Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Thực tiễn phân định các vùng biển thuộc chủ quyền giữa việt nam với các nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.46 KB, 13 trang )

A. Đề cập vấn đề
Việt Nam là một nước có đường bờ biển dài hơn 3000km với vô vàn tài
nguyên thiên nhiên biển phong phú. Biển Việt Nam được công nhận là
một trong 10 trung tâm đa dạng sinh học phát triển, 20 vùng biển giàu
hải sản nhất trên thế giới. Đối với giao thông vận tải, vùng biển của Việt
Nam nằm ở vị trí đắc địa đặc biệt quan trọng của tuyến hàng hải nối Ấn
Độ Dương với Thái Bình Dương. Chính vị trị địa lý đặc biệt quan trọng
này cũng là một trong những nguyên nhân mà thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ gây chiến tranh xâm lược Việt Nam. Đặc biệt hơn nữa, cộng đồng
thế giới xác định biển Đông là vùng biển có trữ lượng dầu mỏ dự kiến
không thua kém trữ lượng của các mỏ dầu ở các nước Ả rập. Với thuận
lợi mà tự nhiên ban tặng, Đảng và nhà nước ta luôn nhận thức được tầm
quan trọng của việc bảo vệ chủ quyền biển đảo là cơ sở quan trọng để
phát triển kinh tế. Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 của Đảng và
Nhà nước đề ra quyết tâm đưa Việt Nam trở thành một quốc gia “giàu
lên từ biển, mạnh lên từ biển”. Trong lễ khai mạc Festival Biển và hải
đảo Việt Nam 2010, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã nhấn mạnh
việc thế kỷ XXI được coi là “thế kỷ của đại dương”, các quốc gia có
biển đều rất quan tâm đến biển và coi trọng việc xây dựng chiến lược
biển. Trên thế giới, các vụ tranh chấp về chủ quyền biển, đảo diễn ra
nhiều hơn như tranh chấp biển Đông, tranh chấp vùng biển giữa Nhật
Bản và Trung Quốc, giữa Nhật Bản và Nga… cho thấy các nước có biển
đều rất quan tâm tới việc phát triển hướng ra biển. Từ những tình hình


thực tiễn trên, việc phân định các vùng biển thuộc chủ quyền giữa Việt
Nam với các nước được đặt ra là nhiệm vụ quan trọng nhằm tạo dựng cơ
chế pháp lý mang tính quốc tế hóa để bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt
Nam.
B. Nội dung
I. Các vùng biển của Việt Nam cần phân định chủ quyền với các


nước.
Theo điều 122 Công ước của Liên hợp quốc về luật biển thì “Trong
Công ước, “biển kín hay nửa kín” là một vịnh, một vũng hay một vùng
biển do nhiều quốc gia bao bọc xung quanh và thông với một biển khác
hay với đại dương qua một cửa hẹp, hoặc là hoàn toàn do chủ yếu hay
các lãnh hải và các vùng đặc quyền về kinh tế của nhiều quốc gia tạo
thành.”. Biển kín hay nửa kín chính là các vùng biển mà các quốc gia
bao bọc xung quanh nó muốn phân định chủ quyền. Đối với Việt Nam,
việc phân định chủ quyền biển được đặt ra đối với các vùng biển:
- Vịnh bắc bộ: Vịnh bắc bộ là vùng biển nửa kín, diện tích khoảng
126.250 km², là nhánh tây bắc của Biển Đông và là một phần của Thái
Bình Dương. Vịnh có hai cửa biển: eo biển Quỳnh Châu rộng 35,2 km
giữa bán đảo Lôi Châu và Đảo Hải Nam thuộc Trung Quốc và cửa chính
của vịnh được xác định là đường thẳng từ đảo Cồn Cỏ, tỉnh Quảng Bình,
Việt Nam và mũi Oanh Ca, Hải Nam, Trung Quốc, rộng 110 hải lý
(khoảng 200 km). Trong phạm vị đó, Việt Nam có 763 km bờ vịnh,
Trung Quốc có 695 km.


- Biển đông: Biển Đông là một biển nửa kín, có diện tích khoảng 3,5
triệu km vuông, trải rộng từ vĩ độ 3o lên đến vĩ độ 26o Bắc và từ kinh độ
100o đến 121o Đông. Ngoài Việt Nam, Biển Đông được bao bọc bởi
tám nước khác là Trung Quốc, Philippin, Indonesia, Bruney, Malaysia,
Singapore, Thái Lan và Campuchia.
- Vịnh Thái Lan: là một vịnh nằm ở biển Đông (biển Nam Việt Nam,
thuộc Thái Bình Dương), được bao bọc bởi các quốc gia như Malaysia,
Thái Lan, Campuchia và Việt Nam. Đỉnh phía bắc của vịnh này là vùng
lõm Băng Cốc ở cửa sông Chao Phraya, gần Băng Cốc. Vịnh này có
diện tích khoảng 320.000 km². Ranh giới của vịnh này được xác định
theo đường nối từ mũi Cà Mau ở miền nam Việt Nam tới thành phố

Kota Baru trên bờ biển Malaysia.
II. Thực tiễn phân định các vùng biển thuộc chủ quyền giữa Việt
Nam với các nước.
1. Thực tiễn phân định vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc:
Sau quá trình đàm phán kéo dài 27 năm từ năm 1974, Hiệp định về phân
định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong vịnh Bắc Bộ
đã được CHDCND Trung Hoa và CHXHCN Việt Nam ký kết. Với yêu
cầu đề bài là thực tiễn phân định các vùng biển thuộc chủ quyền giữa
Việt Nam với các nước nên bài viết này chỉ tiếp cận Hiệp định vịnh Bắc
Bộ dưới góc độ hiệp định phân định lãnh hải.
Kết quả của quá trình đàm phán ký kết hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ:
Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa


giữa hai nước bao gồm 11 điều khoản với nội dung có liên quan đến việc
phân định chủ quyền như sau:
- Hiệp định xác định Vịnh Bắc bộ là vịnh nửa kín được bao bọc ở phía
Bắc là bờ biển lãnh thổ đất liên của hai nước Việt Nam và Trung Quốc,
phía Đông là bờ biển bán đảo Lôi Châu và đảo Hải Nam – Trung Quốc,
phía Tây là bờ đất liền Việt Nam và giới hạn phía Nam là đoạn đường
thẳng nối liền từ điểm nhô ra nhất của mép ngoài cùng của mũi Oanh Ca
– Hải Nam qua đảo Cồn Cỏ đến một điểm trên bờ của Viêt Nam. (Qua
con đường đàm phán ngoại giao, Trung Quốc đã phải đồng ý với Việt
Nam sử dụng đảo Cồn Cỏ là điểm để xác định đường đóng cửa vịnh).
- Đường đóng cửa sông Bắc Luân là đường nối 2 điểm nhô ra nhất của
cửa sông tự nhiên trên bờ sông hai nước, tại ngấn nước thủy triều thấp
nhất.
- Xác định đường biên giới lãnh hải và ranh giới đơn nhất cho cả vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa hai nước trong vịnh Bắc Bộ.
Đường biên giới lãnh hải và ranh giới đơn nhất cho cả vùng đặc quyền

kinh tế và thềm lục địa giữa hai nước trong vịnh Bắc bộ được xã định
bằng 21 điểm có tọa độ địa lý xác định, nối tuần tự với nhau bằng các
đoạn thẳng (bản đồ 1).
- Đường phân định từ điểm số 1 đến điểm số 9 quy định tại Điều II của
Hiệp định là biên giới lãnh hải của 2 nước trong vịnh. Mặt thẳng đứng đi
theo đường biên giới lãnh hải của hai nước phân định vùng trời, đáy biển
và lòng đất dưới đáy biển của lãnh hải hai nước.


- Đường biên giới này đi cách đảo Bạch Long Vĩ điểm gần nhất về phía
Đông là 15 hải lý, dành cho đảo khoảng 25% hiệu lực. Bãi Bạch Tô
Nham (Trung Quốc) và đảo Chàng Đông, Chàng Tây (Việt Nam) có
hiệu lực nhất định trong phân định lãnh hải. Theo đường phân định, Việt
Nam hưởng 53.23% diện tích Vịnh, Trung Quốc hưởng 46.77% diện
tích.
2. Thực tiễn phân định Biển Đông giữa Việt Nam với các nước trong
khu vực:
Hiện nay, có 7 nước, vùng lãnh thổ trực tiếp tranh chấp chủ quyền tại
Biển Đông bao gồm: Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan, Philipine,
Malaysia, Bruney và Singapore. Trong đó Việt Nam cần phân định biên
giới biển với Trung Quốc, Philippine, Malaysia và Đài Loan (hiện nay
Việt Nam không thừa nhận Đài Loan là một quốc gia độc lập, chỉ coi
Đài Loan là một bộ phận của Trung Quốc). Trung Quốc thể hiện khát
khao thôn tính Biển Đông mạnh mẽ nhất, thể hiện ở việc bố “đường lưỡi
bò” gây bất bình dư luận khu vực cũng như đẩy mạnh phát triển vũ
trang, phát triển hải quân và thường xuyên tổ chức tập trận tại Biển
Đông.
Hiện tại, các nước tham gia tranh chấp chủ quyền đã ký kết “Tuyên bố
về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông” DOC năm 2002 được xem
như là văn kiện có tính pháp lý làm dịu bớt căng thẳng ở Biển Đông.

Hiện nay, các nước tranh chấp đang xúc tiến lập “Bộ nguyên tắc ứng xử
Biển Đông” COC nhằm tăng cường hơn nữa tính pháp lý ràng buộc với


các bên tranh chấp ở Biển Đông.
Các bên tranh chấp tại Biển Đông đưa ra các yêu sách:
- Yêu sách của Trung Quốc:
+ Trung Quốc vẫn kiên trì tuyên bố quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
thuộc lãnh thổ của Trung Quốc từ thời xa xưa, yêu sách này dựa trên
nhiều tài liệu được ghi chép từ thế kỷ thứ hai sau công nguyên.
+ Ngày 15/8/1951, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai tuyên bố: "Các
quần đảo Tây Sa và Nam sa cũng như các quần đảo Đông Sa và quần
đảo Trung Sa từ xưa đến nay là lãnh thổ Trung Quốc."
+ Ngày 4/9/1958, Trung Quốc đưa ra một tuyên bố mở rộng giới hạn
lãnh hải ra tới 12 hải lý theo phương pháp đường cơ sở thẳng và tuyên
bố rằng tuyên bố này sẽ được áp dụng cho tất cả các đảo thuộc chủ
quyền của Trung Quốc.
+ Tháng Giêng năm 1974, lợi dụng tình hình Mỹ phải rút khỏi Đông
Dương, Trung Quốc dùng một lực lượng hải quân, không quân quan
trọng đánh chiếm nhóm phía Tây quần đảo Hoàng Sa khi đó do quân đội
của Chính quyền Sài Gòn bảo vệ.
+ Năm 1988 Trung Quốc lại huy động lực lượng không quân, hải quân
tấn công chiếm 6 điểm trên quần đảo Trường Sa, từ đó ra sức củng cố
các điểm này làm bàn đạp cho những bước tiến mới.
- Yêu sách của Đài Loan: Yêu sách của Đài loan về quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa được khẳng định trên cơ sở lịch sử giống như Trung Quốc
đã khẳng định. Đài Loan còn đưa ra thêm một yêu sách nữa là quyền


chiếm hữu được thực hiện theo luật pháp quốc tế trên cơ sở những sự

kiện xảy ra trong những ngày đầu sau Chiến tranh thế giới thế giới thứ
hai.
- Yêu sách của Việt Nam: Từ lâu, quần đảo Hoàng Sa và quần đảo
Trường Sa là lãnh thổ của Việt Nam. Qua các triều đại, Nhà nước phong
kiến Việt Nam trước kia là người đầu tiên trong lịch sử đã chiếm hữu,
thực hiện chủ quyền, khai thác với tư cách Nhà nước hai quần đảo này
trước đó chưa hề nằm trong địa lý hành chính của một nước nào. Việc
chiếm hữu này là thật sự, phù hợp luật pháp và tập quán quốc tế. Các
chính quyền kế tiếp theo đã tổ chức các quần đảo đó thành những đơn vị
hành chính thuộc các tỉnh lục địa của Việt Nam.
- Yêu sách của Malaysia: Hiệp định ký kết với Indonesia ngày
27/10/1969 về việc xác định ba đoạn biên giới khác nhau đã đưa các yêu
sách của Malaysia ở quần đảo Trường Sa thành tiêu điểm chú ý. Những
đoạn này có khả năng đem lại cho Malaysia các quyền đối với một khu
vực quan trọng ở Biển Đông, chỉ trừ khi Malaysia hoặc kiểm soát được
một cách chắc chắn các đảo nằm kế cận trong quần đảo Trường Sa hoặc
các đảo này không được để ý đến khi vạch các đường biên giới này.
Trong năm 1979, Malaysia đơn phương mở rộng đường biên giới của họ
từ điểm 109o33’ Đông và 6o18’ Bắc theo đường nằm vắt ngang hướng
trên Đông – Đông Bắc. Với việc đơn phương vạch đường biên giới này,
các đảo An Bang và bãi ngầm Jeams ở phía ngoài bờ biển Sarawak đã
lọt vào phía trong đường biên giới của Malaysia.


- Yêu sách của Philipine: Trong tháng 2/1979, Philippine đã chính thức
đưa ra yêu sách đối với các đảo trong quần đảo Trường Sa mà họ gọi là
nhóm đảo Kalayaan. Năm 1971, Philippine đã bắt đầu bộc lộ việc chiếm
đóng một cách hình thức ở nhóm đảo Kalayaan. Hành động này được
tiến hành theo cách đặt vấn đề cho rằng nhóm đảo này là res nullius (vô
chủ) và không thuộc quyền sở hữu của bất cứ quốc gia nào khác.

Hiện tại, các quốc gia vẫn kiên trì theo đuổi yêu sách của mình. Tuy
nhiên, các quốc gia tranh chấp cũng thống nhất xử lý vấn đề theo hướng
hòa bình, không sử dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp. Thực tế, các
nhà chính trị quân sự trên thế giới nhiều lần dự báo, nếu xảy ra chiến
tranh ở Biển Đông sẽ là nguy cơ dẫn đến cuộc chiến tranh thế giới thứ
III. Vì vậy, đảm bảo không khí hòa bình, ổn định ở Biển Đông là nhiệm
vụ quan trọng mà các nước tranh chấp cần đạt được.
3. Thực tiễn phân định vùng biển giữa Việt Nam và Campuchia trong
vịnh Thái Lan
Hiện nay, quan điểm của cả hai bên về việc phân định biên giới biển
Việt Nam - Campuchia còn khác xa nhau. Trên thực tế, Việt Nam đề
nghị căn cứ luật pháp quốc tế, thực tiễn quốc tế về phân định biển và
hoàn cảnh cụ thể của vùng biển để phân định công bằng. Đó là việc áp
dụng đường trung tuyến. Tuy nhiên phía Campuchia qua các thời kỳ và
đặc biệt là quan điểm của nước bạn trong giai đoạn gần đây thì
Campuchia vẫn kiên trì đề nghị lấy đường Brévié năm 1939 làm đường
biên giới trên biển giữa hai nước. Lý do mà Việt Nam không chấp nhận


đường Brévié làm đường biên giới trên biển giữa hai nước là vì cơ sở
pháp lý của đường này không được quốc tế thừa nhận cũng như không
đem lại sự công bằng cho cả hai bên. Bằng bức thư số 867-API ngày
31/1/1939, Toàn quyền Đông Dương là Brévié đã thông báo cho Thống
đốc Nam Kỳ về quyết định của ông vạch đường gọi là đường Brévié để
phân chia các quyền hạn hành chính và cảnh sát trên các đảo giữa Nam
Kỳ và Campuchia. Như vậy, đường Brévié mới giải quyết các quyền
hành chính cảnh sát còn vấn đề các đảo quy thuộc vào lãnh thổ nào hoàn
toàn được bảo lưu. Đường Brévié không có chức năng phân chia lãnh
hải giữa hai nước, vì lãnh hải là một bộ phận lãnh thổ của nước ven biển.
Yêu sách dùng đường Brévié làm đường biên giới trên biển là không có

cơ sở về lịch sử, pháp lý và thực tiễn, là cách làm đi ngược lại với
nguyên tắc công bằng trong phân định biển đã được pháp luật quốc tế và
thực tiễn quốc tế thừa nhận.
Tháng 7/1982, Hiệp định về Vùng nước lịch sử của Việt Nam và
Campuchia được ký kết theo đó hai bên thỏa thuận giải quyết đường
biên giới trên biển: “Hai bên sẽ thương lượng vào thời gian thích hợp
trên tinh thần bình đẳng, hữu nghị, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ…” Đáng chú ý là quy định tại Điều 3 của Hiệp định này:
“Hai bên vẫn lấy đường gọi là đường Brévié được vạch ra năm 1939 làm
đường phân chia đảo trong khu vực này.”
Tháng 6/1998, tại cuộc họp vòng 2 cấp chuyên viên, phía Campuchia
vẫn đề nghị lấy đường Brévié làm đường biên giới biển nhưng Việt Nam


không chấp nhận nên Campuchia đề nghị Việt Nam vạch đường trung
tuyến trong vùng nước lịch sử để họ nghiên cứu và xem xét. Tiếp đến,
tại cuộc họp vòng 1 của Ủy ban liên hợp (tháng 3/1999), Việt Nam đã
đưa ra sơ đồ đường trung tuyến trong vùng nước lịch sử để hai bên lấy
đường này làm cơ sở đàm phán, điều chỉnh làm đường phân định biển
giữa hai nước. Tuy vậy, đến vòng 2 của cuộc họp Ủy ban liên hợp
(tháng 8/1999), về phía Campuchia vẫn chưa có câu trả lời về đường
trung tuyến mà ta đã vạch ra ở vòng 1. Việt Nam vẫn kiên trì giải thích
rõ hơn về tính hợp lý của việc sử dụng đường trung tuyến trong phân
định, coi đây là đường khởi đầu khách quan nhất để hai bên cùng bàn
bạc điều chỉnh hợp lý, hy vọng đi tới một con đường phân định công
bằng cho hai bên. Tuy nhiên từ đó tới nay, phía Campuchia vẫn chưa có
một hành động đáng kể nào để đi tới kết quả phân định biên giới biển
giữa hai nước.
C. Kết thúc vấn đề
Chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là vấn đề thiêng liêng đối với mỗi đân

tộc. Trong đó lãnh thổ và biên giới quốc gia lại là hai yếu tố gắn bó với
nhau như hình với bóng do đó pháp luật quốc tế hiện đại và tập quán
quốc tế đều thừa nhận tính bất khả xâm phạm của lãnh thổ quốc gia và
biên giới quốc gia. Với vị trí địa lý chính trị đặc biệt quan trọng, thường
xuyên bị các kẻ thù nhòm ngó, Việt Nam nhận thấy vấn đề bảo vệ chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ là vấn đề vô cùng quan trọng, là nhiệm vụ
chính trị của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân. Đặc biệt đối với việc


phân định chủ quyền các vùng biển giữa Việt Nam với các nước trong
khu vực.

PHỤ LỤC:
1. Bản đồ phân định biên giới biển Việt Nam – Trung Quốc trong Hiệp
định giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước CHND Trung Hoa về phân
định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của hai nước trong
vịnh Bắc Bộ.
2. Về đường Brévié:
Đường Brévié xuất hiện trong bức thư của Toàn quyền Đông Dương gửi
Thống Đốc Nam Kỳ ngày 31/1/1939 vạch một đường kinh tuyết Bắc
một góc 14oG, đường đó vòng qua Bắc đảo Phú Quốc, cách điểm nhô ra
nhất của bờ phía Bắc 3km (trong thư không nói rõ chấm dứt ở đâu).
Hiện nay có 4 cách thể hiện khác nhau về đường Brévié:
- Trong luận án tiến sỹ của Sarin Chhak, Bộ trưởng Ngoại giao
Campuchia thời Sihanouk, đường Brévié được thể hiện không phải là
một đường liên tục mà là một đường đứt đoạn với 4 đoạn cách nhau khá
xa.
- Bộ Tư lệnh Hải quân Sài Gòn (VNCH) khi công bố đường ranh giới



tuần tiễu trên biển đã thể hiện đường Brévié chấm dứt ngay ở Đông Bắc
Phú Quốc. - Tiến sĩ Mark J. Valencia thuộc trung tâm Đông - Tây của
Hoa Kỳ trong một cuốn sách xuất bản năm 1985 đã thể hiện đường
Brévié theo các đoạn thẳng, cách các điểm nhô ra nhất của đảo Phú
Quốc 3km. Đây cũng là cách mà Nicholas Prescott, giáo sư người
Australia thể hiện trong một cuốn sách xuất bản năm 1981.
- Cách thứ tư là cách vẽ của chính quyền Pol Pot khi công bố bản đồ
nước Campuchia tháng 8/1977. Đây là cách thể hiện xa rời câu chữ của
bức thư Brévié nhất: trong thư viết đường Brévié vòng qua Bắc đảo Phú
Quốc, cách điểm nhô ra nhất của bờ Bắc đảo Phú Quốc 3km thì sơ đồ
này đã thể hiện đường Brévié vòng từ phía Bắc đảo rồi trở lại về phía
Đông Nam đảo theo một đường liên tục, điểm nào cũng cách bờ biển
Phú Quốc 3km.

(Đường Brévié theo cách thể hiện của Chính phủ Campuchia)
3. Bản đồ khu vực tranh chấp giữa Việt Nam với các nước ở biển Đông:
Việt Nam – vạch vàng; Trung Quốc – vạch đứt xanh; Malaysia – vạch
nâu; Philippine – vạch đứt tím.


Danh mục tài liệu tham khảo:
1. Giáo trình Luật Quốc tế - ĐH Luật Hà Nội.
2. Công ước Luật biển 1982.
3. www.biengioilanhtho.gov.vn
4. Báo Đảng cộng sản Việt Nam
5. “Quan hệ Việt Nam – Campuchia và vấn đề phân định biên giới biển
trong vịnh Thái Lan” – tác giả Nguyễn Minh Ngọc, Quỹ nghiên cứu
Biển Đông.
6. “Những vấn đề chủ quyền lãnh thổ giữa Việt Nam và các nước láng
giềng” – tác giả Lê Minh Nghĩa, Cố trưởng ban Biên giới của Chính

phủ.



×