Tải bản đầy đủ (.docx) (71 trang)

Đánh giá ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa đến việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất tại huyện vũ thư tỉnh thái bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.79 KB, 71 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài, bản thân em luôn nhận được sự quan tâm
giúp đỡ chỉ bảo tận tình của các thầy, cô giáo trong khoa Quản lý đất đai - Trường
Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội, cùng các phòng, ban của nhà trường và
địa phương đã tạo điều kiện thuận lợi nhất để em hoàn thành báo cáo khóa luận tốt
nghiệp này.
Lời đầu tiên, em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong Trường Đại
học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội nói chung, các thầy, cô giáo trong khoa
Quản lý đất đai nói riêng đã tận tình dạy dỗ, chỉ bảo ân cần trong suốt thời gian em
học tập tại trường; trong đó đặc biệt là cô giáo - Th.s Nguyễn Thị Nga người đã
trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo em trong suốt thời gian em thực hiện chuyên đề.
Em xin chân thành cảm ơn UBND huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình đã tạo mọi
điều kiện thuận lợi giúp đỡ em trong thời gian nghiên cứu làm chuyên đề tại huyện.
Cuối cùng từ đáy lòng mình, em xin kính chúc các thầy, cô giáo và các cô, chú
mạnh khỏe, hạnh phúc, thành đạt trong cuộc sống.
Em xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 12 tháng 06 năm 2015
Sinh viên

Hoàng Thị Lý Huế

1


MỤC LỤC

2


DANH MỤC CÁC BẢNG


3


DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ

4


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đô thị hoá là quá trình tất yếu trong phát triển kinh tế - xã hội diễn ra không
chỉ đối với Việt Nam mà còn đối với tất cả các nước khác trên thế giới, là xu thế
tích cực tạo nên động lực mới cho mỗi quốc gia. Phụ thuộc vào đặc điểm phát triển
của từng quốc gia mà quá trình đô thị hóa ở mỗi quốc gia sẽ khác nhau. Đất đai
trong giai đoạn này ngoài chức năng vốn có của nó là tư liệu sản xuất đặc biệt
không thể thay thế, thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn
phân bố các khu dân cư, xây dựng các công trình kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh
và quốc phòng thì trong thời kỳ này đất đai có thêm những chức năng có ý nghĩa
quan trọng là chức năng tạo nguồn vốn và thu hút cho đầu tư phát triển vì quá trình
đô thị hóa hình thành hệ thống cơ sở hạ tầng, kinh tế, xã hội, tạo nên đô thị ở những
cấp bậc khác nhau. Đô thị hóa liên quan hầu hết tới các hoạt động của đời sống xã
hội. Đi kèm với đô thị hóa là hàng loạt các thay đổi về kết cấu hạ tầng, hệ thống
giao thông, quy hoạch không gian, mật độ dân cư, phương thức sản xuất và đời
sống xã hội…
Quá trình đô thị hóa tất yếu phải gắn với công nghiệp hóa, hiện đại hóa để
hình thành các cơ sở, các khu công nghiệp, khu thương mại, dịch vụ và khu dân cư
mới. Trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước để đưa đất đai thực sự
trở thành nguồn vốn, nguồn thu hút cho các đầu tư phát triển thì chuyển mục đích
sử dụng đất để xây dựng các khu, cụm công nghiệp, khu đô thị tập trung nhằm nâng
cao hiệu quả sử dụng đất, xây dựng cơ cấu đất đai hợp lý là con đường hết sức cần

thiết và duy nhất.Việc tích tụ và chuyển đổi trên diện rộng, với quy mô lớn mục
đích sử dụng đất nông nghiệp sang đất ở, du lịch, dịch vụ và các mục đích sản xuất
kinh doanh phi nông nghiệp là quy luật phát triển tất yếu. Quá trình đô thị hóa ngày
càng diễn ra mạnh mẽ ở các tỉnh, thành phố nhất là các tỉnh có vị trí địa lý và địa
hình thuận lợi để phát triển công nghiệp đã làm ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống
kinh tế và văn hóa của người dân, làm biến đổi cả về chiều sâu của xã hội nông thôn
truyền thống. Ảnh hưởng của việc đô thị hóa, phát triển công nghiệp, xây dựng các

5


khu, cụm công nghiệp đến đời sống, việc làm của người dân đang là vấn đề đặc biệt
được quan tâm nhất là đối với địa bàn tỉnh Thái Bình nói chung và huyện Vũ Thư
nói riêng. Là một huyện nằm giáp với thành phố Thái Bình với diện tích tự nhiên
khoảng 19.513,84 ha và dân số khoảng 245.150 người vì vậy huyện Vũ Thư có
nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội.Sự hình thành các khu công
nghiệp, khu đô thị, các tuyến đường giao thông là xu thế tất yếu để hòa nhập với sự
phát triển của tỉnh Thái Bình nói riêng và đất nước nói chung. Đồng thời với quá
trình đô thị hóa thì những biến động đất đai trong tiến trình phát triển cũng là một
vấn đề quan trọng liên quan đến việc sử dụng đất hiệu quả, chính vì những lý do đó
tôi tiến hành đề tài nghiên cứu “Đánh giá ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa đến
việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất tại huyện Vũ Thư - Tỉnh Thái Bình”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Phân tích, đánh giá thực trạng tình hình đô thị hóa tại huyện Vũ Thư - tỉnh
Thái Bình.
- Sự ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa tới việc chuyển đổi mục đích sử dụng
đất trên địa bàn huyện Vũ Thư - tỉnh Thái Bình
- Tìm ra những giải pháp nhằm góp phần nâng cao đời sống xã hội trong quá
trình đô thị hóa tại huyện Vũ Thư - tỉnh Thái Bình.
3. Yêu cầu của đề tài

- Các số liệu điều tra, thu thập phải chính xác, đầy đủ, trung thực, khách quan.
- Đánh giá đúng thực trạng quản lý và sử dụng đất ở huyện Vũ Thư - tỉnh Thái
Bình.
- Giải pháp đưa ra phải có tính khả thi, phù hợp với thực tế của huyện Vũ Thưtỉnh Thái Bình.
4. Ý nghĩa khoa học của đề tài
- Đề tài nghiên cứu này có ý nghĩa khoa học và thực tiễn thiết thực nhằm đánh
giá sự ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa tới kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện Vũ
Thư, đồng thời đưa ra một số giải pháp sử dụng đất hiệu quả, giúp cải thiện kinh tế xã hội, cải thiện cuộc sống người dân.

6


CHƯƠNG I : TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Một số vấn đề cơ bản về đô thị hóa
Khái niệm, phân loại và chức năng đô thị
* Khái niệm :
Đô thị là điểm dân cư tập trung với mật độ cao, chủ yếu là lao động phi nông
nghiệp, có hạ tầng cơ sở thích hợp, là trung tâm chuyên ngành hay tổng hợp, có vai
trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, của một miền lãnh thổ, của
một tỉnh, của một huyện hoặc một vùng trong huyện, trong tỉnh.[1],[2]
Những đô thị là trung tâm tổng hợp khi chúng có vai trò và chức năng nhiều
mặt về chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội…
Những đô thị là trung tâm chuyên ngành khi chúng có vai trò chức năng chủ
yếu về một mặt nào đó như công nghiệp cảng, du lịch, nghỉ ngơi, đầu mối giao
thông…
Trong thực tế, một đô thị là trung tâm tổng hợp của một hệ thống đô thị vùng
tỉnh nhưng cũng có thể chỉ là trung tâm chuyên ngành của một hệ thống đô thị một
vùng liên tỉnh hoặc của cả nước.
Việc xác định trung tâm tổng hợp hay chuyên ngành còn phải căn cứ vào vị trí
của đô thị đó trong một vùng lãnh thổ nhất định. Vùng lãnh thổ của đô thị bao gồm

nội thành hay nội thị (gọi chung là nội thị) và ngoại ô hay ngoại thị. Các đơn vị
hành chính của nội thị bao gồm quận và phường, còn càng đơn vị hành chính ngoại
ô bao gồm huyện và xã.
Vị trí của một đô thị trong hệ thống đô thị cả nước phụ thuộc vào cấp quản lý
của đô thị và phạm vi ảnh hưởng của đô thị như đô thị - trung tâm quốc gia; đô thị trung tâm cấp vùng (liên tỉnh); đô thị - trung tâm cấp tỉnh; đô thị - trung tâm cấp
huyện và đô thị trung tâm cấp tiểu vùng (trong huyện)
a, Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp trong tổng số lao động
Lao động phi nông nghiệp của 1 đô thị là lao động trong khu vực nội thành
phố, nội thị xã, thị trấn thuộc các ngành kinh tế quốc dân như công nghiệp, xây

7


dựng, giao thông vận tải, bưu điện, thương nghiệp, cung ứng vật tư, dịch vụ công
cộng… không thuộc ngành sản xuất nông, lâm, thủy sản.
b, Kết cấu hạ tầng đô thị
Kết cấu hạ tầng đô thị được đánh giá là không đồng bộ khi tất cả các loại công
trình kết cấu hạ tầng xã hội và kỹ thuật đô thị đều được xây dựng, nhưng mỗi loại
phải đạt được tiêu chuẩn tối thiểu từ 70% trở lên so với quy định của Quy chuẩn
thiết kế quy hoach xây dựng đô thị.
c, Quy mô dân số đô thị
Quy mô dân số đô thị bao gồm số dân thường trú và số dân tạm trú trên 6
tháng tại khu vực nội thành phố, nội thị xã và thị trấn .
Đối với thành phố trực thuộc Trung ương, dân số đô thị bao gồm dân số khu
vực nội thành, dân số của nội thị xã trực thuộc (nếu có) và dân số thị trấn.
d, Mật độ dân số
Mật độ dân số là chỉ tiêu phản ánh mức độ tập trung dân cư của đô thị được
xác định trên cơ sở quy mô dân số đô thị và diện tích đất đô thị.
Mật độ dân số đô thị được xác định theo công thức sau : D = N/S
Trong đó : D là mật độ dân số ( người / km2 )

N là dân số đô thị ( người )
S là diện tích đất đô thị ( km2 )
* Phân loại đô thị
Ở nước ta, theo Nghị định số 42/2009/NĐ-CP ngày 07 tháng 05 năm 2009 của
Chính Phủ về việc phân loại đô thị và cấp quản lý đô thị, đô thị được chia thành các
loại thể hiện ở bảng 1.1:

8


Bảng 1.1: Phân loại đô thị ở nước ta
Loại đô thị
Loại đặc
biệt
(Đô thị cực
lớn)

Số dân và tỷ lệ lao
động phi nông
nghiệp

Mật độ
dân số

>=5 triệu người
>=90% lao động
phi nông nghiệp

>=15.000
người/km2


>=1 triệu người
85% lao động phi
nông nghiệp

12.000
người/km2

50 vạn – 1 triệu
85% lao động phi
nông nghiệp

10.000
người/km2

80 vạn – 1 triệu
80% lao động phi
nông nghiệp

10.000
người/km2

30 vạn – 50 vạn
80% lao động phi
nông nghiệp

8.000
người/km2

Loại III


15 vạn – 30 vạn
75% lao động phi
nông nghiệp

6.000
người/km2

Loại IV

5 vạn – 15 vạn
70% lao động phi
nông nghiệp

4.000
người/km2

Loại V

4.000 người – 5 vạn
65% lao động phi
nông nghiệp

2.000
người/km2

Loại I

Loại II


Tính chất đô thị
- Thủ đô, thành phố lớn
- Có vai trò thúc đẩy phát triển kinh tếxã hội của cả nước và giao lưu quốc tế.
Có 2 đô thị đặc biệt là: Hà Nội, T.p Hồ
Chí Minh
- Thành phố thuộc Trung ương
- Có vai trò thúc đẩy phát triển kinh tếxã hội của một vùng liên tỉnh hoặc của
cả nước
Có 4 đô thị loại I: Hải Phòng, Đà
Nẵng, Huế, Nam Định.
- Thành phố thuộc tỉnh
- Có vai trò thúc đẩy phát triển kinh tếxã hội của một vùng liên tỉnh hoặc một
số vùng lãnh thổ liên tỉnh.
- Thành phố thuộc Trung ương
- Có vai trò thúc đẩy phát triển kinh tếxã hội của một vùng liên tỉnh hoặc một
số lĩnh vực đối với cả nước.
- Thành phố thuộc tỉnh
- Có vai trò thúc đẩy phát triển kinh tếxã hội của vùng liên tỉnh hoặc một số
lĩnh vực đối với cả nước.
- Thành phố thuộc tỉnh
- Có vai trò thúc đẩy phát triển kinh tếxã hội của một vùng trong tỉnh hoặc
vùng liên tỉnh
- Thị xã
- Có vai trò thúc đẩy phát triển kinh tếxã hội của một vùng trong tỉnh hoặc
một số lĩnh vực đối với một tỉnh
- Thị trấn
- Có vai trò thúc đẩy phát triển của
một huyện hoặc một cụm xã

Việc xác định quy mô dân số và tỷ lệ lao động phi nông nghiệp của đô thị chỉ

tiến hành trong phạm vi địa giới nội thị. Riêng miền núi, quy mô dân số đô thị loại

9


III có thể quy định tối thiểu từ 8 vạn người, đô thị loại IV từ 2 vạn người và đô thị
loại V là 2000 người.
* Chức năng của đô thị
Tuỳ theo mỗi giai đoạn phát triển mà đô thị có thể có các chức năng khác
nhau, nhìn chung đô thị có mấy chức năng chủ yếu sau: [1]
- Chức năng kinh tế: Đây là chức năng chủ yếu của đô thị. Sự phát triển kinh
tế thị trường đã đưa đến xu hướng tập trung sản xuất có lợi hơn là phân tán. Chính
yêu cầu kinh tế ấy đã tập trung các loại hình xí nghiệp thành khu công nghiệp và cơ
sở hạ tầng tương ứng, tạo ra thị trường ngày càng mở rộng và đa dạng hoá. Tập
trung sản xuất kéo theo tập trung dân cư, trước hết là thợ thuyền và gia đình của họ
tạo ra bộ phận chủ yếu của dân cư đô thị.
- Chức năng xã hội: Chức năng này ngày càng có phạm vi lớn dần cùng với
tăng quy mô dân cư đô thị. Những nhu cầu về nhà ở, y tế, đi lại... là những vấn đề
gắn liền với yêu cầu kinh tế, với cơ chế thị trường. Chức năng xã hội ngày càng
nặng nề không chỉ vì tăng dân số đô thị, mà còn vì chính những nhu cầu về nhà ở, y
tế, đi lại... thay đổi.
- Chức năng văn hoá: Ở tất cả các đô thị đều có nhu cầu giáo dục và giải trí
cao. Do đó ở đô thị cần có hệ thống trường học, du lịch, viện bảo tàng, các trung
tâm nghiên cứu khoa học ngày càng có vai trò lớn hơn.
- Chức năng quản lý: Tác động của quản lý nhằm hướng nguồn lực vào mục
tiêu kinh tế, xã hội, sinh thái và kiến trúc, bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc, vừa nâng
cao khả năng đáp ứng nhu cầu công cộng, vừa quan tâm đến những nhu cầu chính
đáng của cá nhân. Do đó chính quyền địa phương phải có pháp luật và quy chế quản
lý về đô thị.
* Vai trò của đô thị trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội

Đô thị thường đóng vai trò là trung tâm kinh tế, chính trị, thương mại, văn hoá
của xã hội; là sản phẩm mang tính kế thừa của nhiều thế hệ cả về cơ sở vật chất kỹ
thuật và văn hoá.

10


Đô thị là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân, có vai trò đặc biệt quan trọng
trong quá trình phát triển kinh tế, là điều kiện cho giao thương và sản xuất phát
triển, tạo điều kiện thúc đẩy công nghiệp hóa nhanh chóng. Đô thị tối ưu hoá việc
sử dụng năng lượng, con người và máy móc, cho phép vận chuyển nhanh và rẻ, tạo
ra thị trường linh hoạt, có năng suất lao động cao. Các đô thị tạo điều kiện thuận lợi
phân phối sản phẩm và phân bố nguồn nhân lực giữa các không gian đô thị, ven đô,
ngoại thành và nông thôn. Đô thị có vai trò to lớn trong việc tạo ra thu nhập quốc
dân của cả nước.
Đô thị luôn phải giữ vai trò đầu tàu cho sự phát triển, dẫn dắt các cộng đồng
nông thôn đi trên con đường tiến bộ và văn minh.
1.1.2. Đô thị hóa
* Khái niệm đô thị hoá
Một trong những vấn đề nổi bật của sự phát triển thế giới ngày nay là sự gia
tăng nhanh chóng số lượng và quy mô các đô thị, trong đó tập trung các hoạt động
chủ yếu của con người, nơi diễn ra cuộc sống vật chất, văn hóa và tinh thần của một
bộ phận dân số. Các đô thị chiếm vị trí ngày càng to lớn trong quá trình phát triển
xã hội.
Đô thị hóa là quá độ từ hình thức sống nông thôn lên hình thức sống đô thị của
các nhóm dân cư. Khi kết thúc thời kỳ quá độ thì các điều kiện tác động đến đô thị
hóa cũng thay đổi và xã hội sẽ phát triển trong các điều kiện mới mà biểu hiện tập
trung là sự thay đổi cơ cấu dân cư,cơ cấu lao động.
Đô thị hóa nông thôn là xu hướng bền vững có tính quy luật, là quá trình phát
triển nông thôn và phổ biến lối sống thành phố cho nông thôn (cách sống, hình thức

nhà cửa, phong cách sinh hoạt…). Thực chất đó là tăng trưởng đô thị theo hướng
bền vững.
Đô thị hóa gắn liền với sự biến đổi sâu sắc về kinh tế - xã hội của đô thị và
nông thôn trên cơ sở phát triển công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng, dịch
vụ… Do vậy, đô thị gắn liền với sự phát triển kinh tế - xã hội.

11


Tóm lại, đô thị hóa là quá trình tập trung dân số vào các đô thị, là sự hình
thành nhanh chóng các điểm dân cư đô thị trên cơ sở phát triển sản xuất và đời
sống.
Khi đánh giá về đô thị hóa người ta thường sử dụng tiêu chí mức độ đô thị
hóa: Mức độ đô thị hóa là tỷ lệ giữa dân số đô thị trên tổng dân số.
* Tính tất yếu và đặc trưng của đô thị hoá
a, Tính tất yếu của đô thị hóa
Bất cứ một quốc gia nào, dù là phát triển hay đang phát triển, khi chuyển biến
từ nền kinh tế nông nghiệp lên nền kinh tế công nghiệp bằng con đường công
nghiệp hóa thì đều gắn liền với đô thị hóa. Trong lịch sử cận đại, đô thị hóa trước
hết là hệ quả trực tiếp của quá trình công nghiệp hoá tư bản chủ nghĩa và sau này là
kết quả của quá trình cơ cấu lại các nền kinh tế theo hướng hiện đại hoá: tăng tỷ
trọng của các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng của ngành nông nghiệp
trong cơ cấu và khối lượng tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Nhìn chung, từ góc độ
kinh tế, đô thị hóa là một xu hướng tất yếu của sự phát triển.
Như vậy, đô thị hóa là một quy luật khách quan, phù hợp với đặc điểm tình
hình chung của mỗi quốc gia và là một quá trình mang tính lịch sử, toàn cầu và
không thể đảo ngược của sự phát triển xã hội. ĐTH là hệ quả của sức mạnh công
nghiệp và trở thành mục tiêu của nền văn minh thế giới.
b, Đặc trưng của đô thị hóa
Đô thị hóa là hiện tượng mang tính toàn cầu và có những đặc trưng chủ yếu

sau đây :
Một là, số lượng các thành phố, kể cả các thành phố lớn tăng nhanh, đặc biệt
là thời kỳ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai.
Hai là, quy mô dân số tập trung trong mỗi thành phố ngày càng càng lớn, số
lượng thành phố có trên một triệu dân ngày càng nhiều.
Ba là, việc hình thành và phát triển nhiều thành phố gần nhau về mặt địa
lý,liên quan chặt chẽ với nhau do phân công lao động đã tạo nên các khu vực đô thị.

12


Thông thường vùng đô thị bao gồm một vài thành phố lớn và xung quanh chúng là
các thành phố nhỏ vệ tinh.
Bốn là, dân số thành thị có xu hướng tăng nhanh do quá trình di dân từ nông
thôn ra thành thị, đang làm thay đổi tương quan dân số giữa thành thị và nông thôn,
nâng cao tỷ trọng dân số thành thị trong tổng dân số.
Năm là, mức độ đô thị hóa biểu thị trình độ phát triển xã hội nói chung, song
có đặc thù riêng cho mỗi nước. Đối với các nước phát triển, đô thị hóa diễn ra chủ
yếu theo chiều sâu, chất lượng cuộc sống ở các thành phố ngày càng hoàn thiện.
Trong các nước đang phát triển, tốc độ đô thị hóa rất cao, đặc biệt trong các thập kỷ
gần đây nhưng chất lượng đô thị hóa chưa cao. Quá trình đô thị hóa diễn ra theo
chiều rộng đang đặt ra nhiều vấn đề khó khăn và cần giải quyết như vấn đề đất đai,
thất nghiệp, nghèo đói, ô nhiễm môi trường và tệ nạn xã hội.
* Quan điểm về đô thị hoá
Công nghiệp hoá và cùng với nó là đô thị hóa trở thành xu thế chung của mọi
quá trình chuyển từ nền văn minh nông nghiệp sang nền văn minh công nghiệp.
Vấn đề quan trọng đặt ra là làm gì và bằng cách nào để phát huy tối đa mặt tích cực
của đô thị hoá, đồng thời hạn chế và đi đến thủ tiêu mặt tiêu cực của nó. Điều này
cũng đồng nghĩa với việc quá trình đô thị hoá phải gắn liền với khái niệm “Phát
triển bền vững”.

Như vậy, đô thị hóa phải vừa thúc đẩy sự phát triển kinh tế, vừa phải đảm bảo
môi trường tự nhiên, xã hội trong lành, sự công bằng và tiến bộ xã hội. Tuy rằng
tăng trưởng kinh tế là yếu tố cần thiết và quan trọng bậc nhất của quá trình đô thị
hóa song nó vẫn chỉ là một nhân tố, một phương tiện hơn là một mục tiêu tối
thượng. Mục tiêu của đô thị hóa là phải không ngừng nâng cao chất lượng cuộc
sống vật chất và tinh thần của con người, tức là phát triển đô thị lấy con người làm
trọng tâm.
* Mối quan hệ giữa quá trình đô thị hoá và quá trình công nghiệp hoá
Đô thị hóa là một quá trình song song với sự phát triển công nghiệp hóa và
cách mạng khoa học kỹ thuật. Quá trình đô thị hóa phản ánh tiến trình công nghiệp

13


hóa, hiện đại hóa trong nền kinh tế thị trường. Không ai phủ nhận rằng một quốc gia
đuợc coi là công nghiệp hóa thành công lại không có tỷ lệ cư dân đô thị ngày càng
chiếm vị trí áp đảo so với cư dân nông thôn. Đó cũng là lý do mà kinh tế học phát
triển đã coi sự gia tăng tỷ lệ cư dân đô thị như một trong những chỉ tiêu chủ yếu
phản ánh tình trạng “có phát triển” của nền kinh tế chậm phát triển đang tiến hành
công nghiệp hóa hiện nay. Đô thị hóa trước hết là hệ quả trực tiếp của quá trình
công nghiệp hóa và sau này là hệ quả của quá trình cơ cấu lại nền kinh tế theo
hướng hiện đại hóa: tăng tỷ trọng của các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ
trọng của ngành nông nghiệp trong cơ cấu và khối lượng tổng sản phẩm quốc nội
(GDP).
Đồng thời, trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
đô thị hóa giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội,
văn hoá, đảm bảo an ninh quốc phòng và bảo vệ môi trường.
Đô thị hóa xúc tiến tối đa công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Sự nghiệp
công nghiệp hóa - hiện đại hóa muốn thực hiện thành công cần phải chuyển đổi căn
bản cơ cấu kinh tế từ sản xuất nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp với kỹ thuật

cao, thay đổi cơ cấu lao động. Đô thị hóa sẽ đánh dấu giai đoạn phát triển mới của
tiến trình công nghiệp hóa, trong đó, công nghiệp và dịch vụ trở thành lĩnh vực chủ
đạo của nền kinh tế, không chỉ xét về phương diện đóng góp tỷ trọng trong tổng sản
phẩm quốc nội (GDP) mà còn cả về phương diện phân bố nguồn lao động xã hội.
* Tác động của đô thị hoá
- Mặt tích cực:
Một là, đô thị hóa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Sản xuất hàng hóa và dịch vụ
thường đạt hiệu quả cao tại những đô thị lớn - nơi có quy mô mật độ dân số tương
đối lớn với nguồn lao động dồi dào, có quy mô hoạt động kinh tế đủ lớn do các
doanh nghiệp tập trung đông, có hệ thống phân phối rộng khắp trên một không gian
đô thị nhất định.
Hai là, đô thị hóa đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa – hiện đại hóa. Trong quá trình đô thị hóa, cơ cấu ngành kinh tế thay đổi

14


theo hướng giảm tỷ trọng của khu vực nông nghiệp và gia tăng nhanh tỷ trọng của
khu vực công nghiệp và dịch vụ.
Ba là, đô thị hóa cải tạo kết cấu hạ tầng. Xu hướng đô thị hóa tạo ra sự tập
trung sản xuất công nghiệp và thương mại, đòi hỏi phải tập trung dân cư, khoa học,
văn hóa và thông tin. Do đó mà hệ thống giao thông vận tải, năng lượng, bưu
chính viễn thông và cấp thoát nước cũng sẽ được cải tiến về quy mô và chất lượng.
Bốn là, đô thị hóa nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật và công nghệ. Các đô
thị ngày càng áp dụng nhiều tiến bộ kỹ thuật và kỹ năng quản lý tổ chức sản xuất
hiện đại, làm tăng năng suất lao động và nâng cao chất lượng sản phẩm. Trong sản
xuất nông nghiệp, quá trình đô thị hóa cung cấp những cơ sở kỹ thuật cần thiết cho
người nông dân như thủy lợi hóa, điện khí hóa, cơ giới hóa, sinh học hóa để làm
tăng năng suất lao động, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá có chất lượng tốt, đảm bảo
an toàn lương thực, đáp ứng nhu cầu của công nghiệp chế biến và thị trường trong

ngoài nước.
Năm là, đô thị hóa góp phần cải thiện đời sống của dân cư đô thị và các vùng
lân cận. Nhờ duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao mà các đô thị có thể tạo ra
nhiều cơ hội việc làm mới cho người dân, góp phần quan trọng trong việc nâng cao
thu nhập cho họ. Khi mức thu nhập bình quân người/ tháng tăng lên thì nhu cầu chi
tiêu đời sống của dân cư cũng tăng nhằm thỏa mãn tốt hơn nhu cầu tiêu dùng cá
nhân. Điều đó cho thấy đô thị hóa làm mức sống của dân cư được cải thiện đáng kể,
góp phần vào việc thực hiện xóa đói giảm nghèo.
Sáu là, đô thị hóa cũng đem lại một số tiến bộ về mặt xã hội đó là: nâng tuổi
thọ trung bình, giảm tỷ lệ tử vong của trẻ em, giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng, tăng tỷ
lệ dân cư dùng nước sạch, phát triển giáo dục, văn hóa,...
- Mặt tiêu cực:
Bên cạnh những mặt mạnh của đô thị hóa như trên thì đô thị hóa cũng kéo
theo hàng loạt vấn đề tiêu cực khác, đó là:

15


Thứ nhất, đô thị hóa thu hẹp diện tích đất nông nghiệp. Quá trình đô thị hóa
nhanh đã làm cho nhu cầu về sử dụng đất chuyên dùng xây dựng hệ thống cơ sở hạ
tầng và đất đô thị tăng lên rất nhanh.
Thứ hai, đô thị hóa khoét sâu hố phân cách giàu nghèo. Quá trình đô thị hóa
nhanh đã làm cho hố phân cách giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư trong đô thị,
giữa nông thôn và thành thị trở nên trầm trọng hơn.
Thứ ba, đô thị hóa gia tăng tình trạng di dân. Chính sự chênh lệch về mức
sống, điều kiện sống, khả năng tìm kiếm việc làm và cơ hội tăng thu nhập đã và
đang được coi là những nguyên nhân kinh tế quan trọng nhất thúc đẩy một bộ phận
lớn người dân rời khỏi khu vực nông thôn để di dân tới thành thị.
Thứ tư, đô thị hóa môi trường bị ô nhiễm. Chất lượng môi trường đô thị bị suy
thoái khá nặng nề do mật độ dân số tập trung cao, sản xuất công nghiệp phát triển

mạnh làm phát sinh một lượng chất thải, trong đó chất thải gây hại ngày càng gia
tăng; bùng nổ giao thông cơ giới gây ô nhiễm môi trường và tiếng ồn.
Thứ năm, đô thị hóa phát sinh các tệ nạn xã hội. Đây chính là mặt trái của đời
sống đô thị hay của cả quá trình đô thị hóa. Trong khi nhiều khía cạnh tốt đẹp của
văn hóa truyền thống bị mai một, thì lối sống lai căng, không lành mạnh lại đang
ngự trị trong lối sống đô thị hiện nay. Những tệ nạn xã hội phổ biến nhất hiện nay
đều được phát sinh và phát triển tại các trung tâm đô thị lớn.
Tóm lại, trong công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước thì quá
trình đô thị hóa ngày càng gia tăng...Vậy chúng ta phải làm thế nào để quá trình đô
thị hóa phát triển lành mạnh và bền vững. Tăng trưởng kinh tế do quá trình này đem
lại phải được chú trọng đồng thời việc phát triển văn hóa, lấy việc biến động nguồn
nhân lực con người làm trọng tâm.
1.2. Thực tiễn quá trình đô thị hóa ở Việt Nam và ở huyện Vũ Thư, tỉnh Thái
Bình
1.2.1. Tình hình quá trình đô thị hóa ở Việt Nam
Việt Nam vốn là một quốc gia nông nghiệp, đô thị hóa ở Việt Nam đã trải
qua mỗi giai đoạn đô thị, bộ mặt đô thị Việt Nam lại có những biến đổi nhất định.

16


Trải qua mỗi giai đoạn khác nhau hệ thống các đô thị mang những đặc điểm khác
nhau.
* Trước thế kỷ XVIII
Quá trình đô thị hóa ở nước ta diễn ra ngay từ thời trung đại, đó chính là sự
hình thành một số đô thị phong kiến. Một số đô thị phong kiến cổ ở nước ta: Thành
Cổ Loa của An Dương Vương, thành Tống Bình thời Bắc thuộc (Hà Nội ngày nay),
thành Thăng Long, thành Hoa Lư ở Ninh Bình, thành Tây Đô ở Thanh Hóa.
Trong thời kỳ phong kiến, Việt Nam luôn phải chống lại các cuộc ngoại xâm
của phương Bắc. Do đó đô thị mang tính phòng thủ, chủ yếu là để chống giặc ngoại

xâm. Đây là lý do làm cho quá trình đô thị hóa ở nước ta trong thời kỳ này diễn ra
một cách chậm chạp, mức độ phát triển dân cư thành thị thấp.
* Dưới thời nhà Nguyễn
Đầu thế kỷ XVIII khi các nước châu Âu có nền kinh tế phát triển thì Việt
Nam vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu. Những điều luật phong kiến ngặt nghèo
đã kìm hãm sự phát triển của đất nước, kể cả trong lĩnh vực kiến trúc, quy hoạch và
xây dựng. Dân số đô thị lúc bầy giờ chỉ chiếm khoảng 1% dân số cả nước.

17


* Thời kỳ trước năm 1954
Nửa đầu thế kỉ XX, người Pháp đã mở đầu cho quá trình đô thị hóa Việt
Nam thông qua việc thiết lập một mạng lưới đô thị - trung tâm hành chính thương
mại và công nghiệp khai thác ở cả 3 miền Bắc - Trung - Nam. Tuy vậy, tốc độ tăng
dân số mới đạt 7,9% năm 1936; 20 năm sau 1995 mới đạt 11%.
* Thời kỳ năm 1955-1975
Những năm thập kỷ 60, miền Bắc Việt Nam đi vào quá trình xây dựng Xã
hội chủ nghĩa. Công nghiệp hóa đã có tác động đến việc gia tăng quá trình đô thị
hóa. Năm 1965, tỉ lệ đô thị hóa đạt tới 17,2%. Từ giữa những năm 1960 đến năm
1975, cuộc chiến xảy ra ác liệt, diễn biến hai quá trình đô thị hóa ở miền Bắc và
miền Nam trong đó quá trình thứ hai chiếm ưu thế và làm tăng giá trị tỷ lệ đô thị
hóa của cả nước lên đến 21,5% vào năm 1975.
* Thời kỳ năm 1975 đến nay
Dưới tác động của công cụ đổi mới, cải tổ nền kinh tế theo định hướng thị
trường thì cơ cấu kinh tế, cơ cấu xã hội, cơ cấu lao động, nghề nghiệp cũng như
những khuôn mẫu của đời sống đô thị đã và đang diễn ra những biến đổi quan
trọng. Quá trình đô thị hóa đã có những chuyển biến nhanh hơn, đặc biệt trong
những năm gần đây tình hình công nghiệp đang diễn ra mạnh mẽ. Tốc độ đô thị hóa
ở Việt Nam đang diễn ra khá nhanh 18,5% năm 1989; 20,5% năm 1997; 23,6% năm

1999; 25% năm 2004. Về số lượng đô thị, năm 1990, cả nước mới có khoảng 500
đô thị lớn nhỏ, đến năm 2000 đã có 703 đô thị. Tuy vậy ĐTH ở Việt Nam còn ở
mức thấp so với khu vực và trên thế giới.
1.2.2. Tình hình quá trình đô thị hóa ở huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình
* Tình hình quá trình đô thị hóa ở tỉnh Thái Bình
- Trong những năm qua quá trình đô thị hóa tại tỉnh Thái Bình phát triển
ngày một mạnh mẽ khi có nhiều lao động tới làm việc tại các khu công nghiệp tập
trung. Bằng chứng cho thấy tốc độ tăng trưởng dân số nhanh chóng và mở rộng
không gian đô thị tại thành phố Thái Bình, huyện Tiền Hải, huyện Quỳnh Phụ,
huyện Đông Hưng, huyện Vũ Thư…nơi các khu công nghiệp lớn hoạt động có hiệu

18


quả. Tuy nhiên đô thị hóa diễn ra nhanh kéo theo nhiều hệ lụy về vấn đề môi
trường, nhà ở, phúc lợi xã hội…
- Hệ thống đô thị tại tỉnh Thái Bình phát triển ngày càng mạnh mẽ, phân bố
tương đối đồng đều trên cả tỉnh. Đô thị đã góp phần quan trọng đưa Thái Bình thoát
khỏi ngưỡng nghèo để trở thành tỉnh có thu nhập trung bình thấp, thành phố Thái
Bình từ đô thị loại III lên đô thị loại II ngày 12 tháng 12 năm 2013.
- Phấn đấu tỷ lệ đô thị hóa đạt 22,3% vào năm 2015 và khoảng 40% vào năm
2020.
+ Xây dựng 4 đô thị trung tâm vùng cấp tỉnh: Thị trấn Diêm Điền (Thái
Thụy), Khu du lịch Đồng Châu và khu du lịch Cồ Vành (Tiền Hải), thị trấn Hưng
Nhân (Hưng Hà), thị trấn An Bài (Quỳnh Phụ) lên đô thị loại V.
+ Quy hoạch đô thị trung tâm cấp huyện (thị trấn): Các thị trấn Quỳnh Côi,
An Bài, Đông Hưng, Tiên Hưng, Thanh Nê, Vũ Quý, Hưng Hà, Hưng Nhân, Tiền
Hải, Nam Trung, Thái Ninh, Diêm Điền, Vũ Thư.
+ Nâng cấp một số xã thành đô thị loại V trực thuộc huyện: Các xã: Đông
Đô, Thái Phương (Hưng Hà); xã Thụy Xuân (Thái Thụy); các xã An Lễ, Quỳnh

Giao (Quỳnh Phụ); xã Vũ Hội (Vũ Thư).
- Tiến hành xây dựng hạ tầng các thị trấn, thị tứ các khu vực nông thôn theo
hướng đô thị hóa. Bố trí hợp lý hệ thống hạ tầng xã hội như: Khu vui chơi giải trí,
thể thao, cây xanh, y tế, giáo dục, xử lý rác thải, nước thải.
- Diện mạo đô thị đang dần khởi sắc. Hệ thống hạ tầng đô thị được cải thiện
nhiều, nhất là đường sá, cầu vượt sông, cấp nước, cấp điện và chiếu sáng công cộng.
Nhiều khu đô thị mới đang được xây dựng.
* Tình hình quá trình đô thị hóa ở huyện Vũ Thư
Vũ Thư được xác định là đô thị nam sông Hồng của tỉnh Thái Bình cùng với
Nam Định, Hải Phòng, Vũ Thư cùng với thành phố Thái Bình sẽ là khu vực đô thị
động lực và trung tâm hành chính và kinh tế trong tương lai gần của tỉnh Thái Bình.
Nhìn chung Vũ Thư đang dần trở thành đô thị có dáng vẻ hiện đại, ngoài khu
vực đô thị trung tâm là thị trấn Vũ Thư, trên địa bàn huyện Vũ Thư còn có các khu

19


có các hoạt động dịch vụ thương mại tương đối phát triển, là nơi giao lưu hàng hóa
của nhiều cụm dân cư và vùng lân cận, nó mang sắc thái của một đô thị nhỏ như:
Búng (xã Việt Hùng); An Để (xã Hiệp Hòa); Ô Mễ (xã Tân Phong); Cọi Khê (xã
Vũ Hội); Bồng Tiên (xã Vũ Tiến); Tân Đệ (xã Tân Lập); Thái Hạc (xã Việt Thuận);
Thanh Trai (xã Minh Lãng). Tuy nhiên các khu vực này vẫn còn một số hạn chế về
cơ sở hạ tầng chưa được đầu tư đầy đủ.
- Phấn đấu tỷ lệ đô thị hóa đạt 20,2% vào năm 2015 và khoảng 35% vào năm
2020.
- Để xây dựng thị trấn Vũ Thư thành một đô thị văn minh hiện đại cần phải
tiếp tục mở rộng quy mô diện tích và không gian thị trấn, nâng cấp cơ sở hạ tầng
(giao thông, điện, nước, công trình văn hóa phú lợi công cộng…, đặc biệt quan tâm
đến vấn đề bảo vệ môi trường, xử lý triệt để, kịp thời các chất thải sinh hoạt trong
đô thị).


20


CHƯƠNG II : ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Quá trình đô thị hoá tại huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình
- Ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa đến việc chuyển đổi mục đích sử dụng
đất.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Không gian nghiên cứu: Nghiên cứu trên địa bàn huyện vũ thư tỉnh Thái
Bình
+ Thời gian nghiên cứu :Tiến trình đô thị hoá tại huyện Vũ Thư giai đoạn
2010 - 2014
2.3. Nội dung nghiên cứu
2.3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình
- Điều kiện tự nhiên
- Điều kiện kinh tế - xã hội
- Đánh giá chung
2.3.2. Tình hình quản lý và sử dụng đất tại huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình
2.3.3. Thực trạng quá trình đô thị hóa tại huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình
2.3.4. Ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa đến việc chuyển đổi mục đích sử dụng
đất tại huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình.
- Ảnh hưởng của đô thị hóa tới việc thay đổi diện tích các loại đất thông qua
việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất.
- Ảnh hưởng của đô thị hóa tới cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế của huyện.
- Nhận xét chung.
2.3.5. Đánh giá về sự ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa tại huyện Vũ Thư, tỉnh
Thái Bình.

- Ảnh hưởng tich cực.
- Ảnh hưởng tiêu cực.

21


2.3.6. Một số giải pháp nhằm làm giảm ảnh hưởng tiêu cực của quá trình đô thị
hóa đến việc sử dụng đất và nâng cao đời sống người dân trong quá trình đô thị
hóa.
- Giải pháp về chính sách
- Giải pháp về lao động và việc làm
- Giải pháp về môi trường
- Giải pháp nhằm góp phần nâng cao đời sống xã hội của người dân trong quá
trình đô thị hóa.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp điều tra thu thập số liệu
Điều tra, thu thập các số liệu, tài liệu, bản đồ có liên quan đến điều kiện tự
nhiên, kinh tế - xã hội, hiện trạng sử dụng đất, kết quả thực hiện quy hoạch sử dụng
đất và các tài liệu, số liệu khác có liên quan đến đô thị hóa của huyện Vũ Thư, tỉnh
Thái Bình
2.4.2. Phương pháp tổng hợp phân tích tài liệu, số liệu
Đây là phương pháp tổng hợp, phân tích các tài liệu và số liệu thu thập được
tại địa phương.
2.4.3. Phương pháp so sánh
Phương pháp so sánh là so sánh giữa lý thuyết và thực tiễn, giữa yêu cầu đặt
ra của đề tài và điều kiện cụ thể của địa phương xem có phù hợp không. Tiến hành
so sánh các số liệu đất đai từ đó phân tích sự biến động đất đai qua các giai đoạn
liên quan để thấy được quá trình đô thị hóa ảnh hưởng như thế nào đến các biến
động đất đai.
2.4.4. Phương pháp kế thừa

Kế thừa những số liệu, tài liệu của báo cáo đã được phê duyệt đồng thời bổ
sung những vấn đề, số liệu mới phù hợp với nội dung nghiên cứu.

22


CHƯƠNG III : KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình
3.1.1. Điều kiện tự nhiên
* Vị trí địa lý

Hình 3.1: Bản đồ hành chính huyện Vũ Thư
Huyện Vũ Thư nằm ở phía Tây Nam của tỉnh Thái Bình, có toạ độ địa lý từ
20o20’00’’ - 20o32’00’’ độ Vĩ Bắc và 106o10’00’’ - 106o22’00’’ độ Kinh Đông. Địa
giới hành chính của huyện như sau:
- Phía Bắc giáp huyện Hưng Hà và Đông Hưng.
- Phía Tây và Tây Nam giáp Thành phố Nam Định (tỉnh Nam Định)
- Phía Nam giáp huyện Xuân Trường (tỉnh Nam Định)
- Phía Đông giáp thành phố Thái Bình và huyện Kiến Xương – Thái Bình

23


Huyện Vũ Thư có vị trí địa lý khá thuận lợi với ưu thế là cửa ngõ phía Tây của
tỉnh Thái Bình, giữa 2 trung tâm kinh tế lớn: thành phố Thái Bình và Thành phố
Nam Định. Nằm trên tuyến đường từ Thủ đô Hà Nội theo quốc lộ 1, quốc lộ 21 về
Nam Định đến Thái Bình, tiếp nối với thành phố Hải Phòng theo tuyến quốc lộ 10.
Trên địa bàn huyện có cầu Tân Đệ đã được xây dựng bắc qua sông Hồng, đường
quốc lộ 10 đã và đang tiếp tục được nâng cấp chạy qua trung tâm thị trấn huyện lỵ
Vũ Thư, sông Hồng chảy theo ranh giới phía Tây Nam và sông Trà Lý chảy theo

ranh giới phía Bắc huyện. Vị trí địa lý của huyện có ưu thế góp phần đưa huyện Vũ
Thư trở thành vùng kinh tế thuận lợi cả về đường bộ và đường thủy, tạo điều kiện
thuận lợi trong việc giao lưu trao đổi hàng hóa với các tỉnh đồng bằng sông Hồng
nói riêng và các tỉnh phía Nam với tam giác tăng trưởng Hà Nội, Hải Phòng và
Quảng Ninh. Ngoài ra còn là điều kiện thuận lợi cho việc tiếp thu khoa học công
nghệ, nguồn vốn đầu tư cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
* Địa hình, địa mạo
Vũ Thư là huyện đồng bằng thuộc vùng châu thổ sông Hồng, địa hình của
huyện khá bằng phẳng, độ cao tính trung bình từ 1 - 1,5m so với mực nước biển.
Nhìn chung địa hình có dạng sống trâu, dải đất thấp chạy ven sông Hồng và sông
Trà Lý, dải đất cao nằm ở giữa chạy dọc sông Kiến Giang.
* Khí hậu
Huyện Vũ Thư nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, một năm có 4
mùa: xuân, hạ thu đông rõ rệt. Mùa hè nóng, ẩm, mưa nhiều, mùa đông lạnh khô
hanh.
- Mùa mưa: bắt đầu từ tháng 4 và kết thúc vào tháng 10 với đặc trưng là nóng,
ẩm, mưa nhiều. Lượng mưa từ 1.100 - 1.500 mm, chiếm 80% lượng mưa cả năm
- Mùa khô: từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, mùa khô có khí hậu lạnh, ít mưa.
Hướng gió thịnh hành là gió đông bắc thường gây lạnh đột ngột. Nhiệt độ trung
bình thấp nhất khoảng 150C, lượng mưa ít, đạt 15 - 20 % lượng mưa cả năm.
- Các đặc trưng khí hậu của Vũ Thư bao gồm:

24


+ Nhiệt độ trung bình trong năm từ 23 - 26 0C, nhiệt độ trung bình cao nhất là
39,20C; nhiệt độ trung bình thấp nhất là 15 0C; nhiệt độ cao tuyệt đối lên tới trên
390C và nhiệt độ thấp tuyệt đối là 4,10C.Lượng bức xạ mặt trời trung bình năm
khoảng 100 kcal/cm2. Tổng tích ôn khoảng 8.300 - 8.5000C.
+ Lượng mưa trung bình hàng năm từ 1.500 - 2.000 mm, chủ yếu vào tháng 4

đến tháng 10, tập trung nhiều vào các tháng 7,8,9. Lượng mưa chiếm đến 80%
lượng mưa cả năm.
+ Độ ẩm không khí: độ ẩm không khí trung bình năm dao động từ 85 đến
95%. Các tháng có độ ẩm không khí cao là tháng 7 và tháng 8 (95%), thấp nhất vào
các ngày có gió Tây Nam (có khi xuống dưới 30%).
+ Bức xạ mặt trời lớn, số giờ nắng trung bình từ 1.600 - 2.700 giờ/năm, thuận
lợi cho việc phát triển nhiều loại cây trồng và trồng được nhiều vụ trong năm.
+ Gió: Gió thịnh hành là gió Đông Nam thổi vào mùa hạ mang theo không khí
nóng ẩm với tốc độ gió trung bình từ 2 - 5 m/giây.
Nhìn chung, khí hậu Vũ Thư có nhiều thuận lợi cho sự phát triển các loại cây
trồng trong nông nghiệp, vật nuôi phát triển quanh năm theo hướng thâm canh tổng
hợp đạt hiệu quả cao. Nhưng do đặc trưng khí hậu nóng ẩm theo mùa, là môi trường
phát sinh côn trùng, sâu bệnh, cùng với sự chuyển đổi khí áp, trong lục địa và ngoài
đại dương sinh ra bão và gió xoáy. Trung bình mỗi năm xảy ra từ 2 - 3 cơn bão kèm
theo mưa lớn, gây tổn thất và giảm năng suất mùa màng, hư hỏng tài sản các công
trình, thậm chí có năm ảnh hưởng tới sức khỏe, tính mạng con người. Do đó, đòi
hỏi có biện pháp chủ động phòng tránh úng, hạn, nóng, lạnh, thiên tai và dịch bệnh.
* Thủy văn
Trên địa bàn huyện Vũ Thư có 2 sông lớn chảy qua là sông Hồng và sông Trà
Lý, chế độ thủy văn chịu ảnh hưởng của nguồn nước từ thượng nguồn và ảnh hưởng
chế độ nhật triều của biển.
- Sông Hồng chảy qua phía Tây Nam của huyện, có chiều dài 34 km bao
quanh 15 xã, là ranh giới tự nhiên giữa huyện Vũ Thư với tỉnh Nam Định.

25


×