 được tổ
chức vào ngày 20 âm lịch. Hiện rất đông khách thập phương từ các
nơi kể cả Hà Nội, Hưng Yên… đến lễ và tham quan đền Lảnh. Nếu
tuyến du lịch Sông Hồng của Hà Nội được mở rộng, đây sẽ là một
trong những điểm du lịch tín ngưỡng có khả năng thu hút khách
cao.

8


Đền Trần Thương thuộc thôn Trần Thương, xã Nhân Đạo, huyện
Lý Nhân. Tương truyền nơi đây là kho lương của Nhà Trần và là
nơi diễn ra các cuộc giao tranh ác liệt trong cuộc kháng chiến
chống quân Nguyên thế kỷ 13. Đền thờ Quốc Công Tiết Chế Hưng
Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn.
Đền được khởi xây vào năm 1783 với kiến trúc mang đậm nét cổ
truyền dân tộc. Lễ hội hàng năm được tổ chức từ ngày 1 đến 20
tháng 8 (âm lịch) cùng với lễ hội đền Kiếp bạc ( Hải Dương), lễ
hội đền Bảo Lộc (Nam Định) để tưởng nhớ người anh hùng dân

tộc Trần Hưng Đạo. Hiện nay khu di tích đang được tiến hành quy
hoạch lập dự án đầu tư xây dựng thành một điểm du lịch văn hoá
tín ngưỡng trên tuyến du lịch sông Hồng.
Quế Sơn: Còn gọi là núi An Lão, núi Nguyệt Hằng ở thôn An Lão
(Bình Lục) nơi có ngôi chùa tương truyền được xây dựng vào thời
Lý, nơi phát hiện trống đồng Đông Sơn loại Hêgơ, đồng thời là
một thắng cảnh nằm bên bờ sông Ninh.
Ngọc Lũ: Là một trong những xã thuộc huyện Bình Lục, nơi đầu
tiên người Pháp phát hiện trống đồng mang tên Ngọc Lũ.
Bát cảnh sơn: Tám cảnh ở vùng núi xã Tượng Lĩnh (Kim Bảng) đã
từng là nơi chúa Trịnh Sâm cho lập hành cung và được chúa ví với
8 cảnh đẹp nổi tiếng ở Tiêu Tường (Vân Nam, Trung Quốc), như:
Đền Tiên Ông thờ Nam thiên đại thành hoàng Thánh tổ Thiên
vương Bồ Tát, nằm trong quần thể di tích thắng cảnh Bát cảnh sơn
ở xã Tượng Lĩnh, huyện Kim Bảng, Hà Nam. Đền Tiên Ông được
xây dựng vào đời vua Trần Nhân Tông, nằm trên lưng chừng núi
9


Tượng Lĩnh, cao khoảng 200m giống hình con voi phủ phục. Cứ
đến ngày rằm tháng 6 hàng năm, nhân dân ở đây tổ chức lễ hội rất
long trọng, khách thập phương ở nhiều nơi cùng về tham dự...
Đền Trúc thuộc thôn Quyển Sơn, xã Thi Sơn, huyện Kim Bảng.
Đền thờ vị danh tướng Lý Thường Kiệt để tưởng nhớ Người cùng
đoàn quân nghỉ tại đây khi Người dẫn quân đi chinh phạt Chiêm
Thành cách đây hơn 900 năm. Hàng năm đền mở hội từ 1/1 - 1/2
âm lịch. Đây là một lễ hội tiêu biểu, ngoài phần lễ, phần hội được
tổ chức rất phong phú, còn có múa hát Dặm Quyển Sơn - một làn
điệu dân ca nổi tiếng của Hà Nam.
Chùa Bà Đanh thuộc thôn Đanh Xá, xã Ngọc Sơn, huyện Kim

Bảng. Chùa nằm ngay ven bờ sông
Đáy, cạnh núi Ngọc, có kiến trúc độc đáo và nhiều những di vật
quý đầy chất nghệ thuật dân gian. Đây là ngôi chùa đẹp cổ kính,
thâm nghiêm, với cảnh quan “sơn thuỷ hữu tình”, thanh tịnh, cô
quạnh và linh thiêng. Chùa bà Đanh, núi Ngọc nằm trong quần thể
khu du lịch Ngũ Động Thi Sơn.
Đền Vũ Điện, còn gọi là đền Bà Vũ, miếu vợ chàng Trương, thuộc
thôn Vũ Điện, xã Chân Lý, huyện Lý Nhân. Nói đến vợ chàng
Trương, chắc hẳn ai cũng nhớ đến người con gái phủ Nam Xang đã
sớm được chép vào sách Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ.
Theo truyền thuyết của người dân địa phương thì ngôi đền này
được xây dựng từ thế kỷ XV, ngay sau cái chết oan uổng của bà
Vũ. Ngôi đền linh thiêng với câu chuyện thương tâm của bà Vũ đã
10


từng là đề tài cho biết bao thi nhân như Lê Thánh Tông, Nguyễn
Công Trứ, Nguyễn Khuyến… Những lời thơ của các thi nhân đã
nói hộ lòng thương tiếc, ước muốn giải oan cho người phụ nữ chịu
nhiều đau khổ, mối đồng cảm sâu sắc của người đời đối với nỗi
oan trái hãy còn dằng dặc ở trên đời và lòng ngưỡng mộ đối với
một tấm gương trinh liệt. Phải chăng vì thế mà ngôi đền thờ bà đã
và vẫn sẽ còn có sức thu hút mối quan tâm của nhiều vãn khách xa
gần.
Đền Lăng còn được gọi là đền Ninh Thái. Đền ở xã Liêm Cần,
huyện Thanh Liêm, Hà Nam. Đền Lăng thờ vua Đinh, vua Lê và
Tam vị đại vương. Ngoài ra Đền Lăng còn thờ Lê Đại Hành cùng
hai con của ông là Lê Trung Tông và Lê Ngọa Triều. Đến đền
Lăng, du khách được am hiểu về kiến trúc của đền cũng như các
đồ thờ tự thời Nguyễn, những sản phẩm văn hoá thời hậu Lê rất

quý hiếm.
Đình đá Tiên Phong thuộc thôn An Mông, xã Tiên Phong, huyện
Duy Tiên, Hà Nam. Đình thờ Nguyệt Nga công chúa, nữ tướng của
Hai Bà Trưng. Đình đá Tiên Phong là một trong số không nhiều
ngôi đình được làm bằng đá còn giữ được đến ngày nay. Khách du
lịch đến tham quan được chiêm ngưỡng những mảng chạm khắc
nghệ thuật công phu, tạo cho đình vẻ mềm mại, sự sống động, hấp
dẫn mà không có cảm giác nặng nề của những khối đá.
Đình An Hòa ở xã Thanh Hòa, huyện Thanh Liêm, Hà Nam. Từ
thị xã Phủ Lý đi 3km tới dốc Đọ, rẽ tay trái 2km vào đường liên
xã, đến thôn An Hòa rẽ phải 300m là đến di tích. Đình An Hòa thờ
11


hoàng tử Linh Lang và phò mã Kiều Đức Mậu thời Lý. Đình An
Hòa được xây dựng trên khu đất rộng, mặt trước đình có hồ rộng,
hệ thống cột đồng trụ, tường bao. Điều đặc biệt khi du khách đến
đây là được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của các mảng chạm khắc không
chỉ phong phú về nội dung, đa dạng về đề tài mà còn được thể hiện
bằng những tay nghề điêu luyện làm cho những mảng trang trí ở
đây có hồn, sống được cùng thời gian.
Khu di tích văn hoá lịch sử: Từ đường Nguyễn Khuyến thuộc thôn
An Đổ, xã Trung Lương, huyện Bình Lục, thờ dòng họ Tam
nguyên Yên đổ Nguyễn Khuyến. Đây là một điểm tham quan du
lịch khá hấp dẫn. Khách tham quan được xem Cờ biểu của Vua
ban cho Đệ Nhất Giáp tiến sĩ, vừa thưởng ngoạn những áng thơ bất
hủ của bậc Tài Danh, vừa dạo mát ở bờ ao “ngư điếu” hoặc thả bộ
trong bóng cây tĩnh mịch đặc trưng quen thuộc của làng quê cổ
kính và bình dị Việt Nam
Một số điểm du lịch làng nghề

Làng thêu An Hòa thuộc xã Thanh Hà, huyện Thanh Liêm, cạnh
quốc lộ 1A, cách thị xã Phủ Lý 4 km về phía Nam. Sản phẩm
chính của làng nghề An Hoà là hàng thêu ren nổi tiếng. Từ nhiều
năm nay, hàng thêu ren An Hoà đã có mặt ở hầu khắp các nước
trên thế giới. Doanh số bán hàng của An Hoà đạt từ 1 - 2
triệu/USD/năm. Nhiều khách hàng trong và ngoài nước thường
xuyên đến tham quan và mua hàng tại đây. Với vị trí thuận lợi, có
nhiều ưu thế về văn hóa và là một làng nghề truyền thống đã tạo
cho An Hoà thành điểm tham quan hấp dẫn, thu hút khách du lịch.

12


Sở Thương mại - Du lịch Hà Nam đã xây dựng mô hình làng nghề
du lịch An Hoà và đã được UBND tỉnh phê duyệt.
Làng dệt lụa Nha Xá (xã Mộc Nam, huyện Duy Tiên). Sản phẩm
chính ở đây là lụa tơ tằm và đũi. Sản phẩm không chỉ nổi tiếng với
các cô, các mẹ trong nước mà cả trên thị trường thế giới. Với quy
mô hiện đại, 500 khung dệt công suất đạt 900.000 - 1.000.000 mét
lụa/năm. Làng dệt nằm ngay bên bờ sông Hồng, tại vùng dâu nổi
tiếng của huyện Duy Tiên. Làng Nha Xá cũng có nhiều dấu ấn của
làng Việt cổ, cạnh các điểm di tích văn hoá lịch sử như đền Lảnh
Giang, chùa Long Đọi Sơn... tạo cho làng dệt ngày một phát triển.
Làng nghề song, mây tre đan xã Ngọc Động, huyện Duy Tiên.
Làng nghề đã có tiếng từ lâu, sản phẩm chủ yếu là hàng mây,
giang, mỹ nghệ xuất khẩu. Thị trường chính là Châu Âu, châu Mỹ
và một phần Bắc Á. Nằm sát thị trấn, khu công nghiệp Đồng Văn
và ngay cạnh quốc lộ 1A với phong cảnh làng quê trù phú, có dòng
Nhuệ giang chảy qua. Đây là một điểm du lịch hấp dẫn nếu được
đầu tư.

Làng nghề trống Ðọi Tam, thuộc xã Ðọi Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh
Hà Nam. Thợ làng Ðọi Tam làm đủ các loại trống: trống dùng
trong đình chùa, trống chèo, trống trường, trống trung thu… Gần
đây, Đọi Tam nổi tiếng hơn bởi các nghệ nhân ở đây được vinh dự
làm 285 chiếc trống hội đầu tiên của lễ kỷ niệm 990 năm Thăng
Long - Hà Nội. Dân làng Đọi Tam cũng đang háo hức chuẩn bị
hàng trăm chiếc trống nhân dịp Thăng Long - Hà Nội kỷ niệm
1000 năm. Đến Đọi Tam, du khách được thưởng thức các nghệ
13


nhân làm trống cũng như được biết đến những chiếc trống dân làng
đã “đóng góp” cho ngày vui của đất nước.
3. Tỉnh Ninh Bình
Ninh Bình là đất kinh đô xưa dưới thời vua Đinh( 968-980),
Tiền Lê( 980-1009)đều đóng đô ở Trường Yên, Ninh Bình. Đó
là kinh đô Hoa Lư thời vua Đinh Bộ Lĩnh, đặt tên nước là Đại
Cồ Việt, tồn tại trong suốt 12 năm. Kế tiếp là thời vua Lê Đại
Hành.
Hiện nay vẫn còn di tích lịch sử của kinh đô Hoa Lư cách đường
quốc lộ 1 chừng 12km.
Ninh Bình nổi tiếng với Tam Cúc Bích Động, rừng Cúc Phương,
và nhà thờ đá Phát Diệm.
Nhà thờ Phát Diệm được khởi công xây dựng năm 1875, thuộc địa
phận thị trấn Phát Diệm của huyện Kim Sơn .Nhà thờ Phát Diệm là
quần thể kiến trúc Thiên Chúa giáo lớn, mô phỏng phong cách kiến
trúc đình chùa Việt Nam. Đến nay, nhà thờ Phát Diệm đã tồn tại
hơn 100 năm trên vùng đất bùn lầy mà vẫn vững bền không có dấu
hiệu bị lún.
Trong những năm gần đây, Ninh Bình đang đàu tư vốn phát triển

quần thể khu du lịch Tam Cốc Bích Động.
Một số điểm du lịch hấp dẫn của Ninh Bình:
Rừng Cúc Phương
Cách thủ đô Hà Nội 120km về phía Nam, với tổng diện tích 22.000
ha, giáp giới 3 tỉnh: Ninh Bình, Thanh Hoá và Hoà Bình, Vườn
quốc gia Cúc Phương được thành lập ngày 7 tháng 7 năm 1962.
Cúc Phương đã trở thành Vườn quốc gia đầu tiên và cũng là đơn vị
bảo tồn thiên nhiên đầu tiên của Việt Nam
14


Chỉ riêng về thực vật, Cúc Phương có 1.944 loại thực vật thuộc
912 chi trong 219 họ, 86 bộ của 7 ngành thực vật bậc cao, có nhiều
cây quý như: kim giao, chò chỉ, giẻ, de, mun, gụ , sến, táu, gội,
đinh hương..., có nhiều cây cao, to, đường kính thân từ 5 đến 6
mét, chiều cao từ 40 đến 70 mét như cây Chò ngàn năm gốc to 16
người ôm không hết, cây Chò chiến thắng cao đến 70 mét nhìn
không thấy ngọn, tán lá xoè rộng phủ kín một vùng.
Không chỉ là một khu rừng cổ đa dạng về thực vật, Cúc Phương
còn là nơi lưu giữ nhiều loài động vật quý hiếm. "Vườn bách thú"
này có đến trên 450 loài động vật có sương sống, trong đó có 64
loài thú, 333 loài chim, 36 loài bò sát, 17 loài lưỡng cư và một số
loài cá. Một số động vật quý hiếm được ghi vào Sách đỏ mà thế
giới không còn, chỉ có ở Cúc Phương như: cá diếc hang, sóc bụng
đỏ...
Ðến với Cúc Phương, du khách sẽ không khỏi ngạc nhiên bởi khu
bảo tồn này không chỉ là một vườn bách thảo, bách thú đồ sộ mà
còn ken dày các hang động kỳ thú với những tên gọi huyền thoại
như: động Vui Xuân, động Trăng Khuyết, động Thanh Minh, động
Chùa, động Thuỷ Tiên, động Phò Mã... Mỗi hang động là một

"cung điện" lộng lẫy nguy nga với những nhũ đá đẹp mê hồn. Ðặc
biệt, năm 1966 các nhà khảo cổ học Việt Nam và thế giới đã tiến
hành khai quật động Người Xưa và động Con Moong, tại các hang
động này đã tìm thấy những ngôi mộ cổ với các bộ xương người

15


hóa thạch còn khá nguyên vẹn, các công cụ đồ đá, cùng nhiều di
vật khác cách ngày nay từ 7.000 đến 12.500 năm.
Ngoài những gì cảm nhận mà thiên nhiên
đã ban tặng, du khách còn được thăm các
công trình nghiên cứu, các thành quả của
dự án bảo tồn đang thực hiện ở Vườn quốc
gia Cúc Phương. Đây thực sự là những tài
nguyên du lịch không chỉ có giá trị về mặt
khoa học, mà còn có giá trị cao về giáo dục
ý thức bảo tồn thiên nhiên, môi trường. Đó là Trung tâm du khách,
Trung tâm cứu hộ các loài linh trưởng, Vườn thực vật...
Nhà thờ đá Phá Diệm
Nhà thờ đá Phát Diệm cách Hà Nội 129 km về phía Nam, thuộc địa
phận thị trấn Phát Diệm, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình. Toạ lạc
trên một diện tích khoảng 22 ha, khu thánh đường Phát Diệm này
là sự kết hợp hài hoà về nghệ thuật kiến trúc Âu châu và Á Ðông,
mang phong cách kiến trúc độc đáo vừa lớn lao, vừa trọng điểm
trải rộng trong không gian cùng với phong cảnh sơn thủy hữu tình,
non nước xanh biếc ngoạn mục.
Từ hướng Nam đi vào, đầu tiên là một hồ nước rộng hình chữ nhật,
ở giữa là một hòn đảo nhỏ, trên có tượng chúa Giêsu. Qua sân rộng
là đến Phương Đình dài 24m, rộng 17m, cao 25m, có 3 tầng, xây

toàn bằng đá phiến, các mái của Phương Đình 4 góc đều được uốn
cong như các mái đình, mái chùa ở các làng quê Việt Nam

16


Qua Phương Đình là đến Nhà thờ lớn được xây dựng năm 1891,
gồm 5 lối vào làm bằng đá trạm chổ rất đẹp, ở trên là 3 tháp mái
cong. Nhà thờ lớn dài 74m, rộng 21m, cao 15m, có 4 mái. Nhà thờ
được dựng bởi 6 hàng cột gỗ lim, trong đó có hai hàng cột giữa cao
11m, chu vi mỗi cột là 2,35m, nặng 7 tấn, đều làm bằng nguyên
một thân cây lim.
Nằm song song hai bên Nhà thờ lớn, còn có 4 nhà thờ nhỏ... Tiếp
theo là Nhà thờ đá - Nhà thờ dâng kính trái tim Đức Mẹ. Ở nhà thờ
này tất cả từ nền, tường, chấn song, cột, xà đều làm bằng đá. Đây
là một kiến trúc đặc sắc duy nhất ở Việt Nam và cũng thật hiếm
trên thế giới, vì thế người ta đã lấy tên gọi của nó để gọi chung cho
cả khu nhà thờ xứ Phát Diệm.
Có thể thấy, đây là một quần thể nhà thờ kiểu Việt Nam, đậm màu
sắc dân tộc, từ những chi tiết nhỏ trong điêu khắc đến kiến trúc
tổng thể và trong từng nhà thờ. Bất kỳ chỗ nào trong điêu khắc đá
và gỗ đều là những hình ảnh thân thuộc, gần gũi với con người
Việt Nam và chỉ họ mới làm được điều kỳ diệu đó...
Như thách thức với thời gian, hơn 100 năm qua Nhà thờ đá Phát
Diệm vẫn còn nguyên vẹn và sẽ tồn tại mãi mãi.
Cố đô Hoa Lư
Cố đô Hoa Lư là kinh đô đầu tiên của Nhà nước phong kiến trung
ương tập quyền Việt Nam có cách đây gần 10 thế kỷ, thuộc xã
Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, cách thủ đô Hà Nội
gần 100 km về phía Nam.


17


Kinh đô Hoa Lư xưa rộng khoảng 300 ha, gồm Thành Ngoại,
Thành Nội và Thành Nam, được bao quanh bởi hàng loạt núi đá
vòng cung, cảnh quan hùng vĩ, khoảng trống giữa các sườn núi
được xây kín bằng đất ken gạch, chân thành có gạch bó, đắp cao từ
8 - 10 mét.
Thành Ngoại rộng khoảng 140 ha thuộc địa phận thôn Yên Thành,
xã Trường Yên. Ðây là cung điện chính mà khu vực đền Ðinh, đền
Lê là trung tâm và cũng chính là nơi vua Ðinh Tiên Hoàng cắm cờ
dựng nước. Trước cung điện có núi Mã Yên tương truyền vua Ðinh
đã lấy nơi này làm án.
Thành Nội thuộc thôn Chi Phong, xã Trường Yên có tên là Thư nhi
xã, nơi nuôi trẻ em và những người giúp việc trong cung đình.
Thành Nam (thành ở phía Nam, nằm đối diện và nối liền với khu
Thành Ngoại) xung quanh có núi cao bao bọc, án ngữ phía Nam
kinh thành, bảo vệ mặt sau, từ đây có thể nhanh chóng rút ra ngoài
bằng đường thủy.
Phía Ðông kinh thành có núi Cột cờ - nơi có lá quốc kỳ Ðại Cồ
Việt, có ghềnh tháp - nơi vua Ðinh duyệt thủy quân, hang Tiền nơi
lưu giữ tài sản quốc gia, động Thiên Tôn - tiền đồn của Hoa Lư và
hang nhốt hổ, báo để xử kẻ có tội.
Ðến đời Lê Hoàn đã cho xây thêm nhiều cung điện lộng lẫy: điện
Bách Thảo Thiên Tuế, điện Phong Lưu ở phía Ðông, điện Vinh
18


Hoa ở phía Tây, điện Bồng Lai bên tả, điện Cực Lạc bên hữu, lầu

Hỏa Vân và điện Trường Xuân, điện Long Lộc được lợp ngói làm
bằng bạc.
Trải qua mưa nắng hơn 10 thế kỷ, các di tích lịch sử ở cố đô Hoa
Lư hầu như bị tàn phá, đổ nát. Hiện nay chỉ còn lại đền vua Ðinh
và đền vua Lê được xây dựng vào thế kỷ XVII.
Ðền vua Ðinh được xây theo kiểu "Nội công ngoại quốc" trên nền
cung điện chính thuở xưa, uy nghi với ngọ môn quan, hồ sen, núi
Giả, vườn hoa, nghi môn ngoại, nghi môn nội cùng ba toà bái
đường, Thiêu hương và hậu cung. Tại bái đường có "Long Sàng"
làm bằng đá nguyên khối với đôi nghê đá rất sống động. Tiếp đó là
nhà thiêu hương thờ các vị khai quốc công thần. Trong cùng là hậu
cung đặt tượng vua Ðinh Tiên Hoàng cùng các con trai ông. Các
hình chạm khắc trên đá, trên gỗ với các đề tài rồng, mây, tiên nữ,
hoa lá... trang trí tại đền đều khá tinh xảo.
Ðền vua Lê nằm cách đền vua Ðinh chừng 500 mét thờ vua Lê Ðại
Hành. Ðền vua Lê có quy mô nhỏ hơn nhưng có có ba toà: Bái
đường, Thiêu hương thờ Phạm Cự Lượng, người đã có công giúp
Lê Hoàn lên ngôi; Chính cung - thờ vua Lê Ðại Hành (tức Lê
Hoàn) ở giữa, bên phải là Lê Ngoạ Triều (con trai vua Lê), bên trái
là Hoàng hậu Dương Vân Nga. Ðền vua Lê còn giữ nhiều dấu tích
kiến trúc cổ với những mảng chạm trổ công phu, điêu luyện. Tại
đây người ta đã tìm thấy di tích nền cung điện cũ cùng một số gốm

19


sứ cổ. Những hiện vật quý này được lưu giữ tại phòng bảo tàng
phía trái khu đền.
Khu di tích Hoa Lư còn có một số ngôi chùa khá đẹp như: chùa
Ngân Xuyên (gần chân núi Mã Yên), chùa Nhất Trụ (cách đền vua

Lê khoảng 200 mét) thu hút được nhiều du khách đến dâng hương,
vãn cảnh.
Ngoài ra, điều khiến du khách tâm đắc khi thăm khu di tích cố đô
Hoa Lư là được gặp những người hướng dẫn rất thú vị. Câu
chuyện về triều đại vua Ðinh, vua Lê được họ kể một cách giản dị
mà vẫn sâu sắc, đặc biệt trong đó chứa đầy niềm tự hào, thành kính
của những người con cố đô với tổ tiên.
Non nước Vân Long
Non nước Vân Long là khu bảo tồn thiên nhiên ngập nước lớn nhất
đồng bằng Bắc Bộ, đồng thời là một vùng du lịch sinh thái tuyệt
đẹp riêng của tỉnh Ninh Bình. Nằm trên địa phận 7 xã thuộc huyện
Gia Viễn ở phía Ðông Bắc tỉnh Ninh Bình, cách thị xã Ninh Bình
khoảng 17 km về phía Bắc, với diện tích trên 3.000 ha, đến với
Vân Long du khách không chỉ cảm nhận được cảnh quan hùng vĩ
tuyệt đẹp của một vùng đất huyền thoại, mà còn có cơ hội chiêm
ngưỡng những quần thể sinh thái động, thực vật còn mang tính
hoang sơ.
Về thực vật, khu Vân Long có 457 loài thực vật bậc cao có mạch
thuộc 327 chi, 127 họ, đặc biệt có 8 loài được ghi vào sách đỏ Việt

20


Nam là: kiêng, lát hoa, tuế lá rộng, cốt toái bổi, sắng, bách bộ, mã
tiền hoa tán...
Về động vật, Vân Long có 39 loài, đặc biệt có 12 loài động vật quý
hiếm mà trong đó điển hình nhất là quần thể Voọc đùi trắng lớn
nhất ở Việt Nam với số lượng khoảng 50 con - là loài vật có nguy
cơ tuyệt chủng trên phạm vi toàn cầu, 62 loài chim, 26 loài bò sát,
6 loài ếch nhái, 44 loài cá, 39 loài thủy sinh vật (rong, rêu).

Không chỉ như vậy, Non nước Vân Long còn có những cảnh quan
tuyệt đẹp, cảnh núi ẩn mây trời, mây che ấp núi, non và nước hoà
quyện với nhau tạo nên một cảnh quan hùng vĩ đồng thời mang
phong cảnh của một vùng quê hiền hoà yên ả, hương đồng gió nội
làm cho Vân Long giống như một “Vịnh Hạ Long không sóng”.
Có thể nói, Vân Long được tạo hoá trao tặng những cái đẹp bất tử
cùng với một hệ sinh thái động, thực vật phong phú làm mê say
cuốn hút lòng người và khi đến với nơi đây mỗi du khách chắc
chắn sẽ ấn tượng với non nước Vân Long!
Tam Cốc - Bích Ðộng
Khu du lịch Tam Cốc - Bích Động là một quần thể du lịch, một địa
danh nổi tiếng từ xa xưa, thuộc địa phận xã Ninh Hải, huyện Hoa
Lư, tỉnh Ninh Bình; cách thủ đô Hà Nội 100 km về phía Nam. Nơi
đây vẫn giữ được nét nguyên sơ, thiên tạo, với nhiều hang động, di
tích lịch sử, văn hóa nổi tiếng trong và ngoài nước như: đền Thái
Vi, Tam Cốc, chùa Bích Động, động Tiên, chùa Linh Cốc…
Bích Ðộng là một trong những danh thắng nổi tiếng nhất của Ninh
Bình được mệnh danh là "Nam Thiên đệ nhị động" (động đẹp thứ
21


nhì ở trời Nam), nằm trong dãy núi Ngũ Nhạc Sơn thuộc địa phận
thôn Ðam Khê, xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư. Năm 1773, cụ
Nguyễn Nghiễm (thân sinh của đại thi hào Nguyễn Du) đã đến
thăm động. Nhìn toàn cảnh núi, động, sông nước, đồng ruộng, bầu
trời ở đây
4. Tỉnh Thanh Hoá
Là miền đất nổi tiếng với cầu Hàm Rồng, với dòng sông Mã đã
đi vào lịch sử trong suốt thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, là
tượng trưng cho y trí kiên cường bất khuất của con người nơi

đây.
Thanh hóa còn nổi tiếng với đặc sản bánh gai, nem chua.
Trong thời kỳ hội nhập hiện nay người ta biết đến Thanh Hóa
với nhà máy đường Lam Sơn, nhà máy xi măng Bỉm Sơn có quy
mô và chất lượng lớn trong cả nước.
Về du lịch, bãi biển Sầm Sơn là khu du lịch thu hút rất đông
lượng khách trong nước vào mùa hè.
Chúng ta sẽ lướt qua một chút những nét đắc sắc ở nơi đây. Đó
là:
Sầm Sơn là vùng đất được thiên nhiên ưu đãi với bãi biển đẹp nổi
tiếng bên núi Trường Lệ. Đây còn là vùng đất giàu bản sắc văn hóa
độc đáo với nhiều lễ hội truyền thống. Nơi đây có thể khai thác,
phát triển nhiều loại hình du lịch với lợi thế cạnh tranh cao như:
tắm biển, tham quan, leo núi, nghỉ mát, nghỉ dưỡng, du lịch sinh
thái, du lịch văn hóa... Với lợi thế sẵn có, nếu được quan tâm đầu
tư hơn nữa, chắc chắn Sầm Sơn sẽ là điểm dừng chân lý tưởng của

22


nhiều tour du lịch trong nước và quốc tế.
Những năm qua, cùng với sự phát triển của ngành du lịch Thanh
Hóa, hoạt động kinh doanh lưu trú, tham quan, nghỉ mát, nghỉ
dưỡng ở Sầm Sơn đã có những bước phát triển mạnh mẽ, đa dạng,
phong phú về loại hình, tăng nhanh về quy mô. Trong 5 năm
(2000-2005), nhiều dự án lớn được thực hiện, đó là Khu du lịch
Vạn Chài với mức đầu tư 40 tỷ đồng, Biển nhớ 30 tỷ đồng, Khách
sạn Thái Bình Dương 40 tỷ đồng... Đến năm 2005, toàn thị xã đã
có 301 cơ sở kinh doanh du lịch với 5.937 phòng, 14.180 giường,
tăng 85 cơ sở, 2.415 phòng, 3.830 giường so với năm 2000. Chất

lượng phục vụ từng bước được nâng lên. Bên cạnh đó, nhiều loại
hình dịch vụ, sản phẩm du lịch được Đảng bộ, chính quyền và
nhân dân Sầm Sơn quan tâm phát triển như: du lịch sinh thái ở
Quảng Cư, văn hóa lễ hội trên núi Trường Lệ, xây dựng thêm một
số cơ sở vui chơi giải trí... nhờ vậy, khách đến với Sầm Sơn ngày
một tăng. Riêng năm 2005, Sầm Sơn đã đón trên 650 ngàn lượt
khách, 1.379.000 ngày khách.

Du lịch Sầm Sơn chiếm tỷ trọng lớn với trên 62% GDP của thị xã,
trở thành một ngành kinh tế quan trọng, giải quyết một số lượng
lớn lao động tại địa phương và các vùng lân cận. Đây là nơi tiêu
thụ một lượng hàng hóa lớn, nhất là các sản phẩm nông nghiệp,
ngư nghiệp, gia công chế biến, thủ công mỹ nghệ, tạo việc làm cho
nhân dân trong tỉnh. Du lịch Sầm Sơn còn là cầu nối để giới thiệu
về văn hóa, lịch sử, con người xứ Thanh, vùng đất địa linh nhân
23


kiệt, một trong những cái nôi của văn minh nhân loại, với bạn bè
trong nước và quốc tế.
Đại hội đại biểu Đảng bộ thị xã Sầm Sơn lần thứ 14 (nhiệm kỳ
2005 - 2010) đã xác định dịch vụ du lịch là ngành kinh tế mũi
nhọn, phấn đấu đến năm 2010 doanh thu từ dịch vụ du lịch và
thương mại đạt trên 700 tỷ đồng, chiếm 66% GDP của thị xã, đồng
thời quyết tâm xây dựng Sầm Sơn trở thành đô thị du lịch văn
minh, giàu đẹp. Để điều đó sớm trở thành hiện thực có thể nói
chưa đầy đủ. Song trước hết, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân
Sầm Sơn cần khắc phục ngay những yếu kém hạn chế, tồn tại nêu
trên. Đảng bộ, chính quyền và ngành chức năng thị xã Sầm Sơn
cần coi trọng công tác tuyên truyền, vận động các tầng lớp dân cư

trên địa bàn để họ thấy rõ vai trò, trách nhiệm, lợi ích được hưởng
từ sự phát triển du lịch, từ đó ý thức được trách nhiệm cá nhân đối
với sự phát triển chung của cộng đồng. Ngành chức năng cần tổ
chức nhiều hoạt động giao lưu văn hóa, các cuộc thi tìm hiểu về
quê hương, văn hóa, con người xứ Thanh cũng như nét đặc sắc của
văn hóa và con người Sầm Sơn, tìm hiểu về phong cách của người
làm du lịch... trong thanh, thiếu niên, trường học, cộng đồng dân
cư, giúp mọi người hiểu và có ý thức hơn trong việc tạo lập môi
trường văn hóa trong kinh doanh du lịch. Tăng cường mở các lớp
tư vấn về du lịch, phát động các phong trào thi đua xây dựng nếp
sống văn minh du lịch, đồng thời có những biện pháp mạnh đối với
những tổ chức, cá nhân vì lợi ích riêng làm tổn hại đến uy tín của
du lịch Sầm Sơn. Điều không kém phần quan trọng là ngoài phát
huy nội lực, Sầm Sơn rất cần có sự quan tâm, tạo điều kiện của
24


Đảng bộ, chính quyền và ngành chức năng cấp tỉnh, theo đó, cần
xác định sự phát triển của du lịch Sầm Sơn nằm trong chiến lược
tổng thể của du lịch Thanh Hóa, trong đó du lịch Sầm Sơn có vị trí
là đầu tàu cho sự phát triển của ngành du lịch, vì vậy cần có chính
sách cởi mở hơn trong đầu tư liên doanh, liên kết, hợp tác về du
lịch với mọi thành phần kinh tế trong nước và quốc tế.
Hiện nay, ngành kinh tế du lịch của nước ta đang trên đà phát triển.
Thanh Hóa nằm trong chiến lược phát triển du lịch, lại là vùng du
lịch trọng điểm của cả nước vừa được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt. Phát triển du lịch, xây dựng thị xã Sầm Sơn trở thành đô thị
du lịch chất lượng cao, văn minh, giàu đẹp, là nơi hội tụ của bạn bè
bốn phương, là tiếng thơm của tỉnh Thanh Hóa, là vinh dự và trách
nhiệm của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thị xã Sầm Sơn, góp

phần xây dựng tỉnh ta trở thành tỉnh kiểu mẫu như mong muốn của
Bác Hồ kính yêu khi Người về thăm Thanh Hóa.
KHU DI TÍCH LAM KINH
Khu di tích Lam Kinh (Lam Sơn) thuộc huyện Thọ Xuân, nơi gìn
giữa miếu tường của Nhà Lê. Địa danh này nằm ở phía Tây, cách
Thành phố Thanh Hoá hơn 50km. Nơi có 'Hội thề Lũng nhai' 18 vị
khai quốc công thần của triều Lê. Với những anh hùng dân tộc đã
làm rạng rỡ non sông, gấm vóc. Đền thờ Lê Lai ở Kiên Thọ, một vị
tôi trung đã liều mình cứu chúa (Lê Lợi), trong cảnh giặc vây, ráp
(ngàn cân treo sợi tóc) một mất một còn. Rồi Nguyễn Trãi danh
nhân văn hoá nghe theo lời cha: Nguyễn Phi Khanh từ ngoài Bắc
vào phò tá Lê Lợi giết giặc cứu nước. Trong khu di tích Lam Kinh
25


×