Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM TĂNG CƯỜNG QUẢN TRỊ VỒN KINH DOANH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (505.87 KB, 91 trang )

MỤC LỤC
VLĐ đóng một vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp khi tiến hành sản xuất kinh doanh không thể thiếu VLĐ. Chính vì vậy
việc quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ là không thể thiếu và là việc cần thiết đối
với doanh nghiệp. Đó là nguyên nhân chủ quan từ phía doanh nghiệp cảm thấy cần phải
tiến hành quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ. Bên cạnh đó yêu cầu nâng cao hiệu
quả sử dụng VLĐ còn xuất phát từ nhiều yếu tố khác như mục đích kinh doanh của doanh
nghiệp, vai trò quan trọng của VLĐ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, thực tế về hiệu
quả kinh doanh của các doanh nghiệp..............................................................................57

1


CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ VỐN KINH DOANH VÀ QUẢN TRỊ
VỐN KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1 .Vốn kinh và nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp
1.1.1.Khái niệm và đặc trưng của vốn kinh doanh
* Khái niệm :
Trong thời kỳ cơ chế thị trường bất cứ doanh nghiệp nào muốn tiến hành
hoạt động sản xuất kinh doanh cũng cần phải có các yếu tố cơ bản là tư liệu lao
động, đối tượng lao động và sức lao động. Tất nhiên, để có được các yếu tố đó
các doanh nghiệp phải bỏ ra một số vốn tiền tệ nhất định, phù hợp với quy mô
và điều kiện của doanh nghiệp. Số vốn tiền tệ đó được gọi là VKD của doanh
nghiệp.
VKD khác với tiền và các loại hàng hóa tiêu dùng khác. Tiền tiêu dùng
trong lưu thông dưới hình thức mua bán, trao đổi các vật phẩm tiêu dùng nên
không được gọi là vốn. Các hàng hóa được sử dụng cho tiêu dùng cũng không
phải là vốn.
Tóm lại, vốn kinh doanh của doanh nghiệp là toàn bộ số tiền ứng trước
mà doanh nghiệp bỏ ra để đầu tư hình thành các tài sản cần thiết cho hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hay có thể thể hiểu theo cách


khác, đó là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ giá trị các tài sản mà doanh nghiệp
đầu tư và sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục đích thu lợi
nhuận
*. Đặc trưng của vốn kinh doanh
Các doanh nghiệp muốn huy động, quản lý sử dụng VKD của mình một
cách tiết kiệm và có hiệu quả cần nhận thức đúng đắn những đặc trưng cơ bản
sau của VKD:

2


Thứ nhất, VKD là biểu hiện bằng tiền của các tài sản nhất định mà doanh
nghiệp huy động, sử dụng vào kinh doanh. Các tài sản này bao gồm cả tài sản
hữu hình và tài sản vô hình
Thứ hai, VKD của doanh nghiệp không ngừng vận động, chuyển đổi hình
thái biểu hiện từ hình thái vốn tiền tệ ban đầu sang hình thái vốn vật tư, hàng
hóa và cuối cùng lại trở về hình thái vốn tiền tệ trong toàn bộ quá trình sản xuất
kinh doanh.
Thứ ba, VKD của doanh nghiệp luôn vận động và gắn với một chủ sở hữu
nhất định. Các doanh nghiệp không thể mua bán quyền sở hữu vốn mà chỉ có thể
mua, bán quyền sử dụng VKD của doanh nghiệp trên thị trường tài chính.
Thứ tư, do tác động của các yếu tố khả năng sinh lời và rủi ro nên một
đồng VKD hiện tại sẽ có giá trị kinh tế khác với một đồng VKD trong tương lai.
Nghĩa là VKD của doanh nghiệp luôn có giá trị theo thời gian.
Thứ năm, vốn phải được tập trung tích tụ đến một lượng nhất định mới có
thể phát huy tác dụng.
Thứ sáu, VKD không chỉ là điều kiện tiên quyết cho sự ra đời của doanh
nghiệp mà còn được coi là một loại hàng hóa đặc biệt trong điều kiện nền kinh
tế thị trường. Giá cả quyền sử dụng VKD chính là chi phí cơ hội trong việc sử
dụng VKD của doanh nghiệp.

Thứ bảy, VKD không chỉ là biểu hiện bằng tiền của những tài sản hữu
hình mà còn là biểu hiện giá trị của những tài sản vô hình như bản quyền, phát
minh sáng chế, nhãn hiệu,…
1.1.2. Thành Phần của vốn kinh doanh
Để phục vụ cho yêu cầu quản lý, sử dụng VKD tiết kiệm và có hiệu quả,
VKD thường được phân loại theo các tiêu thức sau:

3


1.1.2.1. Phân loại theo kết quả của hoạt động đầu tư
Theo kết quả của hoạt động đầu tư, VKD được chia thành VKD đầu tư
vào tài sản cố định, tài sản lưu động và tài sản tài chính của doanh nghiệp
Theo kết quả của hoạt động đầu tư, VKD được chia thành VKD đầu tư
vào tài sản cố định, tài sản lưu động và tài sản tài chính của doanh nghiệp.
VKD đầu tư vào tài sản cố định là số vốn đầu tư để hình thành các
TSCĐ hữu hình và TSCĐ vô hình như nhà xưởng, máy móc thiết bị, phương
tiện vận tải, chi phí mua bằng phát mình, sáng chế, nhãn hiệu sản phẩm độc
quyền,…
VKD đầu tư vào tài sản lưu động là số vốn đầu tư để hình thành các
TSLĐ phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các TSLĐ
này bao gồm các loại vốn bằng tiền, vốn vật tư hàng hóa, các khoản phải thu,
các loại TSLĐ khác của doanh nghiệp.
VKD đầu tư vào tài sản tài chính là số vốn doanh nghiệp đầu tư vào các
tài sản tài chính như cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu Chính phủ, kỳ
phiếu ngân hàng, chứng chỉ quỹ đầu tư và các giấy tờ có giá khác.
Mỗi loại tài sản đầu tư của doanh nghiệp có thời hạn sử dụng và đặc điểm
thanh khoản khác nhau. Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến thời gian luân
chuyển của VKD của doanh nghiệp. Do đó, cách phân loại này giúp cho doanh
nghiệp có thể lựa chọn cơ cấu tài sản đầu tư hợp lý, hiệu quả. Đối với mỗi doanh

nghiệp, cơ cấu vốn đầu tư vào các tài sản kinh doanh thường
không giống nhau do có sự khác nhau về đặc điểm ngành nghề kinh
doanh, về sự lựa chọn quyết định đầy tư của từng doanh nghiệp. Tuy nhiên,
muốn đạt được hiệu quả kinh doanh cao, thông thường các doanh nghiệp vừa
phải chú trọng đảm bảo sự đồng bộ, cân đối về năng lực sản xuất giữa các tài
sản đầu tư, vừa phải đảm bảo tính thanh khoản, khả năng phân tán rủi ro của tài
sản đầu tư trong doanh nghiệp
4


1.1.2.2. Phân loại theo đặc điểm luân chuyển của vốn
Theo tiêu thức này, vốn kinh doanh của doanh nghiệp được chia thành hai loại là
vốn cố định và vốn lưu động.
 Vốn cố định:
VCĐ là một bộ phận của VKD, là toàn bộ số tiền ứng trước mà doanh
nghiệp bỏ ra để đầu tư hình thành nên các TSCĐ dùng cho hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. VCĐ chính là biểu hiện bằng tiền của các TSCĐ
trong doanh nghiệp.
VCĐ có ba đặc điểm cơ bản, đó là:
Thứ nhất, VCĐ tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh do TSCĐ được sử
dụng lâu dài, sau nhiều năm mới cần đổi mới, thay thế.
Thứ hai, trong quá trình sản xuất kinh doanh VCĐ VCĐ

được

luân

chuyển dần từng phần vào giá trị sản phẩm dưới hình thức chi phí khấu hao
TSCĐ, tương ứng với phần giá trị hao mòn TSCĐ của doanh nghiệp.
Thứ ba, sau nhiều chu kỳ kinh doanh VCĐ mới hoàn thành một vòng luân

chuyển.
Đặc điểm của VCĐ chi phối nội dung, biện pháp quản lý sử dụng VCĐ sử
dụng VCĐ phải luôn gắn liền với việc quản lý, sử dụng TSCĐ của doanh
nghiệp.
 Vốn lưu động:
VLĐ là toàn bộ số tiền ứng trước mà doanh nghiệp bỏ ra để đầu tư hình
thành nên các TSLĐ thường xuyên cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. VLĐ chính là biểu hiện bằng tiền của các TSLĐ trong doanh
nghiệp.
VLĐ có các đặc điểm chính:
Một, VLĐ trong quá trình chu chuyển luôn thay đổi hình thái biểu hiện. Từ
hình thái vốn tiền tệ ban đầu trở thành vật tư, hàng hóa dự trữ sản xuất, rồi trở
thành sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, thành phẩm và cuối cùng trở về hình
thái vốn bằng tiền.
Hai, VLĐ chuyển toàn bộ giá trị ngay trong một lần và được hoàn lại toàn
bộ sau mỗi chu kỳ kinh doanh.
Ba, VLĐ hoàn thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ kinh doanh.
5


VLĐ được phân loại theo những tiêu thức cụ thể để đảm bảo cho việc quản
lý và sử dụng hiệu quả VLĐ.
Phân loại theo hình thái biểu hiển của VLĐ, VLĐ được chia thành:
- Vốn bằng tiền và các khoản phải thu
- Vốn về hàng tồn kho
Phân loại theo vai trò của VLĐ, VLĐ được chia thành:
- VLĐ trong khâu dự trữ
- VLĐ trong khâu sản xuất
- VLĐ trong khâu lưu thông
Như vậy, việc phân loại VKD theo đặc điểm luân chuyển của vốn cho thấy

đặc điểm luân chuyển của từng loại VKD, giúp doanh nghiệp có biện pháp tổ
chức, quản lý, phân bổ, sử dụng VKD của doanh nghiệp cho phù hợp.
1.1.3. Nguồn hình thành vốn kinh doanh
Trong nền kinh tế thị trường, VKD là tiền đề cho việc hình thành và phát
triển hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp. Điều này đòi hỏi các doanh
nghiệp phải tổ chức tốt nguồn vốn, tổ chức và lựa chọn hình thức huy động vốn
một cách thích hợp và hiệu quả. Muốn vậy, cần có sự phân loại nguồn vốn theo
những tiêu thức nhất định. Cụ thể như sau:
1.1.3.1. Dựa vào quan hệ sở hữu vốn
Theo tiêu thức này, VKD của doanh nghiệp được hình thành từ hai nguồn
là vốn chủ sở hữu và nợ phải trả.
- Vốn chủ sở hữu là phần vốn thuộc quyền sở hữu của chủ doanh nghiệp,
bao gồm số vốn chủ sở hữu bỏ ra và phần bổ sung từ kết quả kinh doanh. Tại
một thời điểm nhất định:
Vốn chủ sở hữu = Giá trị tổng tài sản – Nợ phải trả
- Nợ phải trả là thể hiện bằng tiền những nghĩa vụ mà doanh nghiệp có
trách nhiệm phải thanh toán cho các tác nhân kinh tế khác như các khoản phải
trả người bán, các khoản phải trả cho Nhà nước, cho người lao động, nợ vay,…

6


Thông thường, một doanh nghiệp phải phối hợp cả hai nguồn là vốn chủ sở hữu
và nợ phải trả để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả cao. Tuy
nhiên, sự kết hợp này phụ thuộc vào đặc điểm của ngành mà doanh nghiệp hoạt
động và quyết định của người quản lý trên cơ sở xem xét tình hình kinh doanh
và tình hình tài chính của doanh nghiệp.
1.1.3.2. Dựa vào thời gian huy động và sử dụng vốn
Tiêu thức này chia nguồn vốn của doanh nghiệp ra thành hai loại, đó là
nguồn vốn thường xuyên và nguồn vốn tạm thời.

- Nguồn vốn thường xuyên: là tổng thể các nguồn có tính chất ổn định mà
doanh nghiệp có thể sử dụng vào hoạt động kinh doanh, thường được sử dụng để
mua sắm, hình thành TSCĐ và một bộ phận TSLĐ thường xuyên cần thiết cho
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Nguồn vốn thường xuyên = Vốn chủ sở hữu + Nợ dài hạn
Hay
Nguồn vốn thường xuyên = Giá trị tổng tài sản – Nợ ngắn hạn
Có thể xác định nguồn VLĐ thường xuyên của doanh nghiệp trên cơ sở xác
định nguồn vốn thường xuyên của doanh nghiệp.
Nguồn VLĐ thường xuyên là nguồn vốn ổn định có tính chất dài hạn để
hình thành hay tài trợ cho một phần hoặc toàn bộ TSLĐ thường xuyên cần thiết
trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Tại một thời điểm:
Nguồn vốn lưu động
thường xuyên

=

Tổng nguồn vốn
thường xuyên

-

Tài sản
dài hạn

Hoặc
Nguồn VLĐ thường xuyên = Tài sản ngắn hạn – Nợ ngắn hạn
Nguồn VLĐ thường xuyên tạo ra mức độ an toàn cho doanh nghiệp trong
kinh doanh, làm cho tình trạng tài chính của doanh nghiệp được đảm bảo vững

chắc hơn.

7


- Nguồn vốn tạm thời: là các nguồn vốn có tính chất ngắn hạn (dưới một
năm) doanh nghiệp có thể sử dụng để đáp ứng các yêu cầu có tình chất tạm thời
phát sinh trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn này bao gồm
vay ngắn hạn ngân hàng, các tổ chức tín dụng và các khoản nợ ngắn hạn khác.
- 1.1.3.3. Dựa vào phạm vi huy động vốn
- Theo phạm vi huy động vốn các nguồn vốn của doanh nghiệp có thể
chia thành nguồn vốn bên trong và nguồn vốn bên ngoài.
- - Nguồn vốn bên trong: là nguồn vốn có thể huy động được vào đầu tư
từ chính hoạt động của bản thân doanh nghiệp tạo ra. Nguồn vốn này thể hiện
khả năng tự tài trợ của doanh nghiệp, là nguồn tăng thêm tài sản và nguồn vốn
của công ty. Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp chính là lợi nhuận giữ lại để tái
đầu tư.
- Sử dụng nguồn vốn bên trong có nhiều điểm lợi cho doanh nghiệp như:
chủ động đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp, nắm bắt kịp thời các thời cơ
trong kinh doanh; tiết kiệm thời gian huy động vốn và chi phí sử dụng vốn do
không phát sinh các chi phí quảng cáo, hoa hồng bảo lãnh… so với việc huy
động vốn qua phát hành chứng khoán; giữ quyền kiểm soát doanh nghiệp và
tránh áp lực phải thanh toán đúng kỳ hạn.
Tuy nhiên, sử dụng nguồn vốn bên trong đem lại hiệu quả sử dụng thường
không cao bằng các nguồn vốn huy động bên ngoài do không tạo áp lực thanh
toán cho ban lãnh đạo doanh nghiệp trong việc cân nhắc, tính toán hiệu quả sử
dụng vốn cho đầu tư. Mặt khác, các nguồn vốn huy động bên trong thường bị
giới hạn ở một quy mô nhất định.
- Nguồn vốn bên ngoài: là nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể huy động
được vào đầu tư từ bên ngoài. Nguồn vốn này bao gồm một số nguồn vốn chủ

yếu như:
• Vay người thân (đối với doanh nghiệp tư nhân)

8








Vay ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính khác
Gọi góp vốn liện doanh liên kết
Tín dụng thương mại của nhà cung cấp
Thuê tài sản
Huy động vốn bằng phát hành chứng khoán (đối với một số loại hình
doanh nghiệp được pháp luật cho phép)

1.2. Quản trị vốn kinh doanh của doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm và mục tiêu quản trị vốn kinh doanh
1.2.1.1. Khái niệm quản trị vốn kinh doanh
Quản trị VKD là quá trình hoạch định, tổ chức thực hiện, điều chỉnh và
kiểm soát quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng VKD nhằm đáp ứng nhu cầu
hoạt động của doanh nghiệp.
Quản trị VKD là một trong các chức năng cơ bản của quản trị tài chính
doanh nghiệp. Quản trị VKD bao gồm các hoạt động của người quản lý (nhà
quản trị) liên quan đến việc đầu tư, mua sắm, tài trợ và quản lý tài sản của doanh
nghiệp nhằm đạt được các mục tiêu đề ra.


1.2.1.2. Mục tiêu quản trị vốn kinh doanh
Quản trị VKD là sự tác động của nhà quản trị đến các hoạt động sản xuất
kinh doanh trong doanh nghiệp. Trong các quyết định của doanh nghiệp, vấn đề
được nhà quản trị quan tâm giải quyết không chỉ là lợi ích của cổ đông và nhà quản
trị mà còn cả lợi ích của nhân viên, khách hàng, nhà cung cấp và Chính phủ.
Quản trị VKD là một hoạt động có mối liên hệ chặt chẽ với các hoạt động
khác của doanh nghiệp và luôn giữ một vai trò trọng yếu trong hoạt động quản
lý doanh nghiệp. Trong hoạt động kinh doanh hiện nay, quản trị VKD nhằm các
mục tiêu chủ yếu sau

9


Thứ nhất, huy động vốn đảm bảo đầy đủ và kịp thời cho hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp. Để đáp ứng các nhu cầu vốn ngắn hạn và dài hạn cho
hoạt động kinh doanh thường xuyên của doanh nghiệp cũng như cho đầu tư phát
triển trong quá trình hoạt động kinh doanh, nhà quản trị cần xác định đúng đắn
các nhu cầu về VKD trong thời kỳ và lựa chọn các phương pháp, hình thức thích
hợp huy động nguồn vốn từ bên trong và bên ngoài đáp ứng kịp thời các nhu cầu
vốn cho hoạt động của doanh nghiệp, đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt động nhịp
nhàng và liên tục.
Thứ hai, tổ chức sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả. Hiệu quả hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào việc tổ chức sử dụng vốn.
Việc huy động kịp thời các nguồn vốn có ý nghĩ rất quan trọng để doanh nghiệp
có thể nắm bắt được các cơ hội kinh doanh, tăng doanh thu và lợi nhuận doanh
nghiệp. Huy động và sử dụng tốt các quỹ doanh nghiệp cùng với việc sử dụng
các chính sách khen thưởng hợp lý sẽ góp phần quan trọng thúc đẩy cán bộ công
nhân viên gắn liền với doanh nghiệp. Từ đó nâng cao năng suất lao động, góp
phần cải tiến sản xuất kinh doanh, tiết kiệm và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Thứ ba, giám sát, kiểm tra chặt chẽ các hoạt động sản xuất kinh doanh

của doanh nghiệp. Thông qua tình hình hoạt động kinh doanh, đặc biệt là hiệu
suất và hiệu quả sử dụng VKD, các nhà quản trị doanh nghiệp có thể đánh giá
khái quát và kiểm soát được hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, phát hiện
kịp thời những tồn tại vướng mắc trong kinh doanh, từ đó đưa ra các quyết định
điều chỉnh các hoạt động phù hợp với diễn biến thực tế kinh doanh.
1.2.2 Nội dung quản trị kinh doanh
Các doanh nghiệp thường sử dụng hai phương pháp thông thường để ước
lượng số vốn cần thiết trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Phương
pháp thứ nhất là ước lượng nhu cầu vốn theo ngân sách doanh nghiệp. Phương
pháp thứ hai ước lượng theo số vốn cần thiết căn cứ vào các tỷ lệ có sẵn trong
các ngành kinh doanh khác nhau.
10


Hiện nay Nhà nước cho phép các doanh nghiệp tự chủ trong hoạt động
sản xuất kinh doanh, trong đó có tự chủ về vốn bao gồm huy động và sử dụng
vốn trong doanh nghiệp. Bên cạnh nguồn vốn Nhà nước cấp phát
(đối với loại hình doanh nghiệp nhà nước) các doanh nghiệp còn được phép huy
động từ các nguồn khác để phục vụ cho các hoạt động của mình. Thực tế các
doanh nghiệp thường huy động từ các nguồn: vay từ các tổ chức tín dụng, liên
doanh liên kết với các khách hàng hoặc nhà cung cấp đầu vào cho doanh nghiệp
dưới dạng mua trả chậm hoặc trả tiền trước một phần hỗ trợ cho doanh nghiệp,
phát hành trái phiếu, cổ phiếu thông qua việc cổ phần hóa doanh nghiệp.
Hiện nay hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ đều trong tình trạng thiếu vốn kinh doanh. Vấn đề đặt ra là
làm thế nào để doanh nghiệp huy động có hiệu quả nguồn vốn để phục vụ tốt
cho hoạt động kinh doanh của mình. Với nhiều hình thức huy động vốn mà các
doanh nghiệp đã áp dụng có thể phân chia thành hai loại là hình thức huy động
vốn ngắn hạn và dài hạn. Để lựa chọn hình thức và phương pháp huy động vốn
thích hợp, cần xem xét cân nhắc trên nhiều mặt như kết cấu nguồn vốn, những

điểm lợi của từng hình thức huy động vốn, chi phí cho việc sử dụng mỗi nguồn
vốn,…
1.2.2.2. Phân bổ vốn kinh doanh một cách hợp lý
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vốn được phân
bổ, đầu tư cho các TSCĐ và TSLĐ để tiến hành sản xuất. Biểu hiện bằng tiền
của TSCĐ và TSLĐ là số tiền bỏ ra để đầu tư cho các tài sản này, đó chính là
vốn cố định và vốn lưu động.
Tùy theo đặc điểm từng ngành nghề kinh doanh và đặc điểm cụ thể của
mỗi doanh nghiệp mà các doanh nghiệp có sự phân bổ vốn kinh doanh khác
nhau. Thông thường, các doanh nghiệp phân bổ vốn theo ba mô hình sau:

11


Mô hình thứ nhất: Toàn bộ TSCĐ và TSLĐ thường xuyên được đảm bảo
bằng nguồn vốn thường xuyên, toàn bộ TSLĐ tạm thời được đảm bảo bằng
nguồn vốn tạm thời.
Sự phân bổ vốn này giúp cho doanh nghiệp hạn chế được rủi ro trong
thanh toán, mức độ an toàn cao hơn, giảm bớt chi phí trong việc sử dụng vốn
nhưng chưa tạo ra sự linh hoạt trong việc tổ chức sử dụng vốn, thường vốn nào
nguồn ấy. Mặt khác, khi doanh thu biến động, khi gặp khó khăn về tiêu thụ,
doanh nghiệp phải tạm thời giảm bớt quy mô kinh doanh nhưng vẫn phải duy trì
một lượng vốn thường xuyên khá lớn.
Mô hình thứ hai: Toàn bộ TSCĐ, TSLĐ thường xuyên và một phần
TSLĐ tạm thời được đảm bảo bằng nguồn vốn thường xuyên và một phần
TSLĐ tạm thời còn lại được đảm bảo bằng nguồn vốn tạm thời.
Sử dụng mô hình này, khả năng thanh toán và độ an toàn ở mức cao, tuy nhiên,
doanh nghiệp phải sử dụng nhiều khoản vay dài hạn và trung hạn nên phải trả
chi phí nhiều hơn cho việc sử dụng vốn.
Mô hình thứ ba: Toàn bộ TSCĐ và một phần TSLĐ thường xuyên được

đảm bảo bằng nguồn vốn thường xuyên, còn một phần TSLĐ thường xuyên và
toàn bộ TSLĐ tạm thời được đảm bảo bằng nguồn vốn tạm thời.
Mô hình này chi phí sử dụng vốn sẽ được hạ thấp hơn vì sử dụng nhiều
hơn nguồn vốn tín dụng ngắn hạn, việc sử dụng vốn sẽ được linh hoạt hơn,
Trong thực tế, mô hình này thường được các doanh nghiệp lựa chọn, vì một
phần tín dụng ngắn hạn được xem như dài hạn thường xuyên, đối với các doanh
nghiệp mới hình thành lại càng cần thiết. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cũng cần
sự năng động trong việc tổ chức nguồn vốn vì áp dụng mô hình này khả năng
gặp rủi ro sẽ cao hơn.
1.2.2.3. Quản trị vốn lưu động của doanh nghiệp
 Xác định nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp

12


Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp luôn đòi hỏi doanh nghiệp
phải có một lượng VLĐ cần thiết để đáp ứng các yêu cầu mua sắm vật tư dự trữ,
bù đắp chênh lệch các khoản thu, phải trả giữa doanh nghiệp với khách hàng,
đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành thường xuyên, liên
tục.
Như vậy, nhu cầu VLĐ thường xuyên cần thiết là số VLĐ tối thiểu cần
thiết phải có để đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
được tiến hành bình thường, liên tục.
Các doanh nghiệp cần chú trọng xác định đúng đắn nhu cầu VLĐ thường
xuyên cần thiết, phù hợp với quy mô và điều kiện kinh doanh cụ thể của doanh
nghiệp.
Nhu cầu VLĐ được xác định theo công thức:
Nhu cầu VLĐ=Vốn HTK+Nợ phải thu–Nợ phải trả nhà cung cấp
Nhu cầu VLĐ của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như:
quy mô kinh doanh của doanh nghiệp; đặc điểm, tính chất của ngành nghề kinh

doanh (chu kỳ sản xuất, tính chất thời vụ); sự biến động của giá cả vật tư, hàng
hóa trên thị trường; trình độ tổ chức, quản lý sử dụng VLĐ của doanh nghiệp;
trình độ kỹ thuật – công nghệ sản xuất; các chính sách của doanh nghiệp trong
tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ… Xác định đúng đắn các nhân tố ảnh
hưởng sẽ giúp doanh nghiệp xác định đúng nhu cầy VLĐ và có biện pháp quản
lý, sử dụng VLĐ một cách tiết kiệm, có hiệu quả.
Có thể sử dụng 2 phương pháp trực tiếp hoặc gián tiếp để xác định nhu cầu
VLĐ của doanh nghiệp.
Phương pháp trực tiếp:
Nội dung phương pháp này là xác định trực tiếp nhu cầu vốn cho hàng tồn
kho, các khoản phải thu, khoản phải trả nhà cung cấp rồi tập hợp lại thành tổng
nhu cầu VLĐ của doanh nghiệp.
Nhu cầu VLĐ bao gồm VLĐ trong các khâu dự trữ sản xuất, khâu sản xuất và
khâu lưu thông.

13


- Nhu cầu VLĐ trong khâu dự trữ sản xuất bao gồm nhu cầu vốn dự trữ
nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế…
- Nhu cầu VLĐ dự trữ trong khâu sản xuất bao gồm nhu cầu vốn để hình
thành các sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, các khoản chi phí trả
trước.
- Nhu cầu VLĐ dự trữ trong khâu lưu thông bao gồm vốn dự trữ thành
phẩm, vốn phải thu, phải trả.
Phương pháp gián tiếp:
Phương pháp gián tiếp dựa vào phân tích tình hình tài chính thực tế sử
dụng VLĐ của doanh nghiệp năm báo cáo, sự thay đổi về quy mô kinh dooanh
và tốc độ luân chuyển VLĐ năm kế hoạch, hoặc sự biến dộng nhu cầu VLĐ theo
doanh thu thực hiện năm báo cáo để xác định nhu cầu VLĐ của doanh nghiệp

năm kế hoạch.
Các phương pháp gián tiếp cụ thể như sau:
- Phương pháp điều chỉnh theo tỷ lệ phần trăm nhu cầu VLĐ so với năm báo
cáo. Thực chất phương pháp này là dựa vào thực tế nhu cầu VLĐ năm báo cáo và
điều chỉnh theo quy mô kinh doanh và tốc độ luân chuyển VLĐ năm kế hoạch.
- Phương pháp dựa vào tổng mức luân chuyển vốn và tốc độ luân chuyển vốn
năm kế hoạch. Nhu cầu VLĐ được xác định căn cứ vào tổng mức luân chuyển
VLĐ và tốc độ luân chuyển VLĐ dự tính của năm kế hoạch.
 - Phương pháp dựa vào tỷ lệ phần trăm trên doanh thu. Dựa vào sự biến
động theo tỷ lệ trên doanh thu của các yếu tố cấu thành VLĐ của doanh
nghiệp năm báo cáo để xác định nhu cầu VLĐ theo doanh thu năm kế hoạch
 Quản trị vốn tồn kho dự trữ
Tồn kho dự trữ là những tài sản mà doanh nghiệp dự trữ để đưa vào sản
xuất hoặc bán ra sau này. Tồn kho dự trữ của doanh nghiệp được chia thành tồn
kho nguyên vật liệu, tồn kho sản phẩm dở dang, bán thành phẩm và tồn kho
thành phẩm.

14


Việc hình thành lượng hàng tồn kho đòi hỏi phải ứng trước một lượng tiền
nhất định gọi là vốn tồn kho dự trữ. Quản lý vốn tồn kho dự trữ là việc rất quan
trọng, không phải vì nó thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số VLĐ của doanh
nghiệp mà quan trọng hơn là giúp doanh nghiệp tránh được tình trạng vật tư
hàng hóa ứ đọng, chậm luân chuyển, đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp được diễn ra bình thường, góp phần đẩy nhanh tốc độ
luân chuyển VLĐ.
Quy mô vốn tồn kho dự trữ chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi mức tồn kho dự
trữ của doanh nghiệp. Tuy nhiên, từng loại tồn kho dự trữ lại có các nhân tố ảnh
hưởng khác nhau. Nhận thức rõ các nhân tố ảnh hưởng sẽ giúp doanh nghiệp có

biện pháp quản lý phù hợp nhằm duy trì lượng tồn kho dự trữ sao cho hợp lý,
tiết kiệm, hiệu quả nhất.
 Quản trị vốn bằng tiền
Vốn bằng tiền (gồm tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển) là một
bộ phận cấu thành tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp. Tuy nhiên, vốn bằng tiền
chỉ sinh lời khi được đầu tư vào một mục đích nhất định và dễ bị thất thoát, gian
lận, lợi dụng.
Quản trị vốn bằng tiền của doanh nghiệp có yêu cầu cơ bản là vừa phải
đảm bảo sự an toàn tuyệt đối, đem lại khả năng sinh lời cao nhưng đồng thời
cũng phải đáp ứng kịp thời các nhu cầu thanh toán bằng tiền mặt của doanh
nghiệp.
Quản trị vốn bằng tiền trong doanh nghiệp bao gồm các nội dung chủ yếu:
Thứ nhất, xác định đúng đắn mức dự trữ tiền mặt hợp lý, tối thiểu để đáp
ứng các nhu cầu chi tiêu bằng tiền mặt của doanh nghiệp trong kỳ. Căn cứ vào
số liệu thống kê nhu cầu chi dùng tiền mặt bình quân một ngày và số ngày dự
trữ tiền mặt hợp lý. Ngoài ra, có thể vận dụng mô hình tổng chi phí tối thiểu (mô
hình Baumol) trong quản trị vốn tồn kho dự trữ để xác định mức tồn quỹ tiền
mặt mục tiêu của doanh nghiệp.
Thứ hai, quản lý chặt chẽ các khoản thu chi tiền mặt. Doanh nghiệp cần
quản lý chặt chẽ các khoản thu chi tiền mặt để tránh bị mất mát, lợi dụng. Thực
hiện nguyên tắc mọi khoản thu chi tiền mặt đều phải qua quỹ, không được thu

15


chi ngoài quỹ. Phân định rõ ràng trách nhiệm trong quản lý vốn bằng tiền giữa
kế toán và thủ quỹ.
Thứ ba, chủ động lập và thực hiện kế hoạch lưu chuyển tiền tệ hàng năm,
có biện pháp phù hợp đảm bảo cân đối thu chi tiền mặt và sử dụng có hiệu quả
nguồn tiền mặt tạm thời nhàn rỗi.

 Quản trị các khoản phải thu
Khoản phải thu là số tiền khách hàng nợ doanh nghiệp do mua chịu hàng
hóa hoặc dịch vụ. Trong kinh doanh hầu hết các doanh nghiệp đều có khoản nợ
phải thu nhưng với quy mô, mức độ khác nhau. Quản trị khoản phải thu là một
nội dung quan trọng trong quản trị tài chính của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp cần đặc biệt coi trọng các biện pháp quản trị khoản phải thu
từ bán chịu hàng hóa, dịch vụ. Nếu khả năng sinh lời lớn hơn rủi ro thì doanh
nghiệp có thể mở rộng (nới lỏng) bán chịu, còn nếu khả năng sinh lời nhỏ hơn
rủi ro doanh nghiệp phải thu hẹp (thắt chặt) việc bán chịu hàng hóa, dịch vụ.
Để quản trị các khoản phải thu, các doanh nghiệp cần chú trọng thực hiện
các biện pháp:
Xác định chính sách bán chịu hợp lý đối với từng khách hàng. Trước hết là
xác định đúng đắn các tiêu chuẩn hay giới hạn tối thiểu về mặt uy tín của khách
hàng để doanh nghiệp có thể chấp nhận bán chịu. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng
cần xác định đúng đắn các điều khoản bán chịu hàng hóa, dịch vụ.
Phân tích uy tín tài chính của khách hàng mua chịu. Nội dung chủ yếu là
đánh giá khả năng tài chính và mức độ đáp ứng yêu cầu thanh toán của khách
hàng khi khoản nợ đến hạn thanh toán.
Áp dụng các biện pháp quản lý và nâng cao hiệu quả thu hồi nợ. Tùy theo
điều kiện cụ thể có thể áp dụng các biện pháp phù hợp như sử dụng kế toán thu
hồi nợ chuyên nghiệp, xác định trọng tâm quản lý và thu hồi nợ trong từng thời
kỳ để có chính sách thu hồi nợ thích hợp, thực hiện các biện pháp phòng ngừa
rủi ro bán chịu.
1.2.2.4. Quản trị vốn cố định của doanh nghiệp
Quản trị VCĐ là một nội dung qu Quản trị VCĐ là một nội dung quan
trọng trong quản lý VKD của các doanh nghiệp không chỉ ở chỗ VCĐ thường

16



chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng số VKD của doanh nghiệp, có ý nghĩa quyết
định tới năng lực sản xuất của doanh nghiệp mà còn do việc sử dụng VCĐ
thường gắn liền với hoạt động đầu tư dài hạn, thu hồi vốn chậm và dễ gặp rủi ro.
Quản trị VCĐ có thể khái quát thành các nội dung cơ bản sau:
a. Đánh giá lựa chọn đầu tư TSCĐ

Các TSCĐ của doanh nghiệp khi tham gia vào quá trình sản xuất đều bị
hao mòn, đến lúc chúng không còn sử dụng được nữa hoặc có thể do nhiều
nguyên nhân mà cần thiết phải đổi mới TSCĐ hoặc phải thay thế, trang bị mới
TSCĐ cho phù hợp với nhu cầu sản xuất. Các doanh nghiệp thường tính toán
một số chỉ tiêu cần thiết để xem xét tình hình sử dụng TSCĐ tại doanh nghiệp
sau đó phân tích nhu cầu cần thiết đối với từng loại TSCĐ phục vụ cho sản xuất
của doanh nghiệp để lên kế hoạch đầu tư TSCĐ cho đúng.
Việc đầu tư vào TSCĐ bao gồm các quyết định mua sắm, xây dựng, sửa
chữa nâng cấp… TSCĐ đạt được yêu cầu về thời gian hữu ích của chi phí bỏ ra
(tài sản mua sắm) và giá trị của tài sản mua sắm. Khi doanh nghiệp quyết định
đầu tư vào TSCĐ sẽ tác động đến hoạt động kinh doanh ở hai khía cạnh là chi
phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra trước mắt và lợi ích mà doanh nghiệp thu được
trong tương lai. Chi phí của doanh nghiệp sẽ tăng lên do chi phí đầu tư phát sinh
đồng thời phải phân bổ chi phí khấu hao (tuỳ theo thời gian hữu ích). Còn lợi ích
đem lại là việc nâng cao năng lực sản xuất, tạo ra được sản phẩm mới có sức
cạnh tranh cao trên thị trường.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, sản xuất và tiêu thụ chịu
sự tác động trực tiếp của quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh. Do vậy, vấn đề
đặt ra cho các doanh nghiệp khi tiến hành việc đầu tư TSCĐ là phải tiến hành tự
thẩm định tức là sẽ so sánh giữa chi tiêu và lợi ích, tính toán một số chỉ tiêu ra
quyết định đầu tư như NPV, IRR… để lựa chọn phương án tối ưu.
Đây là nội dung quan trọng trong công tác quản trị vốn cố định vì nó là
công tác khởi đầu khi TSCĐ được sử dụng tại doanh nghiệp. Những quyết định
ban đầu có đúng đắn thì sẽ góp phần bảo toàn vốn cố định. Nếu công tác quản lý


17


này không tốt, không có sự phân tích kỹ lưỡng trong việc lựa chọn phương án
đầu tư xây dựng mua sắm sẽ làm cho TSCĐ không phát huy được tác dụng để
phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh có hiệu quả và như vậy việc thu hồi toàn
bộ vốn đầu tư là điều không thể.
b. Quản lý khấu hao TSCĐ trong doanh nghiệp
 Hao mòn TSCĐ
TSCĐ luôn bị hao mòn do nhiều nguyên nhân khác nhau trong quá trình
sử dụng. Có 2 hình thức hao mòn của TSCĐ là hao mòn hữu hình và hao mòn
vô hình.
Hao mòn hữu hình: là sự hao mòn về mặt vật chất, về giá trị sử dụng và giá
trị của TSCĐ trong quá trình sử dụng.
Hao mòn vô hình: là sự giảm sút thuần túy về giá trị của TSCĐ, biểu hiện ở
sự giảm sút giá trị trao đổi của TSCĐ do ảnh hưởng của tiến bộ khoa học – kỹ
thuật và công nghệ sản xuất.
Hao mòn TSCĐ dù xảy ra dưới hình thức nào cũng gây tổn thất giá trị
TSCĐ của doanh nghiệp. Do đó, trong quá trình sử dụng, các doanh nghiệp phải
chú trọng áp dụng các biện pháp nhằm hạn chế, giảm thiểu tối đa những tổn thất
do hao mòn TSCĐ như:
- Nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ.
- Thực hiện tốt chế độ bảo dưỡng, sửa chữa thường xuyên, định kỳ TSCĐ
để tránh các hư hỏng bất thường TSCĐ, gây thiệt hại về nhừng sản xuất.
- Ứng dụng kịp thời các thành tựu tiến bộ khoa học – kỹ thuật, công nghệ
vào sản xuất của doanh nghiệp.
- Khi TSCĐ đã hết thời hạn sử dụng hoặc xét thấy việc sử dụng TSCĐ cũ
không còn kinh tế thì phải mạnh dạn thay thế, đổi mới để nâng cao hiệu quả sử
dụng TSCĐ và VCĐ của doanh nghiệp.


18


 Khấu hao TSCĐ
Khấu hao TSCĐ là việc phân bổ một cách có hệ thống giá trị phải thu hồi
của TSCĐ vào chi phí sản xuất kinh doanh trong suốt thời gian sử dụng hữu ích
của TSCĐ.
Mục đích của khấu hao là nhằm bù đắp các hao mòn TSCĐ và thu hồi
VCĐ đã đầu tư ban đầu để tái sản xuất giản đơn hoặc mở rộng về TSCĐ.
Về nguyên tắc, việc khấu hao phải đảm bảo phù hợp với mức độ hao mòn
của TSCĐ và thu hồi đầy đủ số vốn đầu tư ban đầu vào TSCĐ.

 Các phương pháp khấu hao TSCĐ
Khấu hao TSCĐ trong các doanh nghiệp có thể thực hiện theo nhiều
phương pháp khác nhau. Việc lựa chọn phương pháp khấu hao đúng đắn là một
nội dung chủ yếu, quan trọng trong quản lý VCĐ của doanh nghiệp. Thông
thường có các phương pháp khấu hao chủ yếu sau:
• Phương pháp khấu hao đường thẳng
Theo phương pháp này , mức khấu hao và tỷ lệ khấu hao hàng năm được
tính bình quân trong suốt thời gian sử dụng hữu ích của TSCĐ.
Công thức xác định như sau:

=

x 100% = x 100%

Trong đó:
: Mức khấu hao hàng năm
: Tỷ lệ khấu hao hàng năm


19


: Nguyên giá TSCĐ phải khấu hao
T: Thời gian sử dụng hữu ích của TSCĐ (năm)
Nếu doanh nghiệp tính khấu khao theo tháng thì lấy mức khấu hao hàng
năm hoặc tỷ lệ khấu hao hàng năm chia cho 12 tháng để xác định mức khấu hao
và tỷ lệ khấu hao theo từng tháng.
Nguyên giá TSCĐ là toàn bộ các khoản chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra
để có được TSCĐ tính đến thời điểm đưa TSCĐ vào trạng thái sẵn sàng sử
dụng.
Thời gian sử dụng hữu ich của TSCĐ là thời gian dự tính còn đem lại lợi
ích kinh tế cho doanh nghiệp. Thông thường được xác định dựa trên tuổi thọ kỹ
thuật và tuổi thọ kinh tế của TSCĐ.
Tỷ lệ khấu hao TSCĐ có thể được xác định riêng cho từng TSCĐ, từng
nhóm, loại TSCĐ hoặc cho toàn bộ các loại TSCĐ của doanh nghiệp. Phương
pháp tính tỷ lệ khấu hao bình quân cho toàn bộ TSCĐ của doanh nghiệp được
tính theo phương pháp bình quân gia quyền đối với toàn bộ TSCĐ của doanh
nghiệp.
Phương pháp này có ưu điểm là tính toán đơn giản, dễ dàng; mức trích
khấu hao được phân bổ đều đặn hàng năm nên ổn định giá thành và giá bán; phù
hợp với các TSCĐ hao mòn đều đặn trong kỳ. Tuy nhiên, phương pháp này
không phản ánh đúng mức độ hao mòn thực tế TSCĐ; trong một số trường hợp
không lường trước được tiến bộ khoa học kỹ thuật, việc áp dụng phương pháp
này có thể dẫn tới tình trạng không thu hồi đủ VCĐ; không phù hợp với những
tài sản hoạt động không đồng đều giữa các thời kỳ.
• Phương pháp khấu hao nhanh
Khấu hao nhanh có thể được thực hiện theo 2 phương pháp là khấu hao
theo số dư giảm dần và khấu hao theo tổng số thứ tự năm sử dụng.


20


- Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần
Theo phương pháp này mức khấu hao hàng năm được xác định bằng cách
lấy giá trị còn lại của TSCĐ phải tính khấu hao nhân với tỷ lệ khấu hao nhanh.
Công thức tính toán như sau:
=

x

Trong đó:
: Mức khấu hao năm t
: Giá trị còn lại của TSCĐ ở đầu năm thứ t
: Tỷ lệ khấu hao nhanh của TSCĐ
t: Thứ tự năm sử dụng TSCĐ (t=1→n)
Tỷ lệ khấu hao nhanh được xác định bằng cách lấy tỷ lệ khấu hao bình
quân nhân với hệ số điều chỉnh khấu hao.
Do kỹ thuật tính toán nên đến năm cuối cùng, mức khấu hao TSCĐ chưa
hồi đủ số vốn đầu tư vào TSCĐ. Để khắc phục hạn chế này, người ta sử dụng
phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần có điều chỉnh. Nghĩa là một vài năm
cuối cùng, người ta lấy giá trị còn lại chia cho số năm sử dụng còn lại của
TSCĐ.
- Phương pháp khấu hao theo tổng số thứ tự năm sử dụng
Theo phương pháp này, mức khấu hao hàng năm được xác định bằng
nguyên giá TSCĐ cần tính khấu hao nhân với tỷ lệ khấu hao của từng năm.
Công thức tính như sau:
=


x

21


Trong đó:
: Mức khấu hao năm t
: Nguyên giá TSCĐ phải khấu hao
: Tỷ lệ khấu hao của năm thứ t cần tính khấu hao
Tỷ lệ khấu hao nhanh được tính bằng cách lấy số năm sử dụng còn lại của
TSCĐ cho đến khi hết thời hạn sử dụng chia cho tổng số thứ tự năm sử dụng
hoặc áp dụng công thức sau:

=

Phương pháp khấu hao nhanh có ưu điểm là cho phép doanh nghiệp nhanh
chóng tập trung nguồn VCĐ và hạn chế được những tổn thất khi không lường
trước được sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật trong việc khấu hao TSCĐ; tạo lá
chắn thuế cho doanh nghiệp do doanh nghiệp được “hoãn nộp” một phần thuế
thu nhập doanh nghiệp. Tuy nhiên, phương pháp này làm cho chi phí khấu hao
những năm đầu cao, lợi nhuận sụt giảm, ảnh hưởng đến các chỉ tiêu tài chính và
giá cổ phiếu; việc tính toán khấu hao sẽ phức tạp hơn.
• Phương pháp khấu hao theo sản lượng
Theo phương pháp này mức khấu hao hàng năm được xác định bằng cách
lấy sản lượng dự kiến sản xuất hàng năm nhân với mức trích khấu hao tính cho
một đơn vị sản phẩm hoặc khối lượng công việc hoàn thành.
Công thức tính như sau:
=

x


22


Trong đó:
: Mức khấu hao TSCĐ ở năm t
: Số lượng sản phẩm sản xuất trong năm t
: Mức khấu hao đơn vị sản phẩm
Mức khấu hao đơn vị sản phẩm được tính bằng cách lấy nguyên giá
TSCĐ phải tính khấu hao chia cho số lượng (hoặc khối lượng) sản phẩm sản
xuất theo công suất thiết kế trong suốt thời gian hoạt động hữu ích của TSCĐ.
Trường hợp tính khấu hao theo sản lượng từng tháng thì lấy số lượng (hoặc
khối lượng) sản phẩm sản xuất trong tháng nhân với mức khấu hao bình quân
cho 1 đơn vị sản phẩm.
Phương pháp khấu khao theo sản lượng có ưu điểm là tính khấu hao phù
hợp hơn với mức độ hao mòn của TSCĐ có mức độ hoạt động không đồng đều
giữa các thời kỳ nhưng việc khấu hao có thể trở nên phức tạp và đòi hỏi phải
thống kê được khối lượng sản phẩm đầy đủ và rõ ràng.

c. Xây dựng quy chế quản lý TSCĐ
Với những tài sản cố định do Công ty mua sắm:
Mọi tài sản cố định được mua sắm trang bị có giá trị (theo qui định của
Bộ Tài chính) phải được phản ánh trong Sổ Tài sản cố định của Công ty;
Giám đốc tài chính kiêm Kế toán trưởng có trách nhiệm chỉ đạo Kế toán
trưởng xác định số trích khấu hao tài sản cố định tính vào chi phí sản xuất kinh
doanh theo qui định của Bộ Tài chính;

23



Việc góp vốn đầu tư dưới hình thức liên doanh, liên kết góp vốn cổ phần,
mua sắm thêm tài sản cố định, thanh lý tài sản cố định phải thực hiện theo thẩm
quyền qui định trong Điều lệ Công ty.
Với những tài sản thuê ngoài do Công ty ký hợp đồng thuê:
Căn cứ đề nghị của đơn vị cơ sở về việc thuê tài sản phục vụ sản xuất,
xây dựng:
- Giám đốc Kế hoạch - Kỹ thuật kiểm tra và đưa ra ý kiến bằng văn bản
về sự cần thiết phải thuê tài sản;
- Hợp đồng thuê máy móc, thiết bị, phương tiện do Tổng Giám đốc ký và
thanh toán qua Phòng Kế toán- Tài vụ của Công ty;
- Đơn vị đề nghị thuê máy móc, thiết bị…có trách nhiệm tiếp nhận, quản
lý, bảo vệ và sử dụng có hiệu quả các máy móc, thiết bị, phương tiện, .v.v... thuê
ngoài theo hợp đồng đã ký;
- Khi hết thời hạn thuê theo hợp đồng, đơn vị sử dụng có trách nhiệm bàn
giao các máy móc, thiết bị, phương tiện, v.v... cho bên cho thuê;
- Việc tiếp nhận và bàn giao máy móc, thiết bị, phương tiện, v.v... theo
hợp đồng thuê phải được lập thành biên bản ghi rõ tình trạng kỹ thuật của từng
loại máy móc, thiết bị, phương tiện... khi tiếp nhận thuê và khi bàn giao trả lại
bên cho thuê, trên biên bản phải có chữ ký của Giám đốc Kế hoạch - Kỹ thuật và
Giám đốc tài chính kiêm Kế toán trưởng.
1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá tình hình quản trị vốn kinh doanh của
doanh nghiệp
1.2.3.1. Chỉ tiêu đánh giá tình hình tổ chức đảm bảo nguồn vốn kinh doanh
 Hệ số cơ cấu nguồn vốn
Hệ số cơ cấu nguồn vốn được thể hiện chủ yếu qua hệ số nợ. Hệ số nợ thể
hiện việc sử dụng nợ của doanh nghiệp trong việc tổ chức nguồn vốn và điều đó
cũng cho thấy mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính của doanh nghiệp.

24



Hệ số nợ =
Cùng với hệ số nợ, có thể xác định hệ số vốn chủ sở hữu:

Hệ số vốn chủ sở hữu =
Hoặc:
Hệ số vốn chủ sở hữu = 1 – Hệ số nợ
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn mà doanh nghiệp đang sử dụng có bao
nhiêu đồng huy động từ bên ngoài, bao nhiêu đồng từ bên trong doanh nghiệp.
Nó phản ánh cơ cấu VKD của doanh nghiệp như thế nào.
1.2.3.2. Chỉ tiêu đánh giá cơ cấu vốn kinh doanh
 Hệ số cơ cấu tài sản
Phản ánh mức độ đầu tư vào các loại tài sản của doanh nghiệp: tài sản cố
định và tài sản lưu động

Tỷ trọng TSCĐ =

Tỷ trọng TSLĐ =
= 1 – Tỷ trọng TSCĐ
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn mà doanh nghiệp đang sử dụng có bao
nhiêu đồng đầu tư vào TSCĐ, bao nhiêu đồng đầu tư vào TSLĐ. Tùy theo từng
loại hình sản xuất mà tỷ số này ở mức độ cao thấp khác nhau, nhưng bố trí cơ
cấu vốn càng hợp lý bao nhiêu thì hiệu quả sử dụng vốn càng cao bấy nhiêu. Bố
trí cơ cấu vốn làm mất cân đối giữa TSCĐ và TSLĐ dẫn đến thừa hoặc thiếu
một loại tài sản nào đó sẽ có ảnh hưởng không tốt tới doanh nghiệp.
1.2.3.3. Các chỉ tiêu đánh giá tình hình quản trị vốn lưu động
Để đánh giá tình hình quản lý và sử dụng VLĐ người ta thường sử dụng các
chỉ tiêu sau:
25



×