Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

CHỐNG CHỊU KHÍ HẬU TỔNG HỢP VÀ SINH KẾ BỀN VỮNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (540.21 KB, 19 trang )

CỘNG HÕA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

DỰ ÁN
CHỐNG CHỊU KHÍ HẬU TỔNG HỢP VÀ SINH KẾ BỀN VỮNG
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
(Dự án MD-ICRSL)

TÓM TẮT
ĐÁNH GIÁ ĐIỀU KIỆN XÃ HỘI KHU VỰC (RSA)

Cơ quan chủ quản: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Cơ quan đề xuất dự án: Ban Quản lý Trung ương các Dự án Thuỷ lợi

Hà Nội, 2016


TÓM TẮT
Bản Đánh giá về điều kiện xã hội của khu vực (Đánh giá) được thực hiện nhằm hỗ trợ
cho hoạt động chuẩn bị Dự án Chống chịu khí hậu tổng hợp và Sinh kế bền vững Đồng
bằng sông Cửu Long (Dự án).
Các phát hiện, phân tích và kiến nghị của Đánh giá này cung cấp thông tin đầu vào cho
nghiên cứu khả thi của các tiểu dự án, Báo cáo đánh giá tác động môi trường và xã hội
(EIA), và các tài liệu khác có liên quan.
Đánh giá tập trung vào các tiểu dự án của Hợp phần 2, 3, và 4 của Dự án. Trong quá
trình chuẩn bị chúng tôi đã xem xét được các tiểu dự án sau đây.
Tiểu dự án (Địa điểm)

Tác động đối với vùng

Hợp phần 2: Quản lý lũ lụt ở vùng thƣợng lƣu Đồng bằng sông Cửu Long


Tiểu dự án 1 (An Giang –Kiên
Giang)
Tiểu dự án 2 (Thượng An Giang)
Tiểu dự án 3 (Đồng Tháp)

Phân lũ
Chậm lũ, cải thiện sinh kế mùa lũ
Sinh kế thay thế trong mùa lũ

Hợp phần 3: Thích ứng với chuyển đổi độ mặn ở cửa sông
Tiểu dự án 1 (Bến Tre)
Tiểu dự án 2 (Bến Tre)
Tiểu dự án 3 (Trà Vinh)1
Tiểu dự án 4 (Sóc Trăng)

Chuyển đổi sang nền kinh tế nước mặn – nước
lợ
Điều chỉnh sử dụng đất nhằm tăng cường khả
năng chống chịu
Phục hồi rừng ngập mặn và bảo vệ vùng ven
biển
Chuyển đổi sang một nền kinh tế mặn lợ

Hợp phần 4: Bảo vệ khu vực ven biển và bán đảo
Tiểu dự án 1 (Cà Mau)
Tiểu dự án 2 (Kiên Giang)

Phục hồi rừng ngập mặn và bảo vệ vùng ven
biển
Chuyển đổi sang một nền kinh tế mặn lợ

Tăng trữ nước ngọt tại một số khu vực

1

Lưu ý là Đánh giá này không bao gồm khảo sát thực địa tại tiểu dự án Trà Vinh vì vào thời điểm nghiên cứu, tiểu dự án chỉ
bao gồm ba cửa cống chứ không có đầu tư sinh kế. Tuy nhiên, VAWR đã thực hiện một số khảo sát thực địa để điều tra về
vấn đề tái định cư, có trong RAP của tiểu dự án Trà Vinh.

1


1. TỔNG QUAN DỰ ÁN
Chính phủ Việt Nam và Ngân hàng Thế giới đang chuẩn bị dự án "Chống chịu khí hậu tổng
hợp và Sinh kế bền vững vùng Đồng bằng sông Cửu long". Mục tiêu phát triển của dự án là
nâng cao năng lực quản lý và thích ứng với biến đổi khí hậu bằng cách cải thiện quy hoạch,
thúc đẩy sinh kế nông thôn bền vững, và xây dựng hạ tầng thông minh khí hậu lựa chọn ở các
tỉnh đồng bằng sông Cửu Long ở Việt Nam. Dự án sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp đem lại lợi ích
cho hơn một triệu người sống trong ba tiểu vùng: (a) vùng thượng nguồn đồng bằng (An
Giang, Đồng Tháp và Kiên Giang); (b) bán đảo (Cà Mau, Bạc Liêu và Kiên Giang); và (c) các
cửa sông ven biển (Bến Tre, Trà Vinh và Sóc Trăng). Thêm nữa, các hộ gia đình nông thôn
và đô thị và doanh nghiệp nông nghiệp ở khu vực thượng nguồn và hạ du cũng trực tiếp hoặc
gián tiếp được hưởng lợi từ sự can thiệp của dự án.
Dự án được hình dung là giai đoạn đầu tiên của một kế hoạch lâu dài có sự tham gia Ngân
hàng Thế giới tại đồng bằng sông Cửu Long nhằm tăng cường tích hợp chống chịu khia hậu
với quản lý và phát triển, giữa các ngành, các cấp tổ chức. Cụ thể hơn, nó sẽ hỗ trợ các hệ
thống thông tin, các thể chế, và lộ trình xây dựng năng lực quy hoạch vùng và cấp tỉnh để
phát triển bền vững cả vùng đồng bằng. Song song đó, dự án cũng sẽ tìm kiếm cơ hội đầu tư
'không hối tiếc' và mở rộng phạm vi tài trợ cho các lựa chọn phát triển dài hạn trong các giai
đoạn tiếp theo. Dự án sẽ bao gồm một sự kết hợp của các khoản đầu tư công trình và phi công
trình, và sẽ được thông báo của Ngân hàng Thế giới Xây dựng năng lực thích ứng ở đồng

bằng sông Cửu Long TA (P149017). Dự án được đề xuất để mở rộng trong khoảng thời gian 6
năm, với nguồn vốn 358,000,000 USD (300,0 triệu USD từ IDA; 58,0 triệu USD từ Chính
phủ Việt Nam).
Khái niệm dự án và cách tiếp cận được xây dựng lên từ tầm nhìn xác định trong Kế hoạch
phát triển Đồng bằng sông Cửu Long bởi Hà Lan, trong đó vùng đồng bằng đã được xem như
là khu sinh thái ngập nước phân chia giữa các tỉnh, các ngành khác nhau. Trong phạm vi các
đề xuất dự án, các nhóm công tác đã đề cao tầm quan trọng vào việc phối hợp với các dự án
Ngân hàng khác, và hoạt động của các đối tác phát triển khác.
Năm hợp phần được đề xuất trong dự án là:
Hợp phần 1: Kiến thức quản lý, lập kế hoạch, và tổ chức (Ước tính 48 triệu USD, trong đó
47.500.000 USD sẽ được tài trợ bởi IDA). Hợp phần này tìm cách cung cấp cơ chế tích hợp
thông tin và khung thể chế cho việc lập kế hoạch và quản lý ĐBSCL đa ngành có hiệu quả
nhằm (i) tăng cường khả năng phục hồi các rủi ro khí hậu và phát triển, nâng cao sức mạnh
tổng hợp cho các bên liên quan ở các tỉnh đồng bằng, (ii) cải thiện sử dụng hiệu quả hệ thống
giám sát hiện đại và các công cụ CNTT để phân tích quy hoạch và kịch bản hoạt động, và
thông tin để đưa ra quyết định đầu tư, và (iii) xây dựng năng lực cho các phương pháp tiếp
cận đa ngành.
Hợp phần 2: Quản lý Lũ lụt ở thƣợng nguồn đồng bằng (Ước tính 98,5 triệu USD, trong
đó 78,6 triệu USD sẽ được tài trợ bởi IDA.). Mục tiêu chính của hợp phần này là để bảo vệ và
2


/ hoặc lấy lại những lợi ích từ các biện pháp kiểm soát lũ (trữ lũ) tăng thu nhập ở nông thôn
và bảo vệ tài sản có giá trị cao ở các tỉnh An Giang và Đồng Tháp. Dự kiến các hoạt động bao
gồm: i) kiểm soát nguồn nước và cơ sở hạ tầng nông nghiệp để cho phép lũ lụt có lợi hơn (mở
rộng khả năng giữ lũ) ở các khu vực nông thôn và cung cấp giải pháp nông nghiệp / nuôi
trồng thủy sản trồng trọt mới thay thế; ii) cung cấp hỗ trợ biện pháp sinh kế cho người nông
dân để họ có lựa chọn thay thế cho cây lúa mùa mưa, bao gồm cả nuôi trồng thủy sản; iii) xây
dựng / nâng cấp cơ sở hạ tầng cho việc bảo vệ tài sản giá trị cao; và iv) hỗ trợ hiệu quả sử
dụng nước trong nông nghiệp vào mùa khô.

Hợp phần 3: Thích ứng với độ mặn thay đổi ở cửa sông đồng bằng (Est 98,500,000 USD,
trong đó 81.100.000 USD sẽ được tài trợ bởi IDA). Hợp phần này nhằm giải quyết những
thách thức liên quan đến xâm nhập mặn, xói lở bờ biển, nuôi trồng thủy sản bền vững và cải
thiện sinh kế cho các cộng đồng sống ở các vùng ven biển của tỉnh Sóc Trăng, Bến Tre, và
Trà Vinh. Dự kiến các hoạt động bao gồm: i) xây dựng hệ thống bảo vệ ven biển bao gồm kết
hợp của bảo vệ bãi bồi và phục hồi vành đai rừng ngập mặn ven biển; ii) Kiểm soát nguồn
nước và cơ sở hạ tầng nông nghiệp dọc theo vùng ven biển để hoạt động nuôi trồng thủy sản
linh hoạt, bền vững và thích ứng với sự thay đổi độ mặn; iii) hỗ trợ cho nông dân để chuyển
đổi (nơi thích hợp) hoạt động sinh kế nước lợ bền vững hơn như rừng ngập mặn nuôi tôm,
lúa-tôm, và các hoạt động nuôi trồng thủy sản khác; và iv) hỗ trợ nông nghiệp thông minh khí
hậu bằng cách tạo điều kiện hiệu quả sử dụng nước trong mùa khô.
Hợp phần 4: Bảo vệ vùng ven biển ở bán đảo đồng bằng (Ước tính 100,4 triệu USD, trong
đó 82.300.000 USD sẽ được tài trợ bởi IDA.). Hợp phần này nhằm giải quyết những thách
thức liên quan đến xói lở bờ biển, quản lý nước ngầm, nuôi trồng thủy sản bền vững, và cải
thiện sinh kế cho các cộng đồng sống ở các khu vực ven biển và cửa sông tỉnh Cà Mau và
Kiên Giang. Dự kiến các hoạt động bao gồm: i) khôi phục đai rừng ngập mặn ven biển và xây
dựng / cải tạo đê ven biển tại khu vực xói mòn; ii) nâng cấp cơ sở hạ tầng kiểm soát nguồn
nước dọc theo vùng ven biển cho phép hoạt động nuôi trồng thủy sản sự linh hoạt, bền vững;
iv) kiểm soát nước ngầm tiềm tàng cho nông nghiệp / nuôi trồng thủy sản và phát triển các
nguồn cung cấp nước ngọt cho sinh hoạt; v) hỗ trợ cho nông dân thực hành các hoạt động
sinh kế nước lợ bền vững hơn như các hoạt động nuôi trồng thủy sản khác và tôm- rừng; và
vi) hỗ trợ nông nghiệp thông minh khí hậu bằng cách tạo điều kiện sử dụng nước hiệu quả.
Hợp phần 5: Quản lý dự án và Hỗ trợ thực hiện (Ước tính 12,4 triệu USD, trong đó
10.500.000 USD sẽ được tài trợ bởi IDA.). Hợp phần này sẽ được phân chia để hỗ trợ quản lý
dự án và xây dựng năng lực cho Bộ TN & MT và Bộ NN & PTNT. Hợp phần này được dự
kiến sẽ cung cấp chi phí gia tăng hoạt động và các chuyên gia tư vấn và các dịch vụ tư vấn
quản lý dự án tổng thể, quản lý tài chính, đấu thầu, chính sách an toàn và giám sát và đánh
giá.

3



2. PHƢƠNG PHÁP LUẬN

Nghiên cứu sử dụng kết hợp các phương pháp sau:
 Nghiên cứu tài liệu và số liệu có sẵn tại văn phòng
 Hội thảo đầu bờ cho nhóm tập trung với các cuộc phỏng vấn tại khu vực tiểu dự
án
 Bảng hỏi với các câu hỏi đóng cho hộ gia đình
Các nhóm tập trung được khảo sát từ ngày 12/10 – 15/11/2015. Các nhóm được chia
thành nhóm chính quyền và nhóm cộng đồng. Đối với các nhóm cộng đồng, chúng tôi
phỏng vấn hai nhóm kinh tế xã hội (nghèo và khá giả) để đảm bảo số liệu về năng lực
ứng phó với BĐKH có thể được phân biệt theo nhóm kinh tế xã hội. Sự phân nhóm
dựa trên yếu tố giới cũng được tiến hành với các nhóm tập trung để hiểu được nhu cầu
cụ thể nữ giới. Tổng cộng, ở cấp cộng đồng, chúng tôi phỏng vấn song song 3 nhóm
tập trung, mỗi nhóm 10 người ở từng khu vực tiểu dự án.
Số liệu thống kê kinh tế xã hội được thu thập thông qua điều tra hộ gia đình, sử dụng
câu hỏi đóng. Điều tra được thực hiện từ 26/10-28/11/2015. Chúng tôi đã tiến hành 50
cuộc phỏng vấn hộ gia đình tại mỗi khu vực tiểu dự án.
3. BỐI CẢNH KINH TẾ XÃ HỘI TRONG VÙNG

3.1 Bối cảnh kinh tế
Trong 3 thập kỷ qua, nhờ sự cải thiện về cơ sở hạ tầng, hoạt động quản lý nước, tiến
bộ kỹ thuật, và cải cách chính sách, sản lượng của vùng đồng bằng lúa đã tăng từ 4,5
triệu tấn năm 1976 lên 24,6 triệu tấn năm 2012, trong đó có 8 triệu tấn xuất khẩu.
Đồng bằng sông Cửu Long đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của Việt Nam
và an ninh lương thực của khu vực. Đồng bằng sông Cửu Long chiếm 50% sản lượng
gạo của Việt Nam (90% cho xuất khẩu) và 70% sản lượng nuôi trồng thủy sản.
Tuy nhiên, trong vòng 10 năm qua, một số thay đổi tự nhiên và nhân tạo đã và đang
đặt ra nhiều áp lực phát triển cho Đồng bằng sông Cửu Long. Sản xuất theo hướng

thâm canh có tác động tiêu cực đối với tài nguyên thiên nhiên và môi trường của Đồng
bằng. Bên cạnh đó, biến đổi khí hậu (BĐKH) cũng đang đe dọa cuộc sống, sinh kế và
tài sản của người dân ở Đồng bằng sông Cửu Long. Năng suất lúa ở khu vực này dự
kiến sẽ giảm từ 6-12% do lũ lụt và xâm thực mặn, và sản lượng nuôi trồng thủy sản
cũng sẽ bị ảnh hưởng.
Áp lực kinh tế xã hội đã trở nên rõ ràng. Trước những rủi ro và áp lực đối với nền kinh
tế và môi trường, người nông dân sản xuất ở quy mô nhỏ ngày càng khó đạt được mức
4


lợi nhuận tối thiểu và khó duy trì sinh kế ổn định (Ngân hàng Thế giới, 2014). Mặc dù
tỷ lệ đói nghèo và bất bình đẳng về thu nhập ở Đồng bằng sông Cửu Long thấp hơn so
với mức trung bình của cả nước nhưng khoảng cách giàu nghèo ngày càng gia tăng
trong thập kỷ qua ở Đồng bằng sông Cửu Long. Khoảng cách giữa nhóm có thu nhập
thấp nhất và nhóm có thu nhập cao nhất năm 2004 là 6,7 lần và tăng lên 7,7 lần năm
2012.
3.2 Bối cảnh xã hội
3.2.1 Dân số và tỷ lệ tăng trưởng dân số
Dân số của Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) khoảng 17,5 triệu người, chiếm
19% dân số cả nước năm 2014. Tỷ lệ tăng trưởng dân số khá ổn định kể từ năm
2010. Tăng trưởng dân số tại 7 tỉnh dao động từ 0.1% (Sóc Trăng) đến 0.6% (Kiên
Giang).
3.2.2 Mật độ dân số các tỉnh
Mật độ dân số trung bình của ĐBSCL năm 2014 khoảng 432 người/km2.
3.2.3 Di cư và nhập cư
Trong 5 năm qua, các tỉnh thuộc dự án luôn có mức di cư cao hơn mức nhập cư.
Năm 2014 ở ĐBSCL, trung bình tỷ suất di cư thuần là -6.7%. Tỷ suất này tại các
tỉnh thuộc dự án là từ -5% với Trà Vinh đến -13.6% với Cà Mau. Xu hướng tỷ lệ di
cư cao hơn nhập cư cũng tăng nhẹ ở các tỉnh kể từ năm 2012.
3.2.4 Sắc tộc

Các dân tộc thiểu số phân bố không đồng đều trên toàn bộ khu vực ĐBSCL. Trong
số các tỉnh thuộc dự án, Sóc Trăng, Trà Vinh và Kiên Giang có tỷ lệ người dân tộc
thiểu số cao nhất (36%, 32%, 15%). An Giang và Cà Mau có số lượng người dân
tộc thiểu số ở mức tương đối thấp, Bến Tre và Đồng Tháp cũng có số lượng không
đáng kể. Phân bố dân số của người dân tộc thiểu số ở các tỉnh cũng không đồng
đều. Nhìn chung, kết quả xem xét các tỉnh với dân số người thiểu số cao nhất gồm
Sóc Trăng, Trà Vinh, Kiên Giang, An Giang và Cà Mau cho thấy, khu vực dự án
(các Huyện) trong tỉnh đều có tỷ lệ người dân tộc thiểu số thấp hơn so với tỷ lệ
chung toàn tỉnh.
3.2.5 Thu nhập và phân bổ thu nhập
Số liệu về thu nhập bình quân đầu người cho thấy người dân ở ĐBSCL có thu nhập
1,8 triệu/tháng, thấp hơn so với mức trung bình cả nước gần 2 triệu đồng/tháng năm
2012. Mặc dù sự bất bình đẳng thu nhập ở ĐBSCL thấp hơn so với mức trung bình
5


cả nước nhưng khoảng cách giàu nghèo ở khu vực này ngày càng tăng trong 10 năm
qua. Khoảng cách giữa nhóm có thu nhập thấp nhất và nhóm có thu nhập cao nhất
năm 2004 là 6,7 lần và đến năm 2012, con số này là 7,7 lần.
3.2.6 Tình hình nghèo đói
Trong giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2012, tỷ lệ hộ nghèo ở ĐBSCL liên tục giảm
(từ 13,5% năm 2006 xuống 10,1% năm 2012), ở mức thấp hơn mức trung bình cả
nước. Năm 2012, tỷ lệ hộ nghèo trung bình ở ĐBSCL là 10,1 % so với mức trung
bình cả nước 11,1%.
3.2.7 Việc làm
Theo số liệu việc làm, tỷ lệ thất nghiệp tại Việt Nam và ĐBSCL trong 5 năm qua
tương đối ổn định với mức tăng không đáng kể, trung bình khoảng 2%.
3.2.8 Vấn đề giới
Cơ hội việc làm của phụ nữ ở vùng nông thôn ĐBSCL cao hơn so với nam giới
nhưng vẫn ở dưới mức trung bình của cả nước. Số liệu cho thấy 1,83% số nữ đăng

ký tìm việc không thể tìm được việc so với mức trung bình cả nước là 1,49%.
Với phụ nữ ở ĐBSCL, nạn mù chữ là một vấn đề nan giải. Mù chữ dẫn đến đói
nghèo và là một chỉ số quan trọng về khả năng tổn thương về mặt xã hội. Theo số
liệu về tỷ lệ mù chữ, chỉ có 93 % phụ nữ ở ĐBSCL là biết chữ, thấp hơn so với tỷ lệ
của nam giới là 96.4% và mức trung bình cả nước 94.7% của cả nam và nữ.
3.2.9 Phương thức sử dụng đất và nông nghiệp
Phương thức sử dụng đất cho thấy một lượng lớn diện tích đất cây trồng hàng năm
(đa phần là lúa) là ở Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, và Sóc Trăng. Ngoài ra,
phần lớn diện tích đất dành cho nông nghiệp (theo thứ tự giảm dần) tại các tỉnh ven
biển Cà Mau, Trà Vinh, Sóc Trăng, và Bến Tre.
3.3 Dân số dễ bị tổn thƣơng ở Đồng bằng sông Cửu Long
3.3.1 Tình trạng không có đất và thiếu đất nông thôn
Có một số nguyên nhân của tình trạng không có đất nông thôn tại ĐBSCL. Một
gia đình trẻ ra sống riêng, bố mẹ nghèo, sẽ không hoặc được thừa hưởng rất ít đất
từ bố mẹ. Những khó khăn của gia đình như có người ốm nặng hay bị mất đi
người trụ cột và những đợt mất mùa liên tiếp có thể khiến gia đình phải bán đất để
trang trải cho nhu cầu trước mắt và/hoặc trả nợ. Do nguồn lực hạn chế, họ không
thể đa dạng hoá nguồn thu nhập của mình và phải sống dựa vào việc làm thuê hoặc
khai thác tài nguyên thiên nhiên. Người nghèo bao gồm “người thiếu đất”. Ngày
6


nay, một gia đình nông dân trung bình có 5 người sở hữu dưới một ha đất có thể bị
coi là thiếu đất vì họ không thể sống chỉ dựa vào nguồn thu nhập từ trồng lúa kể cả
là hai vụ hoặc ba vụ.
3.3.2 Dân tộc thiểu số
Đói nghèo và mức độ dễ bị tổn thương tại ĐBSCL mang tính chất dân tộc thiểu số
rất rõ như minh hoạ trong bảng dưới đây.
Bảng 1. Chỉ số nghèo, Đồng bằng sông Cửu Long (Nguồn: Thống kê về đói
nghèo, Tổng cục Thống kê, 2014)


2010
Sắc tộc của chủ hộ

Ngƣời
Kinh
ngƣời Hoa
Các nhóm khác

Tỷ
nghèo

và 12,9

66,3

lệ Khoảng
cách đói
nghèo

2012
Mức
độ
nghèo

Tỷ lệ
nghèo

Khoảng
cách đói

nghèo

Mức
độ
nghèo

2,7

0,9

9,9

1,9

0,6

24,3

11,3

59,2

19,2

8,2

Số liệu trong bảng cho thấy, tổng hợp tỷ lệ hộ nghèo, khoảng cách nghèo và mức
độ nghèo của người Kinh và người Hoa thấp hơn nhiều so với các dân tộc khác,
chủ yếu là người Khmer. Ở đồng bằng sông Cửu Long, 93% dân số là người Kinh
và 7% là người dân tộc thiểu số bao gồm người Hoa, Chăm, và Khmer. Người

Khmer ở đây là dân tộc thiểu số lớn nhất với tổng dân số 1,26 triệu người (điều tra
dân số của Tổng cục Thống kê, 2012). Trong số ba cộng đồng dân tộc, Khmer là
nhóm nghèo nhất và dễ bị tổn thương nhất, tiếp theo người Chăm còn người Hoa
có vị trí tương đương với người Kinh.

7


4. ĐÁNH GIÁ VỀ KINH TẾ XÃ HỘI VÀ TÌNH TRẠNG DỄ BỊ TỔN

THƢƠNG TỔN THƢƠNG CỦA CÁC MÔ HÌNH THÍCH NGHI
4.1 Đánh giá về kinh tế xã hội và tình trạng dễ bị tổn thƣơng của các mô hình
thích nghi cộng đồng liên quan đến lũ
4.1.1 Mô hình thích nghi liên quan đến lũ lụt được đề xuất
Từ ba vụ lúa sang lúa – nuôi trồng thuỷ sản
Ở cả hai tỉnh, có rất ít sự hỗ trợ từ người dân hiện đang làm trồng lúa ba vụ để
chuyển đổi sang mô hình chậm lũ. Lũ lụt ở mức rất thấp năm nay và các thiệt hại
phát sinh từ nuôi tôm nước ngọt đã làm nông dân trồng ba vụ nhận thức rủi ro gia
tăng.
Từ hai vụ lúa sang lúa – nuôi trồng thuỷ sản
 Mô hình thích nghi 1: Lúa Đông Xuân + ruộng ngập lũ nuôi tôm càng xanh
quảng canh.
 Mô hình thích nghi 2: Hoa màu + Lúa nổi và tôm càng xanh trong mùa lũ.
 Mô hình thích nghi 3: Hoa màu + Lúa nổi và thuỷ sản.
 Mô hình thích nghi 4: : Lúa Đông Xuân + 2 vụ cây thức ăn gia súc + Ruộng
ngập lũ nuôi thủy sản.
4.1.2 Tình trạng dễ bị tổn thương do BĐKH
Hạn hán nghiêm trọng hơn, biến động về lũ, nhiệt độ môi trường tăng cao và thời
tiết bất thường làm tăng thêm những thách thức trong quản lý nuôi trồng thủy sản
tại đồng bằng lũ. Cùng với mực nước lũ thấp, nhiệt độ môi trường xung quanh

tăng cao khiến nước quá nóng đối với tôm. Cần bơm nước vào để duy trì độ sâu
tối thiểu 1 mét để tôm có thể sống và phát triển. Cần cân nhắc so sánh giữa những
thách thức này với yêu cầu quản lý lũ trong khu vực và lợi ích của hệ sinh thái
mang lại từ việc gia tăng các khu vực chậm lũ.
4.1.3 Nguy cơ môi trường đối với mô hình sinh kế
Hộ nuôi tôm trong nhóm tập trung tại Đồng Tháp báo cáo về hai nguồn chính gây ô
nhiễm nước họ đang quan ngại. Hai nguồn này gồm các ao nuôi cá bán thâm canh
và trồng lúa. Tại An Phú, tỉnh An Giang, người dân đang lo ngại về nước lũ kém
chất lượng đến từ bên kia biên giới Campuchia. Các hộ đề cập đến tình trạng cá,
ốc, tôm chết khi có nguồn nước này. Họ cho rằng đây có thể là mối đe dọa nghiêm
trọng đối với nghề nuôi tôm mùa lũ được đề xuất.
8


4.1.4 Phân tích tài chính cơ bản về mô hình thích nghi liên quan đến lũ
Trồng lúa (trồng lúa hai vụ và ba vụ)
Trồng lúa hai vụ cho lợi nhuận hàng năm khoảng 33 triệu đồng/ha. Trong khi đó,
trồng lúa ba vụ cho lợi nhuận hàng năm cao hơn, khoảng 38 triệu đồng/ ha (số liệu
của Đồng Tháp).
Lúa nổi
Lợi nhuận hàng năm từ lúa nổi mùa lũ dao động từ 25 triệu đồng/ha - 55 triệu
đồng/ha. Đây là mức tương đối tốt so với lợi nhuận hàng năm từ trồng lúa thâm
canh khoảng 38 triệu đồng/ha. Trong mọi trường hợp, trồng hoa màu thương mại
bổ sung trong mùa khô (sắn, kiệu, ớt đỏ) đều thu được lợi nhuận cao hơn lợi nhuận
từ trồng lúa ba vụ.
Tôm càng xanh
Tôm càng xanh cho lợi nhuận khoảng 33 triệu đồng/ha mỗi vụ. Kết hợp với vụ lúa
đông xuân có lợi nhuận 21 triệu đồng/ha, mỗi vụ lúa-tôm cho lợi nhuận hàng năm
là 54 triệu đồng/ha. Mức này bằng khoảng 1,4 lần so với 38 triệu đồng/ha lợi nhuận
từ trồng lúa ba vụ.

4.1.5 Vấn đề xã hội trong mô hình thích nghi liên quan đến lũ
Sắc tộc
Ở An Giang và Đồng Tháp, tỷ lệ đồng bào dân tộc Khmer, Chăm và Hoa kết hôn
với người Kinh ở mức cao, và hoà nhập trong cộng đồng người Kinh sở hữu đất.
Sự hội nhập này của họ giúp cho ngôn ngữ tiếng Việt được sử dụng rộng rãi trong
khu vực, và do đó, không cần thiết phải thực hiện truyền thông dự án bằng tiếng
dân tộc khác.
Đói nghèo và tình trạng không có đất
Tại An Giang, huyện Tri Tôn và Tịnh Biên có tỷ lệ hộ nghèo tương đối cao tương
ứng với tỷ lệ dân tộc thiểu số sinh sống ở mức cao. Ưu tiên đầu tư sinh kế có thể
dành cho khu vực Tri Tôn để tạo ra cơ hội việc làm cho người nghèo. Tại Đồng
Tháp, huyện Hồng Ngự có một tỷ lệ hộ nghèo cao hơn so với mức trung bình của
Đồng bằng sông Cửu Long, do đó huyện này cần được ưu tiên đầu tư sinh kế.
Việc làm
Thiếu việc làm là một khó khăn đối với người không có đất và người nghèo ở An
Giang và Đồng Tháp, tác động đến cả nam giới và nữ giới. Nhu cầu lao động trong
lĩnh vực sản xuất lúa đã giảm trong những năm qua do cơ giới hoá, do đó, nhiều
9


nhiệm vụ trước đó như thu hoạch giờ được thực hiện bằng máy móc. Việc sử dụng
nhiều thuốc diệt cỏ cũng làm giảm nhu cầu thuê lao động nhổ cỏ, làm giảm cơ hội
việc làm cho phụ nữ nghèo không có đất nói riêng. So với 10 năm trước, thời gian
của một ngày làm việc trung bình đã giảm khoảng 40-50% (các thành viên nhóm
tập trung).
Tổ chức xã hội và hợp tác xã hỗ trợ sinh kế, khả năng tiếp cận tín dụng
Khu vực dự án có Hội Liên hiệp Phụ nữ (LHPN) và Hội Nông dân đang hoạt động.
Mặc dù mọi phụ nữ đều có thể tham gia làm thành viên Hội Liên hiệp Phụ nữ
nhưng phụ nữ nghèo nói riêng muốn tham gia Hội LHPN để có thể tiếp cận cơ hội
giảm đói nghèo, tín dụng vi mô, tạo thu nhập, tạo việc làm, và các sáng kiến sức

khỏe phụ nữ. Ngược lại, Hội Nông dân chỉ thu hút những người có đất, để có thể
áp dụng thực tế kiến thức từ các khóa học đào tạo khuyến nông do Hội tổ chức.
Các hộ gia đình nghèo và không có đất thường không có cơ hội tiếp cận kiến thức
mới này.
Các hợp tác xã chính thức hoạt động khá mạnh tại khu vực dự án. Ví dụ, chỉ tính
riêng huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp, có tới 38 hợp tác xã đang hoạt động,
trong đó có 32 hợp tác xã nông nghiệp và 6 hợp tác xã phi nông nghiệp.
Ngoài nguồn tín dụng sẵn có cho thành viên của các nhóm tự quản và hợp tác xã,
tại khu vực dự án có hình thức tín dụng vi mô cho người nghèo từ Hội Liên hiệp
Phụ nữ và Ngân hàng Chính sách xã hội. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn (Agribank) cung cấp tín dụng chung cho đầu tư nông nghiệp như mua
hạt giống và đầu vào. Tuy nhiên, số hộ có nợ ở mức tương đối cao tại cộng đồng và
điều tra hộ gia đình cho thấy cần hỗ trợ nông dân vốn đầu tư cho sinh kế mới.
Sự hoạt động tích cực của Hội Phụ nữ và Hội Nông dân cùng các hợp tác xã cho
thấy rằng các tổ chức cộng đồng và nền văn hóa hiện nay có thể đảm bảo cho cách
tiếp cận mang tính chất tập thể để mở rộng các mô hình thích ứng dựa trên lũ.
Di sản văn hoá
Hiện không có quan ngại về khả năng mất mát đối với các di sản văn hóa ở cả hai
tỉnh Đồng Tháp và An Giang do những thay đổi sinh kế được đề xuất. Tại các khu
vực trồng lúa hai vụ, người dân không xây mồ mả trên đất ngập nước hoặc nếu có,
họ phải nâng nền cao trên mặt nước lũ. Không có quan ngại gì về các loại hình di
sản văn hóa khác như nơi thờ cúng hoặc tập quán văn hóa.

10


4.2 Đánh giá về kinh tế xã hội và tình trạng dễ bị tổn thƣơng của các mô hình
thích nghi cộng đồng nƣớc lợ
4.2.1 Mô hình thích nghi nước lợ được đề xuất
Mô hình thích nghi nước lợ được đề xuất bao gồm:

 Hệ thống lúa-tôm luân canh (Bến Tre)
 Lúa hai vụ sang luân canh lúa – tôm (Kiên Giang)
 Rừng ngập mặn – tôm sang rừng ngập mặn có chứng nhận hữu cơ – tôm (Cà
Mau, Bến Tre, Trà Vinh)
 Trồng mía sang nuôi tôm thâm canh (Sóc Trăng)
4.2.2 Tình trạng dễ bị tổn thương do BĐKH
Việc chuyển đổi từ trồng lúa hai vụ sang lúa-tôm ở Kiên Giang, và đầu tư vào mô
hình rừng ngập mặn - nuôi tôm có chứng nhận hữu cơ ở Cà Mau, Trà Vinh và
Bến Tre thể hiện sự thích nghi sinh kế quan trọng trước BĐKH, giúp giảm tình
trạng dễ bị tổn thương của cộng đồng. Mặc dù quá trình chuyển đổi từ cây mía
sang nuôi tôm thâm canh trên Cù Lao Dung dường như thích nghi tốt với độ mặn
gia tăng nhưng vẫn có thể có các mô hình thích nghi hiệu quả hơn giải quyết được
vấn đề tăng độ mặn, nhiệt độ môi trường, và nước biển dâng. Ví dụ, mô hình rừng
ngập mặn - tôm có thể chịu được nhiệt độ môi trường xung quanh cao hơn và mức
bồi lắng lên tới 20 cm một năm.
4.2.3 Vấn đề môi trường
Hệ thống lúa – tôm luân canh (Bến Tre)
Bệnh từ nuôi tôm thâm canh có thể ảnh hưởng đến hệ thống lúa - tôm luân canh và
rừng ngập mặn - tôm. Nếu không có quy hoạch khoanh vùng hoặc quy hoạch sử
dụng đất hợp lý, việc kiểm soát sự lây lan bệnh từ nuôi tôm thâm canh là gần như
không thể.
Trồng lúa hai vụ sang hệ thống lúa – tôm luân canh (Kiên Giang)
Nước thải từ nông nghiệp, hoá chất từ phía sau cống kiểm soát mặn đề xuất ở An
Biên và An Minh, Kiên Giang, có thể ảnh hưởng đến trang trại nuôi sò huyết gần
bờ. Cần xem xét kỹ những tác động tiềm ẩn khi đánh giá tác động môi trường.
Trồng mía sang tôm thâm canh (Sóc Trăng)
Việc gia tăng sử dụng nước ngầm để tưới cho mía và nuôi tôm trong mùa khô,
hoặc vì những lý do khác, sẽ làm tăng sụt lún đất. Hiện chưa có nghiên cứu về tính

11



bền vững trong khai thác nước ngầm cho sinh hoạt, nông nghiệp và mối quan hệ
giữa hoạt động này với sụt lún đất.
4.2.4 Phân tích tài chính cơ bản về mô hình thích nghi nước lợ
Hệ thống lúa – tôm luân canh (Bến Tre)
Hệ thống lúa - tôm luân canh ở Bến Tre bao gồm hai mô hình. Mô hình thứ nhất là
mô hình thông thường dựa trên một vụ lúa trong mùa mưa, và một vụ tôm nước lợ
vào mùa khô. Hệ thống này cho tổng lợi nhuận hàng năm khoảng 102 triệu
đồng/ha, trong đó 96% là từ tôm. Mô hình “cải tiến” thứ hai lồng ghép nuôi tôm
càng xanh trong vụ lúa mùa mưa để tạo thu nhập bổ sung. Lợi nhuận hàng năm từ
mô hình này khoảng 144 triệu đồng/ha (xem Bảng 17), bằng khoảng 1,4 lần lợi
nhuận của mô hình thông thường.
Trồng lúa hai vụ sang hệ thống lúa – tôm luân canh (Kiên Giang)
Trồng lúa hai vụ tại Kiên Giang cho lợi nhuận hàng năm khoảng 10 triệu đồng/ha.
Mô hình lúa - tôm luân canh ở Kiên Giang cho lợi nhuận hàng năm khoảng 28
triệu đồng/ha. Việc chuyển đổi từ trồng lúa hai vụ sang mô hình lúa - tôm sẽ mang
lại lợi nhuận gần gấp ba lần cho người dân, đây là yếu tố khuyến khích người dân
thực hiện chuyển đổi.
Rừng ngập mặn – tôm sang rừng ngập mặn – tôm có chứng nhận hữu cơ (Cà
Mau, Trà Vinh và Bến Tre)
Hệ thống nuôi tôm rừng ngập mặn ở Cà Mau không có chứng nhận cho lợi nhuận
hàng năm khoảng 38 triệu đồng/ha. Với chứng nhận hữu cơ, các trang trại có thể
tăng lợi nhuận thêm từ 7 đến 10 triệu đồng/ha, tương đương tăng 20% đến 26%.
Tại tỉnh Bến Tre, lợi nhuận hàng năm từ hệ thống rừng ngập mặn - tôm không có
chứng nhận đạt xấp xỉ 32 triệu đồng/ha. Tại tỉnh Trà Vinh, lợi nhuận từ hệ thống
rừng ngập mặn - tôm không có chứng nhận đạt xấp xỉ 21 triệu đồng/ha. Nếu Bến
Tre và Trà Vinh áp dụng mô hình nuôi tôm có chứng nhận hữu cơ, các tỉnh này có
thể đạt mức tăng lợi nhuận tối thiểu khoảng 20%, theo kinh nghiệm của Cà Mau.
Trồng mía sang tôm thâm canh (Sóc Trăng)

Trồng mía trồng ở Cù Lao Dung cho lợi nhuận hàng năm khoảng 28 triệu đồng/
ha. Trong khi đó, lợi nhuận hàng năm từ nuôi tôm thâm canh là khoảng 398 triệu
đồng/ ha.

12


4.2.5 Vấn đề xã hội trong mô hình thích nghi nước lợ
Sắc tộc
Vấn đề sắc tộc không có gì nổi cộm tại Bến Tre, Cà Mau vì các tỉnh này có số
lượng người dân tộc thiểu số thấp nhất trong số các tỉnh Đồng bằng sông Cửu
Long. Các khu vực có số lượng người dân tộc thiểu số đáng kể là huyện An Biên
(Kiên Giang), Cù Lao Dung (Sóc Trăng), và huyện Duyên Hải (Trà Vinh). Ở tất cả
các huyện, tỷ lệ người dân tộc thiểu số thấp hơn so với tỷ lệ chung toàn tỉnh. Theo
những người tham gia nhóm tập trung, hầu hết người dân tộc Khmer đã hoà nhập
vào cộng đồng người Kinh và kết hôn với người Kinh. Tuy nhiên, nhóm này
chiếm một tỷ lệ lớn về người nghèo và người không có đất, chủ yếu làm thuê trong
lĩnh vực nuôi trồng thủy sản và trồng mía hoặc đánh bắt nguồn lợi thủy sản tự
nhiên để bán cho hộ nuôi trồng thủy sản làm thức ăn cho tôm. Không có khó khăn
gì về ngôn ngữ vì hầu hết người Khmer phần lớn đã hoà nhập vào cộng đồng
người Kinh và có khả năng giao tiếp bằng tiếng Việt.
Đói nghèo và tình trạng không có đất
Tỷ lệ hộ nghèo của khu vực tiểu dự án tại Kiên Giang, Cà Mau, Sóc Trăng thấp
hơn so với mức trung bình của Đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên, tỷ lệ hộ
nghèo tại huyện Thạnh Phú (Bến Tre) là tương đối cao so với mức trung bình của
Đồng bằng sông Cửu Long. Trong tất cả các khu vực tiểu dự án, theo những người
tham gia nhóm tập trung, lý do chính có liên quan chặt chẽ đến tình trạng không
có đất. Sự suy giảm của nguồn lợi thủy sản ven biển trong những năm qua gây khó
khăn cho các hộ gia đình nghèo vốn dựa vào tài nguyên thiên nhiên là một trong
những nguồn thu nhập chính để thoát khỏi nghèo đói.

Trong hầu hết các cuộc tham vấn nhóm tập trung, người tham gia lo rằng, do dự án
tập trung hỗ trợ hộ nuôi trồng thủy sản có đất, là những hộ không cần thêm lao
động nên người nghèo sẽ không được hưởng lợi từ dự án.
Giới
Vấn đề chính được báo cáo liên quan đến sự bất bình đẳng đối với phụ nữ tại hầu
hết các khu vực tiểu dự án là nạn mù chữ ở nữ giới, khiến họ khó kiếm được thu
nhập phi nông nghiệp cao hơn. Theo số liệu từ cuộc điều tra hộ gia đình, phần lớn
những chủ hộ là nữ chỉ chỉ học xong tiểu học.
Dự kiến sẽ không có thay đổi lớn về khối lượng công việc liên quan đến khía cạnh
giới trong quá trình chuyển đổi sang mô hình luân canh lúa - tôm hoặc rừng ngập
mặn – tôm có chứng nhận. Tuy nhiên, cơ hội việc làm cho nữ có thể giảm khi
13


người dân có thể sẽ thực hiện quá trình chuyển đổi từ trồng mía sang tôm thâm
canh (xem thêm phần dưới).
Việc làm
Những người tham gia nhóm tập trung cho rằng việc thiếu cơ hội việc làm là một
nguyên nhân dẫn đến đói nghèo ở hầu hết các khu vực tiểu dự án. Nhiều khu vực
tiểu dự án ở khá xa khu vực việc làm và tỷ lệ di cư theo những người tham gia
nhóm tập trung là tương đối cao, trong số 10 gia đình, có 3 - 8 gia đình có ít nhất
một thành viên đi làm việc trong các khu công nghiệp.
Việc chuyển đổi từ trồng mía sang nuôi tôm thâm canh dự kiến sẽ tác động đáng
kể đến cơ hội việc làm cho cả nam giới và phụ nữ nghèo. Đặc biệt, cơ hội việc làm
cho nữ giới trong hoạt động trồng mía sẽ chịu ảnh hưởng đáng kể vì người dân ở
đây có niềm tin rằng phụ nữ sẽ mang lại những điều không may mắn cho vụ tôm.
Tổ chức xã hội và hợp tác xã hỗ trợ sinh kế, khả năng tiếp cận tín dụng
Nói chung, các khu vực tiểu dự án có ít hợp tác xã chính thức hơn trong khu vực
đồng bằng và có xu hướng dựa nhiều hơn vào các tổ hợp tác và các nhóm tự quản.
Hội Nông dân và Hội Phụ nữ đang hoạt động trong khu vực tiểu dự án với các

sáng kiến trong nhiều lĩnh vực bao gồm sáng kiến tạo việc làm, cải thiện thu nhập,
cơ hội đào tạo nghề, đào tạo về quản lý tài chính hộ gia đình và quản lý khoản vay,
vv…
Tại vùng thượng nguồn đồng bằng, tỷ lệ người dân trong cộng đồng đang vay nợ
là tương đối cao, kết quả điều tra hộ gia đình cho thấy cần hỗ trợ nông dân vốn
đầu tư cho sinh kế mới.
Tại khu vực tiểu dự án, hiện có các nguồn tín dụng vi mô cho người nghèo của
Ngân hàng Chính sách Xã hội, Hội Liên hiệp Phụ nữ và các dự án phát triển.
Di sản văn hoá
Hiện chưa thấy có tác động đáng kể đối với di sản văn hoá trong mô hình chuyển
đổi nước lợ được đề xuất.
Tác động xã hội của hạ tầng
Thành viên nhóm tập trung đã nêu lên những lo ngại về tác động của thiết kế các
cửa cống được đề xuất đối với giao thông đường thủy tại An Biên (Kiên Giang),
Cù Lao Dung (Sóc Trăng) và Thạnh Phú (Bến Tre). Thiết kế cửa cống cần cho
phép tàu thuyền để có thể qua lại, cần giảm thiểu việc đóng các cửa cống, và thông
báo lịch vận hành của các hệ thống này cho cộng đồng.
14


5. KIẾN NGHỊ

5.1 Giải quyết vấn đề dễ bị tổn thƣơng về khí hậu và môi trƣờng
5.1.1 Công trình hỗ trợ sinh kế
Tận dụng kiến thức chuyên môn của chuyên gia nông nghiệp và nuôi trồng thủy
sản để tối ưu hóa thiết kế cấu trúc, hỗ trợ mô hình sinh kế. Việc đảm bảo thiết kế
thành phần công trình giúp kiểm soát tốt hơn nguồn nước sẵn có và đáp ứng yêu
cầu chất lượng của các mô hình sinh kế tương ứng đóng vai trò quan trọng trong
việc giảm rủi ro khí hậu/ môi trường của người nông dân.
5.1.2 Chất lượng nước và quy hoạch sử dụng đất/phân vùng

Cần giải quyết vấn đề chất lượng nước đặc biệt là trong các mô hình nuôi trồng
thủy sản (nước ngọt và nước lợ) với sinh kế bền vững. Nhiều khu vực tiểu dự án ở
mức chưa tối ưu về chất lượng nước và hạ tầng quản lý nước.
Cần điều chỉnh kế hoạch sử dụng đất ở Ba Tri, Bến Tre với sự hỗ trợ của các
chuyên gia nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản và lâm nghiệp (rừng ngập mặn tôm). Việc sử dụng đất ven biển và kênh rạch ở khu vực giữa đê biển và đường 16
đang có xung đột, khiến việc quản lý chất lượng nước cực kỳ khó khăn.
Đánh giá và giám sát các tác động tiềm tàng từ chất hữu cơ ô nhiễm thải ra từ phía
sau cửa cống kiểm soát mặn đối với nuôi trồng thủy sản ven biển.
5.1.3 Khai thác nước ngầm và sụt lún đất
Tiến hành nghiên cứu về khai thác nước ngầm và sụt lún đất ở Cù Lao Dung để
cập nhật cho các dự án đầu tư sinh kế. Hoạt động bơm nước ngầm kết hợp để tưới
cho cây mía trong mùa khô, cấp nước sinh hoạt sẽ làm gia tăng sụt lún đất trong
điều kiện nước biển dâng.
5.2 Giải quyết vấn đề dễ bị tổn thƣơng về mặt xã hội
5.2.1 Sự sẵn lòng của người dân trong việc áp dụng mô hình thích ứng sinh kế
Thực hiện trình diễn về sinh kế gần các mô hình thí điểm thành công nhằm thay
đổi nhận thức về rủi ro của người nông dân. Người dân trồng lúa ba vụ và hai vụ,
lúa mùa nổi nhận thức được rủi ro thất bại trong sinh kế dựa trên lũ ở mức tương
đối cao. Tương tự như vậy, các hộ trồng lúa thâm canh ven biển (ví dụ. Ba Tri) và
trồng mía đều nhận biết được rủi ro trong nuôi tôm thâm canh là tương đối cao so
với trồng lúa thâm canh và mía.

15


5.2.2 Xử lý rủi ro thị trường
Giảm nguy cơ thừa cung bằng cách phối hợp với các doanh nghiệp nông nghiệp từ
khi bắt đầu cách tiếp cận gia tăng theo giai đoạn. Cần áp dụng cách tiếp cận gia
tăng theo giai đoạn để kiểm định thị trường, giúp doanh nghiệp có thời gian mở
rộng thị trường hoặc từng bước tìm kiếm thị trường mới.

5.2.3 Đa dạng các mô hình thích ứng
Trong một số tiểu dự án, giải pháp sinh kế được đề xuất tương đối hẹp và có một
số trường hợp, chuyên gia khuyến nghị là tăng số lượng mô hình theo thời gian.
Việc chia sẻ bài học và kinh nghiệm giữa các tiểu dự án giúp tăng cường sự đa
dạng. Ví dụ, mô hình lúa-tôm của Bến Tre bổ sung tôm càng xanh trong vụ lúa
mùa mưa, và mô hình này có thể được áp dụng ở hệ thống lúa-tôm của Kiên
Giang.
Cần hỗ trợ việc áp dụng Giấy chứng nhận hữu cơ, tiêu chuẩn sản xuất sạch (ví dụ.
VietGAP), và hoạt động xây dựng thương hiệu sản phẩm để tạo thị trường và đa
dạng hóa thị trường.
5.2.4 Hỗ trợ nông dân
Việc sử dụng hợp tác xã nông dân hoặc các tập thể nhằm áp dụng thích nghi sinh
kế sẽ tạo cơ sở cho việc xây dựng chiến lược thực hiện sinh kế của các tiểu dự án.
Việc hình thành các hợp tác xã mới, hoặc thực hiện thông qua các hợp tác xã hiện
có, sẽ giúp tăng niềm tin của người dân thông qua việc chia sẻ rủi ro chung, đặc
biệt là với những nông dân sợ rủi ro nên có thể không muốn áp dụng các mô hình
thích ứng mới.
Cần cấp vốn khởi đầu cho các hoạt động đầu tư sinh kế. Người nông dân không
thể chi trả cho các khoản đầu tư sinh kế của họ vì hầu hết đều vướng nợ nần. Vốn
đầu tư là sự hỗ trợ ưu tiên cao nhất mà người nông dân cần có.
Thuê chuyên gia về nuôi trồng thủy sản và nông nghiệp hỗ trợ đào tạo kỹ thuật và
phát triển cho các hợp tác xã/ nhóm, cơ quan khuyến nông và nông dân.
Các tổ chức quần chúng, đặc biệt là Hội Nông dân và Hội Liên hiệp Phụ nữ cần
đóng vai trò trung tâm trong việc hỗ trợ nông dân và hợp tác xã huy động, tổ chức
tập huấn khuyến nông, tạo điều kiện cho người dân giao lưu, giám sát thực hiện
mô hình, vv…
Khuyến khích doanh nghiệp nông nghiệp thành lập trại giống có khả năng sản xuất
giống nuôi trồng thủy sản chất lượng cao càng gần với khu vực tiểu dự án càng tốt.
16



Xây dựng công cụ hỗ trợ ra quyết định có thể cảnh báo sớm về hạn hán và lũ lụt
cho nông dân. Tình hình El Nino hoành hành dữ dội năm nay là minh chứng cho
sự cần thiết phải phát triển các công cụ dự báo giúp khuyến nghị người dân về
những loại cây nên đầu tư.
5.2.5 Nghèo đói và tình trạng không có đất
Cần thực hiện hỗ trợ sinh kế cho người không có đất trong khu vực tiểu dự án
bằng các nguồn tín dụng vi mô và chương trình phát triển hiện có để giải quyết
vấn đề bất bình đẳng giàu nghèo đang ngày càng tăng.
Khuyến khích doanh nghiệp nông nghiệp, nhất là các công ty tích hợp theo chiều
dọc, mở rộng chuỗi giá trị để tạo việc làm cho người nghèo. Các tỉnh có thể cung
cấp đất và thuế ưu đãi để thu hút đầu tư kinh doanh nông nghiệp.
5.2.6 Tham vấn và sự tham gia của công chúng
Cần thực hiện các cuộc tham vấn sau đây ngoài những cuộc tham vấn được thực
hiện cho mục tiêu bảo vệ (tái định cư và môi trường).
-

Sự chấp nhận mô hình sinh kế
Các tuỳ chọn sinh kế tính dụng vi mô và thiết kế
đường thủy vận chuyển - thiết kế cống và lịch trình hoạt động

Cụ thể hơn, các cuộc tham vấn công chúng và các sáng kiến về sự tham gia của
cộng đồng nên xem xét các khuyến nghị sau đây về trình độ dân trí và nhu cầu của
phụ nữ.
Cần tăng cường truyền thông bằng lời nói cho truyền thông dự án. Hoạt động triển
khai dự án ở cấp độ cộng đồng không nên chỉ dựa vào văn bản/ thông tin liên lạc
(ví dụ. bồi thường, đào tạo kỹ thuật, vv…). Tại hầu hết các khu vực tiểu dự án,
người dân có trình độ học vấn thấp và tỷ lệ mù chữ tương đối cao, đặc biệt là phụ
nữ và người dân tộc thiểu số.
Các chương trình đào tạo cần được thực hiện theo cách thức và tại thời điểm thuận

tiện để người phụ nữ có thể hoàn thành vai trò trong gia đình của mình như chăm
sóc con cái, chuẩn bị bữa ăn, vv…
5.2.7 Xây dựng cống và giao thông đường thuỷ
Thiết kế cửa cống cần đảm bảo rằng tàu thuyền có thể di chuyển vào và ra một
cách tối ưu. Tại những khu vực có lưu lượng giao thông cao, ví dụ như cộng đồng
đánh cá (Kiên Giang, Sóc Trăng, Ba Tri-Bến Tre), các cửa cống phải được thiết kế

17


sao cho tàu thuyền đánh cá được di chuyển vào hoặc ra trong khoảng thời gian các
cửa mở tại các vị trí nhất định.
Cơ quan quản lý chịu trách nhiệm vận hành cửa cống phải lên lịch trình vận hành
cùng với cộng đồng, lịch trình cần liệt kê chi tiết thời gian đóng mở chính xác cho
các cửa cống để người dân lên kế hoạch sử dụng phương tiện giao thông đường
thủy và giảm thiểu tác động của thời gian chờ và nhiên liệu sử dụng trong thời
gian.

18



×