Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Hoàn thiện hệ thống pháp luật biển và công tác bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.89 KB, 10 trang )

A . ĐẶT VẤN ĐỀ
Nước ta có bờ biển dài 3.260km và diện tích các vùng biển thuộc chủ
quyền, quyền chủ quyền rộng trên 1 triệu ki lô mét vuông. Vùng biển nước
ta có vị trí quan trọng về an ninh - quốc phòng và nhiều điều kiện thuận lợi
cho phát triển kinh tế biển. Trong năm nay, biển đảo và đặc biệt là vấn đề
bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển, đảo đã trở thành chủ đề được quan
tâm ở trong nước, nhất là khi tình hình Biển Đông đang "nóng lên" trước
các hoạt động ngày càng mạnh bạo của hải quân Trung Quốc. Vậy vấn đề
bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển của Việt Nam hiện nay như thế nào?
Còn tồn tại vấn đề gì? Và hướng khắc phục ra sao? Phạm vi nghiên cứu của
bài viết sẽ đề cập đến những yếu tố quan trọng này.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM
1. Chủ quyền quốc gia
Chủ quyền quốc gia là thuộc tính chính trị, pháp lí của quốc gia bao
gồm hai nội dung là quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của
mình và quyền độc lập của quốc gia khi tham gia vào quan hệ quốc tế. Lãnh
thổ quốc gia được giới hạn bởi đường biên giới quốc gia.
2. Chủ quyền trên biển của quốc gia
Chủ quyền trên biển là quyền tối cao của quốc gia đối với vùng biển
nằm bên trong đường biên giới quốc gia trên biển bao gồm vùng nội thủy và
vùng lãnh hải;
Đường biên giới quốc gia trên biển được xác định là đường gianh giới
phía ngoài của lãnh hải mà mỗi điểm ở trên đường đó cách điểm gần nhất
của đường cơ sở một khoảng cách bằng chiều rộng lãnh hải.
Đường biên giới quốc gia trên biển của nước CHXHCN Việt Nam
được xác định là đường gianh giới phía ngoài của lãnh hải mà mỗi điểm ở
trên đường đó cách điểm gần nhất của đường cơ sở một khoảng cách bằng
12 hải lí.
II. THỰC TIỄN BẢO VỆ CHỦ QUYỀN TRÊN CÁC VÙNG BIỂN
CỦA VIỆT NAM


1. Các Cơ sở pháp lí để bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển của
Việt Nam
Là một quốc gia trải dài dọc theo bờ biển nên trong lịch sử Việt Nam
thường bị các nước tấn công xâm lược từ biển. Vì vậy cơ sở pháp lí để
khẳng định chủ quyền và bảo vệ biên giới quốc gia của Việt Nam trên biển
đã được hình thành ngay từ rất sớm. Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản
1


pháp luật liên quan về biển: Ngày 12/5/1977, Chính phủ ta ra Tuyên bố về
lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
Việt Nam và ngày 12/11/1982, Chính phủ ta ra Tuyên bố về đường cơ sở
dùng để tính chiều rộng lãnh hải; ngày 23/6/1994, Quốc hội nước
CHXHCN Việt Nam Khoá IX, kỳ họp thứ V đã ra Nghị quyết phê chuẩn
Công ước của LHQ về Luật Biển 1982; Luật Biên giới quốc gia ngày
17/6/2003 và Nghị định 161/2003/NĐ-CP ngày 18/12/2003 về Quy chế Khu
vực biên giới biển... Ngoài ra, nước ta đã đàm phán phân định vùng biển với
một số nước có vùng biển tiếp giáp (với Trung Quốc ở vịnh Bắc Bộ; với
Thái Lan ở vùng biển Tây Nam; phân định Thềm lục địa (TLĐ) với
Inđônêxia). Đó là những cơ sở pháp lý quan trọng để tổ chức công tác quản
lý, bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và giữ gìn
an ninh trật tự trên các vùng biển của nước ta; đồng thời là cơ sở để tiếp tục
tiến hành đàm phán phân định ranh giới vùng biển với các nước liên quan.
Khi nước nhà thống nhất, chủ quyền trên biển của Việt Nam lại được
tái khẳng định trong văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lí cao nhất là Hiến
pháp. Điều 1 các bản Hiến pháp năm 1980 và năm 1992 (đã sửa đổi năm
2001) khẳng định: “Nước CHXHCN Việt Nam là một nước độc lập, có chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, các hải đảo, vùng
biển và vùng trời”.
1.1. Các VBPL về tổ chức và hoạt động của lực lượng bảo vệ chủ

quyền trên biển:
Để cụ thể hóa Hiến pháp và từng bước chuyển hóa các quy định của
công ước Luật biển năm 1982 vào trong các quy định tương ứng của pháp
luật Việt Nam, pháp luật về bảo vệ chủ quyền, an ninh trên biển của Việt
Nam, nhà nước đã ban hành một hệ thống VBPL quan trọng về tổ chức và
hoạt động của lực lượng bảo vệ chủ quyền biển cụ thể như sau:
- Nghị định 30/CP ngày 29/01/1980 về quy chế pháp lí cho tàu thuyền
nước ngoài hoạt động trên các vùng biển của nước CHXHCN Việt Nam.
Theo đó, việc kiểm soát trên các vùng biển của nước CHXHCN Việt Nam
được giao cho các lực lượng sau: Hải quân nhân dân Việt Nam và các đơn
vị quân đội nhân dân Việt Nam; Cảnh sát nhân dân Việt Nam làm nhiệm vụ
tuần tra trên biển; Bộ đội biên phòng Việt Nam, các lực lượng nửa vũ trang
trên các tàu thuyền vận tải và tàu thuyền đánh cá của Việt Nam; Các lực
lượng kiểm soát chuyên môn của các ngành Hải quan, y tế, kiểm dịch của
Việt Nam...
2


- Luật an ninh quốc gia năm 2004 quy định trách nhiệm của các cơ
quan nhà nước trong việc bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia của Việt Nam
trên biển
- Pháp lệnh dân quân tự vệ năm 1996 quy định về tổ chức và hoạt
động của lực lượng dân quân tự vệ
- Pháp lệnh bộ đội biên phòng năm 1997 quy định về chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Bộ đội biên phòng;
- Pháp lệnh cảnh sát biển năm 1998 quy định về chức năng, nhiệm vụ
quyền hạn, phạm vi hoạt động và cơ cấu tổ chức của lực lượng cảnh sát biển
Việt Nam
- Nghị định 41/2001/NĐ-CP ngày 24/07/2001 của Chính phủ ban
hành quy chế phối hợp thực hiện quản lí nhà nước về hoạt động của lực

lượng cảnh sát biển và phối hợp hoạt động giữa các lực lượng trên các vùng
biển và thềm lục địa; việc phân định vùng hoạt động của các lực lượng tham
gia phối hợp trên các vùng biển và thềm lục địa.
1.2. Các VBPL đảm bảo thực thi pháp luật bảo vệ chủ quyền trên các
vùng biển của việt nam:
- Các văn bản pháp luật về xử lý vi phạm hành chính như: Pháp lệnh
xử phạt về phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung 2008); Nghị định
số 92/1999/NĐ-CP ngày 04/9/1999 về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực hàng hải; Nghị định số 137/2004/NĐ-CP ngày 16/6/2004 về xử
phạt vi phạm hành chính trên các vùng biển và thềm lục địa nước CHXHCN
Việt Nam; Nghị định số 150/2004/NĐ-CP ngày 29/7/2004 của Chính phủ
về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực khoáng sản…
- Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999 đã đưa ra một số loại tội phạm
có hành vi phạm pháp luật về biển, hàng hải cần được xử lý bằng pháp luật
hình sự như: Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông
đường thuỷ (Điều 212); Tội cản trở giao thông đường thủy (Điều 213); Tội
đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông đường thủy không đảm bảo an
toàn (Điều 214);...
- Bộ luật hàng hải Việt Nam năm 1990 (sửa đổi, bổ sung năm 2005) ;
Luật Giao thông đường thuỷ nội địa năm 2004; Nghị định số 125/2003/NĐCP ngày 29/01/2003 về vận tải đa phương thức quốc tế, …
Ngoài ra còn có các văn bản pháp luật trong các lĩnh vực về khai thác
thuỷ sản, dầu khí biển; nghiên cứu khoa học biển; về du lịch biển đảo; môi
trường biển…
3


2. Thực tiễn hoạt động bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển của
Việt Nam
2.1 Quy chế pháp lí đối với tàu thuyền nước ngoài
Các tàu thuyền của Việt Nam hoặc nước ngoài hoạt động trên các

vùng biển của Việt Nam thì phải tuân thủ pháp luật Việt Nam. Quy chế hoạt
động của tàu thuyền theo pháp luật Việt Nam hiện hành cũng đề cập tới các
biện pháp bảo đảm thi hành pháp luật Việt Nam trong trường hợp tàu
thuyền có vi phạm, như Nghị định số 92/NĐ-CP ngày 04/09/1999 quy định
các hình thức xử phạt vi phạm hành chính như cảnh cáo, phạt tiền; tước
quyền sử dụng bằng, giấy phép, giấy chứng nhận, tịch thu tang vật....
Tàu thuyền nước ngoài ra vào phải xin phép và phải đáp ứng các điều
kiện về neo đậu, đi qua theo pháp luật Việt Nam. Những vi phạm của tàu
dân sự nước ngoài được áp dụng các biện pháp mang tính chất chế tài như:
Buộc tàu thuyền nước ngoài thể hiện rõ tư cách pháp lí của tàu; can thiệp
cần thiết vào lịch trình của tàu để kiểm tra khám xét nếu có dấu hiệu khả
nghi xâm phạm đến chủ quyền, an ninh quốc gia của Việt Nam; lập biên
bản bắt giữ tàu thuyền và người vi phạm; khi cần thiết có thể sử dụng biện
pháp quân sự đối với tàu vi phạm; thực hiện quyền truy đuổi đối với tàu vi
phạm bỏ trốn; áp dụng các hình phạt như cảnh cáo, thu hồi giấy phép, trục
xuất…
Lực lượng cảnh sát biển là lực lượng có thẩm quyền xử phạt tại các
vùng nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và cả thềm lục địa của Việt
Nam. Quyền xử phạt hành chính của cảnh sát biển Việt Nam được đặt ra
trong các lĩnh vực an linh trật tự, an toàn, bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn
lợi thủy sản hay tài nguyên khoáng sản hoặc đối với việc chống các hành vi
buôn lậu.
2.2 Tổ chức lực lượng bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển của Việt
Nam
Lực lượng bảo vệ chủ quyền trên biển của Việt Nam hiện nay bao
gồm: hải quân, cảnh sát biển, dân quân tự vệ. Ngoài ra, khu vực ven biển từ
đường cơ sở trở vào còn có biên phòng và kiểm ngư... Quy chế phối hợp
các lực lượng sẽ giao cho Bộ Quốc phòng xây dựng.
Dân quân tự vệ biển tổ chức và trang bị tương tự như đất liền, nhưng
có đặc thù khác là phải gắn hoạt động kinh tế với việc bảo vệ biển.Ví dụ,

mỗi đội tàu có một tổ vừa lo đánh cá, vừa lo bảo vệ trong khu vực tọa độ
nhất định. Khi bị tấn công, tổ đó vừa liên hệ với bờ, vừa phối hợp với tổ
khác để bảo vệ tài sản.
4


Hải quân nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt bảo vệ chủ quyền
quốc gia của Việt Nam trên biển, đảo. Nhiệm vụ của Hải quân là quản lý và
kiểm soát chặt chẽ các vùng biển, đảo thuộc chủ quyền quốc gia của Việt
Nam, giữ gìn an ninh, chống lại mọi hành vi vi phạm chủ quyền, quyền chủ
quyền, quyền tài phán và lợi ích quốc gia của Việt Nam trên biển; bảo vệ
các hoạt động bình thường của Việt Nam trên các vùng biển, đảo theo quy
định của luật pháp quốc tế và luật pháp Việt Nam; bảo đảm an toàn hàng hải
và tham gia tìm kiếm, cứu nạn theo pháp luật Việt Nam và các điều ước
quốc tế mà Việt Nam tham gia; sẵn sàng hiệp đồng chiến đấu với các lực
lượng khác nhằm đánh bại mọi cuộc tiến công trên hướng biển. Các tàu hải
quân, tàu cảnh sát biển tuần tra trên vùng biển thuộc chủ quyền của mình để
cảnh giác sự xâm nhập của các tàu lạ, tàu nước ngoài, kịp thời ngăn chặn và
xua đuổi. Hải quân Việt Nam tổ chức các buổi tuyên truyền cho các cấp
lãnh đạo địa phương ven biển cùng ngư dân về vị trí, tầm quan trọng biển,
đảo của nước ta, cũng như hoạt động bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Hải
quân nhân dân Việt Nam.
Ngày 29/8/2009, Bộ Quốc phòng Việt Nam đã thành lập thêm Vùng 2
hải quân để bảo vệ chủ quyền TLĐ phía Nam, bao gồm vùng đặc quyền
kinh tế giáp Trường Sa. Nhiệm vụ chính của hải quân Vùng 2 là quản lý,
bảo vệ chủ quyền vùng biển từ Bình Thuận đến Bạc Liêu, trong đó có khu
vực trọng điểm là vùng biển có các cụm kinh tế - khoa học - dịch vụ thuộc
TLĐ phía Nam .
Đài Tiếng nói Việt Nam đã phủ sóng toàn bộ khu vực Biển Đông.
Tầm phủ sóng là 3.500 km tính từ bờ biển, bao gồm toàn bộ khu vực lãnh

hải Việt Nam và hầu hết những vùng đánh bắt cá xa bờ của ngư dân. Ngoài
việc giúp phòng tránh thiên tai, cứu hộ cứu nạn cho ngư dân, đây còn là
hành động khẳng định chủ quyền biển của Việt Nam.
Ngoài ra, Quốc hội và Chính phủ cũng đang xem xét việc tăng cường
đầu tư kinh phí cho bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển và thành lập các
đội dân quân tự vệ biển, xây dựng và ban hành luật dân quân tự vệ.
Đối với tranh chấp chủ quyền trên các vùng biển đặc biệt là tranh chấp
trên biển Đông, Việt Nam luôn khẳng định chủ quyền của mình đối với các
quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển liên quan; Việt Nam đã
đưa ra các chứng cứ lịch sử và dẫn chiếu các quy định pháp luật của công
ước luật Biển quốc tế năm 1982 để chứng minh chủ quyền quốc gia đối với
Hoàng Sa và Trường Sa. Quan điểm của Việt Nam là phải kiên quyết bảo vệ
chủ quyền quốc gia, khi xảy ra tranh chấp với các nước trong khu vực, phải
5


giải quyết qua ngoại giao, thương lượng hòa bình, tránh sử dụng sức mạnh
quân sự .
III.NHỮNG TỒN TẠI
1. Trong lĩnh vực pháp luật
Cho đến nay, chúng ta chưa có một văn bản pháp quy nào chính thức
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực biển nói chung và
bảo vệ chủ quyền vùng biển nói riêng. Như đã đề cập ở phần trên, hầu hết
các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực này đều được điều chỉnh dựa trên các
nguyên tắc cơ bản của Công ước Liên hợp quốc về luật biển 1982 và Tuyên
bố ứng xử của các bên trên biển Đông (DOC) mà không phải là một Luật
biển của riêng nước ta. Điều này dẫn đến một hệ quả là các vấn đề riêng của
quốc gia chỉ có thể được giải quyết dựa trên việc áp dụng các nguyên tắc
chung, trong đó có nhiều trường hợp không phù hợp với tính chất riêng của
vùng biển .

Tuy đã có rất nhiều văn bản pháp quy quy định các vấn đề thuộc lĩnh
vực chủ quyền và bảo vệ chủ quyền trên các vùng biển của Việt Nam nhưng
hầu hết các văn bản này là các văn bản luật riêng rẽ, điều chỉnh từng ngành,
từng lĩnh vực. Việc phân tán các nội dung này trong quá nhiều các văn bản
luật mà không có một văn bản điều chỉnh chung sẽ dẫn đến việc giải quyết
các vấn đề phát sinh trong bảo vệ chủ quyền biển không theo kịp với tình
hình và không chính xác.Cùng với sự thay đổi của tình hình thế giới và
trong nước, dự án Luật Biển đã được đề ra từ cách đây hơn mười năm, từ
nhiệm kì Quốc hội khóa X. Tuy nhiên cho đến giờ, vì nhiều lí do khách
quan và chủ quan, dự án luật này vẫn chưa thể trở thành hiện thực. Trong
khi với tư cách là một luật riêng về biển, Luật Biển sẽ tạo cơ sở pháp lí
vững chắc để góp phần khẳng định chủ quyền vùng biển của Việt Nam một
cách đầy đủ và rõ ràng.
Các chế tài xử phạt đối với hành vi vi phạm của tàu thuyền nước ngoài
còn chưa đủ mạnh.Trong thực tiễn áp dụng chế tài hành chính cho thấy bất
cập giữa các quy định của các văn bản về xử phạt VPHC và việc áp dụng
các quy định đó vào trong quá trình thực thi pháp luật trên các vùng biển về
hiệu lực của văn bản, về thẩm quyền xử lý vi phạm, mức phạt tiền cao thấp
khác nhau đối với các hành vi vi phạm hành chính trong cùng lĩnh vực, dẫn
đến các cơ quan có thẩm quyền thường áp dụng các hình thức phạt theo các
nghị định ban hành cuối cùng xét về thời gian ban hành văn bản, trong khi
các văn bản pháp luật trước đang còn hiệu lực. Ví dụ: Điều 24 Nghị định
30/CP về quy chế cho tàu nước ngoài hoạt động trên các vùng biển, quy
6


định phạt một số tiền lên đến 10.000 đồng, điều này không trái với pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính với mức phạt tiền thấp nhất là 5000 đồng,
nhưng không phù hợp vì không đủ sức răn đe với các hành vi vi phạm trên
các vùng biển và thềm lục địa.

Thực tiễn xét xử trong những năm gần đây, qua tài liệu báo cáo sơ kết
hàng năm của TANDTC, chế tài hình sự chưa được áp dụng đối với các
hành vi xâm phạm các cùng đánh bắt hải sản hoặc thực hiện quyền tài phán
hình sự đối với một ngoài nước ngoài trên một con tàu đang đi qua vô hại
trong lãnh hải Việt Nam bởi vì hiện nay, Việt Nam chưa có quy định hướng
dẫn việc xét xử các hành vi vi phạm trên từng vùng biển và các loại tội
phạm trên biển như các loại tội phạm về điều khiển phương tiện hàng hải,
tội vi phạm các quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên thiên
nhiên, các tội gây ô nhiễm môi trường biển…
2. Trong các hoạt động cụ thể về bảo vệ chủ quyền trên các vùng
biển
Thời gian qua, chúng ta đang tập trung nguồn lực cho phát triển kinh
tế, nên chưa đầu tư nhiều cho quốc phòng - an ninh. Đối với các lực lượng
vũ trang, bảo vệ chủ quyền trên biển thì tinh thần xả thân chiến đấu có thừa,
nhưng trang thiết bị thì chưa đồng bộ, có nơi thiếu thốn, công tác đào tạo
nhân sự trong quản lí biển cũng chưa thật sự đạt được hiệu quả cần thiết.
Đội ngũ cán bộ tham gia đào tạo nguồn nhân lực biển hiện còn thiếu về số
lượng và trong một số trường hợp chưa đáp ứng yêu cầu về chất lượng. Do
vậy, nguồn nhân lực phục vụ quản lý nhà nước tổng hợp và thống nhất về
biển còn thiếu, chưa đáp ứng được yêu cầu của chiến lược vươn ra biển mà
Đảng và Nhà nước ta đề ra.
Hiện tại công tác quản lí vùng biển của chúng ta chưa thống nhất, còn
chung chung. Chúng ta chưa xây dựng được một kế hoạch quản lý vùng ven
biển tổng quát, xác định quyền sử dụng tài nguyên đất và nước thống nhất
trong cả nước, do vậy trong phạm vi vùng ven biển của mỗi tỉnh thành phố,
mỗi địa phương tự điều chỉnh chương trình quản lý vùng ven biển phù hợp
với bối cảnh và nhu cầu của địa phương mình.
Thông tin về biển, đảo và các vùng chủ quyền trên biển còn thiếu cập
nhật, công tác tuyên truyền về lĩnh vực này còn những hạn chế, chưa được
tiến hành một cách đồng bộ, thường xuyên, liên tục. Nội dung, hình thức

tuyên truyền chưa hấp dẫn, chưa hướng mạnh về cơ sở, đến tận người dân,
nhất là khu dân cư vùng biển, đảo và ven biển. Sự hiểu biết pháp luật về
biển và ý thức giữ gìn tài nguyên, môi trường biển của người dân còn hạn
7


chế đã hạn chế ít nhiều đến hoạt động bảo vệ chủ quyền biển của nước ta,
đặc biệt là trong thời đại công nghệ thông tin như hiện nay là một khiếm
khuyết rất lớn. Các thông tin đối ngoại liên quan đến biển và đảo còn thiếu
và bất cập, có giành được sự đồng tình ủng hộ của thế giới hay không là nhờ
thông tin. Nhưng hiện nay chúng ta rất thiếu các ấn phẩm chứa đựng thông
tin bằng các thứ tiếng để chuyển tải ra thế giới. Điều này đã khiến nhiều
kênh thông tin và người dân nước ngoài nhầm lẫn hoặc chưa hiểu được chủ
quyền của Việt Nam. Đơn cử như Google Earth đã có thời gian công bố
thông tin quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc Trung Quốc.
Tình hình liên quan đến chủ quyền trên biển Đông, nhất là ở khu vực
vùng biển quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa diễn biến phức tạp, tiềm ẩn
nhiều nhân tố mất ổn định.
Hiện tượng tàu thuyền của ngư dân ta đánh bắt xa bờ trên các vùng
biển thuộc các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bị nước ngoài bắt, cướp
đoạt tài sản và đòi tiền nộp phạt ngày càng tăng. Theo thống kê của ngành
an ninh, trong 5 năm trở lại đây, chỉ riêng tỉnh Quảng Ngãi có 195 tàu/1.906
ngư dân bị nước ngoài bắt, hiện còn 16 tàu, 90 ngư dân chưa được trả về địa
phương. Đó là chưa kể có 2 ngư dân bị tàu nước ngoài bắn chết, 7 ngư dân
bị bắn bị thương (bảo vệ chủ quyền biển, đảo: Cần quan tâm thêm các hoạt
động của như dân - Báo Quảng Ngãi, ngày 04/03/2010). Từ đó đã dẫn đến
một hệ quả tất yếu là ngư dân lo sợ cho tính mạng và tài sản nên không còn
đánh bắt tại các địa điểm còn tranh chấp, hơn nữa là chuyển đổi sang các
ngành nghề trên đất liền. Bởi chưa có các chính sách hỗ trợ ngư dân, chúng
ta đã và đang mất dần những quyền lợi trên biển mà đáng lẽ ra chúng ta

phải được hưởng.
Tranh chấp các khu vực khai thác tài nguyên thiên nhiên trên vùng
biển chung đang diễn biến phức tạp và chưa đi đến một thỏa thuận chung.
Điều này đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động khai thác cũng như
vảo vệ chủ quyền của nước ta. Đơn cử như khu vực tranh chấp biển Đông
mà Trung Quốc hiện nay đã tuyên bố về “đường lưỡi bò”, đưa phương tiện
thăm dò dầu khí vào khu vực biển Đông trên vùng biển thềm lục địa của
Việt Nam. Tuyên bố và động thái này đã dẫn đến việc tài nguyên dầu khí tại
thềm lục địa của nước ta chịu sự đe dọa từ phía Trung Quốc. Chúng ta
không những không có quyền khai thác tài nguyên mà hoạt độnh bảo vệ
quyền chủ quyền còn bị ảnh hưởng. Do vậy, giải quyết tranh chấp về quyền
lợi của các bên liên quan tại các khu vực biển là một vấn đề cấp bách hiện
nay.
8


IV. HƯỚNG HOÀN THIỆN
Từ những phân tích về các hạn chế của công tác bảo vệ chủ quyền trên
các vùng biển của Việt Nam, nhóm chúng tôi xin đưa ra một số giải pháp
nhằm khắc phục những hạn chế đó:
1. Trong lĩnh vực pháp luật
Về mặt pháp lý, cần phải sớm có Luật biển Việt Nam mang tầm quốc
gia, xây dựng trên cơ sở Luật biển năm 1982 của Liên hợp quốc, để tuyên
bố với thế giới về các vùng biển của nước ta. Khi đã có luật, cần tiến tới ký
hiệp định với các quốc gia chung vùng biển với Việt Nam, nhất là Trung
Quốc, Philippines..., xây dựng bộ nguyên tắc ứng xử trên biển Đông.
Phải tổ chức rà soát, hệ thống hoá toàn bộ các văn bản pháp luật về
biển để nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các văn bản đã quá đỗi lỗi thời; ban
hành các văn bản pháp luật mới về biển mang tầm quốc gia nhằm từng bước
tiến hành xây dựng cho được một hệ thống đồng bộ các luật, văn bản quy

phạm pháp luật về biển mang tính chất pháp lý cao nhằm điều chỉnh các
hoạt động bảo vệ chủ quyền trên biển, trên cơ sở phù hợp với pháp luật và
thực tiễn quốc tế. Đồng thời thể hiện được quan điểm, lập trường và đáp
ứng yêu cầu của nhà nước ta trong tăng cường quản lý, đấu tranh bảo vệ chủ
quyền của nước ta trên biển, đảo.
Mở rộng phạm vi, vai trò và chức năng của các cơ quan lập pháp như
Tòa án, Viện kiểm sát các cấp trong việc tố tụng, xét xử các vụ việc vi phạm
về chủ quyền các vùng biển của Việt Nam.
Việt Nam cần liên kết với các tổ chức quốc tế để thành lập Toà án
quốc tế để giải quyết, xét xử các tranh chấp trên biển. Đồng thời Việt Nam
cũng cần phối hợp với các quốc gia trong khu vực và thế giới trong việc xét
xử các tội phạm quốc tế khi vi phạm chủ quyền vùng biển Của Việt Nam.
Xây dựng những quy định pháp luật cụ thể về hướng dẫn xét xử các
tội phạm có hành vi xâm phạm các cùng đánh bắt hải sản hoặc thực hiện
quyền tài phán hình sự đối với một ngoài nước ngoài trên một con tàu đang
đi qua vô hại trong lãnh hải Việt Nam
2. Trong các hoạt động cụ thể về bảo vệ chủ quyền trên các vùng
biển
* Cần nâng cao năng lực quản lý biển của các cơ quan chức năng, cán
bộ quản lý:
Tăng cường đầu tư kinh phí xây dựng lực lượng vũ trang chuyên
trách, nòng cốt để quản lí, bảo vệ biên giới quốc gia thực sự vững mạnh
9


theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có chất
lượng cao, có quân số và tổ chức hợp lí.
Đào tạo trong và ngoài nước đội ngũ cán bộ nghiên cứu và quản lý
biển nhiều về số lượng, có trình độ chuyên môn cao đáp ứng được nhu cầu
phát triển biển có đủ nghị lực và trí tuệ tham gia giải quyết tranh chấp trên

biển bảo vệ chủ quyền và lợi ích hợp pháp trên trường quốc tế.
* Thành lập dân quân bảo vệ chủ quyền biển, tình hình biển Đông
đang có diễn biến phức tạp, cần phải tăng cường khả năng bảo vệ chủ quyền
và lợi ích của Việt Nam, nhất là lợi ích của ngư dân.
Bảo vệ biên giới quốc gia phải dựa vào dân, trực tiếp là đồng bào các
dân tộc ở biên giới. Xây dựng nền biên phòng toàn dân và thế trận biên
phòng toàn dân vững mạnh để quản lí, bảo vệ biên giới quôc gia đặc biệt là
biên giới quốc gia trên biển. Vận động quần chúng nhân dân ở khu vực biên
giới tham gia tự quản đường biên, mốc quốc giới; bảo vệ an ninh trật tự khu
vực biên giới, biển, đảo của tổ quốc;
Cần thường xuyên cập nhật các thông tin về các vùng biển đảo của
Việt Nam; tiến hành xây dựng kế hoạch tuyên truyền một cách đồng bộ,
thường xuyên, liên tục, đổi mới về Nội dung và hình thức tuyên truyền sao
cho hấp dẫn, hướng về cơ sở, đến tận người dân, nhất là khu dân cư vùng
biển, đảo và ven biển.
* Thực tế hiện nay nước ta có một số tranh chấp về chủ quyền ở vùng
đảo Hoàng sa, Trường sa. Nhưng vụ việc tranh chấp này vẫn chưa được giải
quyết. Xuất phát từ lịch sử, kinh tế, chính trị của nước ta mà nước ta cần có
những chiến lược khôn khéo, tránh giải quyết tranh chấp bằng những xung
đột mà nước ta lên giải quyết tranh chấp bằng con đường hoà bình, và cần
đưa vụ việc tranh chấp ra toà án quốc tế. Đồng thời chúng ta cũng không
ngừng kêu gọi sự đồng tình ủng hộ của Liên hợp quốc và bạn bè quốc tế.
C. KẾT LUẬN
Từ những phân tích trên, nhận thấy rằng công tác bảo vệ chủ quyền
trên các vùng biển của Việt Nam tuy đã đạt được những ưu điểm và thành
tựu bước đầu, tuy nhiên vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề hạn chế và bất hợp lí.
Hy vọng những giải pháp mà nhóm chúng tôi đưa ra sẽ đóng góp tích cực
vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật biển và công tác bảo vệ chủ quyền
trên các vùng biển của Việt Nam


10



×