Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI-THỰC TIỄN TẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (430.26 KB, 86 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT

PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ NHƯỢNG
QUYỀN THƯƠNG MẠI – THỰC TIỄN TẠI
VIỆT NAM

Ngành:

Luật Kinh tế

Chuyên ngành: Luật Hợp đồng
Niên khóa:

2011-2015

`
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
SINH VIÊN THỰC HIỆN: VÕ THỊ SÁU
NGƯỜI HƯỚNG DẪN : TH.S NGUYỄN THỊ HÀ

THỪA THIÊN HUẾ, NĂM 2015


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bài khóa luận này, em xin bày tỏ lòng biết ơn chân
thành đến quý Thầy Cô giáo tại Đại học Luật - Đại học Huế đã tận tình
giảng dạy, truyền đạt kiến thức cho em trong suốt bốn năm học qua.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Cô giáo Th.S
Nguyễn Thị Hà – Người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo và tận tình giúp
đỡ em với những chỉ dẫn khoa học quý giá trong suốt quá trình triển


khai, nghiên cứu và hoàn thành bài khóa luận này.
Mặc dù em đã rất cố gắng, song do kiến thức còn hạn chế và những lý
do khách quan khác nên không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Em rất
mong nhận được sự góp ý quý báu của quý Thầy Cô giáo để bài khóa luận
được hoàn thiện hơn.
Sau cùng, em xin kính chúc quý Thầy Cô sức khỏe dồi dào và gặt
hái nhiều thành công hơn nữa trong sự nghiệp giảng dạy cao đẹp của
mình.
Em xin chân thành cảm ơn!
Thừa Thiên Huế, ngày 09 tháng 4 năm 2015
Sinh viên thực hiện
Võ Thị Sáu


LỜI CAM ĐOAN
Em cam đoan khóa luận này là công trình nghiên cứu do chính em thực hiện.
Các đoạn trích dẫn và số liệu sử dụng trong khóa luận đều được trích dẫn nguồn theo
đúng quy định và có độ chính xác cao nhất trong phạm vi hiểu biết của em.
Em xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Thừa Thiên Huế, ngày 09 tháng 4 năm 2015
Sinh viên thực hiện
Võ Thị Sáu


THỐNG KÊ TRÍCH DẪN
Bảng thống kê trích dẫn tài liệu tham khảo
STT

Tác giả tài liệu trích dẫn


1
2
3
4
5

Bộ Công thương
Bộ Thương mại (2004)
Hồ Hữu Hoành (2008)
Infornet (2014)
Nguyễn Văn Luyện, Lê Thị
Bích Thọ, Dương Anh Sơn
(2005)
Nguyên Nga (2013)
Nguyễn Đông Phong (2009)
Linh San (2014)
Trần Ngọc Sơn (2009)
Nguyễn Thanh Tâm (2007)
Nguyễn Khánh Trung (2012)
Nguyễn Khánh Trung (2008)
Lý Qúi Trung (2013)
Lý Qúi Trung (2007)
Lý Qúi Trung (2006)
Ủy ban quốc gia về hợp tác kinh
tế quốc tế (2006)
VTC (2013)
Website Burger King Việt Nam
Website KFC Việt Nam
Website Metro Việt Nam
Website Phở 24

Brett Lowell (2006)
McDonald's Corporation (2007)
Yanling Ren (2013)
Scott A Shane (2005)
UNIDROIT (2007)
World Intellectual Property
Organization (WIPO)
Carl E. Zwisler, Jan S. Gilbert
(2007)

6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25

26
27
28

Trang
Khóa luận

Tần suất
trích dẫn
01
01
02
01
01
01
01
01
01
01
01
01
01
02
01
01
01
01
01
01
01

01
01
01
01
01
01
01


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. NQTM (Franchise) : Nhượng quyền thương mại
2. UNIDROIT

: The International In Stitute for the Unification of
Private Law
Viện Quốc tế về nhất thể hóa pháp luật tư

3. USD:

: Đô la Mỹ

4. WIPO

: World Inllectual Property Organization
Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới

5. WTO:

: World Trade Organization
Tổ chức thương mại thế giới



DANH MỤC CÁC PHỤ LỤC
1. Phụ lục 2.1: Hệ thống các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động NQTM
2. Phụ lục 2.2: Số lượng công ty nước ngoài đã đăng ký hoạt động NQTM tại
Việt Nam từ năm 2014 đến nay


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, các nước hội nhập ngày càng sâu rộng trong tất cả các lĩnh vực của
đời sống kinh tế thế giới. Trong bối cảnh đó, yêu cầu đặt ra là các quốc gia phải hợp
tác, liên kết với nhau để cùng phát triển. Trong rất nhiều hình thức hợp tác kinh
doanh giữa các doanh nghiệp của các quốc gia như liên doanh, độc quyền, nhượng
quyền thương mại (NQTM)...thì hình thức NQTM được áp dụng nhiều hơn cả.
NQTM mang lại thành công cho nhiều doanh nghiệp ở nhiều nơi, đem lại cho nền
kinh tế thế giới hàng nghìn tỷ USD mỗi năm.
Để có thể tiến hành hoạt động NQTM vượt ra ngoài biên giới quốc gia thành
công, đòi hỏi các doanh nghiệp trên thế giới phải nắm rõ các quy định của pháp luật
quốc tế cũng như pháp luật trong nước về NQTM. Sự phát triển mạnh mẽ của
phương thức NQTM hiện nay, rất cần sự điều chỉnh một cách thống nhất và đầy đủ
của hệ thống pháp luật quốc tế để tạo cơ sở cho hoạt động này ngày càng phát triển.
Tại Việt nam, NQTM đã du nhập hơn 15 năm qua nhưng vẫn còn nhiều
người chưa hiểu về hình thức kinh doanh này cũng như không thấy được những lợi
ích có được khi kinh doanh theo mô hình nhượng quyền, do đó họ vẫn chưa mạnh
dạn đầu tư. Trong khi Việt Nam là mảnh đất giàu tiềm năng, lại có được lợi thế của
người đi sau, các doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn có thể học hỏi từ các nước tiên
phong đi trước để tăng tốc, phát huy hiệu quả của loại hình kinh doanh này. Mặc
khác, nền kinh tế phát triển nhanh chóng cộng với việc gia nhập WTO khiến Việt
Nam trở thành điểm lý tưởng cho các nhà đầu tư. Với những điều kiện kinh tế - xã

hội phù hợp, hoạt động NQTM sẽ bùng nổ ở Việt Nam trong thời gian tới.
Chính vì vậy việc tìm hiểu phương thức NQTM thông qua các quy định của
pháp luật quốc tế, cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO về NQTM và việc nội
luật hóa các cam kết này để qua đó thấy được những hạn chế, vướng mắc trong thực
tiễn áp dụng các quy định pháp luật về NQTM, trên cơ sở đó đề xuất một số kiến
nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về NQTM là hết sức
cần thiết. Xuất phát từ những lý do đó, em đã chọn đề tài "Pháp luật quốc tế về
1


nhượng quyền thương mại - Thực tiễn tại Việt Nam" làm đề tài khóa luận tốt
nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật quốc tế về NQTM không còn mới trên thế giới, đã có một số sách,
công trình nghiên cứu, các trang web đề cập đến vấn đề này như: hướng dẫn về
NQTM của WIPO, sách luật kinh doanh NQTM quốc tế của tác giả Adrew P.
Loewinger, Michael K. Indsey; luật NQTM quốc tế của tác giả Dennis Campbell;
NQTM quốc tế của tác giả Alex S.Konigsberg; hướng dẫn của Hiệp hội NQTM
quốc tế...
Tại Việt Nam, hình thức kinh doanh NQTM không còn xa lạ, có rất nhiều bài
viết nghiên cứu về vấn đề này. Tuy nhiên, việc nghiên cứu pháp luật quốc tế về
NQTM là một nội dung khá mới mẻ, thực tế có rất ít công trình nghiên cứu, sách,
tạp chí và các trang web đề cập đến. Các nghiên cứu tại Việt Nam chỉ xoay quanh
vấn đề pháp luật NQTM tại Việt Nam như đề tài "Pháp luật NQTM (Franchise) và
thực tiễn tại Việt Nam" của tác giả Hoàng Minh Tuấn hay đề tài "Tìm hiểu pháp
luật về NQTM của tác giả Trần Thị Xuân Hằng...Bên cạnh đó, một số đề tài đã mở
rộng phạm vi nghiên cứu về pháp luật NQTM nhưng dưới giác độ yếu tố nước
ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam như: "Hợp đồng NQTM có yếu tố
nước ngoài theo pháp luật Việt Nam" của tác giả Nguyễn Bá Bình; khóa luận "Pháp
luật điều chỉnh hợp đồng NQTM có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam - Những vấn đề

lý luận và thực tiễn" của tác giả Đinh Thị Thu Hà; khóa luận "Hợp đồng NQTM có
yếu tố nước ngoài - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" của tác giả Nguyễn Thị
Hương Ly. Các nghiên cứu trên mới chỉ đề cập đến pháp luật NQTM có yếu tố
nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam chứ chưa đề cập đến pháp luật
quốc tế về NQTM.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài này, mục đích của tác giả nhằm:
• Nghiên cứu các văn bản pháp luật quốc tế về NQM.
2


• Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về NQTM tại Việt
Nam trên cơ sở pháp luật quốc tế, pháp luật Việt Nam; nêu ra những mặt hạn
chế, tồn tại trong các quy định pháp luật hiện hành về NQTM cũng như hoạt
động NQTM tại Việt Nam.
• Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực
thi của pháp luật NQTM ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
• Tập hợp các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về
NQTM.
• Nghiên cứu cơ sở lý luận NQTM trong các tài liệu.
• Thu thập số liệu về tình hình hoạt động NQTM ở nước ta trong những
năm gần đây.
• Đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về NQTM tại Việt Nam
• Đưa ra những kiến nghị cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các
quy định pháp luật về NQTM tại Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
• Nghiên cứu các quy định của pháp luật quốc tế về NQTM.

• Nghiên cứu cam kết của Việt Nam về NQTM khi gia nhập WTO và các
quy định về NQTM trong Luật Thương mại 2005, Nghị định 35/2006/NĐ-CP
và các văn bản liên quan như Bộ luật Dân sự 2005, Luật Chuyển giao công
nghệ 2006...
• Tìm hiểu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về NQTM trong
quá trình xuất hiện, tồn tại và phát triển hoạt động NQTM tại Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
4.2.1. Về lý luận
Đề tài này nghiên cứu quy định của pháp luật về NQTM được quy định
trong các văn bản quốc tế, văn bản luật của Việt Nam như Luật Thương mại
2005, Nghị định 35/2006/NĐ-CP và các văn bản liên quan.
3


4.2.2. Về thực tiễn
Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về NQTM tại Việt
Nam. Trên cơ sở đó, tìm ra những hạn chế, vướng mắc trong hệ thống pháp luật
cũng như trong quá trình áp dụng các quy định pháp luật về NQTM để qua đó
đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về
NQTM.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Để giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra, tác giả nghiên
cứu đề tài dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận về NQTM;

- Phương pháp thống kê để thấy được số lượng một số hệ thống NQTM
tại Việt Nam;
- Phương pháp điều tra, khảo sát để làm rõ các hoạt động NQTM tại Việt
Nam;
6. Cơ cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của khóa luận được chia thành
2 chương:
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về nhượng quyền thương mại theo pháp
luật quốc tế
Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về nhượng quyền
thương mại tại Việt Nam và một số giải pháp hoàn thiện

4


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHƯỢNG
QUYỀN THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT QUốC TẾ
1.1. Một số vấn đề cơ bản về nhượng quyền thương mại (Franchise)
1.1.1. Lịch sử và các quan điểm về nhượng quyền thương mại
1.1.1.1. Lịch sử nhượng quyền thương mại
Thuật ngữ "Nhượng quyền - Franchise" có nguồn gốc tiếng Pháp
"Francis" có nghĩa là đặc quyền, ưu đãi. Mặc dù không có nguồn gốc tiếng Anh
nhưng các quan hệ franchise đầu tiên được sử dụng phổ biến một cách rộng rãi
không phải ở châu Âu lục địa mà là ở Hoa Kỳ [9, tr. 226]. Tuy nhiên, theo
nhiều tài liệu nghiên cứu, hình thức sơ khai của phương thức kinh doanh nhượng
quyền đã xuất hiện vào khoảng thế kỷ XVII - XVIII tại châu Âu.
Ở Đức, vào những năm 1840, một số nhà sản xuất rượu bia lớn đã cấp quyền
cho một số quán rượu kinh doanh độc quyền rượu bia của họ, đây chính là khởi
nguồn của khái niệm NQTM mà hiện nay chúng ta đang nói đến. Trong giai đoạn

này, bản chất của franchise cũng chỉ mới là việc cấp quyền phân phối và bán các
sản phẩm của nhà sản xuất.
Franchise dưới hình thức cho phép bên nhận quyền được sử dụng một hệ
thống kinh doanh đã được bên nhượng quyền xây dựng và thực hiện thành công bao
gồm cả phương thức kinh doanh, các đối tượng sở hữu trí tuệ để điều hành một cơ
sở kinh doanh của bên nhận quyền như ngày nay chỉ bắt đầu xuất hiện trong nền
kinh tế thế giới sau chiến tranh Thế giới thứ hai với sự trở về của hàng triệu người
phục vụ trong quân đội và sự gia tăng dân số. Trong hoàn cảnh có sự gia tăng nhu
cầu đối với tất cả các loại sản phẩm và dịch vụ thì NQTM là một phương thức kinh
5


doanh lý tưởng cho sự mở rộng nhanh chóng của các ngành kinh doanh, đặc biệt là
dịch vụ khách sạn và thức ăn nhanh. Trong đó phải kể đến MC Donald's - Một trong
những công ty hoạt động theo phương thức nhượng quyền kinh doanh đầu tiên và
thành công nhất trên toàn cầu.
Tuy nhiên cũng chính từ sự phát triển nhanh chóng của phương thức kinh
doanh NQTM, một số công ty đã nảy sinh vấn đề lạm dụng phương thức kinh
doanh này. Năm 1960, 1970, xuất hiện những công ty nhượng quyền gian lận tiền
của người khác và bỏ trốn. Bên cạnh đó, một số công ty nhượng quyền được quản
lý một cách yếu kém, thiếu vốn, hoạt động kém hiệu quả dẫn đến phá sản và để lại
các vụ kiện cho bên nhận quyền.
Để chống lại việc lạm dụng nhượng quyền như trên và duy trì sự phát triển
của phương thức kinh doanh NQTM, pháp luật của các nước đã có những quy định
cụ thể và chặt chẽ đối với phương thức kinh doanh này. Bên cạnh đó, các hiệp hội
nghề nghiệp cũng được thành lập ở các nước để bảo vệ bên nhận quyền cũng như
để giúp bên nhượng quyền hoạt động có hiệu quả hơn như Hiệp hội NQTM quốc tế
(International Franchise Association - IFA), Hiệp hội NQTM Anh Quốc (British
Franchise Association), Hội đồng NQTM Úc (Franchise council of Australian
Limited)...

Ngày nay, NQTM là một lĩnh vực được quy định chặt chẽ và đã xuất hiện ở
hầu hết các quốc gia. Nhiều tổ chức phi chính phủ với tôn chỉ phát triển, hỗ trợ và
quảng bá hoạt động franchise đã được thành lập, điển hình là hội đồng Franchise
thế giới (World Franchise Council), ra đời vào năm 1994 với các thành viên là các
hiệp hội franchise của nhiều quốc gia. Thông qua các tổ chức này, nhiều hoạt động
có ích cho doanh nghiệp, cho nền kinh tế các quốc gia đã được thực hiện như: Tổ
chức các hội chợ franchise quốc tế; xây dựng niên giám franchise khu vực và trên
thế giới; hợp tác xuất bản các ấn phẩm chuyên ngành; xây dựng các Website để
cung cấp thông tin cho mọi cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp quan tâm đến franchise.
1.1.1.2. Các quan điểm về nhượng quyền thương mại
6


Các trường phái trên thế giới đã đưa ra nhiều khái niệm khác nhau về NQTM
nhằm giải thích, hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện hoạt động kinh doanh
NQTM đạt hiệu quả. Tuy nhiên, do sự khác biệt về quan điểm và môi trường kinh
tế, chính trị, xã hội giữa các quốc gia nên các khái niệm này có sự khác biệt.
Theo từ điển Anh Việt của Viện Ngôn ngữ học thì franchise là "Cho phép ai
đó chính thức được bán hàng hóa hay dịch vụ của một công ty ở một khu vực cụ thể
nào đó". Còn theo từ điển Webster của Anh thì định nghĩa "Franchise là một đặc
quyền được trao cho một người để phân phối hay bán sản phẩm của chủ thương
hiệu" [23]. Qua hai định nghĩa trên, chúng ta thấy cả hai định nghĩa đều đã nêu
được nội dung cơ bản của NQTM nhưng lại quá ngắn gọn nên chưa diễn tả hết nội
dung của từ franchise. Do đó, để tìm hiểu kỹ hơn về khái niệm NQTM, chúng ta
nghiên cứu một số khái niệm khác về NQTM.
Theo Hiệp hội NQTM quốc tế thì "NQTM là một mối quan hệ hợp đồng giữa
bên nhượng quyền và bên nhận quyền, theo đó bên nhượng quyền cung cấp và có
nghĩa vụ duy trì sự quan tâm liên tục đến việc kinh doanh của bên nhận quyền trên các
lĩnh vực như bí quyết kinh doanh và đào tạo; còn bên nhận quyền sẽ hoạt động dưới
tên thương mại chung, phương thức và/hoặc cách thức kinh doanh do bên nhượng

quyền sở hữu hoặc kiểm soát và theo đó bên nhận quyền đang hoặc sẽ tiến hành đầu tư
đáng kể vốn vào việc kinh doanh của mình bằng các nguồn lực riêng của mình" [21, tr.
19]. Quan điểm này chỉ ra quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ NQTM, ở đó
vai trò của bên nhận quyền trong việc đầu tư vốn và điều hành doanh nghiệp được đặc
biệt nhấn mạnh hơn so với trách nhiệm của bên nhượng quyền. Quan điểm này cũng
xuất phát từ sự chênh lệch về quyền lực và thông tin giữa các bên trong quan hệ hợp
đồng NQTM. Theo đó, quan điểm này đã đưa ra những yêu cầu chặt chẽ hơn đối với
bên nhượng quyền nhằm đảm bảo lợi ích cho bên nhận quyền, nhưng cũng đã chỉ ra
tính độc lập tương đối giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền.
Ủy ban NQTM Úc thì cho rằng: "NQTM là quan hệ thương mại, trong đó, bên
nhượng quyền là chủ sở hữu của một mô hình kinh doanh trao cho bên nhận quyền
7


quyền được sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trên cơ sở tên thương mại, nhãn hiệu của
bên nhượng quyền trong một khoảng thời gian nhất định". Theo đó, quan điểm này đặc
biệt nhấn mạnh vai trò của bên nhượng quyền trong việc chuyển giao mô hình kinh
doanh có gắn liền với tên thương mại, nhãn hiệu của bên nhượng quyền, bên nhận
quyền có quyền tiến hành hoạt động kinh doanh dựa theo mô hình kinh doanh này.
Luật sở hữu công nghiệp của Mêhicô có hiệu lực từ tháng 6 năm 1991 định
nghĩa: "NQTM tồn tại khi với một li-xăng cấp quyền sử dụng một thương hiệu nhất
định, có sự chuyển giao kiến thức công nghệ hoặc hỗ trợ kỹ thuật để một người sản
xuất, chế tạo, hoặc bán sản phẩm, hoặc cung cấp dịch vụ đồng bộ với các phương
pháp vận hành (operative methods), các hoạt động thương mại, hoặc hành chính đã
được chủ thương hiệu (brand owner) thiết lập, với chất lượng (quality), danh tiếng
(prestige), hình ảnh của sản phẩm, hoặc dịch vụ đã được tạo dựng được dưới
thương hiệu đó." [11, tr. 20]. Như vậy, Luật Mêhicô đề cập tới lợi ích của việc
nhượng quyền kinh doanh về mặt hỗ trợ kỹ thuật (technical assistance) và nhấn
mạnh tới việc chuyển giao "kiến thức kỹ thuật" (technical Knowledge) để bán sản
phẩm, hoặc dịch vụ đồng bộ và có chất lượng. Định nghĩa này phản ánh một phần

quan điểm của Mêhicô là một nước đang phát triển và có nhu cầu rất lớn trong việc
nhập khẩu công nghệ và bí quyết kinh doanh từ nước ngoài.
Pháp luật Việt Nam đưa ra định nghĩa về NQTM tại Điều 284 Luật Thương
mại 2005 như sau: "NQTM là hoạt động thương mại, theo đó bên nhượng quyền
cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau đây:
Việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ
chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng
hóa, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, quảng cáo của
bên nhượng quyền;
Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền trong
việc điều hành công việc kinh doanh."
Từ khái niệm này ta thấy pháp luật Việt Nam đã khẳng định hoạt động
8


NQTM là hoạt động thương mại, do vậy hoạt động này có mục đích sinh lợi. Bên
cạnh đó, khái niệm còn chỉ rõ tính chất ràng buộc qua lại giữa các bên liên quan,
nhất là sự giám sát của bên nhượng quyền đối với bên nhận quyền. Các bên trong
quan hệ NQTM là các chủ thể độc lập với nhau về tư cách pháp lý, các bên cùng
nhau khai thác giá trị thương mại của quyền thương mại. Bên nhượng quyền có
quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền trong việc điều hành công việc
kinh doanh.
Dù các khái niệm đã nêu có khác nhau về quan điểm và mặt lượng câu chữ
nhưng có thể thấy rằng quan điểm chung trong tất cả những định nghĩa này là việc
một bên độc lập (bên nhận) phân phối sản phẩm, dịch vụ dưới nhãn hiệu hàng hóa
và các đối tượng khác của quyền sở hữu trí tuệ cùng với hệ thống kinh doanh đồng
bộ do một bên khác (bên giao) phát triển và sở hữu, để được phép làm việc này, bên
nhận phải trả một khoản phí và chấp nhận một số hạn chế do bên giao quy định.
Tuy nhiên, theo quan điểm của cá nhân em thì NQTM là hoạt động thương

mại nhằm mở rộng hệ thống kinh doanh của các thương nhân thông qua việc chia sẻ
quyền kinh doanh trên một thương hiệu cho một thương nhân khác. Hay nói cách
khác, NQTM chính là việc nhượng quyền kinh doanh kèm theo đó là uy tín, nhãn
hiệu hàng hóa, tên thương mại, khẩu hiệu, biểu tượng kinh doanh cũng như các kiến
thức, bí quyết kinh doanh, dây chuyền thiết bị công nghệ cho một thương nhân
khác. Quan hệ này được tạo lập bởi ít nhất hai chủ thể: bên nhượng quyền (là bên
có quyền sở hữu đối với "quyền thương mại") và bên nhận quyền (là bên độc lập,
muốn kinh doanh bằng "quyền thương mại" của bên nhượng quyền). Theo đó, bên
nhượng quyền trao cho bên nhận "quyền thương mại" bao gồm sử dụng mô hình, kỹ
thuật kinh doanh sản phẩm, dịch vụ dưới thương hiệu của mình và nhận lại một
khoản phí trong một khoảng thời gian nhất định; bên nhận quyền sử dụng "quyền
thương mại" của bên nhượng quyền để tiến hành hoạt động kinh doanh nhưng phải
chấp nhận tuân thủ một số điều kiện mà bên nhượng quyền đưa ra.
1.1.2. Đặc điểm của nhượng quyền thương mại
Hoạt động NQTM có một số đặc trưng riêng biệt, có thể phân biệt dễ dàng
9


với một số hoạt động thương mại cùng loại khác.
Thứ nhất, về chủ thể
Chủ thể của quan hệ NQTM bao gồm bên nhượng quyền và bên nhận quyền.
Bên nhượng quyền phải có một hệ thống và cơ sở kinh doanh có lợi thế cạnh tranh
trên thị trường. Hệ thống kinh doanh này phải có sự trải nghiệm thị trường đủ để tạo
ra một giá trị "quyền tài sản" hợp lý và tạo niềm tin cho bên nhận quyền. Bên nhận
quyền là một doanh nghiệp độc lập về mặt pháp lý, tài chính với bên nhượng quyền,
đồng thời chấp nhận rủi ro đối với vốn bỏ ra để thực hiện việc tham gia vào hệ
thống nhượng quyền của bên nhượng quyền.
Thứ hai, về đối tượng
Đối tượng của NQTM là quyền thương mại. Nội dung của quyền thương mại
có thể khác nhau tùy thuộc vào từng loại hình NQTM và sự thỏa thuận giữa các

bên. Quyền thương mại có thể bao gồm quyền sử dụng các tài sản trí tuệ như tên
thương mại, nhãn hiệu hàng hóa/dịch vụ, bí mật kinh doanh...và quyền kinh doanh
theo mô hình, với phương thức quản lý, đào tạo, tiếp thị sản phẩm của bên nhượng
quyền. Quyền thương mại cũng có thể là sự kết hợp các yếu tố nêu trên, từ đó tạo
nên sự khác biệt giữa các cơ sở kinh doanh trong hệ thống nhượng quyền với các cơ
sở kinh doanh khác là đối thủ cạnh tranh.
Thứ ba, bên nhượng quyền có sự hỗ trợ và giám sát đáng kể về nhiều
phương diện đối với bên nhận quyền
Trong hoạt động NQTM, bên nhận quyền luôn nhận được sự hỗ trợ từ phía
bên nhượng quyền, bao gồm hỗ trợ trước khi mở cửa hàng (Giúp chọn địa điểm
kinh doanh; thiết kế trang trí cửa hàng; đào tạo nhân viên...) và hỗ trợ trong quá
trình hoạt động.
Mặc dù hoạt động của bên nhận quyền luôn nhận được sự hỗ trợ của bên
nhượng quyền nhưng vẫn tìm ẩn nhiều rủi ro. Một trong những rủi ro của hoạt động
NQTM chính là việc phá vỡ hệ thống kinh doanh, nếu chỉ một mắt xích trong hệ
thống làm ăn không hiệu quả thì sẽ ảnh gây hưởng xấu đến uy tín của cả hệ thống.
Do đó, để tránh và đối phó với hậu quả này, người nhượng quyền phải giám sát chặt
10


chẽ tới cách thức hoạt động của người nhận quyền.
Thứ tư, trong hệ thống NQTM, bên nhượng quyền và bên nhận quyền có sự
độc lập về tài chính và địa vị pháp lý
Đây là đặc điểm đặc thù của hệ thống kinh doanh này nhằm phân biệt hệ
thống kinh doanh này với các hình thức gần giống khác như đại lý, chi nhánh
thương mại. Tuy rằng trong hệ thống NQTM có sự giám sát một cách đáng kể của
bên nhượng quyền đối với bên nhận quyền nhưng theo pháp luật của các nước thì
bên nhận quyền lại là các cá nhân độc lập hoặc các pháp nhân độc lập về mặt tổ
chức lẫn tài chính, không phụ thuộc vào bên nhượng quyền.
Thứ năm, bên nhận quyền phải trả phí cho bên nhượng quyền

Trong tất cả các hệ thống nhượng quyền, bên nhận quyền đều phải trả phí cho
bên nhượng quyền để được quyền tham gia vào hệ thống NQTM. Phí nhượng quyền
bao gồm phí nhượng quyền ban đầu và phí định kỳ (thường được tính trên tỷ lệ doanh
thu hoặc một khoản phí cố định), phí dịch vụ, phí cấp phép, phí quảng cáo, các loại
phí khác về cung cấp các dịch vụ cho bên nhận quyền có thể được thỏa thuận giữa hai
bên.
Trên đây chỉ là một số đặc điểm cơ bản của NQTM, tùy theo từng hình thức
nhượng quyền cụ thể mà quan hệ NQTM còn có thể có các đặc điểm khác.
1.1.3. Các loại hình nhượng quyền thương mại
Từ khi NQTM ra đời cho đến nay, hoạt động này có rất nhiều cách phân loại
như: phân loại theo bản chất, phân loại theo cách thức nhượng quyền của chủ thương
hiệu, phân loại theo lĩnh vực kinh doanh...Tuy nhiên, trong phạm vi khóa luận này
người viết chỉ xin đề cập đến ba cách phân loại dựa trên các căn cứ sau: căn cứ theo
bản chất của hoạt động NQTM, căn cứ theo cách thức tiến hành nhượng quyền của chủ
thương hiệu cho bên nhận quyền, căn cứ vào phạm vi lãnh thổ. Cụ thể:
Một là, căn cứ theo bản chất của hoạt động NQTM
Căn cứ vào nội dung của hoạt động NQTM, học thuyết về NQTM ở các
nước phát triển như Hoa Kỳ, Tây Âu cho rằng có hai hình thức NQTM: Nhượng
quyền phân phối sản phẩm và nhượng quyền phương thức kinh doanh.
11


Thứ nhất, nhượng quyền phân phối sản phẩm (product distribution
franchise)
Nhượng quyền phân phối sản phẩm là hình thức NQTM trong đó bên
nhượng quyền cung cấp cho bên nhận quyền nhãn hiệu hàng hóa/dịch vụ, logo của
mình, dịch vụ quảng cáo trên phạm vi quốc gia và quan trọng nhất là sản phẩm. Bên
nhượng quyền không cung cấp cho bên nhận quyền cách thức điều hành kinh doanh
[3, tr. 15]. Hay nói cách khác đây là hình thức NQTM theo hệ thống nhượng quyền
nhằm mục đích phân phối một sản phẩm hay một tập hợp các sản phẩm. Hình thức

nhượng quyền này tạo nên một cơ cấu trực tiếp cho phép đưa sản phẩm từ khâu sản
xuất đến khâu tiêu thụ. Ngoài việc được phép sử dụng tên nhãn hiệu, thương hiệu,
biểu tượng, logo, khẩu hiệu và phân phối sản phẩm hay dịch vụ của bên nhượng
quyền trong một phạm vi địa lý và trong một thời hạn nhất định thì bên nhận quyền
hầu như không nhận được bất cứ sự hỗ trợ đáng kể nào từ phía bên nhượng quyền.
Bên nhận quyền sẽ quản lý cửa hàng của mình một cách khá độc lập và ít bị ràng
buộc bởi những quy định của bên nhượng quyền. Hình thức nhượng quyền phân
phối sản phẩm được sử dụng khá phổ biến trong các dịch vụ bán lẻ. Tại Việt Nam,
cà phê Trung Nguyên là mô hình tiêu biểu cho hình thức này.
Hình thức nhượng quyền phân phối sản phẩm có ưu điểm là dễ nhượng
quyền bởi đối tượng nhượng quyền chỉ là thương hiệu, nhãn hiệu, biểu tượng nên
hợp đồng nhượng quyền không có nhiều điều khoản phức tạp về trách nhiệm của
các bên tham gia. Tuy nhiên, chủ thương hiệu rất khó kiểm soát tính đồng bộ và
chuẩn mực của hệ thống. Bên nhận quyền có thể lợi dụng uy tín của thương hiệu để
kinh doanh giả mạo, cung cấp hàng hóa và dịch vụ kém chất lượng, đôi khi chủ
thương hiệu còn phải đối mặt với những vụ tranh chấp liên quan đến bản quyền
thương hiệu.
Thứ hai, nhượng quyền phương thức kinh doanh (business format franchise)
Đây là hình thức NQTM mà theo đó bên nhận quyền sẽ sản xuất sản
phẩm/dịch vụ theo chỉ dẫn của bên nhượng quyền và bán những sản phẩm đó dưới
nhãn hiệu của bên nhượng quyền. Bên nhượng quyền sẽ chuyển giao cho bên nhận
12


quyền bí quyết kinh doanh, thường là các công thức sản xuất, quyền sản xuất, kinh
doanh sản phẩm và công thức điều hành quản lý. Theo phương thức này, các chuẩn
mực của mô hình kinh doanh phải tuân thủ một cách tuyệt đối. Thực chất nhượng
quyền công thức kinh doanh là bước phát triển cao hơn của nhượng quyền phân
phối sản phẩm, nó thể hiện đầy đủ nhất bản chất cũng như các đặc điểm của mô
hình kinh doanh NQTM. Đây là hình thức NQTM phổ biến nhất hiện nay và được

áp dụng trong nhiều lĩnh vực kinh doanh khác nhau, đặc biệt là các lĩnh vực như:
nhà hàng, ăn uống (KFC, McDonald's), bán lẻ (Blockbuster Video,The Ethelete's
Food),...Tại Việt Nam, Phở 24 và Kinh Đô Bakery là hai hệ thống áp dụng thành
công hình thức nhượng quyền mô hình kinh doanh.
Hình thức nhượng quyền mô hình kinh doanh phức tạp hơn nhượng quyền
phân phối sản phẩm nhưng những tiêu chí nghiêm ngặt trong nhượng quyền mô
hình kinh doanh giúp đảm bảo được tính đồng bộ về chất lượng của cả hệ thống
nhượng quyền, hạn chế được các vi phạm về bản quyền và thương hiệu. Chính vì
vậy, trên thế giới, hình thức nhượng quyền mô hình kinh doanh được ưa chuộng
hơn và thực tế loại hình này cũng phát triển hơn nhượng quyền phân phối sản phẩm.
Hai là, căn cứ theo cách thức tiến hành nhượng quyền của chủ thương hiệu
cho bên nhận quyền
Dựa vào tiêu chí này có thể chia NQTM thành nhượng quyền cho từng cơ sở
(Singer-unit franchise) và nhượng quyền đa cơ sở (multiple-unit franchise).
Thứ nhất, nhượng quyền cho từng cơ sở (Singer-unit franchise)
Nhượng quyền cho từng cơ sở là cách thức NQTM trong đó bên nhượng quyền
tiến hành nhượng quyền trực tiếp cho từng đối tác riêng rẻ để mở một cơ sở kinh doanh
duy nhất trong một khu vực địa lý nhất định. Điểm lợi thế của hình thức này là chủ thương
hiệu có thể làm việc trực tiếp và sâu sát với bên nhận quyền, tuy nhiên khi số lượng người
nhận quyền quá lớn sẽ rất khó khăn cho người nhượng quyền trong việc kiểm soát toàn bộ
hệ thống. Một số hệ thống nhượng quyền theo hình thức này là: Hilton Hotel, Phở 24...
Thứ hai, nhượng quyền đa cơ sở (multiple-unit franchise)
Đây là cách thức NQTM thông qua đó thiết lập nhiều hơn một cơ sở kinh doanh
13


theo phương thức NQTM [31, pg. 15]. Hình thức NQTM đa cơ sở có hai dạng:
- Nhượng quyền phát triển khu vực (area development franchise)
Nhượng quyền phát triển khu vực là hình thức nhượng quyền theo đó, bên
nhận quyền có quyền mở nhiều hơn một cửa hàng nhượng quyền tại một khu vực cụ

thể trong một thời hạn xác định. Bên nhận quyền thường phải cam kết được mở bao
nhiêu cửa hàng trong một thời gian nhất định nếu không sẽ mất quyền. Người nhận
nhượng quyền khu vực không được phép "bán" franchise cho những người mua tiếp
theo. Phí trả cho hình thức nhượng quyền này cũng tương đối cao.
- Nhượng quyền độc quyền (master franchise)
Nhượng quyền độc quyền là hình thức nhượng quyền theo đó, bên nhận
quyền ngoài việc được quyền mở nhiều hơn một cửa hàng nhượng quyền tại một
khu vực trong một thời gian xác định còn được phép bán nhượng quyền lại cho
những người khác (người nhận quyền thứ cấp), trong khu vực xác định. Hay nói
cách khác, đây là hình thức mà chủ thương hiệu sẽ chọn một cá nhân hay doanh
nghiệp địa phương tại quốc gia hoặc khu vực mà mình muốn xâm nhập làm bên
"mua" franchise độc quyền kinh doanh. Để có được franchise độc quyền, bên "mua"
franchise phải trả một khoản phí chuyển nhượng cao hơn các hình thức nhượng
quyền khác. Bên "mua" franchise này vừa là bên nhận quyền từ chủ thương hiệu
vừa là bên nhượng quyền cho những người nhận quyền khác trong phạm vi khu vực
địa lý đã thỏa thuận. Phần phí nhượng quyền thu được từ những bên nhận quyền thứ
cấp sẽ được chia cho chủ thương hiệu và bên nhận franchise độc quyền theo tỷ lệ
thỏa thuận trước. Bên nhận franchise độc quyền phải cam kết trong một khoảng thời
gian nhất định sẽ có bao nhiêu cửa hàng được mở nếu không sẽ mất độc quyền. Một
ví dụ cho hình thức nhượng quyền này là công ty Aptech của Ấn Độ nhượng quyền
độc quyền cho tập đoàn FPT tại thị trường Việt Nam.
Hình thức nhượng quyền phát triển khu vực và nhượng quyền độc quyền
thường được áp dụng khi chủ thương hiệu muốn mở rộng hệ thống của mình ra
nước ngoài hoặc những khu vực xa xôi. Ưu điểm của hai loại hình này là bên
nhượng quyền có thể vừa phát triển nhanh chóng mô hình kinh doanh trên phạm vi
14


rộng lớn, vừa cắt giảm được đáng kể chi phí nhờ có các bên nhượng quyền thứ cấp
khác, đồng thời làm tăng sự gắn kết chặt chẽ của bên nhận quyền đối với hệ thống,

bởi lẽ bên nhận quyền cũng chính là nhà nhượng quyền thứ cấp. Tuy nhiên, hai loại
hình này có nhược điểm là hạn chế phần nào quyền chủ động của chủ thương hiệu,
khó đảm bảo tính đồng bộ và chuẩn mực của hệ thống. Do vậy, để chủ động và đạt
hiệu quả tốt hơn trong việc chuyển nhượng mô hình kinh doanh mẫu, chủ thương
hiệu thường lựa chọn hình thức nhượng quyền trực tiếp.
Ba là, căn cứ vào phạm vi lãnh thổ
Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ có hai loại nhượng quyền là NQTM trong nước
và NQTM quốc tế.
Thứ nhất, NQTM trong nước
NQTM trong nước là quan hệ nhượng quyền trong phạm vi một quốc gia, do
pháp luật quốc gia điều chỉnh. Ví dụ: Cà phê Trung Nguyên nhượng quyền phân
phối sản phẩm cho công ty An Bình tại thành phố Hồ Chí Minh.
Thứ hai, NQTM quốc tế
NQTM quốc tế là quan hệ NQTM có yếu tố nước ngoài, do pháp luật quốc gia,
các điều ước quốc tế, tập quán quốc tế điều chỉnh. Ví dụ: Phở 24 NQTM tại Nhật Bản.
1.1.4. Lợi ích của phương thức nhượng quyền thương mại
Qua lịch sử hình thành và phát triển khá lâu đời, hình thức NQTM đã ngày
càng khẳng định được vị thế của nó trong sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
NQTM là sự lựa chọn hàng đầu cho nhiều doanh nghiệp, bởi đây là phương thức
kinh doanh có lợi cho cả ba bên: bên nhượng quyền; bên nhận quyền; xã hội và
người tiêu dùng.
1.1.4.1. Đối với bên nhượng quyền
Thứ nhất, phát triển thương hiệu và nhân rộng mô hình kinh doanh, nhanh
chóng chiếm lĩnh thị trường
Bất cứ một doanh nghiệp nào cũng muốn ngày càng phát triển thương hiệu
và nhân rộng mô hình kinh doanh của mình khi đã thành công. Một khi mô hình
kinh doanh của doanh nghiệp đã được thành công và nhân rộng một cách nhanh
15



chóng thì thương hiệu của doanh nghiệp cũng lớn mạnh theo. Nhờ vậy bên nhượng
quyền sẽ có được một hệ thống kinh doanh lớn, chiếm lĩnh được nhiều thị trường
hơn mà không phải bỏ ra nhiều vốn. Việc nhân rộng mô hình kinh doanh cũng là
một hình thức giúp bên nhượng quyền có được kênh phân phối rộng, đưa sản phẩm
đến tay người tiêu dùng nhanh hơn. Có thể nói phương thức NQTM là sự kết hợp
giữa doanh nghiệp lớn với hệ thống quản lý bài bản, có sức mạnh tài chính, kỹ thuật
và công nghệ hiện đại...với doanh nghiệp nhỏ có tính linh hoạt, sáng tạo, có sự cam
kết và am hiểu thị trường. Sự kết hợp này sẽ nhanh chóng giúp doanh nghiệp chiếm
lĩnh được thị truờng hơn các phương thức kinh doanh khác. Ví dụ như tính đến thời
điểm cuối năm 2007, McDonald's có tổng số 31,000 nhà hàng tại 119 quốc gia trên
thế giới, trong đó 78% số cửa hàng là do nhượng quyền và chỉ có 22% cửa hàng là
do công ty lập nên [32].
Thứ hai, tăng doanh thu
Thông qua hình thức NQTM, bên nhượng quyền có thể nhận được phí nhượng
quyền ban đầu, phí hàng tháng từ việc bán franchise (Phí này có thể là một khoản phí cố
định theo thỏa thuận của các bên hoặc tính theo phần trăm trên doanh số của bên mua
franchise và thường dao động trung bình từ 3 - 6% tùy vào loại sản phẩm, mô hình và
lĩnh vực kinh doanh). Tại Mỹ, chỉ có khoảng 8% các cửa hàng nhượng quyền là không
phải trả phí hàng tháng này (còn gọi là royalty fee) [23]. Ngoài ra bên nhượng quyền còn
có các khoản thu từ việc bán các nguyên liệu đặc thù cho bên nhận quyền.
Thứ ba, tiết kiệm được chi phí
Bên nhượng quyền có thể tiết kiệm được khá nhiều chi phí khi nhập nguyên
liệu với số lượng lớn để phân phối lại cho các cửa hàng nhượng quyền. Ví dụ
trường hợp của KFC, hệ thống nhượng quyền này tiêu thụ hàng nghìn tấn thịt gà
mỗi ngày. Với khối lượng mua khổng lồ như vậy, tất yếu KFC được hưởng mức giá
ưu đãi từ bất cứ nhà cung cấp nào. Ngoài ra, các chi phí trong quảng cáo, tiếp thị
cũng được giảm đi đáng kể nhờ được chia nhỏ cho nhiều cửa hàng trong hệ thống
NQTM.
Thứ tư, tận dụng nguồn nhân lực của bên nhận quyền
16



Trong hoạt động NQTM, bên nhận quyền sẽ là người bỏ vốn ra kinh doanh
nên đây là động lực để thúc đẩy họ làm việc tốt hơn, vì khi đó người nhận quyền là
chủ nên họ làm việc có trách nhiệm hơn. Ngoài ra, bên nhận quyền có thể tiếp cận
những địa điểm mà bên nhượng quyền không thể tiếp cận được. Do đó, bên nhượng
quyền sẽ tận dụng được nguồn nhân lực không nhỏ từ phía bên nhận quyền mà
không phải tốn nhiều chi phí. Hơn nữa, sau khi bên nhượng quyền đào tạo cho bên
nhận quyền thứ nhất, bên nhận quyền này lại có thể tiếp tục đào tạo cho bên nhận
quyền thứ hai sau mình. Với hình thức như vậy bên nhượng quyền không chỉ tận
dụng được nguồn nhân lực của bên nhận quyền mà còn tiết kiệm được khá nhiều
chi phí trong công tác đào tạo.
1.1.4.2. Đối với bên nhận quyền
Thứ nhất, giảm thiểu rủi ro
Việc mở cửa hàng, cơ sở kinh doanh mới có rất nhiều rủi ro và tỷ lệ thất bại
cao. Lý do chính của tỷ lệ thất bại cao là do người quản lý là những người mới bước
vào nghề, không có kinh nghiệm và phải mất nhiều thời gian cho việc học hỏi các
đặc trưng riêng của từng loại hình kinh doanh. Khi tham gia vào hệ thống nhượng
quyền, bên nhận quyền sẽ được huấn luyện, đào tạo và truyền đạt kinh nghiệm quản
lý, bí quyết thành công của mô hình kinh doanh mà bên nhượng quyền đã tích lũy
được từ những lần trải nghiệm trên thị trường. Bên nhận quyền không phải trải qua
giai đoạn xây dựng và phát triển ban đầu, do vậy sẽ góp phần giảm thiểu rủi ro
trong hoạt động kinh doanh.
Thứ hai, được sử dụng thương hiệu có uy tín
Đây có thể coi là lợi ích cơ bản nhất mà bên nhận quyền có được từ bên
nhượng quyền khi tham gia vào hệ thống NQTM. Khi đó, họ sẽ không phải mất thời
gian để xây dựng thương hiệu mà có thể dễ dàng thâm nhập vào thị trường và ngay
lập tức có được uy tín về chất lượng sản phẩm/dịch vụ, chiến lược marketing...của
bên nhượng quyền.
Thứ ba, nhận được sự hỗ trợ từ phía bên nhượng quyền

Bên nhận quyền luôn nhận được sự hỗ trợ từ phía chủ thương hiệu, bao gồm
17


hỗ trợ trước khi mở cửa hàng như: Giúp chọn địa điểm kinh doanh; thiết kế trang trí
cửa hàng; đào tạo nhân viên; giúp đỡ về tài chính và hỗ trợ sau khi cửa hàng khai
trương như: đào tạo nhân viên định kỳ; quảng cáo tiếp thị; hỗ trợ về quản lý; vận
hành giám sát; tiêu thụ sản phẩm. Ngoài ra, bên nhượng quyền còn hỗ trợ cho bên
nhận quyền trong suốt quá trình hoạt động.
Thứ tư, tiết kiệm được chi phí nghiên cứu và phát triển
Hầu hết các doanh nghiệp nhỏ thường có ít vốn cũng như thời gian để nghiên
cứu và phát triển thị trường, sản phẩm mới. Khi tham gia vào hệ thống NQTM, bên
nhượng quyền sẽ thực hiện việc này, họ luôn có một bộ phận chuyên viên nghiên cứu
tình hình cũng như xu hướng phát triển đối với từng loại sản phẩm, từng thị trường
trong từng thời kỳ để nhanh chóng có được phương hướng thay đổi cho phù hợp. Do
đó, bên nhận quyền sẽ được sử dụng thành quả này mà không cần tốn nhiều chi phí bởi
họ chỉ phải đóng một phần chi phí theo quy định của bên nhượng quyền.
Thứ năm, thuận lợi trong việc huy động vốn
Do xác suất thành công của mô hình NQTM cao nên các ngân hàng tin tưởng
cho các doanh nghiệp nhận quyền vay tiền. Thực tế thì hầu như các doanh nghiệp
nhượng quyền lớn trên thế giới đều chủ động đàm phán, thuyết phục ngân hàng ủng
hộ các đối tác nhận quyền tiềm năng của mình bằng cách cho vay với lãi suất thấp.
Nói khác đi chủ thương hiệu thường đóng vai trò cầu nối giúp người mua franchise
vay tiền ngân hàng hoặc chính mình đứng ra cho vay, nhằm phát triển và nhân rộng
mô hình kinh doanh nhanh hơn.
1.1.4.3. Đối với nền kinh tế
Trên thế giới, không có một quốc gia nào có nền kinh tế phát triển mà không
có công nghiệp NQTM phát triển. NQTM không những đem lại lợi ích cho các
doanh nghiệp mà còn cho cả một nền kinh tế nói chung.
Thứ nhất, hoạt động NQTM huy động một lượng lớn đầu tư xã hội.

Khi các doanh nhiệp tham gia hoạt động NQTM kinh doanh có lãi, họ sẽ đóng
góp một phần thu nhập đáng kể vào ngân sách Nhà nước thông qua việc nộp thuế. Vì
vậy, hình thức kinh doanh NQTM sẽ tạo ra nhiều lợi ích cho xã hội, tránh lãng phí
18


tiền của vì tỷ lệ phá sản của hình thức này rất thấp. Bên cạnh đó, nhờ vào khả năng
thành công cao nên mô hình NQTM giúp giảm thiểu tổn thất cho nền kinh tế.
Thứ hai, góp phần chuyển giao công nghệ, học hỏi kiến thức, kinh nghiệm và
phương kinh doanh từ các nước phát triển
Thông thường các thương hiệu lớn trên thế giới có xu hướng nhượng quyền để
phát triển và mở rộng tầm ảnh hưởng của mình đến các nước và khu vực đang phát triển.
Vì vậy, thông qua việc nhận quyền, doanh nghiệp ở các nước đang phát triển sẽ có cơ
hội tiếp cận công nghệ tiên tiến, học hỏi kiến thức và kinh nghiệm quản lý của các nước
phát triển. Do đó, các doanh nghiệp ở các quốc gia sẽ có cơ hội hợp tác, học hỏi và nhân
rộng mô hình kinh doanh đã chứng minh thành công trên thương trường.
Thứ ba, giúp người tiêu dùng có cơ hội tiếp cận và tiêu dùng sản phẩm của
các thương hiệu nổi tiếng trên thế giới với chất lượng đồng đều
Các cửa hàng nhượng quyền đều phải đảm bảo tính đồng nhất do nhà
nhượng quyền đề ra, vì vậy người tiêu dùng ở khắp nơi trên thế giới đều có cơ hội
sử dụng những sản phẩm chính hãng, đảm bảo chất lượng mà không phải đi ra nước
ngoài. Mặt khác, tính đồng bộ và chuẩn mực của hệ thống nhượng quyền là nhân tố
đảm bảo chất lượng cho sản phẩm, dịch vụ, giúp giảm rủi ro cho người tiêu dùng.
Thứ tư, tạo ra nhiều công ăn việc làm cho xã hội
Hầu hết các doanh nhiệp mới mở ra dưới hình thức NQTM đều có nhu cầu
tuyển dụng nhân công, vì thế sẽ giải quyết được vấn đề việc làm cho một lượng lao
động trong xã hội, góp phần giải quyết vấn đề thất nghiệp của nhiều quốc gia.
1.1.5. Những yếu tố cấu thành mô hình nhượng quyền thương mại
Trước khi tiến hành NQTM, cả bên nhượng quyền và bên nhận quyền cần
phải xác định các yếu tố cấu thành mô hình NQTM. Đây là việc làm rất quan trọng,

bởi lẽ khi xác định đúng những yếu tố này thì sẽ xây dựng chiến lược kinh doanh,
chiến lược marketing...phù hợp để qua đó nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường.
Một là, thương hiệu (the brand)
Sản phẩm sẽ được thị trường chấp nhận như thế nào phụ thuộc rất nhiều vào
thương hiệu của sản phẩm. Đối với các sản phẩm chỉ mới được chứng minh thành
công ở một vài địa điểm nhất định thì khi tiến hành bán franchise, chủ thương hiệu
19


×