Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Chiến lược phát triển kinh doanh của Ngân hàng Công thương Hoàng Mai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 100 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lí của Nhà nước, các
ngân hàng thương mại cũng như các doanh nghiệp phải hoàn toàn tự chủ
trong hoạt động kinh doanh, tự quyết định và tự chịu trách nhiệm về kết
quả hoạt động kinh doanh của mình. Mặt khác, mỗi ngân hàng là một
phân hệ kinh tế mở trong nền kinh tế quốc dân và từng bước hội nhập với
nền kinh tế khu vực và thế giới, điều đó đòi hỏi các ngân hàng không chỉ
chú trọng đến thực trạng và xu thế biến động của môi trường kinh doanh
trong nước mà còn phải tính đến cả các tác động tích cực cũng như tiêu
cực của môi trường kinh doanh khu vực và quốc tế. Môi trường kinh
doanh ngày càng rộng, tính chất cạnh tranh và biến động của môi trường
ngày càng mạnh mẽ, việc hoạch định hướng đi trong tương lai càng có ý
nghĩa cực kì quan trọng đối với sự phạt triển của ngân hàng. Chiến lược
kinh doanh và phát triển ngân hàng là công cụ định hướng và điều khiển
các hoạt động của ngân hàng theo các mục tiêu phù hợp với hoàn cảnh
môi trường và do đó, nó đóng vai trò quyết định sự thành, bại của mỗi
ngân hàng.
Đối với Việt Nam, thực hiện đường lối đổi mới và chủ trương phát
triển nền kinh tế mở theo hướng hội nhập nền kinh tế quốc tế; hệ thống
ngân hàng thương mại cũng phát triển mạnh cả về số lượng ngân hàng và
qui mô kinh doanh. Hoạt động kinh doanh của NHTM trong thời gian qua
đã góp phần hỗ trợ khối lượng vốn đáng kể cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của nền kinh tế. Ngân hàng Công thương Hoàng Mai là một NHTM
trong hệ thống Ngân hàng Công thương Việt Nam, tuy mới thành lập song
đã có nhiều đóng góp vào sự nghiệp đổi mới kinh tế đất nước nói chung,
kinh tế trên đại bàn nói riêng. Đến nay tổng số dư nợ đến cuối năm 2007



2
là 310 tỷ đồng, tăng nhiều lần so với năm 2006. Tuy nhiên, so với yêu cầu
phát triển của nền kinh tế, trực tiếp là kinh tế trên địa bàn thì còn nhiều
vấn đề phải nghiên cứu trao đổi, như cơ chế chính sách của Nhà nước, các
qui trình, thủ tục vay vốn, lãi suất cho vay,... và đặc biệt là các hoạt động
đầu tư vốn chưa trở thành các chiến lược kinh doanh của các NHTM,
trong đó có Ngân hàng Công thương Hoàng Mai.
Từ lý do trên, tác giả chọn đề tài “Chiến lược phát triển kinh doanh
của Ngân hàng Công thương Hoàng Mai” làm mục tiêu nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hoá những lý luận cơ bản về kinh doanh của NHTM và
vai trò chiến lược kinh doanh đối với NHTM.
- Phân tích đánh giá thực trạng chiến lược kinh doanh của NHCT
Hoàng Mai.
- Đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm thực hiện chiến lược kinh
doanh của NHCT Hoàng Mai trong quá trình phát triển bền vững.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tương nghiên cứu: Những vấn đề lý luận cơ bản về kinh doanh và
chiến lược kinh doanh của NHCT Hoàng Mai.
- Phạm vi nghiên cứu: Thực trạng chiến lược kinh doanh của NHCT Hoàng
Mai. Luận văn chủ yếu nghiên cứu những nội dung của chiến ưlựoc kinh
doanh chủ yếu.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu phổ thông trong lĩnh
vực kinh tế xã hội để nghiên cứu đề tài nói trên: phương pháp duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử kết hợp với các phương pháp phân tích, thống kê, điều
tra phân tổ, trừu tượng hoá khoa học.


3

5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về chiến lược kinh doanh của Ngân hàng
Thương mại
Chương 2: Thực trạng chiến lược phát triển kinh doanh của Ngân hàng Công
thương Hoàng Mai
Chương 3: Giải pháp phát triển chiến lược kinh doanh của Ngân hàng Công
thương Hoàng Mai


4
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHIẾN LƯỢC KINH DOANH
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1. TỔNG QUAN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại
Từ khi có NHTM đến nay, tuỳ từng nước, từng thời gian mà có rất
nhiều các khái niệm khác nhau về NHTM. Nhưng đến nay, trên một góc độ
chung nhất có thể được nêu theo những quan niệm: Ngân hàng thương mại là
trung gian tài chính có giấy phép kinh doanh của Chính phủ để cho vay tiền
và mở các tài khoản tiền gửi, kể các loại tiền gửi mà dựa vào đó có thể dùng các
tờ séc [15].
NHTM so với các trung gian tài chính khác là chuyên về nhận tiền gửi,
cho vay và cung cấp các dịch vụ thanh toán. Các NHTM đều phải hoạt động
trong phạm vi luật pháp cho phép và đều phải dựa trên cơ sở là sự phát triển
của hoạt động sản xuất và thương mại nói chung của nền kinh tế [18].
Luật các Tổ chức Tín dụng và Công ty Tài chính của Việt Nam, ban

hành năm 1998 đã định nghĩa:
"Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp được thành lập theo quy định
của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội
dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ
thanh toán” [15].
1.1.2. Những hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
* Huy động vốn.
Huy động vốn của ngân hàng thương mại luôn là một trong những nội
dung quan trọng trong kinh doanh. Nguồn vốn của các ngân hàng thu hút được
theo 3 nguồn chủ yếu: Thu hút tiền gửi, vay trên thị trường và vốn chủ sở hữu.


5
- Huy động tiền gửi: Các ngân hàng huy động tiền gửi dưới các hình thức
cơ bản như nhận tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn hoặc tiền gửi tiết kiệm.
Tiền gửi không kỳ hạn là loại nguồn vốn hình thành khi khách hàng gửi
tiền vào ngân hàng vì các nhu cầu giao dịch, ngân hàng mở cho khách hàng
một tài khoản ghi rõ số tiền mà họ gửi và khách hàng có quyền phát hành séc
để chi trả cho bên thứ ba hoặc rút tiền mặt ở bất kỳ thời điểm nào. Người gửi
không được trả lãi hoặc nếu có thì lãi suất thường rất thấp. Người sở hữu chủ
yếu đối với các khoản tiền gửi không kỳ hạn thường là các doanh nghiệp
nhằm phục vụ nhu cầu về chi trả thường xuyên và thuộc về vốn lưu động của
doanh nghiệp. Phần nhỏ hơn thuộc sở hữu của các cá nhân và các hộ gia đình.
Ngoài chi phí trả lãi (nếu có) khi huy động tiền gửi không kỳ hạn ngân hàng
còn phải bỏ ra các chi phí như chi phí nhân sự và thiết bị, chi phí do phải duy
trì dự trữ bắt buộc, chi phí do phải cung cấp những dịch vụ miễn phí.
Tiền gửi tiết kiệm là loại nguồn vốn hình thành khi khách hàng gửi
tiền vào ngân hàng với mục đích tiết kiệm, gồm: tiền gửi tiết kiệm trên sổ
tiết kiệm, tài khoản có sao kê tình hình tiền gửi tiết kiệm và chứng chỉ tiết
kiệm. Tiền gửi tiết kiệm thường không có mức giới hạn về số tiền, có hoặc

không có thời hạn đáo hạn cố định. Chủ nhân của các khoản gửi tiết kiệm
thông thường là các cá nhân và hộ gia đình. Họ được hưởng lãi và có quyền
rút tiền khi đến hạn nếu là tiền tiết kiệm có thời hạn, nhưng ngay cả tiền
tiết kiệm không kỳ hạn thì ngân hàng vẫn có thể hoãn thanh toán trong một
khoảng thời gian tương đối ngắn. Đối với ngân hàng, tiền tiết kiệm là
nguồn vốn khá ổn định, cho phép ngân hàng chủ động trong việc đầu tư
chúng vào các kế hoạch sinh lời. Tuy nhiên ngoài những khoản phí tương
tự như tiền gửi không kỳ hạn, chi phí thu hút nguồn vốn này đối với ngân
hàng lại đắt hơn do phải trả lãi và do đa phần những món tiết kiệm thường
nhỏ, phân tán.


6
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là nguồn vốn có đặc điểm là người gửi
được ngân hàng trao cho giấy chứng nhận gửi tiền có thời hạn đáo hạn ấn
định trước. Ngân hàng phải trả lãi cho họ tuỳ theo số tiền và thời hạn gửi.
Người gửi chủ yếu là các doanh nhân, các tổ chức và họ cũng được hưởng lãi
suất, nhưng lãi suất có thể được ấn định cố định hoặc linh hoạt. Những món
tiền gửi có kỳ hạn kiểu này thường có giá trị trung bình lớn hơn so với giá trị
trung bình của những món tiền gửi tiết kiệm. Một số chứng chỉ có khả năng
chuyển nhượng trên thị trường, đa số phần còn lại thường không có khả năng
chuyển nhượng hoặc chỉ có khả năng chuyển nhượng hạn chế. Đối với các
ngân hàng, nguồn tiền gửi có kỳ hạn là nguồn vốn nhìn chung đắt hơn với các
khoản tiền gửi và tiết kiệm không kỳ hạn nhưng lại cho phép ngân hàng mở
rộng thời hạn cho vay hay đầu tư.
- Vay trên các thị trường: Ngoài nguồn tiền gửi, các ngân hàng còn chủ
động vay vốn trên thị trường. Những hình thức chủ yếu là vay từ NHTW, vay
từ số dư tài khoản dự trữ của ngân hàng khác tại NHTW, vay vốn qua phát
hành các hợp đồng mua lại, phát hành trái phiếu ngân hàng...
Các ngân hàng có thể vay vốn ngắn hạn từ NHTW để bù đắp thiếu hụt

trong thanh toán bù trừ, khi cần đáp ứng nhu cầu chi trả thường xuyên do tiền
gửi bị tạm thời rút ra hay khi cần đáp ứng các nhu cầu tạm thời khác. Một
hình thức khác là ngân hàng vay vì các nhu cầu thời vụ chẳng hạn như
những ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn hay
trong những lĩnh vực tiêu dùng cá nhân có diễn biến nhu cầu vốn mang tính
thời vụ. Khoản đặc trưng khác là các ngân hàng vay NHTW khi gặp khó khăn
nghiêm trọng về khả năng thanh toán. ở đây NHTW đóng vai trò là “người
cho vay cuối cùng”. Nhìn chung, hai loại đầu là những hình thức tài sản nợ
khá phổ biến của các ngân hàng. Tuy vậy đây là một nguồn vốn có chi phí
khá cao, ngân hàng thường thiếu chủ động, điều kiện vay thường ngặt nghèo,
luôn đòi hỏi có sự đảm bảo khá đầy đủ, thời hạn cho vay thường ngắn, nhất là


7
trong các thời kỳ NHTW thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt. Đặc biệt, chi
phí đối với các khoản vay loại thứ ba thường lớn và điều kiện cho vay hoàn
toàn lệ thuộc vào NHTW.
Các ngân hàng cũng có thể vay tạm thời số dư nhàn rỗi trên tài khoản
dự trữ bắt buộc của các ngân hàng khác được duy trì tại NHTW hoặc vay vốn
trực tiếp từ các ngân hàng khác. Những ngân hàng vay là những ngân hàng có
tài khoản dự trữ bị thiếu hụt hoặc để hỗ trợ ngân quỹ do các nhu cầu tạm thời.
Ngân hàng có thể vay hàng ngày hoặc ngắn hạn, lãi suất tương tự lãi suất
chiết khấu ngắn hạn tại NHTW.
Phát hành các hợp đồng mua lại là nghiệp vụ trong đó các ngân hàng
tạm thời vay những khoản tiền nhàn rỗi của các tổ chức tài chính hoặc các
doanh nghiệp lớn... bằng cách bán tạm thời các tài sản tài chính (như tín
phiếu, trái phiếu Chính phủ, chứng chỉ tiền gửi...) mà họ đang sở hữu và ký
kết hợp đồng cam kết sẽ mua lại chúng với một giá cả ấn định trước và ít
nhiều cao hơn giá bán. Hợp đồng mua lại được sử dụng khi ngân hàng cần
vốn để tài trợ cho các hoạt động hàng ngày hoặc ngắn hạn của họ, còn hợp

đồng bán lại là hình thức sử dụng vốn tiền tệ nhàn rỗi tạm thời nhằm thu lời.
Khoản chênh lệch giá ấn định trước chính là lãi suất của hợp đồng mua lại.
Phát hành trái phiếu ngân hàng là một cách thức huy động vốn thông
dụng khác của các ngân hàng. Trong nghiệp vụ này các ngân hàng phát hành
trái phiếu để huy động vốn trên các thị trường chứng khoán. Các trái phiếu
này được gọi là trái phiếu ngân hàng. Nhìn chung nguồn vốn này có nhiều
điểm giống với nguồn vốn hình thành từ việc phát hành chứng chỉ tiền gửi.
Tuy nhiên thời hạn đáo hạn của chúng thường là trung, dài hạn. Mặt khác trái
phiếu là công cụ của thị trường vốn còn các chứng chỉ tiền gửi lại là công cụ
của thị trường tiền tệ. Lãi suất của trái phiếu cũng thường cao hơn lãi suất của
các chứng chỉ tiền gửi. Một số loại trong đó có thể có cả đặc tính được phép
chuyển đổi được thành cổ phiếu.


8
- Huy động vốn từ chủ sở hữu: Trên phương diện tạo nguồn thì việc
phát hành các hợp đồng để thu hút vốn từ chủ sở hữu cũng là một cách thông
thường trong kinh doanh. Điểm đặc trưng ở đây là chủ sở hữu của những hợp
đồng này sẽ đóng vai trò chủ sở hữu ngân hàng. Ngân hàng được phép sử
dụng tối đa vào việc bù đắp các khoản lỗ phát sinh trong quá trình hoạt động.
Ngân hàng chỉ phải thanh toán cho hợp đồng sau khi đã hoàn trả đủ cho người
gửi tiền và các chủ nợ khác trong trường hợp ngân hàng bị thanh lý phá sản.
Đối với ngân hàng đây là loại nguồn vốn tồn tại thường xuyên, ổn định nhất
song cũng là loại nguồn vốn có chi phí đắt nhất nên quy mô của chúng
thường rất nhỏ so với các loại nguồn vốn kể trên. Mặc dù vậy, vì sự tồn tại
của loại nguồn vốn này là điều kiện duy trì hoạt động của ngân hàng nên
các ngân hàng không những phải luôn duy trì, bảo toàn mà còn thường
xuyên bổ sung, trước hết bằng con đường trích lập quỹ dự trữ vốn từ lợi
nhuận hàng năm [9], [12], [16] [19].
* Sử dụng vốn:

Với tư cách là những trung gian tài chính, phần lớn thu nhập của các
ngân hàng có được là từ các hoạt động sử dụng vốn dưới các hình thức cho
vay và đầu tư chứng khoán. Song các rủi ro cơ bản mà các ngân hàng đối mặt
cũng xuất phát chính từ những hoạt động này. Vì vậy với quan điểm thận
trọng, thông thường các ngân hàng sẽ phân bổ quỹ vốn theo cơ cấu ưu tiên
với trật tự như sau:
Một, ngân hàng phải sử dụng một phần quỹ tài sản tiền gửi nhằm đáp
ứng được các quy định pháp lý về dự trữ. Mặt khác ngân hàng sử dụng quỹ
nhằm đảm bảo dự phòng cho các nhu cầu thanh khoản, chẳng hạn dưới hình
thức mua các công cụ ngắn hạn, các chứng khoán có tính thanh khoản cao và
rủi ro thấp.
Hai, ngân hàng đáp ứng nhu cầu vay vốn trên khu vực thị trường mà họ
phục vụ bằng cách thiết lập những khoản cho vay và cho thuê sao cho phù


9
hợp với nhu cầu và khả năng của khách hàng. Hoạt động cho vay và cho thuê
tài chính đối với các doanh nghiệp, cá nhân và hộ gia đình là cách sử dụng
vốn thông dụng nhất và luôn chiếm vai trò trọng yếu. Lãi suất cho vay, cho
thuê chính là nguồn thu nhập của ngân hàng. Phần lớn thu nhập của các ngân
hàng có được là từ mảng hoạt động này, nhất là các ngân hàng hoạt động
trong các thị trường tài chính có trình độ phát triển thấp. Tuy nhiên, đây cũng
là mảng hoạt động làm phát sinh rủi ro nhiều nhất, ngân hàng phải tập trung
nhiều nỗ lực nhất và do vậy cũng làm phát sinh nhiều chi phí.
Ba, ngân hàng sẽ đầu tư vào danh mục đầu tư chứng khoán sau khi đã
đáp ứng được các nhu cầu nói trên đối với mọi nguồn quỹ vốn còn lại bằng
cách tiến hành các hoạt động mua và nắm giữ các chứng khoán do Chính phủ
phát hành hoặc do các doanh nghiệp phát hành. Thực chất của hoạt động này
là Ngân hàng đã thực hiện hoạt động tài trợ cho Chính phủ hoặc tài trợ cho
doanh nghiệp. Những quan hệ tài chính phát sinh trong trường hợp này về bản

chất cũng không khác nhiều với hoạt động cho vay của ngân hàng. Nhìn
chung mảng hoạt động này có vai trò khá hạn chế so với hoạt động cho vay và
cho thuê của các ngân hàng. Các ngân hàng chủ yếu nắm giữ các loại chứng
khoán nợ, có độ rủi ro thấp, năng lực thị trường cao, trước hết để đáp ứng các
nhu cầu thanh khoản khi cần và mặt khác ít quan trọng hơn là để thu lợi
nhuận. Trong nhiều trường hợp ngân hàng có thể bị cấm tham gia đầu tư vốn
vào cổ phiếu và những loại chứng khoán khác có độ rủi ro cao. Tuy nhiên
cũng với thời gian, các ngân hàng đã tham gia ngày càng nhiều hơn vào các
thị trường chứng khoán. Đặc biệt những năm gần đây các ngân hàng còn sử
dụng chứng khoán như là một hướng để quản lý rủi ro.
* Cung cấp dịch vụ thanh toán và các dịch vụ ngân hàng khác.
Cung cấp dịch vụ thanh toán là nét đặc trưng trong hoạt động của các
ngân hàng. Các ngân hàng chính là chủ thể chính trong các hệ thống thanh
toán bù trừ, chuyển tiền và các hệ thống thanh toán dùng và không dùng tiền


10
mặt khác. Ngân hàng thực hiện những dịch vụ này để thu phí, nhưng vì chúng
gắn liền với các hoạt động huy động tiền gửi và cho vay của mỗi ngân hàng
nên cũng góp phần quan trọng vào việc mở rộng các hoạt động huy động vốn
cũng như mở rộng hoạt động cho vay và đầu tư kiếm lời. Lợi ích chính đối
với các chủ thể trong nền kinh tế là nhờ có các hệ thống thanh toán của các
ngân hàng, họ có thể thanh toán nợ nần phát sinh trong quá trình kinh doanh
của họ với độ an toàn cao, tiết kiệm thời gian và chi phí. [1], [7], [13].
Các dịch vụ bảo đảm mà khu vực ngân hàng cung cấp cũng là mảng
hoạt động quan trọng và gắn liền với các hoạt động huy động tiền gửi, cho
vay, đầu tư chứng khoán. Bên cạnh đó, các ngân hàng còn cung cấp nhiều loại
hình dịch vụ ngân hàng, tài chính khác cho khách hàng như: cung cấp dịch vụ
thanh toán, dịch vụ bảo đảm, dịch vụ uỷ thác, dịch vụ tư vấn tài chính, dịch
vụ kế toán và kiểm toán, dịch vụ chứng khoán, dịch vụ cho thuê két sắt...

Đối với các ngân hàng, khả năng thực hiện các dịch vụ không giống
nhau, mà tùy thuộc năng lực của ngân hàng vào nhu cầu của đối tượng khách
hàng mà ngân hàng đang phục vụ, cũng như tuỳ thuộc vào điều kiện môi
trường kinh doanh nơi ngân hàng hoạt động. Nếu như trước đây các ngân
hàng thường tìm cách làm cân bằng giữa thu nhập và chi phí từ hoạt động
dịch vụ còn lợi nhuận chủ yếu là từ chênh lệch lãi, thì đến nay các ngân hàng
đã áp dụng một hướng hành động khác đó chủ động mở rộng các hoạt động
dịch vụ để cải thiện thu nhập và củng cố vị thế của chúng trên thị trường.
1.1.3. Đặc điểm hoạt động kinh doanh ngân hàng
Kinh tế học hiện đại nghiên cứu các hoạt động kinh tế trên hai phương
diện kinh tế vĩ mô và kinh tế vi mô. Về thực chất, đó là sự tiếp cận theo quan
điểm quản lý kinh tế. Sự phân tích hoạt động của hệ thống ngân hàng hiện đại
cũng theo tư tưởng này. Tính chất đặc trưng trong hoạt động của Ngân hàng
Trung ương là các hoạt động quản lý kinh tế ở tầm vĩ mô, còn hoạt động của


11
các ngân hàng thương mại và các trung gian tài chính khác là các hoạt động
kinh doanh.[1], [7], [13].
Cụm từ "kinh doanh ngân hàng" được sử dụng nhằm phân biệt lĩnh vực
hoạt động của các ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư phát triển và các
ngân hàng loại khác với lĩnh vực hoạt động của Ngân hàng Trung ương, của
các doanh nghiệp khác (các doanh nghiệp phi tài chính, các doanh nghiệp tài
chính phi ngân hàng) và các tổ chức phi lợi nhuận khác. Có thể hiểu đơn giản
kinh doanh ngân hàng là việc tiến hành các hoạt động sản xuất, buôn bán các
sản phẩm dịch vụ tài chính tiền tệ của các ngân hàng nhằm vào mục tiêu cao
nhất là tối đa hoá lợi nhuận.
Trên góc độ khái quát, luận văn rút ra vài đặc trưng của kinh doanh
ngân hàng trong nền kinh tế thị trường hiện đại như sau:
Một là, kinh doanh ngân hàng là hoạt động thu lợi nhuận trên cơ sở

thoả mãn các nhu cầu về phương tiện và dịch vụ trao đổi, thanh toán, cất giữ,
huy động tiết kiệm, tài trợ đầu tư..., cho các tác nhân trong nền kinh tế.
Các ngân hàng kinh doanh có mục tiêu then chốt là tối đa hoá lợi
nhuận. Điều này phân biệt chúng với Ngân hàng Trung ương và các tổ chức
phi lợi nhuận khác, như nhà thờ, các tổ chức giáo dục và y tế công cộng...
Mục tiêu mà Ngân hàng Trung ương theo đuổi là các mục tiêu kinh tế vĩ
mô, bao gồm đảm bảo công bằng, ổn định và tăng trưởng trên phạm vi toàn
bộ nền kinh tế. Mục tiêu trung gian của nó là điều tiết lượng cung ứng, ổn
định lãi suất, ổn định tỷ giá hối đoái và hoạt động ngân hàng, được thực
hiện nhờ dựa vào các luật, quy chế, chính sách, trong đó xây dựng và thực
hiện chính sách tiền tệ là nội dung chủ yếu. Mô hình hệ thống ngân hàng
hai cấp đảm bảo cho việc thực hiện có hiệu quả các mục tiêu vĩ mô và vi
mô trong hoạt động ngân hàng. Còn mục tiêu của các tổ chức phi lợi nhuận
khác thường là tăng phúc lợi xã hội. Với các tổ chức kinh doanh khác cũng
có mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận nhưng phân biệt với các ngân hàng về đối


12
tượng kinh doanh, về loại hình nhu cầu mà chúng phục vụ và về đặc điểm
quá trình tổ chức kinh doanh.
Nhu cầu mà các ngân hàng phục vụ là nhu cầu về những dịch vụ,
những phương tiện cho việc trao đổi, thanh toán, cất giữ, thu thập các nguồn
tiết kiệm, tài trợ đầu tư... sao cho có lợi nhất và rủi ro thấp nhất... Hoạt động
của các ngân hàng có tính chuyên môn hoá vào việc thoả mãn các loại nhu
cầu này, khả năng thoả mãn các nhu cầu này có ảnh hưởng quyết định đến
khả năng thu lợi nhuận của các ngân hàng. Lợi nhuận này có được từ hai
nguồn thu nhập chính: một là, các phí hay hoa hồng mà khách hàng trả về các
dịch vụ, phương tiện ngân hàng cung ứng cho họ; hai là, các khoản lợi tức do
chênh lệch lãi suất và giá giữa đầu ra với đầu vào, chẳng hạn chênh lệch lãi
xuất cho vay và đi vay, hay chênh lệch giá cả chứng khoán bán ra với mua

vào...[8]
Hai là, đối tượng kinh doanh của ngân hàng là tiền, các tài sản tài
chính và các dịch vụ trực tiếp liên quan đến việc sở hữu, sản xuất, lưu thông
quản lý, sử dụng tiền và các tài sản tài chính trong nền kinh tế.
Nhiệm vụ của các ngân hàng kinh doanh là trực tiếp kinh doanh tiền và
các tài sản tài chính. Các doanh nghiệp phi tài chính, thuộc các ngành công,
nông, thương nghiệp hay vận tải. Có nhiệm vụ trực tiếp kinh doanh các hàng
tư liệu sản xuất, các hàng tiêu dùng dưới dạng hiện vật và nhiều dịch vụ khác
như vận tải, bốc xếp, mua bán hàng, thuê mướn máy móc thiết bị và nhân
công... Tiền và các tài sản tài chính là những phương tiện phục vụ các công
việc trao đổi, thanh toán, cất giữ, huy động tiết kiệm, tài trợ đầu tư... của các
tác nhân trong nền kinh tế sao cho có lợi và giảm rủi ro. Như vậy, trên
phương diện vi mô thì: kinh doanh ngân hàng là việc sản xuất, buôn bán, quản
lý, lưu thông và sử dụng tiền cùng các tài sản tài chính.
Mặt khác, nếu xét trên phương diện kinh tế vĩ mô, người ta quan
niệm: Tiền là bất cứ cái gì được chấp nhận chung trong việc thanh toán và


13
trong việc hoàn trả các món nợ. Bao gồm : tiền giấy và tiền kim loại do
ngân hàng Trung ương phát hành đang lưu thông bên ngoài các ngân hàng,
và tiền gửi (chủ yếu tại các ngân hàng); các tài sản tài chính là các chứng
khoán, các giấy nợ... mà người sở hữu chúng có quyền được hưởng một
khoản lợi tức nhất định sau một khoảng thời gian nào đó như: các cổ phiếu,
trái phiếu, kỳ phiếu, các giấy xác nhận tài chính khác với các tài sản hữu
hình, chúng có thể hoặc không thể chuyển nhượng được và có thể chuyển
đổi ra tiền với những điều kiện nhất định. Về thực chất, cả hai loại đều là
sự vật chất hoá các quyền và nghĩa vụ của các tác nhân tham gia hoạt động
sản xuất, buôn bán, quản lý và sử dụng chúng. Việc tiến hành các hoạt
động này đồng thời là quá trình xây dựng và thực hiện các quyền và nghĩa

vụ nhất định và do đó chúng cũng mang nội dung là những công việc giống
như cái mà người ta gọi là các dịch vụ và chúng gắn liền với nhau khó có
thể tách biệt. Chính vì thế đối tượng kinh doanh của các ngân hàng là tiền
và các tài sản tài chính, thì đồng thời nó cũng gồm những dịch vụ trực tiếp
liên quan đến việc sản xuất, lưu thông, quản lý và sử dụng tiền cùng các tài
sản tài chính.
Mặt khác, nếu xét toàn bộ quá trình sản xuất và lưu thông tiền cùng
các tài sản tài chính trong nền kinh tế, người ta cũng thấy rằng: Vai trò
của các ngân hàng làm nhiệm vụ kinh doanh trong các quá trình này chủ
yếu với tư cách là những người làm dịch vụ. Do đó trên phương diện vĩ
mô có thể nói: đối tượng kinh doanh chủ yếu của các ngân hàng là những
dịch vụ mà đặc trưng của nó (ngoài các đặc trưng của các dịch vụ nói
chung) là gắn liền với việc sở hữu, sản xuất, lưu thông, quản lý và sử
dụng tiền cùng các tài sản tài chính (có thể gọi chung là những dịch vụ tài
chính - tiền tệ).
Ba là, kinh doanh ngân hàng là tiến hành các hoạt động gắn với các
thể chế trung gian tài chính hoạt động trên thị trường tài chính.


14
Các hoạt động về huy động tiền gửi, cho vay, chuyển tiền, làm trung gian
thanh toán, tài trợ đầu tư, đại lý, môi giới tài chính hưởng hoa hồng...
Thị trường xã hội là tổng thể thống nhất của tất cả các thị trường riêng
biệt. Trong trường hợp này, ở góc độ khái quát có thể xem thị trường xã hội
như là sự hợp thành bởi hai loại thị trường chủ chốt: thứ nhất, thị trường tài
chính, trên đó diễn ra các hoạt động tạo lập, lưu thông, trao đổi các sản phẩm,
dịch vụ tài chính tiền tệ; các tổ chức ngân hàng - tài chính hoạt động trong
lĩnh vực này. Tiếp đến, thị trường các hàng hoá dịch vụ phi tài chính, trên đó
diễn ra các hoạt động sản xuất, lưu thông trao đổi các sản phẩm dịch vụ phi
tài chính, mà người hoạt động trong lĩnh vực này là các tổ chức phi tài chính

như các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành công nghiệp, nông nghiệp,
thương nghiệp hay vận tải...
Điểm cần thấy ở đây là mọi tác nhân trong nền kinh tế đều tiến hành
các hoạt động tài chính, nhưng tham gia thị trường tài chính thì họ hiện diện
với những tư cách không giống nhau. Các doanh nghiệp phi tài chính thường
tham gia thị trường tài chính với tư cách người cung ứng đầu tiên hoặc người
sử dụng cuối cùng các sản phẩm dịch vụ tài chính - tiền tệ; còn ngân hàng
kinh doanh thì tham gia thị trường tài chính với tư cách là những trung gian
tài chính, đó là những thể chế chuyên về việc dẫn vốn từ nơi có ngân sách
thặng dư đến nơi có ngân sách thâm hụt.
Những người có ngân sách thặng dư là người cho vay đầu tiên của thị
trường tài chính (thường là các cá nhân thuộc khu vực hàng hoá tiêu dùng).
Họ có thiên hướng sử dụng thặng dư tài chính của mình là cho vay
ngắn hạn. Trái lại, những người bị thâm hụt ngân sách là những người đi vay
sau cùng của thị trường tài chính (thường là các doanh nghiệp công nghiệp,
thương mại...).
Các trung gian tài chính tiến hành hoạt động chắp nối, đứng giữa những
người cho vay đầu tiên và những người đi vay cuối cùng. Tính chất đặc trưng


15
hoạt động của các trung gian tài chính là biến đổi tài sản; biến đổi rủi ro và
chi phí, cung cấp khả năng thanh toán bằng tiền mặt, biến đổi thời điểm đến
hạn của các tài sản tài chính... cho các tác nhân trong nền kinh tế có nhu cầu
vay và cho vay, cũng qua đó họ thu được lợi nhuận.
Sự phân biệt các ngân hàng với các trung gian tài chính khác chủ yếu là
ở chỗ: chúng tiến hành công việc thu nhận tiền gửi rồi đem cho vay như là
nghiệp vụ thường xuyên, mặt khác các trung gian tài chính phi ngân hàng
thường hoạt động cho bản thân hơn là thay mặt cho người khác trong vai trò
là những con nợ chính... Tuy nhiên, hiện nay ranh giới này đang mất dần cùng

với xu hướng đa dạng hoá hoạt động do thúc đẩy bởi cạnh tranh tăng và nới
lỏng từ phía luật pháp.
Bốn là, hoạt động kinh doanh ở mỗi ngân hàng chịu sự chi phối mạnh
mẽ bởi những tác động của môi trường kinh doanh.
Đối với chủ ngân hàng và những người quản lý ngân hàng thì hoạt
động kinh doanh ở mỗi ngân hàng trong các thời kỳ luôn chịu sự chi phối
mạnh mẽ bởi môi trường kinh doanh về các mặt: kinh tế, kỹ thuật, luật pháp,
tâm lý và tập quán xã hội. Đây là những nhân tố bên ngoài tác động mạnh mẽ
đến hoạt động của từng ngân hàng mà ngân hàng không toàn toàn chủ động
kiểm soát được. Đành rằng sự ảnh hưởng bởi những tác động từ phía môi
trường kinh doanh cũng là đặc trưng chung của mọi lĩnh vực kinh doanh,
nhưng lại có những khác biệt về tính chất và cường độ.
Hoạt động ngân hàng suy đến cùng là có tính lệ thuộc vào các hoạt
động kinh tế chung, trước hết là các hoạt động sản xuất, lưu thông, tiêu dùng
các sản phẩm vật chất. Việc cung ứng và lưu thông tiền, các tài sản chính
cũng như các dịch vụ tài chính - tiền tệ nói chung lệ thuộc chặt chẽ vào quá
trình tái sản xuất ra các của cải vật chất, vào tình hình hoạt động của các lĩnh
vực công nghiệp, xây dựng, nông nghiệp, thương mại, tiêu dùng cá nhân... Có
thể nói rằng bất kỳ biến động đáng kể nào của các lĩnh vực này đều trực tiếp


16
hay gián tiếp ảnh hưởng đến thị trường tài chính và hoạt động ngân hàng. Bởi
sự tăng trưởng và phát triển hay suy thoái trong các lĩnh vực nói trên trực tiếp
ảnh hưởng đến sản lượng, thu nhập, tiêu dùng, tiết kiệm và đầu tư của nền
kinh tế trước hết trong các lĩnh vực đó, theo hướng gia tăng hay giảm sút, và
do đó trực tiếp ảnh hưởng đến khả năng thu lợi nhuận, khả năng trả nợ của
các con nợ, mà con nợ chính của nền kinh tế luôn là các ngân hàng. Một ngân
hàng chuyên tài trợ cho một ngành công nghiệp nào đó có thể làm ăn phát đạt
khi ngành này đang trong thời kỳ phát triển, nhưng cũng có thể dễ bị phá sản

khi ngành này bị suy thoái. Hơn nữa, suy thoái của một ngành công nghiệp
nào đó có thể dẫn tới phá sản hàng loạt ngân hàng tập trung tài trợ cho ngành
này, trong khi đó có thể có rất ít ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh
nghiệp thuộc ngành công nghiệp khác, các ngành khác... Đồng thời, sự phá
sản của ngân hàng thường có tính lan truyền và nó có ảnh hưởng rộng hơn đa
số các doanh nghiệp phi tài chính khác, khi xem xét về mặt hậu quả. Trong
mọi trường hợp, các nhà quản trị ngân hàng đều phải thường xuyên tính đến
các rủi ro môi trường về mặt kinh tế, do đó tối đa lợi nhuận thường chỉ là một
mục tiêu chủ yếu, bên cạnh các mục tiêu về đảm bảo an toàn và giảm rủi ro.
Trong thời đại hiện nay, một trong những yếu tố chủ yếu ảnh hưởng
đến xu hướng tăng trưởng hay phát triển của một ngành nào đó là cuộc cách
mạng khoa học kỹ thuật. Cuộc cách mạng này ảnh hưởng đến hoạt động ngân
hàng từ nhiều hướng. Một mặt nó cung cấp cho lĩnh vực này các thiết bị và
công nghệ hiện đại, cho phép tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả hoạt
động mà nổi bật là sự áp dụng các kỹ thuật điện tử tin học vào hoạt động ngân
hàng điều này đã thực sự làm thay đổi công nghệ ngân hàng truyền thống dựa
trên lao động thủ công. Mặt khác, cách mạng khoa học kỹ thuật đã tạo nên
sức cạnh tranh hoàn toàn mới và đồng thời cũng làm giảm sút tương đối khả
năng cạnh tranh trong nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau mà các ngân hàng
phục vụ; ảnh hưởng lớn nhất hiện nay đó là xu hướng đa dạng hoá hoạt động


17
của các ngân hàng là sự phát triển mô hình ngân hàng đa năng thay cho mô
hình ngân hàng chuyên môn hoá, là sự hoà nhập trong nghiệp vụ hoạt động
của các trung gian tài chính...
Tuy nhiên, sự thay đổi trong nghiệp vụ và công nghệ ngân hàng không
đơn thuần do ảnh hưởng bởi các hoạt động và điều kiện môi trường kinh tế
hay kỹ thuật mà chúng còn chịu chi phối bởi các điều kiện môi trường chính
trị, pháp luật và xã hội. Sự ổn định về chính trị và một hệ thống pháp luật

mạnh luôn là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho tính hiệu quả của lĩnh vực
hoạt động ngân hàng nói riêng, hoạt động kinh doanh nói chung; hoạt động
ngân hàng là lĩnh vực kinh doanh chịu sự chi phối mạnh mẽ nhất bởi luật
pháp và sự điều hành của Chính phủ. Đồng thời, tập quán và tâm lý xã hội
có ảnh hưởng lớn đến khuynh hướng tiêu dùng, tiết kiệm và đầu tư trên các
khu vực và quốc gia, do đó mang lại bản sắc riêng đối với hoạt động ngân
hàng là ở đó. Lòng tin của dân chúng vào đồng tiền và hoạt động ngân hàng,
ngoài việc được đảm bảo bằng sự hoạt động an toàn có hiệu quả của ban
thân hoạt động ngân hàng thì mặt khác lại luôn phải được đảm bảo bằng sự
ổn định kinh tế, chính trị, xã hội, mà lòng tin của dân chúng trong trường
hợp này luôn là yếu tố quan trọng ảnh hưởng chi phối đến hoạt động kinh
doanh của các ngân hàng. Đối với người quản lý ở các ngân hàng thì uy tín
của ngân hàng và lòng tin của khách hàng vào ngân hàng cũng cần thiết như
là lợi nhuận [14].
Năm là, hoạt động kinh doanh ngân hàng là lĩnh vực kinh doanh mang
tính độc quyền cao và rủi ro cao.
Có rất nhiều yếu tố khác nhau tạo nên tính độc quyền cao và rủi ro cao
trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng trong nền kinh tế thị trường hiện đại, bao
gồm cả các yếu tố kinh tế, kỹ thuật, luật pháp, đặc điểm đối tượng và quá
trình kinh doanh...


18
Trên thực tế mọi chuyên gia nghiên cứu về hoạt động ngân hàng trên
thế giới đều thấy hiện tượng chỉ một vài ngân hàng lớn chi phối hầu như toàn
bộ thị trường quốc gia hay thế giới về dịch vụ tài chính. Trong một số phân hệ
của thị trường tài chính ở nhiều quốc gia người cung ứng nhiều khi chỉ là một
hay vài ba ngân hàng này chiếm tỷ lệ đa số về thị phần, quy mô tài sản, quy
mô hoạt động và địa bàn hoạt động, cũng như khả năng ảnh hưởng đến các
cán cân thị trường về giá cả, về lưu lượng hoạt động... Điều tương tự cũng

xảy ra với các thị trường tài chính quốc tế, ở đó một vài tập đoàn tài chính
khổng lồ chi phối lưu lượng hoạt động của thị trường.
Điều đó thường được giải thích bằng một số lý do chính:
Thứ nhất, xuất phát từ yêu cầu tạo thuận lợi cho việc kiểm soát lượng
tiền cung ứng, kiểm soát lãi suất thị trường, tỷ giá hối đoái và hoạt động ngân
hàng - tài chính ở tầm vĩ mô trong khuôn khổ các chính sách quản lý kinh tế
vĩ mô, và do đó thường được luật pháp và Chính phủ ở các quốc gia ủng hộ
bằng cách đưa ra những quy định, những quy chế... dẫn đến hạn chế số lượng
ngân hàng tham gia vào các thị trường tài chính nội địa hay quốc tế.
Thứ hai, trên phương diện những người tham gia với tư cách là chủ
ngân hàng hay những người trực tiếp điều hành ngân hàng, thì rõ ràng lập một
ngân hàng mới hẳn là tốn phí nhiều hơn là củng cố, mở rộng các ngân hàng
hiện có; hơn nữa quy mô vốn phải đạt đến một mức đủ lớn nào đó mới có thể
tham gia vào việc lập ngân hàng hay tham gia vào việc kinh doanh trên các thị
trường tài chính. Điều này cũng dẫn tới hạn chế số thành viên tham gia thị
trường tài chính với tư cách là những nhà cung ứng chuyên môn.
Thứ ba, về bản chất hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng lệ
thuộc chủ yếu vào việc khai thác các lợi thế nhờ quy mô lớn và chuyên môn
hoá trong việc cung ứng các dịch vụ tài chính - tiền tệ. Bởi chính nhờ đó các
ngân hàng thực hiện được chức năng của họ trong hệ thống kinh tế vĩ mô, tức
là làm giảm rủi ro, giảm chi phí, biến đổi thời điểm đến hạn của các hợp đồng


19
vay mượn và cung cấp khả năng thanh toán bằng tiền mặt cho các tác nhân
trong nền kinh tế, các ngân hàng lớn thường chiếm lợi thế trong việc cung
ứng các sản phẩm và dịch vụ tài chính hơn là các ngân hàng nhỏ, nhất là trong
hoạt động đầu tư, kinh doanh ngoại hối và cung ứng các dịch vụ trên thị
trường tài chính quốc tế.
Thứ tư, đối tượng kinh doanh chính của các ngân hàng là những dịch

vụ tài chính - tiền tệ. Trong khi đó tính chất của lĩnh vực hoạt động dịch vụ
là quá trình sản xuất đồng thời là quá trình tiêu dùng, các dịch vụ thì không
tách rời nơi cung ứng chúng, do đó việc cung ứng các dịch vụ là có xu
hướng tập trung; hơn nữa tính chất này lại được tăng cường vì việc cung
ứng các dịch vụ này gắn bó chặt chẽ với quá trình cung ứng tiền và các tài
sản tài chính luôn có xu hướng đòi hỏi quản lý một cách tập trung trong các
điều kiện.
Những lý do này giải thích về tính độc quyền cao trong kinh doanh
ngân hàng. Để khắc phục, ngăn ngừa tính kém hiệu quả do độc quyền sinh ra,
Chính phủ ở các quốc gia trên thế giới chú ý tăng cường các biện pháp phòng
chống độc quyền và tăng cường cạnh tranh trong lĩnh vực này, bằng cách
thông qua luật pháp, chính sách... bằng cả sự can thiệp trực tiếp bằng các biện
pháp nghiệp vụ thông qua hoạt động của Ngân hàng Trung ương và các cơ
quan quản lý tiền tệ- tài chính khác.
Một đặc trưng khác trong hoạt động kinh doanh ngân hàng là tính rủi ro
cao. Rủi ro ở đây được quan niệm là những biến động không lường trước
được trong các điều kiện, môi trường, trong hoạt động và tham số hoạt động
kinh doanh làm cho ngân hàng không đạt được các mục tiêu. Biểu hiện là
mức độ phá sản và khả năng mất vốn ngân hàng rất lớn khi cạnh tranh tăng
lên so với các lĩnh vực kinh doanh khác, không kể là ngân hàng lớn hay nhỏ.
Lý do chính ở đây là khả năng dự tính chính xác những biến động của thị
trường tài chính và điều kiện kinh doanh ngân hàng là rất thấp so với các thị


20
trường các hàng hoá vật chất và dịch vụ khác, xuất phát từ ngay những đặc
trưng đã nêu ở trên.
1.2. CHIẾN LƯỢC KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.2.1. Sự cần thiết của chiến lược kinh doanh ở ngân hàng thương mại

Hoạch định chiến lược kinh doanh là một khâu then chốt trong hoạt
động kinh doanh ngân hàng. Và, có thể khảng định, không có chiến lược kinh
doanh thì không có hoạt động kinh doanh ổn định, bền vững; vì chiến lược
kinh doanh luôn là cơ sở xuyên suốt trong quá trình hoạt động kinh doanh. Sự
cần thiết này thể hiện trên những nội dung chủ yếu sau [10], [5], [6]:
* Tính hệ thống của toàn bộ nền kinh tế, cũng như hệ thống ngân hàng.
Toàn bộ hệ thống ngân hàng là một hệ thống thống nhất, bao gồm
nhiều loại ngân hàng và các tổ chức tài chính, tín dụng khác; hoạt động trên
khắp mọi miền đất nước cũng như trong tất cả các thành phần kinh tế. Mỗi
hoạt động trong cơ cấu thống nhất đó, có quan hệ chặt chẽ, ảnh hưởng thúc
đẩy nhau, tạo điều kiện cho nhau, thúc đẩy nhau, hoặc kìm hãm nhau, chủ yếu
bao gồm:
- Quan hê giữa các địa phương, vùng;
- Quan hệ giữa các ngành kinh tế;
- Quan hệ giữa các đơn vị trong hệ thống ngân hàng;
- Quan hệ giữa các thành phần kinh tế;
- Quan hệ giữa các địa phương, vùng, các ngành kinh tế, các đơn vị,
các thành phần kinh tế với nhau.
Vì vậy, để tạo điều kiện cho sự phát triển nền kinh tế, cần xây dựng các
mục tiêu định trước, trong đó đặc biệt chú ý đến tác động của thị trường.
* Tính cân đối
Trong hệ thống thống nhất của hệ thống tài chính ngân hàng, mọi hoạt
động tài chính, ngân hàng diễn ra luôn luôn có nhu cầu và đòi hỏi phải được


21
cân đối. Tính cân đối diễn ra thường xuyên giữa các bộ phận và quan hệ của
toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng như trong nội bộ của từng ngân hàng
thương mại về các quan hệ đầu tư, tín dụng, dịch vụ tài chính ngân hàng,....
Tính chất của các cân đối này là tự cân đối và không bao giờ có cân đối

cố định, cân đối vĩnh cửu. Cân đối luôn vận động từ cân đối, mất cân đối, cân
đối mới. Đó là quá trình của phát triển của cân đối.
Hệ thống ngân hàng càng phát triển càng xuất hiện nhiều quan hệ cân
đối và cân đối mới, do đó tính tự cân đối cũng rất cao.
Vì vậy mục tiêu kế hoạch với các cân đối lớn sẽ tác động thúc đẩy các
cân đối tích cực, tạo sự phát triển nhanh cho hệ thống ngân hàng.
* Chức năng quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực tài chính ngân hàng.
Ngày nay, không ai có thể thay thế vai trò của Nhà nước trong nhiệm vụ
xây dựng, tổ chức và điều hành các hoạt động tài chính, tiền tệ trong xã hội.
Một mặt, Nhà nước là người bao quát tổng thể các hoạt động kinh tế tài
chính của toàn xã hội. Đồng thời, Nhà nước có thể nắm bắt các khả năng,
tiềm năng về nguồn tài chính có thể khai thác và nhu cầu sử dụng nó trong xã
hội. Từ đó, tạo nên sự phới hợp đồng bộ để phát triển theo các mục tiêu
chung, cũng như các mục tiêu cụ thể.
Hoạch định chiến lược kinh doanh ở ngân hàng thương mại là sự cần
thiết khách quan để quản trị ngân hàng thương mại phát triển theo mục tiêu
định trước. Sử dụng công cụ quản trị này là điều kiện đảm bảo cho các hoạt
động ngân hàng đi vào hoạt động theo đúng chiến lược đã hoạch định. Hạn
chế được các tác đọng tiêu cực của thị trường.
1.2.2. Khái niệm chiến lược kinh doanh ngân hàng
Chiến lược kinh doanh là một bản phác thảo tương lai bao gồm các
mục tiêu mà doanh nghiệp phải đạt được cũng như các phương tiện cần thiết
để thực hiện các mục tiêu đó. Cũng có tác giả cho rằng chiến lược kinh doanh


22
là tập hợp các quyết định và hành động quản trị quyết định sự thành công lâu
dài của doanh nghiệp [10], [11].
Theo quan niệm truyền thống, chiến lược phác thảo các mục tiêu và
giải pháp dài hạn; theo quan niệm hiện đại, chiến lược bao gồm cả chiến lược

dài hạn và chiến lược ngắn hạn.
Khi chiến lược được quan niệm không nhất thiết phải là dài hạn thì xét
về hình thức kế hoạch và chiến lược đều mô tả mục tiêu phải đạt được trong
một thời kì nào đó và những giải pháp cần thiết để thực hiện mục tiêu đó.
Chiến lược kinh doanh luôn chiếm một vị trí trọng yếu trong hoạt động
kinh doanh của bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng như của các NHTM nó có
tính chất chi phối các hoạt động khác xuyên suốt trong cả quá trình hoạt động
kinh doanh của NHTM. Từ khái niệm chung về chiến lược kinh doanh đối với
doanh nghiệp, với loại hình doanh nghiệp ngân hàng, luận văn rút ra chiến
lược kinh doanh của ngân hàng thương mai:
Chiến lược kinh doanh của ngân hàng thương mại là xây dựng, xác
định mục tiêu hoạt động kinh doanh của mình trong từng thời kỳ phải đạt một
kết quả trong khoảng thời gian định trước và được cụ thể bằng các kế hoạch
ngắn hạn và dài hạn. Xác định các phương pháp, người làm, thời gian bắt
đầu làm và hoàn thành mục tiêu đã xác định.
Hoạch định chiến lược kinh doanh là quá trình xây dựng, đánh giá và ra
quyết định lựa chọn các loại kế hoạch hoạt động của ngân hàng, như các
chiến lược, chính sách, các chế độ thể lệ, các quy định và quy tắc, các thủ tục,
các phương án... xác định rõ các mục tiêu cần đạt tới của từng thời kỳ hoạt
động tương lai của ngân hàng, các nguồn lực mà ngân hàng cần và có thể sử
dụng, phương hướng và phương pháp sẽ được áp dụng trong việc sử dụng các
nguồn lực để đạt các mục tiêu một cách tối ưu trong chừng mực có thể.


23
1.2.3. Bản chất hoạch định chiến lược kinh doanh của ngân hàng thương mại
Hoạch định chiến lược kinh doanh của các ngân hàng thương mại là
quá trình sử dụng các phương pháp, công cụ và kĩ thuật thích hợp nhằm xác
định chiến lược kinh doanh của ngân hàng và từng bộ phận của ngân hàng
trong thời kì chiến lược xác định [10], [11].

Bản chất của hoạch định chiến lược kinh doanh là xây dụng bản chiến
lược cụ thể trong một thời kì xác định nào đó.
Tuy nhiên, cần chú ý là mặc dù cùng xác định mục tiêu và giải pháp
của ngân hàng trong một thời kì cụ thể song giữa hoạch định chiến lược và
xây dựng kế hoạch không giống nhau. Điểm khác biệt cơ bản giữa chúng
trước hết là ở phương pháp xây dựng: nếu xây dựng một bản kế hoạch chủ
yếu dựa vào quá khứ và kinh nghiệm thì hoạch định chiến lược lại không chỉ
dựa vào các dữ kiện quá khứ, hiện tại mà phải đặc biệt dựa trên cơ sở dự báo
tương lai. Từ đó dẫn đến sự khác biệt về bản chất giữa chiến lược và kế
hoạch: nếu kế hoạch hòan tòan mang tính chất tĩnh và thích ứng thì chiến lược
lại hoàn toàn mang tính động và tấn công.
1.2.4. Cơ sở xây dựng chiến lược kinh doanh
Để xây dựng chiến lược kinh doanh của một NHTM cần dựa vào
những căn cứ nhất định. Vì chiến lược kinh doanh là một sản phẩm chủ
quan song nó không thể thoát ly các cơ sở khách quan làm căn cứ cho việc
đề ra chiến lược và thực hiện chiến lược. Trong điều kiện nền kinh tế thị
trường khi xây dựng chiến lược kinh doanh đối với các NHTM phải dựa
trên cơ sở sau đây [5], [10], [11]:
* Môi trường kinh doanh.
Môi trường kinh doanh ở đây bao gồm các yếu tố khách quan, nó sẽ
ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng về qui mô, chất lượng
kinh doanh của chính ngân hàng, bao gồm một số nội dung chính sau:


24
- Đường lối chính sách, luật pháp của Nhà nước đối với nền kinh tế
nói chung, đối với lĩnh vực ngân hàng nói riêng.
Các mục tiêu mà ngân hàng nhằm đạt đến phải được thực hiện trong
khuôn khổ mà luật pháp cho phép. Luật pháp có thể thay đổi về số lượng,
chất lượng do vậy khi xác định chiến lược kinh doanh ngân hàng có những

dự đoán để có thể chọn những mục tiêu cho tương lai.
- Qui mô và chất lượng của thị trường, khả năng chiếm lĩnh thị
trường và khách hàng của ngân hàng.
Sự phát triển của ngân hàng không thể thoát ly qui mô và chất lượng
của thị trường mà ở đó ngân hàng đang hoạt động. Trên các thị trường này
có sự hoạt động của nhiều ngân hàng khác nhau. Mỗi một ngân hàng chỉ có
thể chiếm lĩnh một phần nhất định thông qua cạnh tranh.
- Các yếu tố thuộc về văn hoá xã hội.
Sự giao tiếp quan hệ giữa các thành phần kinh tế, các cá nhân với
ngân hàng nhiều hay ít, ở mức độ nào, phát triển theo hướng nào là lệ thuộc
vào trình độ và tính đặc thù, lệ thuộc vào trình độ phát triển của văn hoá xã
hội của ngân hàng.
* Năng lực bản thân của ngân hàng.
Năng lực của một ngân hàng được đánh giá theo qui mô vốn tự có
của ngân hàng, kinh nghiệm nghề nghiệp của ngân hàng, cơ sở vật chất kỹ
thuật của ngân hàng có đủ điều kiện để kinh doanh hay không.
Do hoạt động của ngân hàng bị chi phối bởi luật pháp về qui mô và lĩnh
vực hoạt động dựa trên cơ sở vốn tự có của ngân hàng đang có hoặc sẽ có
trong tương lai. Vì vậy, mục tiêu kinh doanh của NHTM lệ thuộc vào một
trong những yếu tố qui mô vốn tự có. Bởi vốn tự có là một trong các cơ sở
pháp lý để mở rộng qui mô hoạt động kinh doanh ngân hàng.


25
Một ngân hàng có thể mở rộng các mặt hoạt động của mình trong phạm
vi luật pháp cho phép, nhưng nó còn lệ thuộc vào trình độ đội ngũ cán bộ và
cơ sở vật chất kỹ thuật của ngân hàng hiện tại và tương lai.
Chẳng hạn, khi xây dựng chiến lược kinh doanh của NHTM đối với
DN phải xác định:
- Tài nguyên mà ngân hàng đang có là những gì?

- Kinh nghiệm mà ngân hàng đã tích luỹ được?
- Những nguồn tài nguyên và kinh nghiệm mà ngân hàng có thể tìm
kiếm trong tương lai.
* Khách hàng.
Trong chiến lược kinh doanh của NHTM đối với khách hàng. Ta cần xác
định khách hàng hiện tại của ngân hàng là ai? Họ mong muốn gì ở ngân hàng
mình? Qui mô hoạt động và triển vọng phát triển của các loại khách hàng.
Trong hoạt động ngân hàng, khách hàng là yếu tố quan trọng hàng đầu
dẫn đến sự thành công hay thất bại của ngân hàng. Trong thực hiện chiến lược
kinh doanh của NHTM đối với mỗi loại khách hàng cũng vậy. Vì vậy, ngân
hàng cần xây dựng một chiến lược khách hàng rõ ràng và chắc chắn đối với
từng loại khách hàng. Cần phân biệt khách hàng theo lĩnh vực sản xuất kinh
doanh, phân loại theo qui mô và tính chất của khách hàng.
Trước hết, khách hàng của ngân hàng có hai loại là khách hàng gửi tiền
và vay tiền.
Đối với khách hàng gửi tiền cần có chiến lược riêng để thực hiện thành
công chiến lược huy động vốn, cần phải giải đáp những câu hỏi về loại khách
hàng này như:
- Loại khách hàng nào gửi tiền ở ngân hàng mình?
- Họ mong muốn gì? Họ gửi tiền vào để nhằm mục đích sinh lợi? Mục
đích thụ hưởng các tiện ích ngân hàng?...
- Qui mô tiền gửi và các hình thức gửi tiền của khách hàng?


×