Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Xử lý như thế nào đối với quyết định giải quyết tiếp theo trái thẩm quyền trong tố tụng hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.71 KB, 23 trang )

Tiểu luận luật học: Xử lý như thế nào đối với quyết định giải quyết tiếp theo trái thẩm quyền trong tố tụng hành
chính.

LỜI NÓI ĐẦU
Quản lý hành chính Nhà nước là một hình thức hoạt động của Nhà nước
được thực hiện trước hết và chủ yếu bởi các cơ quan hành chính Nhà nước, có nội
dung là bảo đảm sự chấp hành Luật, Pháp lệnh và các Nghị quyết của cơ quan
quyền lực Nhà nước, nhằm tổ chức và chỉ đạo thực hiện một cách trực tiếp và
thường xuyên công cuộc xây dựng kinh tế, văn hoá, xã hội và hành chính - chính
trị của nước ta.
Trong quá trình hoạt động quản lý hành chính Nhà nước, các cơ quan quản lý
Nhà nước có thẩm quyền hoặc công chức Nhà nước được trao quyền thường
xuyên ban hành các quyết định quản lý hành chính nhà nước dưới hình thức văn
bản nhằm điều chỉnh các quan hệ nảy sinh trong đời sống xã hội theo ý chí của
Nhà nước. Các quyết định hành chính này là kết quả của sự thể hiện ý chí quyền
lực của Nhà nước. Nói cách khác, quyết định hành chính Nhà nước là kết quả sự
thể hiện ý chí quyền lực đơn phương của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền,
được ban hành trên cơ sở luật và để thực thi luật. Nhằm đề ra các chủ trương
chính sách nhiệm vụ lớn có tính chất định hướng trong quản lý Nhà nước hoặc đặt
ra, sửa đổi, bãi bỏ các quy phạm pháp luật hiện hành hoặc làm phát sinh thay đổi,
chấm dứt các quan hệ pháp lý cụ thể để thực hiện các chức năng nhiệm vụ của
quản lý Nhà nước.
Như vậy, có thể nói, quyết định quản lý hành chính Nhà nước là sản phẩm
của hoạt động quản lý Nhà nước, đóng vai trò, vị trí trung tâm trong hoạt động
quản lý Nhà nước. Quyết định quản lý hành chính nhà nước là phương tiện không
thể thiếu trong hoạt động của các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước nhằm sử
dụng, thực hiện hầu hết các chức năng quản lý như tổ chức, điều chỉnh, kế hoạch
hóa, lãnh đạo, điều hành... Hiệu lực của quản lý Nhà nước phần lớn tùy thuộc vào
nội dung, chất lượng và biện pháp tổ chức thực hiện các quyết định quản lý Nhà
nước. Quyết định đúng sẽ làm cho xã hội phát triển, đời sống của nhân dân được
nâng cao. Đảng và Nhà nước ta đã chỉ ra rằng, để lãnh đạo và quản lý tốt, phải ra


quyết định đúng, kịp thời và tổ chức thực hiện các quyết định đó. Việc xây dựng
và ban hành quyết định quản lý hành chính nhà nước phải tuân theo một quy trình
chặt chẽ, thống nhất và người ra quyết định quản lý hành chính nhà nước phải
chịu trách nhiệm về những quyết định của mình.
Quyết định hành chính Nhà nước, nếu chỉ dừng lại ở phạm vi thẩm quyền
ban hành và giải quyết các khiếu kiện trong tố tụng hành chính cũng đã và đang là
một vấn đề còn đang được nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện trong thực tiễn hoạt
động quản lý Nhà nước. Được sự giúp đỡ và hướng dẫn của các thầy cô trong
Trường Chính trị Tỉnh Khánh Hòa với những kiến thức tiếp thu được qua quá
trình học tập và nghiên cứu . Do sự ham thích của bản thân nhằm góp phần nhỏ bé
của mình vào việc học tập và nghiên cứu một số vấn đề cơ bản về quyết định quản
lý hành chính Nhà nước, tôi đã thực hiện một phần suy nghĩ của mình từ học


Tiểu luận: Xử lý như thế nào đối với quyết định giải quyết tiếp theo trái thẩm quyền trong tố tụng hành chính.

đường vào thực tế với tình huống “ Quyết định chuyển hồ sơ vụ án có thuộc đối
tượng để kháng cáo hay không” và “Xử lý như thế nào đối với quyết định giải
quyết tiếp theo trái thẩm quyền trong tố tụng hành chính” để làm tiểu luận tốt
nghiệp.
Trong điều kiện thời gian hạn chế, khả năng có hạn chắc chắn không tránh
khỏi những khiếm khuyết, kính mong thầy cô giúp đỡ và bỏ qua những thiếu sót
của tôi.
Xin chân thành cám ơn quý thầy cô trong Trường Chính trị Tỉnh Khánh Hòa
đã giúp đỡ tôi hoàn thành tiểu luận này.

2


Tiểu luận: Xử lý như thế nào đối với quyết định giải quyết tiếp theo trái thẩm quyền trong tố tụng hành chính.


PHẦN THỨ NHẤT
MÔ TẢ TÌNH HUỐNG
Hiện nay các khiếu kiện trong lĩnh vực hành chính xảy ra rất nhiều trong
cuộc sống, nhiều khi trở thành vấn đề thời sự sôi động trong cả nước, nhưng các
đơn khởi kiện tại Tòa án không nhiều và số vụ án hành chính Toà án đã thụ lý còn
rất ít so với thực tế. Khi có tranh chấp xảy ra, các cơ quan Nhà nước phải can
thiệp, sự can thiệp của các cơ quan Nhà nước phải được pháp luật cho phép, nghĩa
là sự can thiệp đó phải theo luật định.
Nếu sự can thiệp của cơ quan Nhà nước không đúng pháp luật, không đúng
thẩm quyền theo luật định, không có cơ sở pháp lý thì sẽ gây ra một hậu quả pháp
lý nhất định.
Trong thời gian qua Tòa án nhân dân thành phố N.T tỉnh K. H đang thụ lý
giải quyết vụ kiện hành chính đối với một quyết định hành chính của UBND
thành phố N.T, nhưng UBND tỉnh K.H lại ban hành quyết định giải quyết tiếp
theo, đã gây không ít khó khăn vướng mắc trong việc giải quyết vụ án của Tòa án,
ảnh hưởng đến quyền khiếu nại và khởi kiện của công dân theo quy định của pháp
luật. Trong bài tiểu luận này tôi xin nêu 01 vụ án cụ thể dưới đây để thấy rõ những
bất cập trong việc giải quyết khiếu nại, khiếu kiện quyết định quản lý hành chính
Nhà nước ( tôi xin không phân tích nội dung quyết định ) tại địa phương, phát sinh
nhiều quan điểm trái ngược nhau, đó là:
“ Nhà ông Trần Văn Ngữ số 7 HĐ- phường Phương Sơn với nhà bà Nguyễn
Thị Kim Khánh số 5/5 B HĐ - phường PS có xảy ra tranh chấp về quyền sử dụng
diện tích 9,234 m2 đất. Theo ông Ngữ thì phần đất này thuộc quyền sử dụng của
nhà ông nhưng bà Khánh đã tự ý xây cất lấn chiếm phần đất này. Để bảo vệ quyền
lợi của mình, ông Ngữ đả gửi đơn khiếu nại lên UBND thành phố N.T. Căn cứ
vào hồ sơ tài liệu thu thập được và trên cơ sở điều tra, xác minh của các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền, ngày 20/10/1999, Chủ tịch UBND thành phố N.T đã ra
quyết định số 2468/QĐ-UB “ Về việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất
giữa ông Trần Văn Ngữ với bà Nguyễn Thị Kim Khánh”. Nội dung của quyết

định chuyển hồ sơ vụ án hành chính này như sau:
“ Điều 1 : Phần đất tranh chấp giữa nhà ông Trần Văn Ngữ số 7 HĐphường PS với nhà bà Nguyễn Thị Kim Khánh số 5/5 B HĐ - phường PS là thuộc
quyền sử dụng của gia đình ông Trần Văn Ngữ.
Điều 2 : Nếu không đồng ý với quyết định này ông Trần Văn Ngữ, bà
Nguyễn Thị Kim Khánh có quyền khiếu nại lên UBND tỉnh K.H theo điểm c khoản
2 điều 28 Luật Đất đai.”

3


Tiểu luận: Xử lý như thế nào đối với quyết định giải quyết tiếp theo trái thẩm quyền trong tố tụng hành chính.

Không đồng ý với quyết định này, ông Ngữ và bà Khánh đã tiến hành khởi
kiện quyết định hành chính nói trên đến Tòa án nhân dân thành phố N.T theo đúng
trình tự quy định tại Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. Ngày
13/12/1999, TAND thành phố N.T đã thụ lý vụ kiện do ông Ngữ và bà Khánh
khởi kiện. Thế nhưng đến ngày 24/01/2000, TAND thành phố N.T đã : “ Xét thấy
quyết định số 2468/QĐ-UB ngày 20/10/1999 của Chủ tịch UBND thành phố N.T
về việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất có hai bên đương sự khiếu kiện
nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND tỉnh K.H và căn cứ điểm b
khoản 1 điều 13 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ” để ra “ Quyết
định chuyển vụ án hành chính” số 01 đến UBND tỉnh K.H giải quyết theo thẩm
quyền. Nội dung của quyết định như sau:
“Điều 1 : Chuyển hồ sơ vụ án hành chính nói trên đến UBND tỉnh Khánh
Hoà để giải quyết theo thẩm quyền.
Điều 2 : Hoàn trả 50.000 đ tiền tạm ứng án phí hành chính- sơ thẩm cho bà
Khánh theo phiếu thu số 6446 ngày 13/12/1999 của Đội thi hành án thành phố
NT”
Ngay sau khi nhận được quyết định này, người khởi kiện là bà Nguyễn Thị
Kim Khánh đã có đơn khiếu nại cho rằng: “ chỉ có một mình bà khởi kiện quyết

định hành chính nói trên mà thôi. Ông Ngữ gửi đơn đến UBND tỉnh K.H chỉ có
yêu cầu các cơ quan chức năng thực hiện quyết định hành chính số 2468/QĐ-HC
nói trên. Do đó TAND thành phố N.T ra quyết định chuyển vụ án hành chính đến
UBND tỉnh K.H giải quyết là không đúng pháp luật, đã tước quyền kháng cáo của
người khởi kiện”.
Ngày 02/6/2000, UBND tỉnh K.H có công văn số 1212/UB về việc “ Thụ lý
đơn khiếu nại” gửi Sở Địa chính K.H, TAND tỉnh K.H và TAND thành phố N.T
có nội dung như sau : “ UBND tỉnh tiếp tục nhận được đơn của ông Trần Văn
Ngữ trú tại số 7 HĐ - phường PS - thành phố N.T khiếu nại về việc ông có đơn đề
nghị xét lại quyết định số 2468 ngày 20/10/1999 của UBND thành phố N.T nhưng
UBND tỉnh không giải quyết, UBND yêu cầu Sở địa chính kiểm tra và đề xuất
UBND tỉnh giải quyết khiếu nại của ông Trần Văn Ngữ
( không chờ giải quyết kháng cáo của Tòa án)”
Sau khi xem xét toàn bộ các tài liệu chứng có trong hồ sơ vụ án, TAND tỉnh
K.H nhận thấy không có tài liệu nào xác định ông Ngữ đã khiếu nại lần đầu gửi
đến UBND thành phố N.T đối với quyết định số 2486 do UB đã ban hành. Do đó,
ông Ngữ chưa thể khiếu nại đến UBND tỉnh K.H ( đơn ngày 05/12/1999 bản
Photocoppy), cũng như khiếu kiện đến Tòa án được, nên TAND thành phố N.T
không thể căn cứ vào điểm b khoản 1 điều 13 và điểm e điều 41 của Pháp lệnh
thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ( đã được sửa đổi bổ sung) để ra quyết
định số 01 ngày 24/01/2000 chuyển hồ sơ vụ án hành chính do bà Khánh khởi
4


Tiểu luận: Xử lý như thế nào đối với quyết định giải quyết tiếp theo trái thẩm quyền trong tố tụng hành chính.

kiện tại TAND thành phố N.T được. Ngày 16/11/2000, TAND tỉnh K.H căn cứ
điểm c khoản 2 điều 64 và khoản 3 điều 66 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
hành chính (đã sửa đổi bổ sung) và xác định “ việc khởi kiện của bà Nguyễn Thị
Kim Khánh đối với Quyết định số 2486/QĐ-UB ngày 20/10/1999 của UBND

thành phố N.T là đúng trình tự pháp luật tố tụng hành chính; việc khiếu nại của
ông Trần Văn Ngữ đối với quyết định hành chính này chưa đúng trình tự theo quy
định của Luật khiếu nại, tố cáo” để ra Quyết định phúc thẩm số 07/QĐ-PT, tại
quyết định phúc thẩm này TAND tỉnh đã tuyên : “ Huỷ quyết định chuyển hồ sơ
vụ án hành chính số 01 ngày 24/01/2000 của TAND thành phố N.T và chuyển hồ
sơ vụ án cho Toà án sơ thẩm để thụ lý, điều tra, xét xử lại theo thủ tục tố tụng
chung. Quyết định này là chung thẩm có hiệu lực thi hành”.
Nhưng việc cần xem xét ở đây là “ Quyết định chuyển hồ sơ vụ án hành
chính của Toà án có thuộc đối tượng kháng cáo không?” và trong quá trình TAND
thành phố N.T đang thụ lý lại để giải quyết vụ khiếu kiện đối với Quyết định số
2468/QĐ ngày 20/10/1999 của UBND thành phố N.T thì UBND tỉnh K.H vẫn
tiếp tục thụ lý đơn khiếu nại của ông Trần Văn Ngữ đối với Quyết định số 2468
và ngày 26/12/2000 UBND tỉnh K.H lại ban hành “Quyết định giải quyết tiếp
theo” số 5826- QĐ/UB với nội dung: “ Công nhận Quyết định số 2468/QĐ ngày
20/10/1999 của UBND thành phố N.T là đúng pháp luật và giao cho UBND thành
phố N.T lập thủ tục xử phạt, buộc tháo dỡ nhà đối với bà Khánh về việc xây cất
trái phép, lấn chiếm không gian thuộc quyền sử dụng của ông Ngữ”
Sau đó, TAND thành phố N.T cho rằng: “Quyết định 5826/QĐ ngày
26/12/2000 của UBND tỉnh K.H là quyết định giải quyết cuối cùng đối với việc
tranh chấp quyền sử dụng đất”. Do đó, ngày 15/01/2001 TAND thành phố N.T đã
căn cứ điểm e, khoản 1 điều 41 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính
để ban hành “Quyết định đình chỉ giải quyết các vụ án hành chính số 01 về việc
khiếu kiện quyết định : “ Giải quyết tranh chấp đất đai” giữa nguyên đơn là
Nguyễn Thị Kim Khánh - 5/5 HĐ - PS và bị đơn là UBND thành phố N.T”.
Về phía bà Khánh, ngay sau khi nhận được Quyết định số 5826 của UBND
tỉnh ban hành ngày 26/12/2000, bà Khánh đã có đơn khiếu nại lần đầu gửi lên
UBND tỉnh K.H ngày 05/01/2001 đề nghị UBND tỉnh K.H thu hồi lại Quyết định
trái thẩm quyền để đợi kết quả giải quyết của các cấp theo quy định của pháp luật
tố tụng hành chính. Đến ngày 17/01/2001 UBND tỉnh có công văn số 121/UB về
việc : “ Trả lời đơn” cho bà Nguyễn Thị Kim Khánh với nội dung: “ UBND tỉnh

xin trả lời để bà rõ: ông Ngữ có đơn gửi UBND tỉnh về việc khiếu nại Quyết định
số 2468 ngày 20/10/1999 của UBND thành phố N.T. Việc khiếu nại của ông Ngữ
trên đây thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND tỉnh K.H, mặt khác không có
quyết định buộc UBND tỉnh phải dừng lại việc giải quyết khiếu nại chờ kết quả
xét xử của TAND thành phố N.T. Do vậy, UBND tỉnh K.H không thể thu hồi
Quyết định số 5826/QĐ-UB ngày 26/12/2000 theo khiếu nại của bà được”. Vì
vậy, ngày 22/01/2001, bà Khánh đã có đơn khởi kiện Quyết định hành chính số
5


Tiểu luận: Xử lý như thế nào đối với quyết định giải quyết tiếp theo trái thẩm quyền trong tố tụng hành chính.

5826/QĐ-UB ngày 26/12/2000 của UBND tỉnh K.H “ Về việc giải quyết tranh
chấp đất đai, xử phạt hành chính, buộc tháo dỡ nhà trái pháp luật” tại TAND tỉnh
K.H để đề nghị tuyên huỷ Quyết định trái pháp luật nêu trên và bà cam kết sẽ
không khiếu kiện đến cơ quan hành chính cấp trên đối với Quyết định 5826/QĐ
của UBND tỉnh K.H vì đã có đơn khởi kiện tại TAND tỉnh K.H .
Ngày 06/4/2001, TAND tỉnh K.H đã căn cứ theo các tài liệu có trong hồ sơ
vụ án tính đến ngày Tòa án cấp sơ thẩm có quyết định đình chỉ vụ án hành
chính( ngày 15/01/2001) thì không có căn cứ xác định ông Trần Văn Ngữ đã
khiếu nại Quyết định số 2486/QĐ-UB ngày 20/10/1999 của UBND thành phố N.T
theo đúng quy định của Luật khiếu nại, tố cáo. Do đó trong trường hợp này cấp sơ
thẩm không thể xác định sự việc đã có quyết định giải quyết khiếu nại của người
có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo để quyết định đình chỉ việc giải
quyết vụ án hành chính được và TAND tỉnh K.H đã căn cứ điểm c khoản 2 điều
64, khoản 3 điều 66 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính để ra Quyết
định số 02/QĐPT với nội dung : “ Huỷ Quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án
hành chính số 01 ngày 15/01/2001 của Tòa án nhân dân thành phố N.T đối với vụ
án hành chính “ Khiếu kiện quyết định giải quyết tranh chấp đất đai” . Giao hồ sơ
vụ án nói trên cho TAND thành phố N.T thụ lý, giải quyết lại theo thủ tục chung.

Quyết định này là chung thẩm có hiệu lực thi hành”.
Ngày 05/3/2001, TAND tỉnh K.H đã có công văn số 19/TA về việc : “ trả lời
đơn” cho bà Nguyễn Thị Kim Khánh có nội dung : “ TAND tỉnh K.H nhận được
đơn khiếu nại Quyết định số 5826/QĐ-UB ngày 26/12/2000 của UBND tỉnh K.H.
Qua nghiên cứu, TAND tỉnh K.H nhận thấy : Việc bà khởi kiện không thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án vì đây là quyết định giải quyết khiếu nại của người
có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo. Căn cứ khoản 8 điều 31 Pháp lệnh
thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ( đã được sửa đổi, bổ sung) . TAND tỉnh
K.H trả lời đơn cho bà”.

PHẦN THỨ HAI
XÁC ĐỊNH MỤC TIÊU XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
6


Tiểu luận: Xử lý như thế nào đối với quyết định giải quyết tiếp theo trái thẩm quyền trong tố tụng hành chính.

Nguyên tắc quản lý Nhà nước bằng pháp luật đòi hỏi mọi hoạt động của các
cơ quan hành chính Nhà nước trong đó có hoạt động ra quyết định hành chính,
phải phù hợp với pháp luật về nội dung và trình tự ban hành; nghĩa là mọi quyết
định hành chính được ban hành trên cơ sở Hiếp pháp, luật, văn bản của cơ quan
Nhà nước cấp trên và phải nhằm thực hiện Hiếp pháp, pháp luật. Mặt khác, các
quyết định hành chính phải bảo đảm tính hợp lý, nghĩa là phải phù hợp với đường
lối nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước đề ra, phù hợp nhu cầu, nguyện
vọng lợi ích chính đáng của nhân dân và phù hợp với thực tiễn, khả năng quản lý
Nhà nước trong từng giai đoạn cụ thể.
Tính hợp pháp và tính hợp lý của quyết định hành chính có mối liên hệ chặt
chẽ với nhau. Khi ban hành các quyết định hành chính, các cơ quan hành chính
Nhà nước phải bảo đảm tính hợp pháp và tính hợp lý, nhờ đó văn bản đưa ra mới
có khả năng thực thi, được xã hội chấp nhận.

* Tính hợp pháp của quyết định hành chính phải bảo đảm 4 yếu tố :
- Phải phù hợp với nội dung và mục đích của luật.
- Tất cả các quyết định quản lý hành chính Nhà nước phải ban hành đúng
thẩm quyền của cơ quan quản lý hành chính Nhà nước.
- Quyết định hành chính đều phải bảo đảm lý do sát thực, xuất phát từ pháp
luật Nhà nước, đường lối chủ trương của Đảng, từ ý nguyện của nhân dân.
- Quyết định hành chính phải được ban hành đúng hình thức và thủ tục do
pháp luật quy định.
* Tính hợp lý của quyết định hành chính : Quyết định hành chính hợp lý mới
có khả năng thực thi cao. Quyết định hành chính chỉ hợp lý khi nó hợp pháp,
nghĩa là trước hết nó phải hợp pháp. Không thể vì lý do hợp lý, phù hợp với nhu
cầu địa phương, cơ sở mà coi thường tính hợp pháp của quyết định. Một quyết
định hành chính được coi là hợp lý khi nó đáp ứng các yêu cầu sau:
- Phải bảo đảm tính hài hoà các mặt lợi ích của Nhà nước, tập thể cộng đồng
và lợi ích cá nhân người lao động.
- Quyết định hành chính phải có tính cụ thể và phù hợp với từng vấn đề, với
các đối tượng thực hiện.
- Quyết định hành chính phải bảo đảm tính hệ thống, tính toàn diện.
- Quyết định hành chính phải bảo đảm kỹ thuật lập quy đã đề ra.
Với những nội dung nêu trên, mục tiêu xử lý tình huống này là xác định xem
việc áp dụng Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính của TAND thành
phố N.T như đã nêu ở trên có phù hợp với quy định của pháp luật không?
Và việc Tòa án đang thụ lý vụ kiện hành chính mà Uỷ ban nhân dân tỉnh lại
ra quyết định giải quyết tiếp theo trái thẩm quyền thì xử lý như thế nào?

7


Tiểu luận: Xử lý như thế nào đối với quyết định giải quyết tiếp theo trái thẩm quyền trong tố tụng hành chính.


PHẦN THỨ BA
PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG
* Việc thứ nhất : Về Quyết định chuyển hồ sơ vụ án hành chính của Tòa án
có thuộc đối tượng để kháng cáo hay không ?
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính quy định “đương sự có
quyền kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ việc giải quyết vụ
án của Tòa án cấp sơ thẩm...” Vậy quyết định chuyển hồ sơ vụ án có thuộc đối
tượng để kháng cáo hay không?
Tại Điểm b, khoản 1, điều 13 Pháp lệnh sửa đổi bổ sung một số điều của
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính quy định rõ: “ Nếu có nhiều
người, trong đó có người khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án có thẩm quyền,
có người khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết tiếp theo thì việc giải
quyết thuộc thẩm quyền của người giải quyết khiếu nại tiếp theo. Tòa án đã thụ lý
vụ án hành chính phải chuyển hồ sơ vụ án cho người có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại tiếp theo ngay sau khi phát hiện việc giải quyết không thuộc thẩm quyền
của mình”.
ở vụ việc trên, quyết định của UBND thành phố N.T có liên quan đến hai
người là ông Ngữ và bà Khánh. Trong mọi trường hợp, sau khi nhận được đơn
khởi kiện án hành chính, Tòa án cần có văn bản gửi đến UBND tỉnh K.H là cơ
quan cấp trên trực tiếp của UBND thành phố N.T, nơi đã ra Quyết định hành
chính 2468/QĐ-UB, yêu cầu cho Tòa biết bằng văn bản có người nào trong số
những người có liên quan khiếu nại lên UBND tỉnh K.H không? Nếu có người
khiếu nại, Tòa án trả lại đơn kiện cho người khởi kiện hoặc chuyển đơn kiện cho
UBND tỉnh K.H là cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại và thông báo cho
người khởi kiện biết. Trong trường hợp đã xác định rõ không có người nào khiếu
nại, thì Tòa án thụ lý giải quyết theo thủ tục chung.
Trên thực tế TAND thành phố N.T đã thụ lý vụ kiện hành chính của bà
Khánh. Theo nội dung công văn số 3268 ngày 17/12/1999, UBND tỉnh K.H gửi
cho UBND thành phố N.T nói rõ : “ UBND tỉnh không nhận được đơn khiếu nại
của bà Khánh, ông Ngữ chỉ yêu cầu thi hành quyết định chứ không khiếu nại

quyết định này” . Như vậy bà Khánh, ông Ngữ đâu có khiếu kiện nhầm về thẩm
quyền để áp dụng điều luật nêu trên?
Việc TAND thành phố N.T cho rằng có hai bên đương sự cùng khiếu kiện
Quyết định 2468/QĐ-UB của UBND thành phố N.T nên vụ án thuộc thẩm quyền
giải quyết của UBND tỉnh K.H và vận dụng điểm b, khoản 1, điều 13 Pháp lệnh là
vấn đề còn gây nhiều tranh cãi.
8


Tiểu luận: Xử lý như thế nào đối với quyết định giải quyết tiếp theo trái thẩm quyền trong tố tụng hành chính.

Hiện nay có hai ý kiến hoàn toàn trái ngược nhau trong việc giải quyết vụ
khiếu kiện quyết định hành chính này, như sau :
* ý kiến thứ nhất cho rằng, căn cứ Điều 55 Pháp lệnh quy định : “ Đương sự
hoặc người đại diện của đương sự có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát cùng cấp
hoặc trên một cấp có quyền kháng nghị bản án, quyết định tạm đình chỉ hoặc đình
chỉ việc giải quyết vụ án của Tòa cấp sơ thẩm để yêu cầu Toà án trên một cấp xét
xử phúc thẩm”. Do đó, quyết định chuyển hồ sơ vụ án không thuộc đối tượng để
kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực thi hành ngay. Đây chính là quan điểm của
TAND thành phố N.T, nên sau khi ban hành quyết định chuyển vụ án, Toà án đã
chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án đến UBND tỉnh giải quyết?. Vì thế đương sự không
được thực hiện quyền kháng cáo.
* ý kiến thứ hai cho rằng, quyết định chuyển vụ án hành chính là một quyết
định của Toà cấp sơ thẩm. Căn cứ khoản 3 Điều 61 Pháp lệnh thủ tục giải quyết
các vụ hành chính quy định Hội đồng xét xử phúc thẩm không phải mở phiên tòa
khi xét kháng cáo, kháng nghị những quyết định của Toà cấp sơ thẩm. Do đó,
đương sự và Viện kiểm sát được quyền kháng cáo, kháng nghị quyết định đó để
yêu cầu Toà cấp trên giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
Cũng có ý kiến cho rằng kể cả trong trường hợp ông Ngữ có khiếu nại đến
UBND tỉnh K.H đối với Quyết định 2468/QĐ-UB của UBND thành phố N.T, căn

cứ điểm b, khoản 1 điều 13 Pháp lệnh thì việc giải quyết thuộc thẩm quyền của
UBND tỉnh K.H mà không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án. Trong trường
hợp này, Toà án cần phải áp dụng điểm g, khoản 1 Điều 41 của Pháp lệnh sửa đổi
bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ hành chính để ra
quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án hành chính và chuyển hồ sơ vụ việc đến
UBND tỉnh K.H giải quyết đồng thời gửi ngay quyết định đình chỉ vụ án đó đến
Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, các đương sự để họ thực hiện kháng cáo, kháng
nghị theo quy định tại Điều 42 của pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành
chính.
* Việc thứ hai : Xử lý như thế nào đối với quyết định giải quyết tiếp theo trái
thẩm quyền trong tố tụng hành chính.
Khi Tòa án đã thụ lý và đang trong quá trình giải quyết vụ án hành chính
theo đơn khởi kiện của một người, thì nhận được quyết định giải quyết khiếu nại
đó ( đối với quyết định hành chính đang bị khiếu kiện) của người có thẩm quyền
giải quyết khiếu nại tiếp theo. Tòa án đã trao đổi với người có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại tiếp theo về tính hợp pháp của việc ra quyết định đó, nhưng họ
không rút quyết định đó và người khởi kiện cũng không rút đơn kiện. Tòa án phải
xử lý trường hợp này như thế nào?
9


Tiểu luận: Xử lý như thế nào đối với quyết định giải quyết tiếp theo trái thẩm quyền trong tố tụng hành chính.

* ý kiến thứ nhất cho rằng : Quyết định số 2468/QĐ-UB ngày 20/10/1999
của UBND thành phố N.T là quyết định hành chính lần đầu về việc giải quyết
tranh chấp đất đai giữa ông Ngữ và bà Khánh. Sau khi nhận được quyết định này,
ông Ngữ không cần phải thực hiện việc khiếu nại lần đầu đến UBND thành phố
N.T theo quy định của Luật khiếu nại, tố cáo, vì theo điểm c khoản 2 Điều 38 Luật
Đất đai năm 1993 quy định: “ Trong trường hợp không đồng ý với quyết định của
UBND đã giải quyết tranh chấp, đương sự có quyền khiếu nại lên cơ quan hành

chính Nhà nước cấp trên. Quyết định này có hiệu lực thi hành”. Do đó, Quyết
định số 5826/QĐ-UB ngày 26/12/2000 của UBND tỉnh K.H là quyết định giải
quyết khiếu nại lần đầu 2468/QĐ-UB của UBND thành phố N.T. Quyết định này
có hiệu lực thi hành. Hơn nữa, “ không có quy định nào buộc UBND tỉnh Khánh
Hoà phải dừng việc giải quyết khiếu nại tiếp theo để chờ kết quả giải quyết của
TAND thành phố N.T ! ( Đây cũng chính là ý kiến của UBND tỉnh K.H ). Vì
vậy, TAND thành phố N.T đã căn cứ điểm e khoản 1 Điều 41 Pháp lệnh thủ tục
giải quyết các vụ án hành chính để đình chỉ vụ án hành chính của bà Khánh là có
căn cứ pháp luật.
* ý kiến thứ hai cho rằng: Ông Ngữ không thực hiện việc khiếu nại lần đầu
đối với quyết định 2486/QĐ-UB của UBND thành phố N.T theo quy định tại Điều
30, 31 Luật Khiếu nại, tố cáo. Trong khi đó, người thực hiện việc khiếu nại và
khởi kiện theo đúng quy định của pháp luật lại là bà Khánh. Khoản 6 Điều 32
Luật Khiếu nại, tố cáo quy định: Khiếu nại một trong các trường hợp sau đây
không được thụ lý giải quyết : “ Việc khiếu nại đang được Tòa án thụ lý...”. Vì
lẽ đó, UBND tỉnh K.H dù có nhận được đơn khiếu nại của ông Ngữ theo điểm c
khoản 2 Điều 38 Luật Đất đai năm 1993, thì vụ việc khiếu nại này cũng đã được
TAND thành phố N.T thụ lý. Do đó, ngày 26/12/2000, UBND tỉnh K.H đã ban
hành Quyết định giải quyết tiếp theo đối với đơn khiếu nại của ông Ngữ là trái
quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
hành chính ( đã sửa đổi, bổ sung). Vì vậy, quyết định đình chỉ việc giải quyết các
vụ án hành chính của TAND thành phố N.T là trái pháp luật, đã tước quyền khiếu
nại và khởi kiện của bà Khánh theo quy định pháp luật. Vì vậy, khi xét xử phúc
thẩm, Tòa án sẽ có căn cứ thẩm quyền để hủy quyết định đình chỉ việc giải quyết
các vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm và giao hồ sơ vụ án cho TAND thành phố N.T
tiếp tục giải quyết vụ án hành chính do bà Khánh khởi kiện theo thủ tục sơ thẩm
đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, đối với quyết định giải quyết tiếp theo
trái thẩm quyền của UBND tỉnh K.H trên thực tế vẫn còn tồn tại! Trong trường
hợp này, Tòa án phải giải quyết như thế nào để đảm bảo quyền khiếu nại và khởi
kiện của công dân theo đúng quy định của pháp luật ?


10


Tiểu luận: Xử lý như thế nào đối với quyết định giải quyết tiếp theo trái thẩm quyền trong tố tụng hành chính.

PHẦN THỨ TƯ
LỰA CHỌN PHƯƠNG ÁN GIẢI QUYẾT
Mặc dù vụ việc đã được các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giải quyết, tuy
nhiên cách giải quyết của các cơ quan này có nhiều vấn đề cần phải trao đổi, xem
xét thêm. Theo ý kiến của cá nhân tôi thì đối với từng trường hợp nêu trên cần
phải có cách nhìn nhận và xử lý như sau :
* Việc thứ nhất : Về “ Quyết định chuyển hồ sơ vụ án hành chính” của Tòa
án có thuộc đối tượng để kháng cáo hay không ?
1. Khoản 1 Điều 2 Luật khiếu nại, tố cáo năm 1999 xác định: “ Khiếu nại là
việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do Luật này
quy định đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định
hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có
căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi
ích hợp pháp của mình”.
Tôi có ý kiến như sau :
*Theo nội dung trên thì TAND thành phố N.T đã nhận đơn và thụ lý vụ án,
như vậy có nghĩa là TAND thành phố N.T đã xác định vụ án thuộc thẩm quyền
giải quyết của mình. Theo quy định tại khoản 2 Điều 37 Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án hành chính thì trong thời hạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán được
phân công làm chủ tọa phiên tòa ( 60 ngày kể từ ngày thụ lý vụ án) phải ra một
trong những quyết định sau đây:
+ Đưa vụ án ra xét xử
+ Tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án.
+ Đình chỉ việc giải quyết vụ án.

Đối chiếu với các quy định tại khoản 1 Điều 40 và khoản 1 Điều 41 Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính về những căn cứ để Thẩm phán ra
Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án này thì không có lý do để Thẩm
phán ra một trong hai quyết định nói trên trong thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án.
*Theo điểm b khoản 1 Điều 13 Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, thì Tòa án đã thụ lý vụ án hành
chính chỉ chuyển hồ sơ vụ án cho người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp
theo trong trường hợp vừa có người khởi kiện vụ án hành chính, vừa có người
khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo. Trong vụ việc
này, bà Khánh có đơn khởi kiện, còn ông Ngữ không làm đơn khiếu nại.

11


Tiểu luận: Xử lý như thế nào đối với quyết định giải quyết tiếp theo trái thẩm quyền trong tố tụng hành chính.

Mặt khác, việc TAND thành phố N.T chỉ có quyết định chuyển vụ án hành
chính mà không ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án là vi phạm điểm g
khoản 1 Điều 41 Pháp lệnh.
Như vậy, Luật không quy định cho phép Tòa án được chuyển vụ án trong
quá trình chuẩn bị xét xử. Đáng lẽ trong trường hợp này khi nhận đơn kiện do
không phát hiện được sự việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án để
trả lại đơn cho bà Khánh theo quy định tại khoản 8 Điều 31 Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án hành chính cho nên đã thụ lý vụ án và chuẩn bị xét xử thì Thẩm
phán phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử sẽ căn
cứ vào quy định tại Điều 48 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính để
quyết định đình chỉ vụ án với căn cứ tại điểm g khoản 2 Điều 41 Pháp lệnh thủ tục
giải quyết các vụ án hành chính là : “ Sự việc không thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án”
Quyết định số 2468/QĐ-UB ngày 20/10/1999 của UBND thành phố N.T về

việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất giữa ông Trần Văn Ngữ ( xác định
phần đất tranh chấp giữa hai người là thuộc quyền sử dụng của ông Ngữ). Rõ ràng
là đơn của ông Ngữ đã không khiếu nại Quyết định số 2468/QĐ-UB. Do đó, việc
TAND thành phố N.T ra quyết định chuyển vụ án hành chính đến UBND tỉnh
K.H giải quyết là không đúng quy định của pháp luật.
2. Căn cứ Điều 55 Pháp lệnh để cho rằng: Đối tượng để kháng cáo, kháng
nghị chỉ bao gồm bản án, quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án của Tòa
cấp sơ thẩm; quyết định chuyển hồ sơ vụ án không thuộc đối tựơng để kháng cáo,
kháng nghị là không thỏa đáng, bởi lẽ: Những quyền hợp pháp của nhân dân nhất
thiết phải được tôn trọng. Không lẽ chỉ vì sai lầm của Tòa cấp sơ thẩm mà ngừơi
dân mặc nhiên bị tứơc mất quyền đã được luật pháp ghi nhận? Trong khi nguyên
tắc xét xử 2 cấp là cơ chế hữu hiệu đảm bảo quyền lợi của công dân, là phương
tiện để sửa chữa những sai lầm của Tòa cấp sơ thẩm.
Còn vấn đề đương sự ( cụ thể là bà Khánh ) và Viện kiểm sát nhân dân cùng
cấp hoặc cấp trên trực tiếp có quyền kháng cáo, kháng nghị quyết định chuyển vụ
án hay không thì thấy rằng - theo quy định tại khoản 3 Điều 40, khoản 2 Điều 41
và khoản 1 Điều 55 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính thì đương
sự có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát cùng cấp hoặc trên một cấp có quyền kháng
nghị bản án, quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ việc giải quyết vụ án của Tòa
án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp trên một cấp xét xử phúc thẩm.
Theo tôi vấn đề này giải quyết như sau :
Bà Khánh phải làm đơn khiếu nại việc TAND thành phố N.T chuyển vụ kiện
mà bà cho là không đúng gửi tới TAND thành phố N.T, TAND tỉnh K.H, VKS
thành phố N.T, UBND thành phố N.T để khi nhận được đơn của bà thì :
12


Tiểu luận: Xử lý như thế nào đối với quyết định giải quyết tiếp theo trái thẩm quyền trong tố tụng hành chính.

- Nếu TAND thành phố N.T thấy việc chuyển vụ kiện trước đây của mình là

không đúng vì vụ kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì đề nghị UBND
thành phố N.T chuyển lại hồ sơ vụ kiện để xét xử theo thẩm quyền.
- Nếu TAND tỉnh K.H thấy việc chuyển vụ kiện là không đúng vì việc này
thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND thành phố N.T thì yêu cầu đơn vị này liên
hệ với UBND thành phố N.T lấy lại hồ sơ vụ kiện để tiến hành xét xử.
- Nếu UBND thành phố N.T qua nghiên cứu vụ kiện này thấy không thuộc
thẩm quyền giải quyết của mình mà thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND
thành phố N.T thì chuyển hồ sơ vụ kiện cho đơn vị này để giải quyết theo thẩm
quyền.
- Nếu VKSND thành phố N.T thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình đã
được quy định tại Điều 10 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính thấy
việc UBND thành phố chuyển vụ án là không đúng thì yêu cầu họ rút hồ sơ vụ
kiện về để giải quyết theo đúng thẩm quyền quy định.
Như trên đã phân tích thì Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính
không quy định cho Tòa án có thẩm quyền ra quyết định chuyển vụ án, chỉ quy
định đương sự hoặc người đại diện của họ, Viện kiểm sát được quyền kháng cáo,
kháng nghị bản án, quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án và quyết định
đình chỉ việc giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm. Từ đó tôi thấy : Dù luật
không quy định đương sự, Viện kiểm sát được quyền kháng cáo, kháng nghị quyết
định chuyển vụ án và trong thực tế quyết định này cũng không có do luật không
quy định mà chỉ có TAND thành phố N.T tự đặt ra thì quyền lợi của các đương sự
không được đảm bảo thực hiện. Vì vậy, theo tôi cần phải vận dụng điểm g khoản
2 Điều 20 Pháp lệnh ( đương sự có quyền” kháng cáo bản án, quyết định của Tòa
án”) và khoản 3 Điều 61 Pháp lệnh ( Hội đồng xét xử phúc thẩm không phải mở
phiên tòa khi xét” kháng cáo, kháng nghị những quyết định của Tòa án cấp sơ
thẩm”) “ Quyết định” ở đây được hiểu là gồm cả quyết định chuyển vụ án hành
chính của Tòa cấp sơ thẩm.
* Việc thứ hai : Xử lý như thế nào đối với quyết định giải quyết tiếp theo trái
thẩm quyền trong tố tụng hành chính.
Luật khiếu nại tố cáo có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/1999. Sau khi

Luật này được ban hành, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 67/1999/NĐ-CP
ngày 7/8/1999 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật khiếu nại tố cáo. Đây
là những văn bản luật quan trọng nhằm thể chế hoá quyền khiếu nại tố cáo của
công dân cũng như trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước đối với công tác giải
quyết khiếu nại, tố cáo. Các văn bản này quy định cụ thể nhiều vấn đề có liên
quan đến việc khiếu nại tố cáo của công dân đối với cơ quan hành chính Nhà nước
13


Tiểu luận: Xử lý như thế nào đối với quyết định giải quyết tiếp theo trái thẩm quyền trong tố tụng hành chính.

và người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính Nhà nước trong hoạt động quản
lý Nhà nước.
Như vậy thủ tục giải quyết khiếu nại có thể tóm tắt lại theo sơ đồ sau:
Khiếu nại tiếp
lên cơ quan
Nhà nước cấp
trên

Tạm ứng
án phí

Thời hiệu khiếu nại
90 ngày

Quyết
định,
hành
vi
hành

chính

Thụ lý:
10 ngày

Đơn
khiếu
nại

30-45 ngày

30-45 ngày

Quyết
định
giải
quyết
khiếu
nại

Giai đoạn khiếu nại quyết định hành chính
hoặc hành vi hành chính lần đầu

7 ngày

60 - 90 ngày

Thụ
lý vụ
án

hành
chính

- Quyết định đưa vụ án ra
xét xử; hoặc
- Tạm đình chỉ; hoặc
- Đình chỉ vụ án.

Khởi kiện vụ án hành chính tại
Toà án có thẩm quyền

Về thẩm quyền giải quyết khiếu nại:
Trong thời gian qua, hầu hết các quyết định tranh chấp đất đai do UBND các
cấp huyện, thị xã, thành phố N.T ( tỉnh K.H ) ban hành đều có giải thích về quyền
khiếu nại của đương sự: “ Nếu không đồng ý với quyết định này ông bà có quyền
khiếu nại lên UBND tỉnh theo điểm c, khoản 2, điều 38 Luật đất đai”.
Điểm c, khoản 2 Điều 38 Luật Đất đai năm 1993 quy định về thẩm quyền
giải quyết khiếu nại tranh chấp đất đai như sau : “ Trường hợp không đồng ý với
quyết định của UBND đã giải quyết tranh chấp, đương sự có quyền khiếu nại lên
cơ quan hành chính cấp trên. Quyết định này có hiệu lực thi hành”.
Nếu áp dụng quy định này thì người khiếu nại sẽ không được quyền khiếu
nại lần đầu hoặc thực hiện việc khởi kiện vụ án hành chính theo quy định của
pháp luật.
14


Tiểu luận: Xử lý như thế nào đối với quyết định giải quyết tiếp theo trái thẩm quyền trong tố tụng hành chính.

Trong khi đó, Điều 30 Luật khiếu nại tố cáo quy định: “ Người khiếu nại lần
đầu phải khiếu nại với người đã ra quyết định hành chính hoặc cơ quan có cán

bộ, công chức có hành vi hành chính mà người khiếu nại có căn cứ cho rằng
quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền lợi ích gợp pháp của
mình”.
Như vậy, theo quy định của Luật khiếu nại tố cáo, người khiếu nại phải khiếu
nại với chính người đã ra quyết định hành chính đó chứ không phải khiếu nại lên
cơ quan hành chính Nhà nước cấp trên. Thế nhưng trên thực tế, khi công dân
khiếu nại lần đầu, UBND thành phố N.T là ngừơi ban hành quyết định hành chính
lần đầu, lại bị UBND thành phố N.T trả lời đơn với lý do” không thuộc thẩm
quyền giải quyết”?
Vậy trong trường hợp này thì thẩm quyền giải quyết được áp dụng theo Luật
nào mới đảm bảo nguyên tắc pháp chế XHCN.
*Về thời hiệu khiếu nại quyết định hành chính
Điều 31 Luật khiếu nại tố cáo quy định: “ Thời hiệu khiếu nại là 90 ngày, kể
từ ngày nhận được quyết định hành chính hoặc biết được có hành vi hành chính”.
Như vậy đối với một công dân hoặc một tổ chức pháp nhân nào đó, khi nhận
được quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính mà cho rằng quyết định
hành chính, hoặc hành vi hành chính này xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp
của mình thì bắt buộc họ phải tiến hành các thủ tục khiếu nại lần đầu trong thời
hạn là 90 ngày. Nếu họ thực hiện đúng trình tự này thì sẽ được các cơ quan có
thẩm quyền xem xét việc khiếu nại, kể cả việc có thể khởi kiện vụ án hành chính
đến TAND để yêu cầu giải quyết đúng theo quy định của Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án hành chính. Còn trong trường hợp công dân, hoặc tổ chức pháp
nhân không thực hiện đầy đủ các bước khiếu nại theo quy định của Luật khiếu nại
tố cáo thì sẽ mất quyền khiếu nại. Nếu có khởi kiện vụ án hành chính đến TAND
thì Tòa án sẽ không thụ lý vụ án mà phải trả lại đơn. Việc trả lại đơn trong trường
hợp này được quy định tại khoản 4, điều 31 của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các
vụ án hành chính ( đã được sửa đổi, bổ sung) vì : “ Đã hết thời hiệu khiếu nại lần
đầu quy định tại Điều 31Luật khiếu nại tố cáo mà không khiếu nại”.
Thế nhưng trên thực tiễn thi hành pháp luật tại địa phương, các cơ quan có
thẩm quyền ban hành quyết định hành chính không áp dụng cách tính thời hiệu

quy định của Luật khiếu nại tố cáo mà lại áp dụng theo văn bản pháp quy khác, đó
là Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995. Theo khoản 1 Điều 88 Pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính quy định về thời hiệu khiếu nại đối với quyết định
xử phạt hành chính như sau : “ Cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính
hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền khiếu nại với người đã ra quyết
định xử phạt trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định”. Trong khi
15


Tiểu luận: Xử lý như thế nào đối với quyết định giải quyết tiếp theo trái thẩm quyền trong tố tụng hành chính.

đó Luật khiếu nại tố cáo là một văn bản pháp quy có giá trị pháp lý cao hơn Pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính. Việc áp dụng về thời hạn khiếu nại trong Pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính ở tỉnh K.H đã nảy sinh nhiều vướng mắc trong việc
giải quyết khiếu nại và khởi kiện của công dân.
Trở lại vụ việc đang phân tích ở trên thì thấy :
Ngày 20/10/1999, UBND thành phố N.T ban hành Quyết định số 2486/QĐUB về việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất giữa ông Trần Văn Ngữ với
bà Nguyễn thị Kim Khánh trong quyết định này đã xác định phần đất có diện tích
9,234 m2 thuộc quyền sử dụng của ông Trần Văn Ngữ. Không đồng ý với quyết
định này, bà Khánh đã có đơn khiếu nại lần đầu và khởi kiện Quyết định
2486/QĐ-UB nêu trên ra TAND thành phố N.T theo đúng quy định của Luật
Khiếu nại tố cáo và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ( đã sửa đổi
bổ sung).
Ngày 13/12/1999, TAND thành phố N.T đã thụ lý vụ án hành chính sơ thẩm
số 03/HCST.
Ngày 24/01/2000, TAND thành phố N.T ra quyết định số 01/QĐ-TA chuyển
hồ sơ vụ án đến UBND tỉnh K.H để giải quyết. Bà Khánh tiếp tục khiếu nại việc
chuyển hồ sơ vụ án không có căn cứ pháp luật này.
Tại quyết định phúc thẩm số 07/QĐ-PT ngày 15/11/2000 của TAND tỉnh
K.H quyết định: “ Huỷ quyết định chuyển hồ sơ vụ án hành chính số 01 ngày

24/01/2000 của TAND thành phố N.T và chuyển hồ sơ cho TAND thành phố N.T
để thụ lý, điều tra xét xử lại theo thủ tục tố tụng chung”.
Trong quá trình Toà án thành phố Nha Trang đang thụ lý giải quyết vụ kiện
đối với Quyết định số 2468/QĐ-UB ngày 26/12/2000 của Uỷ ban nhân dân thành
phố N.T, Uỷ ban nhân dân tỉnh K.H lại ban hành Quyết định số 5826/QĐ với nội
dung công nhận Quyết định số 2486 của Uỷ ban nhân dân thành phố N.T là đúng
và giao cho Uỷ ban nhân dân thành phố N.T lập thủ tục xử phạt, buộc tháo dỡ nhà
của bà Khánh .
Ngày 15/01/2001, Tòa án nhân dân thành phố N.T đã ra quyết định số 01
đình chỉ việc giải quyết vụ “ Khiếu kiện Quyết định số 2486/QĐ ngày 20/10/1999
của UBND thành phố N.T” với lý do : “ Xét thấy vụ kiện tranh chấp quyền sử
dụng đất đã được giải quyết bằng quyết định cuối cùng số 5286/QĐ ngày
26/12/2000 của UBND tỉnh K.H.
Ngay sau đó bà Khánh đã có đơn kháng cáo quyết định đình chỉ vụ án nêu
trên, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh K.H xét lại theo trình tự phúc thẩm vì Uỷ ban
16


Tiểu luận: Xử lý như thế nào đối với quyết định giải quyết tiếp theo trái thẩm quyền trong tố tụng hành chính.

nhân dân tỉnh K.H đã giải quyết trái thẩm quyền, tước quyền xét xử của Tòa án
nhân dân vi phạm Luật khiếu nại, tố cáo.
Tại Quyết định phúc thẩm số 02 ngày 06/4/2001 của Tòa án nhân dân tỉnh đã
khẳng định: “ Việc khởi kiện của bà Nguyễn thị Kim Khánh đối với Quyết định
2486/QĐ-UB ngày 20/10/1999 của UBND thành phố N.T là đúng trình tự pháp
luật tố tụng hành chính; việc khiếu nại của ông Trần Văn Ngữ đối với quyết định
hành chính này chưa đúng trình tự theo quy định của Luật khiếu nại tố cáo.
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án tính đến ngày Tòa án cấp sơ thẩm có
quyết định đình chỉ vụ án hành chính( 15/01/2001) thì không có căn cứ xác định
ông Trần Văn Ngữ đã khiếu nại Quyết định số 2486/QĐ-UB ngày 20/10/1999 của

Uỷ ban nhân dân thành phố N.T theo đúng quy định của Luật khiếu nại tố cáo. Do
đó, trong trường hợp này cấp sơ thẩm không thể xác định sự việc đã có quyết định
giải quyết khiếu nại của người có thẩm quyền giải quyết tiếp theo để đình chỉ việc
giải quyết vụ án hành chính được.Vì lẽ đó, Tòa phúc thẩm đã quyết định: Huỷ
quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án hành chính số 01 ngày 15/01/2001 của
Tòa án nhân dân thành phố N.T đối với vụ án hành chính “ Khiếu kiện quyết định
giải quyết tranh chấp đất đai” giữa bà : Nguyễn thị Kim Khánh với người bị kiện
là Uỷ ban nhân dân thành phố N.T, giao hồ sơ vụ án nói trên cho Tòa án nhân dân
thành phố N.T thụ lý giải quyết theo thủ tục chung.
Như vậy, quyết định số 2486/QĐ-UB ngày 20/10/1999 của Uỷ ban nhân dân
thành phố N.T hiện nay đang là đối tượng kiện tại Tòa án nhân dân thành phố
N.T. Việc công nhận quyết định này đúng hay sai cần phải chờ phán quyết của
bản án hành chính có hiệu lực pháp luật.

17


Tiểu luận: Xử lý như thế nào đối với quyết định giải quyết tiếp theo trái thẩm quyền trong tố tụng hành chính.

PHẦN THỨ NĂM
TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHƯƠNG ÁN GIẢI QUYẾT
Qua đó tôi nhận thấy : Xét về thủ tục giải quyết khiếu nại và khởi kiện theo
quy định tại Luật khiếu nại tố cáo và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành
chính, thì Quyết định số 5826/QĐ-UB ngày 26/12/2000 của UBND tỉnh K.H là
Quyết định giải quyết khiếu nại của ông Trần Văn Ngữ đối với Quyết định hành
chính lần đầu số 2486/QĐ-UB ngày 20/10/1999 của UBND thành phố N.T, tỉnh
K.H về giải quyết tranh chấp đất đai giữa gia đình ông Ngữ với gia đình bà. Mặt
khác, tại điều 2 của Quyết định này của UBND tỉnh K.H không quyết định áp
dụng ngay biện pháp xử phạt hành chính và tháo dỡ nhà ở, công trình vật kiến trúc
của gia đình bà, mà chỉ “ Giao cho UBND thành phố N.T ...” thực hiện theo thẩm

quyền. Cũng theo quy định của pháp luật, thì chỉ khi nào UBND thành phố N.T lại
ban hành các quyết định về xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng biện pháp
tháo dỡ nhà ở và công trình vật kiến trúc của gia đình bà, thì bà có quyền khiếu
nại và khởi kiện đề Tòa án giải quyết bằng vụ án hành chính. Như vậy, Quyết
định số 5826/QĐ-UB ngày 26/12/2000 của UBND tỉnh K.H là quyết định của
người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo, không phải là quyết định hành
chính lần đầu, do đó việc TAND tỉnh K.H trả lại đơn kiện của bà là đúng với quy
định tại khoản 8 điều 31 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính.
Quyết định 5826 của Uỷ ban nhân dân tỉnh K. H theo Luật khiếu nại, tố cáo
thì đã có hiệu lực pháp luật, do đó Tòa án các cấp không có thẩm quyền thụ lý giải
quyết theo thủ tục tố tụng hành chính. Điều này lại mâu thuẫn với “ Báo cáo tổng
kết công tác ngành Tòa án năm 2000” hướng dẫn giải quyết những vướng mắc
trong việc áp dụng quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính
( đã được sửa đổi bổ sung) tại trang 71- 72 như sau : “ Khi Tòa án đã thụ lý và
đang trong giai đoạn tiến hành giải quyết vụ án theo đơn khởi kiện của một người
thì nhận đựơc quyết định giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính đang
bị khiếu kiện của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo và Tòa án đã
trao đổi với người có thẩm quyền ra quyết định giải quyết khiếu nại tiếp theo về
tính hợp pháp của việc ra quyết định đó nhưng họ không rút quyết định và người
khởi kiện cũng không rút đơn kiện thì Tòa án vẫn tiếp tục giải quyết vụ án theo
quy định của pháp luật. Cơ quan đã ra quyết định giải quyết khiếu nại tiếp theo
phải thu hồi hoặc huỷ bỏ quyết định này vì lý do trái thẩm quyền giải quyết khiếu
nại”. Tuy nhiên hướng dẫn của Toà án tối cao về việc này vẫn không được thực
hiện trong thực tế giải quyết các vụ án hành chính của Toà án cấp dưới vì : Hướng
dẫn của Tòa án nhân dân tối cao chỉ là hướng dẫn nghiệp vụ xét xử cho Tòa án
cấp dưới, không phải là văn bản qui phạm pháp luật buộc các cơ quan có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo thi hành . Từ đó vẫn dẫn đến bế tắc trong xét
xử, như vậy trên thực tế quyết định giải quyết tiếp theo trái thẩm quyền vẫn tồn
tại.


18


Tiểu luận: Xử lý như thế nào đối với quyết định giải quyết tiếp theo trái thẩm quyền trong tố tụng hành chính.

Để đảm bảo việc giải quyết các vụ án hành chính trong những trường hợp
này, theo quan điểm của tôi : Toà án đang thụ lý phải tạm đình chỉ giải quyết vụ
án đồng thời kiến nghị đến Thủ tướng Chính phủ để xem xét lại quyết định giải
quyết tiếp theo và quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng có vi phạm pháp luật
được quy định tại Khoản 2 Điều 28 Luật khiếu nại tố cáo và Điều 16 của Nghị
định 67 ngày 07/8/1999 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật khiếu nại, tố cáo.
Trong quá trình xem xét giải quyết của Thủ tướng Chính phủ nếu quyết định giải
quyết tiếp theo bị huỷ bỏ thì Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án theo quy định chung,
ngược lại trong trường hợp quyết định giải quyết tiếp theo này không bị huỷ bỏ thì
Tòa án phải căn cứ điểm e Điều 41 Pháp lệnh giải quyết các vụ án hành chính ( đã
được sửa đổi bổ sung ) để đình chỉ vụ án. Có như vậy giữa Luật khiếu nại, tố cáo
và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính mới được áp dụng một cách
thống nhất. Không nên để tình trạng như hiện nay chỉ 01 vụ án đơn giản nhưng do
các cơ quan Nhà nước giải quyết trái pháp luật làm thiệt hại đến công dân mà
không được xử lý . Tôi thiết nghĩ sắp tới Quốc hội nên xem xét sửa đổi lại Luật
khiếu nại tố cáo và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính.
Biện pháp giải quyết :
- Khi một quyết định hành chính được ban hành mà không đảm bảo tính hợp
pháp và hợp lý thì phải tùy tính chất và mức độ vi phạm để xem xét xem quyết
định hành chính đó là vô hiệu toàn phần hay vô hiệu từng phần.
- Quyết định hành chính không hợp pháp thì áp dụng việc đình chỉ hoặc bãi
bỏ.
- Quyết định hành chính trái pháp luật đã được thi hành thì phải được áp
dụng các biện pháp để khôi phục lại tình trạng như cũ.
- Nếu quyết định hành chính không hợp lý cũng có thể bị đình chỉ hoặc bãi

bỏ.
- Ngoài ra công dân có quyền phản kháng các quyết định hành chính bất hợp
pháp và bất hợp lý bằng 2 hình thức :
+ Khiếu nại hành chính theo Luật khiếu nại, tố cáo
+ Khiếu kiện tố tụng hành chính được thực hiện tại Tòa hành chính.
Theo tôi trong trường hợp quy định về thời hiệu khiếu nại, thẩm quyền giải
quyết khiếu nại trong Luật Đất đai năm 1993, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính
năm 1995 như đã nêu trên trái với quy định của Luật khiếu nại tố cáo nên không
còn phù hợp vì không thể áp dụng được. Bởi lẽ: Điều 103 của Luật khiếu nại tố
cáo quy định: “ Những quy định trước đây trái với Luật này đều bãi bỏ”. Vì thế,
sau khi Luật khiếu nại tố cáo có hiệu lực thi hành thì thẩm quyền giải quyết khiếu
nại, thời hiệu khiếu nại...phải được xác định thống nhất theo quy định của Luật
khiếu nại tố cáo chứ không thể áp dụng văn bản nào cũng được. Điều này hoàn
toàn phù hợp với Điều 80 Luật ban hành văn bản qui phạm pháp luật: “ Trường
hợp các văn bản qui phạm pháp luật về cùng một vấn đề do cùng một cơ quan

19


Tiểu luận: Xử lý như thế nào đối với quyết định giải quyết tiếp theo trái thẩm quyền trong tố tụng hành chính.

ban hành mà có quy định khác nhau, thì áp dụng quy định của văn bản ban hành
sau”

20


Tiểu luận: Xử lý như thế nào đối với quyết định giải quyết tiếp theo trái thẩm quyền trong tố tụng hành chính.

PHẦN THỨ SÁU

KẾT LUẬN
Các cơ quan hành chính Nhà nước ban hành các quyết định hành chính và
thực hiện hoạt động hành chính (hành vi công vụ) để quản lý xã hội và phục vụ
nhân dân, các quyết định hành chính có thể là bất hợp pháp nghĩa là chúng trái với
Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan quản lý Nhà nước cấp trên làm ảnh hưởng
tới quyền và lợi ích hợp pháp của dân. Như vậy quyết định chuyển hồ sơ vụ án
hành chính số 01 ngày 24/01/2000 của Tòa án nhân dân thành phố N.T và Quyết
định số 5826/QĐ-UB ngày 26/12/2000 của Uỷ ban nhân dân tỉnh K.H ban hành
trái pháp luật làm ảnh hưởng và gây tổn hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà
Khánh, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Nhà nước. Bà Khánh đã thực hiện
quyền khiếu nại và khởi kiện tới các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Việc ban hành quyết định của Uỷ ban nhân dân tỉnh không theo một quy
trình cụ thể: các giai đoạn ban hành quyết định, giai đoạn tổ chức thực hiện quyết
định, giai đoạn kiểm tra việc thực hiện quyết định, giai đoạn tổng kết đánh giá
việc thực hiện quyết định.
Giai đoạn ban hành quyết định gồm có các bước:
- Bước 1 : Điều tra nghiên cứu thu thập thông tin và xử lý thông tin. Phân
tích, đánh giá tình hình làm căn cứ cho ra quyết định. Dự đoán, lập phương án và
chọn phương án tốt nhất. Phải kiểm tra tính khách quan và tính chính xác của
nguồn thông tin, tránh chủ quan, có định kiến với nguồn thông tin đã có sẵn.
Chỉnh lý và hệ thống hóa thông tin theo yêu cầu đặt ra phải giải quyết. Phân tích
thông tin với kiến thức khoa học và nghiệp vụ, không dừng lại ở bề mặt, phải tìm
ra được bản chất của sự việc, những mối quan hệ bên trong và xu thế phát triển
của sự vật.
- Bước 2 : Soạn thảo quyết định: cần được đưa ra thảo luận để lấy ý kiến của
một số cơ quan chuyên môn có liên quan đến thẩm quyền và trách nhiệm. Có loại
lấy ý kiến có tính bắt buộc, có loại lấy ý kiến có tính tham khảo. Người tham gia ý
kiến phải tự mình đọc và nghiên cứu thực sự, tránh hội họp hình thức, tham gia ý
kiến vội vàng, ngẫu hứng, cảm tính, thiếu trách nhiệm.
Các quyết định lấy ý kiến rộng rãi thông qua phương tiện thông tin đại chúng

cần chú ý không được làm lộ bí mật quốc gia.
- Bước 3 : Thông qua quyết định: quyết định phải được thông qua theo đúng
thủ tục quy định
+ Thông qua theo chế độ lãnh đạo tập thể và quyết định theo đa số.
+ Thông qua theo chế độ một thủ trưởng.
21


Tiểu luận: Xử lý như thế nào đối với quyết định giải quyết tiếp theo trái thẩm quyền trong tố tụng hành chính.

Khi quyết định người thủ trưởng cần tránh 4 sai lầm thường mắc phải sau
đây :
- Ra quyết định quản lý mà không nắm vững yêu cầu thực tế, giải quyết vấn
đề một cách chung chung, không đủ cụ thể và hiện thực, không đủ chính xác, rõ
ràng, không đủ hiểu và làm khác nhau.
- Quá tin vào tham mưu, người dự thảo và chắp bút; không điều tra kỹ lưỡng,
không lắng nghe hết ý kiến người tham gia, có định kiến sẵn, quá tin vào những
hiểu biết của mình để đi đến một quyết định một cách phiến diện, chủ quan.
- Thể hiện ở chỗ quyết định mang tính chất thỏa hiệp, nể nang dựa dẫm cấp
trên.
- Ra quyết định không đúng thẩm quyền, không đủ căn cứ pháp lý, quyết
định trùng lắp, chồng chéo ngay trong bản thân quyết định với các quyết định đã
ra trước đây.
Theo quy trình trên, khi ra Quyết định số 5826/QD-UB ngày 26/12/2000 của
Uỷ ban nhân dân tỉnh K.H đã không thực hiện đúng quy trình trên .
Quyết định hành chính đựoc ban hành để thực hiện quyền hành pháp, tức là
hoạt động chấp hành và điều hành của hệ thống hành chính Nhà nước và người
được uỷ quyền hành pháp. Quyết định hành chính Nhà nước là tín hiệu điều
khiển, là thông tin quy phạm của các chủ thể quản lý hành chính Nhà nước tác
động vào khách thể để thực hiện mục đích của mình đề ra theo quỹ đạo và ý chí

của mình.
Quyết định hành chính được ban hành phải phù hợp với pháp luật về nội
dung và trình tự ban hành. Các cơ quan hành chính Nhà nước ban hành các quyết
định hành chính và thực hiện hoạt động hành chính để quản lý xã hội và phục vụ
công dân.
Khi một quyết định ban hành không có căn cứ pháp lý, không đúng thẩm
quyền theo luật định thì đó là một quyết định hành chính không hợp pháp và cần
được xử lý.
Do vậy để ban hành và tổ chức thực hiện quyết định hành chính được hợp
pháp và hợp lý, phải thực hiện đúng quy trình, đúng các giai đoạn khi ban hành
quyết định hành chính, các giai đoạn tổ chức thực hiện, các giai đoạn kiểm tra
thực hiện và cuối cùng là tổng kết đánh giá việc thực hiện quyết định đó.
Giải quyết vụ án hành chính là một vấn đề hết sức phức tạp vì trực tiếp đụng
chạm đến các cơ quan hành chính Nhà nước, đặc biệt là cơ quan hành chính cùng
cấp với Tòa án địa phương. Chính vì vậy, một số Tòa án rất dè dặt và phát sinh tư
tưởng ngại gải quyết các vụ án hành chính. Muốn giải quyết tốt các vụ án hành
chính, các Tòa án cần hết sức thận trọng và có phương pháp làm việc thích hợp để
22


Tiểu luận: Xử lý như thế nào đối với quyết định giải quyết tiếp theo trái thẩm quyền trong tố tụng hành chính.

chính quyền địa phương thông cảm, tạo điều kiện giúp đỡ Tòa án hoàn thành
nhiệm vụ.

23




×