BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LƯƠNG THẾ VINH
--------------------------
HOÀNG VĂN CHUNG
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC CẤP XÃ HUYỆN SÓC SƠN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành
: Quản trị kinh doanh
Mã số
: 60.34.05
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGÔ THỊ VIỆT NGA
NAM ĐỊNH - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân, được thực hiện dưới
sự hướng dẫn khoa học của Tiến sĩ Ngô Thị Việt Nga – Giảng viên Trường đại
học kinh tế quốc dân.
Các số liệu những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn đều
được dẫn nguồn và có độ chính xác cao nhất trong phạm vi hiểu biết của tôi.
Tôi xin chịu trách nhiện về nghiên cứu của mình.
Học viên
Hoàng Văn Chung
LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian nghiên cứu, tôi đã hoàn thành được luận văn, một công
trình nghiên cứu khoa học xã hội của chính bản thân mình.
Để có được thành công đó, bên cạnh sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận
được sự quan tâm, giúp đỡ, động viên nhiệt tình và tạo mọi điều kiện thuận lợi của
các thầy cô, gia đình và đồng nghiệp .
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến các thầy giáo, cô giáo trong Khoa Quản
trị kinh doanh của Trường Đại học Lương Thế Vinh đã truyền đạt cho tôi những
kiến thức bổ ích trong quá trình giảng dạy, các bạn trong tập thể lớp Thạc sỹ Quản
trị kinh doanh – khóa 2.
Trân trọng cảm ơn Huyện Ủy - Ủy ban nhân dân Huyện Sóc Sơn. Ban tổ
chức Huyện ủy Sóc Sơn, Phòng Nội vụ ủy ban nhân dân huyện Sóc Sơn, Đảng ủy,
Ủy ban nhân dân các xã, thị trấn Huyện Sóc Sơn đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá
trình nghiên cứu luận văn.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới TS Ngô Thị Việt Nga –
Giảng viên Trường đại học kinh tế quốc dân, đã giúp tôi định hướng đề tài và trực
tiếp hướng dẫn chỉ bảo, giúp đỡ tôi hoàn thành công trình khoa học xã hội này.
Những lời động viên, khích lệ từ gia đình, người thân, sự chia sẻ, học hỏi
từ bạn bè cũng đã góp phần rất nhiều cho luận văn đạt kết quả tốt hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
MỤC LỤC
NAM ĐỊNH - 2015............................................................................................................... 1
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIỆT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BCH
: Ban chấp hành
BHXH
: Bảo hiểm xã hội
CBCC
: Cán bộ công chức
CBCT
: Cán bộ chuyên trách
CNH – HĐH
: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ĐTCB
: Đào tạo cán bộ
HĐND
: Hội đồng nhân dân
HTCT
: Hệ thống chính trị
LLCT
: Lý luận chính trị
MTTQ
: Mặt trận Tổ quốc
NQTW
: Nghị quyết Trung ương
TCCSĐ
: Tổ chức cơ sở Đảng
TP
: Thành phố
UBND
: Ủy ban nhân dân
DANH MỤC BẢNG, BIỂU
NAM ĐỊNH - 2015............................................................................................................... 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cán bộ, công chức cấp xã có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong đời sống
chính trị xã hội của nhân dân hiện nay: Là người trực tiếp giải quyết những yêu
cầu, thắc mắc về lợi ích chính đáng của nhân dân, trực tiếp tập hợp khối đại đoàn
kết toàn dân, phát huy tính tự quản của cộng đồng dân cư.
Trong những năm qua, phát huy vị trí và vai trò của mình, cán bộ, công chức
cấp xã đã có những đóng góp lớn vào giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo quốc
phòng - an ninh, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã có vai trò hết sức quan trọng trong xây
dựng và hoàn thiện bộ máy chính quyền cơ sở, trong hoạt động thi hành công vụ.
Hiệu lực, hiệu quả của hệ thống chính trị, xét đến cùng được quyết định bởi
phẩm chất, năng lực và hiệu quả công tác của đội ngũ CBCC. Vì vậy, việc nâng
cao chất lượng đội ngũ CBCC cấp xã vững vàng về chính trị, văn hóa, có đạo
đức lối sống trong sạch, có trí tuệ, kiến thức và trình độ năng lực để thực thi
chức năng, nhiệm hiệm vụ theo đúng pháp luật, bảo vệ lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức và phục vụ nhân dân... là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của
Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị.
Lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định “ Cán bộ là những
người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ, giải thích cho dân chúng hiểu và
thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ
hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng”. Hội nghị Trung ương 3 - khoá VIII, Đảng đã
khẳng định: “Cán bộ là nhân tố quyết định đến sự thành bại của cách mạng, gắn
liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công
tác xây dựng Đảng”, Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã nhấn mạnh việc nâng cao
phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức, trong đó xác định: “Tiếp tục
đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ công tác cán bộ, thực hiện tốt chiến lược cán bộ thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội
1
bộ”..... Nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Đánh giá và sử
dụng cán bộ trên cơ sở những tiêu chuẩn, quy trình đã được quy định, lấy hiệu quả
công tác và sự tín nhiệm của nhân dân làm thước đo chủ yếu...”…..Nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức cả về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng
lực lãnh đạo, chỉ đạo điều hành, quản lý nhà nước. Có chính sách đãi ngộ động
viên, khuyến khích cán bộ công chức hoàn thành nhiệm vụ và có cơ chế loại bỏ, bãi
miễn những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật mất uy tín trong
nhân dân.
Cấp xã (xã, phường, thị trấn) là một cấp trong hệ thống hành chính bốn cấp
của Nhà nước Việt Nam, là nơi trực tiếp thực hiện các chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ cấp trên giao, chăm lo mọi
sinh hoạt và đời sống hằng ngày của nhân dân ở địa phương và là cầu nối giữa
Đảng, Nhà nước với nhân dân. Thực tiễn cho thấy nơi đâu có quan tâm đầy đủ và
làm tốt công tác cán bộ, công chức ở cơ sở, có đội ngũ cơ sở vững mạnh thì nơi đó
tình hình chính trị - xã hội ổn định, kinh tế, văn hoá phát triển, quốc phòng an ninh
được giữ vững. Ngược lại, ở đâu công tác cán bộ không được quan tâm, đội ngũ cán
bộ, công chức không đủ phẩm chất, năng lực và uy tín thì sẽ gặp khó khăn, có nhiều
nơi còn tạo sơ hở cho kẻ địch lợi dụng, gây nên “điểm nóng” về chính trị. Điều đó
cho thấy, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã có vai trò rất quan trọng ảnh hưởng trực
tiếp đến việc xây dựng và củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở, tác động trực tiếp đến
sự nghiệp cách mạng và đổi mới của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
Tuy nhiên việc xây dựng đội ngũ cán bộ công chức cấp xã thật sự
có chất lượng còn nhiều bất cập, nhiều vấn đề cần xem xét nghiên cứu
làm sáng tỏ thì mới đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ chính trị trong giai
đoạn cách mạng mới.
Huyện Sóc Sơn là một trong 30 quận huyện của Thành Phố Hà
Nội . Mặc dù điều kiện khó khăn, đời sống của nhân dân trong huyện chủ
yếu là sản xuất nông nghiệp, lại cách xa trung tâm Thành phố nhưng toàn
thể cán bộ và nhân dân trong huyện cùng nhau đồng lòng, đồng sức quyết
2
tâm xây dựng huyện vững mạnh về mọi mặt. Cho đến nay đời sống của
nhân dân trong huyện đã nâng lên rõ rệt, tạo thêm lòng tin của nhân dân
vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Có được thành tựu trên, một
phần là do Đảng bộ, Chính quyền huyện đã coi trọng công tác xây dựng
đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ công chức ở cơ sở nói riêng.
Tuy nhiên chất lượng đội ngũ cán bộ công chức cấp xã còn rất nhiều
hạn chế,bất cập, nhiều vấn đề cần xem xét nghiên cứu làm sáng tỏ, nhằm
nâng cao chất lượng cán bộ, công chức cấp xã thực sự đáp ứng với yêu
cầu, nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn cách mạng mới.
Trước yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân, thực trạng năng lực của cán bộ, công chức cấp xã là chưa ngang
tầm với đòi hỏi khách quan, vấn đề cấp thiết đặt ra là phải nâng cao năng lực
quản lý nhà nước của cán bộ, công chức cấp xã trong tình hình mới.
Do vậy việc xem xét đánh giá một cách khách quan, toàn diện thực
trạng cán bộ công chức cấp xã và đưa ra một hệ thống giải pháp có tính
khả thi nhằm nâng cao chất lượng cán bộ, công chức cấp xã ở huyện Sóc
Sơn Thành phố Hà Nội có đủ phẩm chất, trình độ năng lực để thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn hiện nay là yêu cầu cấp bách.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, tác giả xin chọn đề tài
“Nâng cao chất lượng cán bộ công, chức cấp xã ở huyện Sóc Sơn Thành phố Hà
Nội trong giai đoạn hiện nay” để nghiên cứu và viết luận văn thạc sỹ.
2. Tổng quan về đề tài nghiên cứu
Vấn đề cán bộ, công chức cấp xã đã được nhiều nhà khoa học quan tâm
nghiên cứu. Liên quan trực tiếp đến việc nâng cao chất lượng và quản lý cán bộ,
công chức có một số công trình nghiên cứu khoa học được thừa nhận.Trong
đó phải kể đến là:
- Luận án Tiến sĩ: Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng nông
thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay, năm 2000 .
3
– Một số luận văn thạc sĩ:
+ “Nâng cao chất lượng cán bộ công chức cấp xã ở tỉnh Điện Biên ”.
+ “ Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức cấp xã ở tỉnh Cà Mau”
+ Một số tài liệu khoa học
+‘‘Văn hóa truyền thống ảnh hưởng đến sự hình thành, phát triển năng
lực, tổ chức thực tiễn của cán bộ chủ chốt cấp xã đồng bằng Sông Hồng hiện
nay” của tác giả: Lê Hữu Xanh.
+ “Năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở
ngoại thành Thành phố Hà Nội” của tác giả Trần Nhật Duật.
Bên cạnh đó còn có rất nhiều bài báo, tạp chí, sách tham khảo nói về
xây dựng đội ngũ cán bộ trong giai đoạn hiện nay được đăng tải trên các
phương tiện thông tin đại chúng.
Tuy nhiên, “Về chất lượng cán bộ công chức cấp xã, huyện Sóc Sơn
Thành phố Hà Nội” thì hiện chưa có người nào viết, và mỗi công trình đều đề
cập đến vấn đề cán bộ công chức cấp xã ở nhiều cấp độ phạm vi khác nhau.
Tiếp thu có chọn lọc kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học nói trên,
luận văn đi sâu nghiên cứu làm sáng tỏ vấn đề: “Chất lượng cán bộ công chức
cấp xã ở huyện Sóc Sơn Thành phố Hà Nội”, góp phần vào công tác xây dựng
đội ngũ cán bộ công chức cấp xã, huyện Sóc Sơn hiện nay đáp ứng với yêu cầu
nhiệm vụ trong tình hình mới.
3. Mục đích nghiên cứu
- Xác định những căn cứ khoa học và hệ thống giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng cán bộ công chức cấp xã ở huyện Sóc Sơn TP Hà
Nội thật sự đáp ứng yêu cầu và vụ chính trị trong sự nghiệp đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá Thủ đô và đất nước.
- Phân tích thực trạng để đánh giá đúng chất lượng cán bộ công
chức cấp xã ở huyện Sóc Sơn, xác định rõ nguyên nhân tồn tại của cán
bộ công chức cấp xã hiện nay. Làm rõ cơ sở khách quan và yêu cầu cấp
bách phải nâng cao chất lượng cán bộ công chức cấp xã ở huyện Sóc
Sơn, trong giai đoạn hiện nay.
4
- Đề xuất một số giải pháp, nhằm nâng cao chất lượng cán bộ công
chức cấp xã ở huyện Sóc Sơn từ nay đến 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu: Chất lượng cán bộ công
chức cấp xã ở huyện .
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu là cán bộ, công chức cấp xã của huyện Sóc Sơn gồm 26
xã, thị trấn; bao gồm các chức danh cán bộ chuyên trách (Bí thư, Phó bí thư cấp uỷ,
Chủ tịch, Phó chủ tịch HĐND; Chủ tịch, Phó chủ tịch UBND, Chủ tịch Mặt trận tổ
quốc, Chủ tịch Hội cựu chiến binh, Bí thư Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh,
Chủ tịch Hội Nông dân; Chủ tịch Hội phụ nữ, và các chức danh công chức cơ sở.
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu chất lượng cán bộ, công chức cấp xã theo
Luật Cán bộ, công chức năm 2008.
- Về không gian: Trên địa bàn huyện Sóc Sơn Thành phố Hà Nội.
- Về thời gian: Khảo sát tại 26 xã thị trấn, từ 2010 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp thu thập số liệu: Được thực hiện bằng quan sát, theo
dõi,thu thập số liệu, phục vụ đề tài nghiên cứu.
5.2 Phương pháp xử lý và phân tích số liệu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng ta về cán bộ và công tác cán bộ, chủ yếu
sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin.(đó là phương pháp duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử) đồng thời luận văn còn sử dụng phương pháp lôgíc
lịch sử, phân tích, tổng hợp, khảo sát, điều tra xã hội học, thống kê so sánh để thực
hiện mục đích yêu cầu nghiên cứu của đề tài.
6. Đóng góp mới của đề tài
- Góp phần xác định đúng tiêu chuẩn, yêu cầu của từng chức danh cán bộ,
công chức cấp xã huyện Sóc Sơn Thành Phố Hà Nội giai đoạn mới. Luận văn chỉ ra
được những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân về chất lượng cán bộ, công chức
cấp xã ở Huyện Sóc Sơn
5
- Đưa ra những giải pháp cơ bản có tính khả thi góp phần nâng cao chất
lượng cán bộ công chức cấp xã ở huyện Sóc Sơn Thành phố Hà Nội đáp ứng yêu
cầu trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
- Luận văn cung cấp những luận cứ khoa học giúp Đảng bộ các huyện nói
chung và Huyện ủy Sóc Sơn Thành Phố Hà Nội thực hiện việc nâng cao chất lượng
cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn huyện.
* Ý nghĩa thực tiễn: luận văn là tài liệu tham khảo có giá trị cho việc định
ra chủ trương, chính sách xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ở Huyện Sóc Sơn.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy đối với
cán bộ cấp xã .
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm có 3 chương:
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC CẤP XÃ
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC CẤP XÃ
1.1.1. Khái niệm về cán bộ, công chức
Trên thế giới có những quan niệm khác nhau về cán bộ, công chức. Ở Việt
Nam, cán bộ, công chức là khái niệm thường được dùng để gọi chung những người
làm việc cho nhà nước, hoặc các tổ chức trong hệ thống chính trị.
* Cán bộ là khái niệm chỉ những người có chức vụ, vai trò và cương vị
nòng cốt trong một tổ chức, có tác động, ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức và
các quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành, góp phần định hướng sự
phát triển của tổ chức".
Theo Từ điển Tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng, năm 2006)
cán bộ được định nghĩa là: "Người làm công tác nghiệp vụ chuyên môn trong cơ
quan Nhà nước, Đảng và đoàn thể có chức vụ. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Cán bộ là người đem chính sách của Đảng, Chính phủ giải thích cho dân
chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình dân chúng báo cáo cho
Đảng, Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng” (Hồ Chí Minh toàn tập,
tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, tr 269).
* Quan niệm về công chức: Nhiều quốc gia quan niệm công chức là những
nhân viên công tác, được hưởng lương từ ngân sách, bị quy định bởi quy chế hoặc
luật công chức, là người làm việc trong hệ thống công quyền nhà nước.
Công chức là bộ phận rất quan trọng trong nền hành chính quốc gia. Tuy
nhiên, do đặc điểm cấu trúc của hệ thống chính trị nước ta nên quan niệm về công
chức ở Việt Nam cũng có đặc thù. Trong tổ chức đảng và đoàn thể, cán bộ được
dùng để chỉ những người được bầu vào các chức vụ lãnh đạo, làm công tác chuyên
7
trách hưởng lương từ ngân sách nhà nước". "Công chức là những người được tuyển
dụng, bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong cơ quan nhà nước, hưởng
lương do ngân sách nhà nước cấp". Khái niệm công chức theo Từ điển Tiếng Việt
không đề cập đến lực lượng làm việc trong cơ quan Đảng, tổ chức chính trị - xã
hội. Các yêu cầu phải "được tuyển dụng", "được bổ nhiệm" và "hưởng lương từ
ngân sách nhà nước" không phải là điểm đặc trưng của riêng đối tượng công chức.
Lực lượng cán bộ ở các cơ quan Đảng cũng được bổ nhiệm và cũng hưởng lương từ
ngân sách nhà nước. Với khái niệm công chức như vậy, thì không thể phân biệt
được cán bộ và công chức.
Hiện nay, theo văn bản quy phạm pháp luật đang có hiệu lực pháp luật và có
giá trị pháp lý cao nhất về địa vị pháp lý của cán bộ, công chức Việt Nam là Luật
cán bộ công chức năm 2008; Tại điều 4 của Luật Quy định như sau:
- Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước.
- Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch,
chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc
Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân
quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ
quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự
nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội
(sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị
sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công
lập theo quy định của pháp luật.
8
- Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt Nam,
được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban
nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội.
- Công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh
chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước. Công chức cấp xã, có trách nhiệm tham mưu, giúp Ủy ban nhân
dân cấp xã thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực công tác được phân
công và thực hiện các nhiệm vụ khác do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã giao.
Cán bộ cấp xã có các chức vụ sau đây:
a) Bí thư, Phó Bí thư Đảng uỷ;
b) Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân;
c) Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân;
d) Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
đ) Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;
e) Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam;
g) Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam (áp dụng đối với xã, phường, thị trấn có
hoạt động nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và có tổ chức Hội Nông dân Việt Nam);
h) Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
Công chức cấp xã có các chức danh sau đây:
a) Trưởng Công an;
b) Chỉ huy trưởng Quân sự;
c) Văn phòng - thống kê;
d) Địa chính - xây dựng - đô thị và môi trường (đối với phường, thị trấn)
hoặc địa chính - nông nghiệp - xây dựng và môi trường (đối với xã);
đ) Tài chính - kế toán;
e) Tư pháp - hộ tịch;
g) Văn hóa - xã hội.
Công chức cấp xã phải có đủ các tiêu chuẩn chung quy định tại Điều 3 Nghị
định số 112/2011/NĐ-CP ngày 05 tháng 12 năm 2011 của Chính phủ về công chức
xã, phường, thị trấn và các tiêu chuẩn cụ thể sau:
9
- Độ tuổi: Đủ 18 tuổi trở lên;
- Trình độ văn hóa: Tốt nghiệp trung học phổ thông;
- Trình độ chuyên môn: Tốt nghiệp trung cấp chuyên nghiệp trở lên của
ngành đào tạo phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của chức danh công chức được
đảm nhiệm;
- Trình độ tin học: Có chứng chỉ tin học văn phòng trình độ A trở lên;
Như vậy, Luật Cán bộ, công chức là một sự kế thừa và phát triển những quy
định trước đây về cán bộ, công chức. Khái niệm cán bộ, khái niệm công chức đã
được luật hoá. Luật Cán bộ, công chức là cơ sở pháp lý cơ bản để phân định rõ
giữa cán bộ và công chức. Việc phân định rõ cán bộ, công chức sẽ tạo điều kiện
thuận lợi để cơ quan nhà nước có thẩm quyền xây dựng các chính sách đối với cán
bộ, công chức một cách phù hợp, phát huy được vai trò quan trọng của đội ngũ cán
bộ, công chức Việt Nam trong hệ thống chính trị.
1.1.2. Đặc điểm cán bộ, công chức cấp xã
Hiện nay, nước ta có 11.162 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm
1.567 phường, 597 thị trấn và 9064 xã, với tổng số trên 222.735 cán bộ, công chức .
Đây là những người trực tiếp thực hiện và đưa chủ trương, đường lối, nghị quyết
của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân, tuyên truyền, vận
động nhân dân tổ chức thực hiện.
Cán bộ, công chức cấp xã cả nước hiện nay rất đông (gần bằng số lượng cán
bộ, công chức hành chính của trung ương và 64 tỉnh thành cộng lại). Tuy nhiên về
chất lượng lại rất thấp, độ tuổi tương đối già. Cán bộ Mặt trận và đoàn thể chưa có
chuyên môn phù hợp nhưng do cán bộ được sự tín nhiệm nên được giữ những trọng
trách quan trọng mặc dù có thể chưa đủ tiêu chuẩn theo quy định ...Đây là những
nguyên nhân dẫn đến hiệu quả giải quyết công việc không cao.
Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện
các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và là lực lượng chiếm số lượng hết
sức đông đảo trong tổng số biên chế hiện nay. Chính vì vậy, việc xác định rõ đặc
điểm, vị trí, vai trò của cán bộ, công chức cấp xã là vấn đề cần thiết để có chủ
10
trương, chính sách phù hợp. Cán bộ, công chức cấp xã là những người gần dân, sát
dân, biết dân,trực tiếp triển khai đường lối của Đảng, chính sách pháp lụât của Nhà
nước vào dân, gắn bó với nhân dân.
Cán bộ, công chức cấp xã quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này bao
gồm cả cán bộ, công chức được luân chuyển, điều động, biệt phái về cấp xã. Cán
bộ, công chức cấp xã khi giữ chức vụ được hưởng lương và chế độ bảo hiểm; khi
thôi giữ chức vụ, nếu đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật được
xem xét chuyển thành công chức, trong trường hợp này, được miễn chế độ tập sự và
hưởng chế độ, chính sách liên tục; nếu không được chuyển thành công chức mà
chưa đủ điều kiện nghỉ hưu thì thôi hưởng lương và thực hiện đóng bảo hiểm tự
nguyện theo quy định của pháp luật; trường hợp là cán bộ, công chức được điều
động, luân chuyển, biệt phái thì cơ quan có thẩm quyền bố trí công tác phù hợp
hoặc giải quyết chế độ theo quy định của pháp luật. Cán bộ, công chức theo pháp
luật Việt Nam phải đảm bảo tối thiểu các điều kiện như phải là công dân Việt Nam,
trong biên chế, hưởng lương từ ngân sách hoặc các nguồn thu từ hoạt động sự
nghiệp, đối với công chức ở các đơn vị sự nghiệp còn gọi là viên chức.
- Cán bộ, công chức cấp xã có tính ổn định thấp so với cán bộ, công chức
nhà nước cấp trên. Cán bộ, công chức cấp xã có tính chuyên môn hoá thấp, kiêm,
nghiệm nhiều.
- Cán bộ, công chức cấp xã là người đại diện cho quần chúng nhân dân
lao động ở cơ sở. Vì vậy cán bộ, công chức luôn bám sát dân, gần dân, lắng nghe ý
kiến nguyện vọng của nhân dân từ đó có những cách thức tiến hành công việc phù
hợp và đảmbảo cho lợi ích chính đáng của nhân dân, là người trực tiếp giải quyết tất
cả các yêu cầu, quyền lợi chính đáng từ nhân dân, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước
với nhân dân.
- Cán bộ, công chức cấp xã là những người xuất phát từ cơ sở (chủ yếu là
người của địa phương), họ vừa trực triếp tham gia lao động lao động sản xuất, vừa
là người đại diện cho nhân dân thực hiện chức năng, lãnh đạo, quản lý nhà
nước, giải quyết các công việc của nhà nước. Do đó xét ở khía cạnh nào đó cán bộ,
11
công chức cấp xã bị chi phối, ảnh hưởng rất nhiều bởi những phong tục tập quán
làng quê, những nét văn hóa bản sắc riêng đặc thù của địa phương, của dòng họ.
- Cán bộ, công chức cấp xã phần lớn do dân bầu ra (có nơi chiếm 60%)
chính vì vậy số lượng thường xuyên bị biến động do hết nhiệm kỳ dân lại bầu
những đại diện mới.
Năm 2009, Chính phủ nước ta ban hành Nghị định 92/2009/NĐ-CP về
chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã,
phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã .Theo
đó, số lượng cán bộ, công chức cấp xã được bố trí theo loại đơn vị hành chính
cấp xã; cụ thể như sau:
- Cấp xã loại 1: không quá 25 người;
- Cấp xã loại 2: không quá 23 người;
- Cấp xã loại 3: không quá 21 người;
Việc xếp loại đơn vị hành chính cấp xã thực hiện theo quy định tại Nghị định
số 159/2005/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2005 của Chính phủ về việc phân loại
đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn.
Từ ngày 01/01/2010 Luật cán bộ công chức đã có hiêu lực thì các đối tượng
là cán bộ, công chức đã được xác định rõ và luật chỉ điều chỉnh đối với công chức
và các chức danh cán bộ chủ chốt, hay cán bộ chuyên trách. Các đối tượng là cán bộ
không chuyên trách không được Luật quy định.
Việc sử dụng, đánh giá, phân loại cán bộ, công chức dựa trên phẩm chất chính
trị, đạo đức và năng lực thi hành công vụ; thực hiện bình đẳng giới. Nhà nước có
chính sách để phát hiện, thu hút, bồi dưỡng, trọng dụng và đãi ngộ xứng đáng đối với
người có tài năng. Chính phủ quy định cụ thể chính sách đối với người có tài năng.
Công chức xã phải thông qua tuyển dụng và phụ trách những lĩnh vực công
tác cụ thể nên nhìn chung có sự đảm bảo về tiêu chuẩn và tính ổn định trong công
tác. Tính ổn định của công chức cấp xã cao hơn so với cán bộ cấp xã. Công chức xã
trực tiếp tham mưu cho lãnh đạo UBND cấp xã trong việc điều hành, chỉ đạo công tác.
Chất lượng của công chức cấp xã sẽ góp phần quyết định đến hiệu lực, hiệu quả quản
lý hành chính nhà nước ở cấp xã.
12
Cán bộ, công chức cấp xã được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức phù hợp tiêu
chuẩn chức danh hiện đang đảm nhiệm và theo quy hoạch cán bộ, công chức.
- Được cấp tài liệu học tập.
- Được hỗ trợ một phần tiền ăn trong thời gian đi học tập trung.
- Được hỗ trợ chi phí đi lại từ cơ quan đến nơi học tập.
1.1.3. Vị trí, vai trò của cán bộ, công chức cấp xã
Cán bộ, công chức có một vị trí, vai trò rất quan trọng, là chủ thể thực thi
pháp luật để quản lý mọi mặt của đời sống xã hội nhằm thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ mà Nhà nước đề ra; giữ gìn trật tự kỷ cương xã hội, đấu tranh ngăn chặn,
phòng ngừa, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm, bảo vệ lợi ích của các
tầng lớp nhân dân lao động; điều hành các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội trong quá trình hoạt động của bộ máy nhà nước.
Xuất phát từ đặc điểm của mình, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ngoài
những vị trí, vai trò chung của cán bộ, công chức còn có những vị trí, vai trò sau:
- Một là, cán bộ, công chức cấp xã là người trực tiếp tuyên truyền, phổ biến
các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước đến nhân
dân; làm cho các tầng lớp nhân dân hiểu đúng, hiểu đầy đủ các chủ trương, chính
sách đó: Trong giai đoạn hiện nay, khi chúng ta đang tiến hành xây dựng nhà nước
pháp quyền, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường mối quan hệ gắn bó
giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân; vì vậy, vai trò này của đội ngũ cán bộ, công
chức cấp xã càng có ý nghĩa quan trọng, đảm bảo cho nhân dân biết và nắm được
các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Cán bộ, công chức cấp xã phải tiến hành nhiều hình thức, biện pháp khác
nhau như thông qua các buổi tuyên truyền, nói chuyện tại cuộc họp thôn, xóm, khu
dân cư, tổ đoàn kết, trung tâm học tập cộng đồng hoặc thông qua các buổi đối thoại
trực tiếp với nhân dân để giải quyết các vấn đề mới phát sinh như liên quan đến việc
bồi thường thiệt hại, giải phóng mặt bằng, quy hoạch… Đồng thời, nó còn đòi hỏi
cán bộ, công chức cấp xã phải có những hiểu biết nhất định về lý luận và am hiểu
tình hình thực tế của địa phương, cũng như nắm bắt được đặc điểm, tâm lý của từng
lớp dân cư thuộc phạm vi quản lý của mình.
13
- Hai là, cán bộ, công chức cấp xã là người có vai trò rất quan trọng trong việc
tổ chức và vận động nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh
tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư: Các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước được nhân dân nắm bắt, nhận thức mới chỉ là khởi đầu, điểm xuất
phát để kiểm nghiệm được tính đúng đắn của chủ trương, đường lối đó; điều kiện đủ
là phải tổ chức thực hiện trong thực tiễn; muốn làm được điều đó không có ai khác là
cán bộ, công chức cấp xã, bởi cán bộ, công chức cấp xã là người tiếp xúc nhiều nhất,
hiểu rõ nhất, giải quyết nhiều việc nhất của nhân dân. Đội ngũ cán bộ, công chức cấp
xã có khả năng tổ chức, bố trí, sử dụng, tập hợp và lôi cuốn mọi người vào hoạt động;
phải có khả năng xử lý các tình huống phát sinh, đó là các tình huống về tài chính, về
thiên tai, địch họa, do va chạm xóm giềng, dòng tộc, tình huống nảy sinh khi ra
những quyết định sai trái với cấp trên…; phải có khả năng kiểm tra, đánh giá hoạt
động của mình và khả năng tổng kết, sơ kết việc tổ chức thực hiện các chủ trương,
chính sách. Cán bộ, công chức cấp xã có vai trò đảm bảo cho các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước thực hiện một cách nghiêm túc, thông qua việc xử lý,
đấu tranh ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật kịp thời, hiệu quả, góp phần ổn
định tình hình an ninh - chính trị, trật tự an toàn xã hội tại từng địa bàn thôn, xóm,
thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị đề ra.
- Ba là, cán bộ, công chức cấp xã là người nắm bắt kịp thời, phản ánh đầy đủ
các tâm tư, nguyện vọng của nhân dân để Đảng, Nhà nước có cơ sở khoa học sửa
đổi, bổ sung, ban hành mới các chủ trương, chính sách có tính khả thi, phù hợp với
từng giai đoạn phát triển của đất nước:
Các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước khi ban hành muốn đảm
bảo tính khả thi phải xuất phát từ thực tiễn cuộc sống; muốn vậy, đòi hỏi cán bộ,
công chức cấp xã phải nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, để mọi chủ
trương, chính sách khi ban hành đều vì lợi ích của nhân dân, dựa trên ý kiến của
nhân dân; qua đó sẽ phát huy được tính tích cực, chủ động của mỗi con người, làm
cho mọi tiềm năng sáng tạo được phát triển, mọi người dân đều được tham gia vào
14
các quá trình chính trị, xã hội, các vấn đề nảy sinh được phát hiện kịp thời, các khó
khăn sớm được tháo gỡ, tạo sự phát triển mạnh mẽ của đất nước.
Cấp cơ sở là cấp trực tiếp tổ chức thực hiện mọi chủ trương đường lối của
Đảng và pháp luật của Nhà nước. Chất lượng và hiệu quả thực thi pháp luật một
phần được quyết định bởi sự triển khai ở cơ sở. Cấp cơ sở là cấp trực tiếp gắn với
quần chúng, tạo dựng phong trào cách mạng quần chúng, cán bộ, công chức cấp
xã là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, là nhân tố quyết định đến sự thành
bại của cách mạng, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Ở cơ sở xã, thị
trấn mạnh hay yếu một phần quan trọng phụ thuộc vào chất lượng cán bộ công
chức cấp xã .
Tóm lại, bất cứ ở đâu và lúc nào, cán bộ, công chức cũng có vị trí, vai trò hết
sức to lớn; với tư cách là một bộ phận quan trọng, chiếm số lượng tương đối lớn thì
cán bộ, công chức cấp xã có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng đối với chế độ, sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.2. CHẤT LƯỢNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ VÀ CÁC YẾU
TỐ ẢNH HƯỞNG
1.2.1. Khái niệm về chất lượng cán bộ, công chức cấp xã
Theo Từ điển Tiếng Việt thì chất lượng hiểu ở nghĩa chung nhất là "Cái tạo
nên phẩm chất, giá trị của một con người, sự vật, sự việc". Đối với một con người
sống trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chất lượng của cá nhân đó được
hiểu là tổng hợp những phẩm chất nhất định về sức khỏe, trí tuệ, khoa học, chuyên
môn nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức, ý chí, niềm tin, năng lực; luôn gắn bó với
tập thể, với cộng đồng và tham gia một cách tích cực vào quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước yêu cầu chất
lượng đối với mỗi người trong xã hội nói chung vốn đã cao thì yêu cầu đối với chất
lượng cán bộ, công chức càng cao hơn - đòi hỏi người cán bộ, công chức có những
trình độ phẩm chất theo yêu cầu như nêu ở trên thì người cán bộ phải gương mẫu đi
tiên phong về lý luận và thực tiễn, chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương, đường lối,
15
chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; giữ vững tiêu chuẩn và tư cách của
người cán bộ.
Mỗi cán bộ, công chức không tồn tại một cách biệt lập mà phải được đặt
trong một chỉnh thể thống nhất của cả đội ngũ cán bộ, công chức. Vì vậy, quan
niệm về chất lượng cán bộ, công chức phải được đặt trong mối quan hệ biện chứng
giữa chất lượng của từng cán bộ, công chức với chất lượng của cả đội ngũ CBCC.
Chất lượng của cả đội ngũ không phải là sự tập hợp giản đơn số lượng mà là sự
tổng hợp sức mạnh của toàn bộ đội ngũ. Sức mạnh này bắt nguồn từ phẩm chất
vốn có bên trong của mỗi cán bộ,công chức và nó được tăng lên gấp bội bởi tính
thống nhất của tổ chức; của sự giáo dục, đào tạo, phân công, quản lý, của kỷ luật.
Như vậy, có thể nói chất lượng cán bộ, công chức bao gồm: Chất lượng
của từng cán bộ, công chức; cụ thể là phẩm chất chính trị, đạo đức; trình độ
năng lực và khả năng hoàn thành nhiệm vụ. Chất lượng của từng cán bộ, công
chức là yếu tố cơ bản tạo nên chất lượng của cả đội ngũ.
Các yếu tố cấu thành chất lượng cán bộ, công chức không chỉ bao gồm một
mặt, một khía cạnh nào đó, mà nó bao gồm cả một hệ thống, được kết cấu như
một chỉnh thể toàn diện từ chất lượng của từng cán bộ, công chức (đây là yếu tố
cơ bản nhất, tiên quyết nhất) cho đến cơ cấu số lượng nam nữ, độ tuổi, thành
phần cùng với việc bồi dưỡng, giáo dục, phân công, quản lý kiểm tra giám sát và
thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị.
Để nâng cao chất lượng của cán bộ, công chức, cần phải giải quyết tốt mối
quan hệ giữa chất lượng với số lượng cán bộ, công chức. Chỉ khi nào hai mặt này
quan hệ hài hòa, tác động hữu cơ với nhau thì mới tạo nên sức mạnh đồng bộ của
cả đội ngũ. Trong thực tế chúng ta cần phải chống hai khuynh hướng, khuynh
hướng thứ nhất là chạy theo số lượng, ít chú trọng đến chất lượng dẫn đến
CBCC nhiều về số lượng nhưng hoạt động không hiệu quả. Khuynh hướng thứ
hai, cầu toàn về chất lượng nhưng không quan tâm đến số lượng. Khuynh hướng
này là một nguyên nhân quan trọng làm cho tuổi đời bình quân của cán bộ, công
chức ngày càng cao, hẫng hụt về thế hệ. Trong giai đoạn hiện nay thì cần hơn hết là
16
phải coi trọng chất lượng của cán bộ, công chức trên cơ sở bảo đảm số lượng hợp
lý. Chất lượng của đội ngũ cán bộ còn được đánh giá dưới góc độ khả năng thích
ứng, xử lý các tình huống phát sinh của người cán bộ, công chức đối với công vụ
được giao. Từ những góc độ khác nhau nêu trên, có thể đưa ra khái niệm chất lượng
cán bộ công chức cấp xã là chỉ tiêu tổng hợp, là hệ thống những phẩm chất giá trị
được kết cấu như một chỉnh thể, toàn diện, thể hiện qua phẩm chất chính trị, đạo
đức lối sống, trình độ, năng lực và khả năng thích ứng, thực hiện có hiệu quả nhiệm
vụ được giao của họ.
1.2.2. Những tiêu chí đánh giá chất lượng cán bộ, công chức cấp xã
Đánh giá cán bộ, công chức là việc hệ trọng, là khâu có ý nghĩa quyết định
trong công tác cán bộ, là cơ sở để thực hiện các khâu khác trong công tác cán bộ.
Đánh giá đúng cán bộ, công chức sẽ phát huy tiềm năng của từng cán bộ, công chức
và cả đội ngũ cán bộ, công chức. Đánh giá không đúng, sẽ dẫn đến việc lựa chọn
cán bộ, công chức không đủ phẩm chất và năng lực bố trí vào những cương vị có
trọng trách, dẫn đến hỏng người, hỏng việc, gây tổn thất cho địa phương và ảnh
hưởng trong phạm vi cả nước.
Đánh giá cán bộ, công chức là công việc hết sức khó khăn và nhạy cảm, sau
đánh giá có thể xảy ra hai khuynh hướng khác nhau; một mặt nó làm cho cán bộ,
công chức yên tâm, phấn khởi, năng động, sáng tạo trong công tác, mặt khác nó gây
ra sức ỳ, thiếu chí tiến thủ, bi quan, chán nản trong cán bộ, công chức, thậm chí gây
ra những hành vi vi phạm pháp luật, bị các thế lực thù địch lợi dụng, chống phá
Đảng và Nhà nước. Vì vậy, khi đánh giá cán bộ, công chức cấp xã phải đảm bảo
căn cứ, nguyên tắc, quy trình, thủ tục, thẩm quyền và trách nhiệm.
Chất lượng bộ, công chức được xác định trên cơ sở tiêu chí về phẩm chất đạo
đức, trình độ năng lực phù hợp với vị trí, vai trò, chức năng nhiệm vụ của cán bộ,
công chức nói chung và của đội ngũ cán bộ công chức cấp xã nói riêng, về khả năng
hoàn thành nhiệm vụ được giao.
1.2.2.1. Về phẩm chất chính trị
Người cán bộ muốn xác lập được uy tín của mình trước nhân dân, trước hết đó
phải là người cán bộ có phẩm chất đạo đức tốt. Xây dựng các tiêu chuẩn đạo đức của
17
người cán bộ, công chức và hình thành ở họ các phẩm chất đạo đức tương ứng với vị
trí, vai trò, chức năng nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ là việc làm cần thiết và cấp bách,
nhất là trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước hiện nay.
Phẩm chất chính trị là lòng nhiệt tình cách mạng, lòng trung thành tuyệt đối
với lý tưởng của Đảng, với Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, tinh
thần tận tụy với công việc, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân
dân; là bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định với mục tiêu và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội.
Người cán bộ, công chức cấp xã có phẩm chất chính trị tốt là người tích
cực tuyên truyền, vận động gia đình, bà con nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, là người luôn trăn trở
băn khoăn và tìm cách tháo gỡ những khó khăn ở cơ sở, từng bước nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Người có phẩm chất chính trị tốt là người
một lòng phục vụ Nhà nước, phục vụ nhân dân. Đây là tiêu chuẩn đầu tiên, là điều
kiện tiên quyết đối với mỗi người cán bộ, công chức.
Người cán bộ, công chức có phẩm chất chính trị tốt không chỉ bằng những lời
tuyên bố, hứa hẹn mà quan trọng hơn là việc nghiêm chỉnh chấp hành đường lối, chỉ
thị, nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước, kiên quyết chống lại mọi lệch lạc,
biểu hiện sai trái trong đời sống xã hội đi trái ngược với đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Người cán bộ tốt ở đây phải là người có đủ cả năng lực trình độ lẫn đạo đức
cách mạng. Phẩm chất chính trị của người cán bộ, công chức cấp xã còn biểu hiện
thông qua thái độ phục vụ nhân dân, tinh thần gương mẫu trong công tác, tinh thần
trách nhiệm đối với đời sống của đồng bào nhân dân tại địa phương. Người
cán bộ có phẩm chất chính trị tốt phải là người luôn trăn trở trước những khó khăn
ở địa phương; phải có quyết tâm đưa địa phương cơ sở nơi mình công tác ngày càng
phát triển về mọi mặt, thực hiện công bằng, dân chủ, văn minh.
12.2.2. Về phẩm chất đạo đức: Đạo đức cách mạng là nền tảng, là gốc, là sức
mạnh của người cán bộ, công chức, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: "Cũng như
18
sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn; cây phải có gốc
không có gốc thì cây héo; người cách mạng phải có đạo đức cách mạng, không có
đạo đức thì có tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân " sức có mạnh mới
gánh được nặng và đi được xa, người cách mạng phải có đạo đức cách mạng mới
hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng”. Người cho rằng, đạo đức chính là cái gốc
quan trọng hàng đầu của người cách mạng "Người cách mạng phải có đức, không
có đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân".
Tiêu chí đạo đức người cán bộ cách mạng được Hồ Chí Minh chỉ ra hết sức
cụ thể, đó là nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm; mỗi người cán bộ phải hội đủ các phẩm
chất cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Bên cạnh việc chỉ ra những tiêu chí đạo đức người cán bộ cách mạng, Hồ
Chí Minh còn chỉ ra những căn bệnh mà cán bộ phải phòng tránh, sửa chữa. Đó là
óc địa phương chủ nghĩa, bè phái, quân phiệt, hẹp hòi, chuộng hình thức, lối làm
việc bàn giấy, vô kỷ luật, tham lam, lười biếng, kiêu ngạo, lãng phí…
Cán bộ, công chức cấp xã là người trực tiếp làm việc và sinh hoạt cùng
với người dân. Cho nên đạo đức của người cán bộ, công chức sẽ có tác động rất lớn
đối với người dân, có ảnh hưởng rất lớn đối với hiệu quả quản lý nhà nước ở cơ
sở. Nếu người cán bộ, công chức có đầy đủ các phẩm chất: Cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư thì nhân dân sẽ tin tưởng họ, tin tưởng vào sự nghiệp cách mạng
của Đảng, từ đó nhân dân tự giác thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước. Ngược lại, nếu người cán bộ, công chức không có đủ các
phẩm chất trên thì họ sẽ bị mất niềm tin của nhân dân, ảnh hưởng đến uy tín của
Đảng.
Người cán bộ, công chức cấp xã chỉ tuyên truyền, phổ biến đường lối,chính
sách thôi chưa đủ mà họ phải là người tiền phong gương mẫu trong việc chấp hành
đường lối, chủ trương, chính sách đó, họ phải nói đi đôi với làm, họ phải là tấm
gương sáng để nhân dân noi theo như Bác Hồ đã dạy: Một tấm gương sáng còn giá
trị hơn một triệu bài diễn văn tuyên truyền.
Người cán bộ, công chức cấp xã muốn được dân tin yêu (nói dân nghe, làm
19