Tải bản đầy đủ (.doc) (120 trang)

Luận văn thạc sỹ kinh tế: Phát triển kinh tế nông thôn Việt Nam trong quá trình CNH HĐH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (572.83 KB, 120 trang )

MỤC LỤC
BẢNG KÝ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU ĐỒ
TÓM TẮT LUẬN VĂN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


BẢNG KÝ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT

CNXH
XHCN
KTXH
KTQD
KTNT
TNQD
CNH - HĐH
CNNT
TTCN
HTX
KHCN
THCS
THPT
UBND
VSATTP
ĐBSCL
CV
GS.TS

:
:


:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:

Chủ nghĩa xã hội
Xã hội chủ nghĩa
Kinh tế xã hội
Kinh tế quốc dân
Kinh tế nông thôn
Thu nhập quốc dân
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Công nghiệp nông thôn
Tiểu thủ công nghiệp
Hợp tác xã
Khoa học công nghệ
Trung học cơ sở
Trung học phổ thông

Uỷ ban nhân dân
Vệ sinh an toàn thực phẩm
Đồng bằng sông Cửu Long
Mã lực
Giáo sư, tiến sỹ


DANH MỤC BẢNG BIỂU ĐỒ
Biểu 1.1. Cơ cấu tổng sản phẩm trong nước của nền kinh tế quốc dân........11
Biểu 1.2. Ảnh hưởng của chất lượng lao động đến NS đất đai các vùng.......18
Biểu 2.1: Diện tích cây trồng chủ yếu..............................................................45
Biểu 2.2: Năng suất một số cây trồng, vật nuôi chủ yếu.................................47
Biểu 2.3. Mức hưởng thụ nhà ở và vật dụng đắt tiền của hộ nông dân.........52
Biểu 2.4. Quy mô đất đai nông hộ ...................................................................60
Biểu 2.5. Nguồn và quy mô vốn đầu tư cho nông nghiệp - nông thôn
giai đoạn 2000 - 2006 ...................................................................71
Biểu 2.6. Đầu tư của kinh tế tư nhân vào nông nghiệp - nông thôn
giai đoạn 2001 - 2006 ...................................................................72

Biểu đồ Giá trị trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản/ ha đất canh tác 2000, 2006
.................................................................................................55


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đối với nước ta, kinh tế nông thôn có vị trí rất quan trọng trong nền
KTQD; đó là khu vực kinh tế chiếm hơn 73% dân số, hơn 55,7% lực lượng lao
động xã hội, đóng góp 20,36% GDP(1) của đất nước.

Trong quá trình thực hiện CNH - HĐH, kinh tế nông thôn nước ta đã đạt
được nhiều thành tựu to lớn: Nông nghiệp, ngành kinh tế chủ yếu của KTNT,
đang chuyển mạnh sang sản xuất hàng hoá và vẫn duy trì được tốc độ phát
triển bình quân 4 - 4,5%/năm. Từ một nước thiếu ăn, nông nghiệp không chỉ
đảm bảo an ninh lương thực quốc gia mà còn tạo cho nước ta vươn lên thành
nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Kim ngạch xuất khẩu nông - lâm - ngư
nghiệp liên tục tăng trưởng ở mức bình quân 16,8%/năm. Kết cấu hạ tầng kinh
tế - xã hội nông thôn được tăng cường đáng kể đã làm thay đổi bộ mặt nông
thôn các vùng quê. Đời sống của đại bộ phận cư dân nông thôn đã được nâng
lên cả tinh thần và vật chất. Công cuộc xoá đói, giảm nghèo đạt thành tựu to
lớn, được thế giới đánh giá cao…
Tuy nhiên, đứng trước yêu cầu phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, kinh tế nông thôn nước ta đang bộc lộ
những mặt yếu kém, nổi bật như:
Nông nghiệp phát triển kém bền vững, sức cạnh tranh thấp, chuyển dịch cơ
cấu và ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ tiên tiến còn hạn chế, phổ biến
vẫn là sản xuất nhỏ, phân tán. Công nghiệp, dịch vụ nông thôn phát triển chậm,
thiếu quy hoạch, quy mô nhỏ, chưa thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế
và lao động ở nông thôn. Các hình thức tổ chức sản xuất chậm đổi mới, chưa đáp
ứng được yêu cầu giải phóng nguồn lực - thúc đẩy sản xuất hàng hoá ở nông thôn.
Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội còn yếu kém, ô nhiễm môi trường ngày càng
nghiêm trọng, năng lực thích ứng, đối phó với thiên tai còn thấp. Đời sống vật
chất và tinh thần của cư dân nông thôn tuy có được nâng lên nhưng vẫn ở mức
1()

Niên giám Thống kê 2006


2
thấp, chênh lệch giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng còn lớn

và ngày càng cách xa đang là những vấn đề bức xúc lớn trong xã hội…
Những mâu thuẫn, yếu kém trên không chỉ ảnh hưởng tới các mục tiêu CNH HĐH mà còn có nguy cơ gây mất ổn định xã hội và chính trị trong tương lai.
Vậy nguyên nhân nào đã dẫn đến những mâu thuẫn yếu kém đó? KTNT
nước ta sẽ vận động, phát triển ra sao trong quá trình CNH - HĐH với bối cảnh
hội nhập? giải pháp nào để hạn chế, giảm thiểu các mâu thuẫn, yếu kém; đảm
bảo cho KTNT nước ta phát triển bền vững, đáp ứng các mục tiêu CNH - HĐH
đến năm 2020 (khi nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp). Đó đang là
những vấn đề rất cần được lý giải hệ thống cả về lý luận và thực tiễn. Đó cũng
là lý do để tác giả chọn đề tài: “Phát triển kinh tế nông thôn Việt Nam trong
quá trình CNH - HĐH” là luận văn Thạc sỹ kinh tế của mình với mong muốn
đóng góp một phần vào giải quyết những vấn đề trên.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Cho đến nay, trên lĩnh vực nông nghiệp - nông thôn đã có nhiều tác giả
nghiên cứu và đã công bố kết quả ở các cấp độ khác nhau như:
- Phát triển nền nông nghiệp hàng hoá định hướng XHCN ở Việt Nam
của Tiến sỹ Phạm Văn Huỳnh.
- Con đường CNH- HĐH nông nghiệp - nông thôn tập hợp bài viết của
nhiều tác giả do Ban tư tưởng văn hoá Trung ương phát hành.
- Đề tài phát triển nông thôn Việt Nam từ làng xã truyền thống đến văn
minh thời đại của nhóm tác giả GS.TS Vũ Trọng Khải, TS Đỗ Thúc Đồng và
TS. Phạm Bích Hợp.
- CNH từ nông nghiệp của TS. Đặng Kim Sơn.
- Nông nghiệp - Nông dân - nông thôn là vật cản hay động lực cho tăng
tốc CNH của TS. Đặng Kim Sơn
- Về Nông dân và chính sách với nông dân thời kỳ CNH - HĐH của
Nguyễn Văn Tâm.
- Đổi mới quản lý ở cấp huyện - xã đối với nông nghiệp - nông thôn của


3

TS. Chu Tiến Quang.
- Đầu tư vào Nông nghiệp, nông thôn - thực trạng và định hướng của TS.
Chu Tiến Quang.
Các đề tài khoa học và công trình nghiên cứu đều đề cập đến và giải quyết
các mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình CNH - HĐH nông nghiệp - nông thôn
nhưng thường là những vấn đề lý luận chung hoặc những khía cạnh hẹp về
quan hệ sản xuất trong nông nghiệp, quan điểm về nông nghiệp định hướng
XHCN hoặc yếu tố văn hoá trong phát triển nông thôn, đổi mới hình thức quản
lý trong nông nghiệp … chưa có công trình nào lý giải được hệ thống và toàn
diện các vấn đề nêu ở trên.
Vì vậy, Đề tài này tác giả muốn kế thừa các thành quả nghiên cứu của các tác
giả, kết hợp nghiên cứu từ thực tiễn và kinh nghiệm từ các quốc gia đã tiến hành
CNH - HĐH đối với nông nghiệp - nông thôn để lý giải rõ hơn các mâu thuẫn ở
nước ta và kiến nghị một số giải pháp hữu ích cho giải quyết các mâu thuẫn đó.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đề tài tập trung làm rõ sự phát triển của KTNT trong thời kỳ đẩy mạnh
CNH - HĐH (2000) đến nay. Đề xuất những giải pháp thúc đẩy tiến trình phát
triển KTNT đến năm 2020 khi nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp.
4. Mục đích nghiên cứu.
Trên cơ sở phân tích thực trạng KTNT dưới tác động của quá trình CNH HĐH để làm rõ những mặt tích cực và tiêu cực của tác động này trong điều
kiện nước ta. Đồng thời phân tích nguyên nhân của những mâu thuẫn phát
sinh, rút ra tính phổ biến của sự vận động của KTNT trong quá trình CNH HĐH, nhằm tạo cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc đề ra các chính sách, giải
pháp để khắc phục.
Đề xuất một số giải pháp chủ yếu có tính đột phá để thúc đẩy tiến trình
CNH - HĐH nông nghiệp - nông thôn. Đảm bảo cho KTNT phát triển mạnh
hơn và bền vững, đạt được các mục tiêu của CNH - HĐH mà Đảng đã đề ra.
5. Phương pháp nghiên cứu.


4

Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mac - Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các văn kiện từ Đại hội Đảng lần
thứ IV đến Đại hội Đảng lần thứ X. Đề tài cũng sử dụng một số luận điểm của
một số tác giả trong và ngoài nước được đăng trên các tạp chí, báo và công
trình khoa học đã công bố.
Số liệu sử dụng trong Đề tài chủ yếu sử dụng tài liệu đã công bố của Tổng
cục Thống kê, các báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các
Bộ, ngành có liên quan, báo cáo của các địa phương trong quá trình thực hiện
CNH - HĐH.
Về phương pháp nghiên cứu: Ngoài phương pháp phổ biến trong nghiên cứu
khoa học - xã hội, tác giả còn sử dụng một số phương pháp khác như: Khảo sát
thực tiễn ở một số địa phương; tổng hợp phân tích thống kê; hội thảo phục vụ cho
việc luận giải, chứng minh cho các nội dung mà tác giả đã nêu trong Đề tài.
6. Những đóng góp mới về khoa học.
Hệ thống hoá các tác động tích cực và hệ quả tiêu cực có tính phổ biến
của quá trình CNH - HĐH đối với nông nghiệp - nông thôn.
Phân tích các nguyên nhân dẫn đến những hệ quả tiêu cực trên. Qua đó đề
xuất hệ thống giải pháp chủ yếu để hạn chế tác động tiêu cực, thúc đẩy quá
trình CNH - HĐH nông nghiệp - nông thôn tăng tốc hơn nhưng vẫn đảm bảo
cho kinh tế nông thôn phát triển bền vững, đáp ứng được các mục tiêu của
CNH - HĐH trong bối cảnh hội nhập.
7. Kết cấu của luận văn bao gồm các phần chính sau
- Mở đầu
- Chương 1. Những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế nông
thôn Việt Nam trong quá trình CNH, HĐH.
- Chương 2. Thực trạng kinh tế nông thôn nước ta dưới tác động của quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá từ 2001 - 2007.
- Chương 3. Định hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế
nông thôn trong tiến trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
- Kết luận

- Danh mục tài liệu tham khảo.

CHƯƠNG 1


5

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ NÔNG THÔN VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH
CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG
THÔN VIỆT NAM.

1.1.1. Nông thôn và kinh tế nông thôn.
1.1.1.1. Nông thôn.
Theo định nghĩa trong từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học (2) và
Bách khoa Việt Nam: “nông thôn là phần lãnh thổ của một nước hay một đơn
vị hành chính nằm ngoài lãnh thổ đô thị, có môi trường tự nhiên, hoàn cảnh
kinh tế - xã hội, điều kiện sống khác biệt với đô thị và cư dân chủ yếu làm
nghề nông”. Hầu như ở tất cả các quốc gia đang phát triển hoặc chậm phát
triển, nông thôn có những đặc trưng cơ bản như sau:
+ Về địa lý tự nhiên: nông thôn là một địa bàn rộng lớn trải dài ra các
vành đai bao quanh các thành thị (thành phố, thị xã, thị trấn).
+ Về kinh tế: nông thôn là địa bàn hoạt động chủ yếu của các ngành sản
xuất vật chất nông, lâm, ngư nghiệp và các ngành sản xuất kinh doanh, dịch vụ
ngoài nông nghiệp nhưng có vai trò phục vụ chủ yếu cho nông, lâm, ngư
nghiệp hoạt động và phát triển.
+ Về tính chất xã hội: cơ cấu dân cư ở nông thôn chủ yếu là những người
nông dân và gia đình của họ, sống hoà thuận cần cù và chịu khó, có tinh thần
đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Mật độ dân cư ở nông thôn thấp hơn ở

đô thị (nhất là ở vùng núi, hẻo lánh). Nơi đây cũng 1à nơi sinh sống của những
cộng đồng dòng họ, có những tâm lý, tập quán chung của nông thôn, nhưng
cũng có những tập quán riêng biệt cho từng làng, xã.
+ Về kết cấu hạ tầng kinh tế như điện, giao thông vận tải, thông tin liên
lạc... còn ở trình độ thấp.
+ Về tỷ lệ dân số nông thôn: Phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế của
mỗi quốc gia. Những nước kinh tế phát triển thì dân số ở nông thôn có tỷ lệ
thấp hơn so với những nước kinh tế chậm phát triển và khi nền KT - XH càng
2

XuÊt b¶n n¨m 1994


6
phát triển thì dân số ở nông thôn càng thấp.
+ Về môi trường tự nhiên: Nông thôn là nơi lưu giữ và phát triển môi trường
sinh thái tự nhiên bao gồm các yếu tố đất, nước, không khí, hệ động thực vật.. sự
cân bằng các yếu tố này đảm bảo cho sự an toàn của con người, tránh tác động
xấu của thiên nhiên gây ra như: gió bão, sa mạc hoá, dịch bệnh…
Ở thành phố, các yếu tố trên bị thu hẹp và phá bỏ để xây dựng thì ngược
lại nông thôn phải là nơi lưu giữ chúng. Mức độ cân bằng cây xanh, không khí
trong lành, nước sạch, động thực vật phong phú thường được coi là tiêu chí
đánh giá trình độ văn minh của một nước. Nhiều quốc gia đã phải trả giá cho
sự hủy hoại môi trường sinh thái bởi đô thị hoá, công nghiệp hoá gây ra. Thực
tế cho thấy, hiện nay các quốc gia phát triển đang phải quay trở lại phát triển
rừng, bảo vệ nguồn nước, sản xuất nông nghiệp, hạn chế sản xuất các chế
phẩm hoá học và quản lý tốt việc sử dụng đất vào các mục đích phi nông
nghiệp. Họ đang dần biến nông thôn thành khu du lịch sinh thái, nơi nghỉ ngơi
cho người thành phố để con người trở nên gần gũi với thiên nhiên hơn.
+ Về văn hoá: Nông thôn là nơi gìn giữ bản sắc văn hoá truyền thống của

dân tộc và đặc trưng của mỗi vùng quê. ở những nước đang phát triển cũng
như ở nước ta, khó có thể thấy ở một nơi hẻo lánh nào đó của đất nước còn giữ
nguyên trạng các nét văn hoá cổ truyền. Hầu như mọi người dân đều biết sử
dụng các thành tựu kỹ thuật hiện đại cả trong sản xuất nông nghiệp lẫn trong
đời sống hàng ngày như giáo dục, y tế, giải trí, phương tiện đi lại, dụng cụ sinh
hoạt gia đình …Tuy nhiên, trang phục truyền thống, kiến trúc nơi ở và nơi sinh
hoạt cộng đồng, lễ hội, tập tục sống, quan niệm đạo đức, hệ thống thân tộc …
vẫn đang được tồn tại và duy trì. Nó như thước đo đánh giá sự phong phú của
trí tuệ dân tộc qua nhiều đời, là điểm phân biệt giữa các dân tộc, quốc gia.
Những yếu tố truyền thống đó thường được lưu giữ đậm nét ở các làng quê
hơn là ở đô thị.
Việc nghiên cứu khái niệm nông thôn với các đặc trưng của nó giúp
chúng ta đưa ra các chương trình, chính sách phát triển phù hợp. Nói đến phát
triển kinh tế nông thôn, không chỉ quan tâm tới khía cạnh kỹ thuật, kinh tế và
hiệu quả kinh tế mà phải quan tâm tới các vấn đề có quan hệ hữu cơ tới phát
triển kinh tế nông thôn đó là hạ tầng kinh tế xã hội, quan hệ sản xuất, văn hoá,


7
bảo vệ môi trường, nhân lực nông thôn. Việc nghiên cứu vấn đề này càng có ý
nghĩa quan trọng khi mà Đảng, Nhà nước ta đang xây dựng chiến lược đẩy
nhanh việc phát triển nông nghiệp, nông thôn.
1.1.1.2. Kinh tế nông thôn.
Theo giáo trình kinh tế chính trị: “Kinh tế nông thôn là một phức hợp
những nhân tố cấu thành của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong
nông - lâm - ngư nghiệp, cùng với các ngành thủ công truyền thống, các ngành
tiểu - thủ công nghiệp, công nghiệp chế biến và phục vụ nông nghiệp, các
ngành thương nghiệp và dịch vụ... tất cả có quan hệ hữu cơ với nhau trong
kinh tế vùng và lãnh thổ và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân".
Theo khái niệm trên, nội dung kinh tế nông thôn rộng hơn kinh tế nông

nghiệp. Kinh tế nông thôn là một bộ phận của nền kinh tế.
1.1.1.3. Cơ cấu kinh tế nông thôn.
Kinh tế nông thôn là một bộ phận của nền KT - XH, cũng có đầy đủ
những yếu tố của nền kinh tế. Những yếu tố này có vai trò, vị trí, tỷ trọng
không ngang bằng nhau, nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau hợp thành kinh tế
nông thôn. Trong cơ cấu kinh tế nông thôn bao gồm cơ cấu ngành, cơ cấu
thành phần kinh tế và cơ cấu vùng, lãnh thổ.
+ Về cơ cấu ngành kinh tế.
Kinh tế nông thôn trước hết có nông nghiệp (theo nghĩa rộng hiện nay bao
gồm trồng trọt và chăn nuôi, lâm nghiệp và ngư nghiệp), đây là ngành kinh tế
cơ bản trong nông thôn, có nhiệm vụ bảo đảm nhu cầu về lương thực, thực
phẩm cho xã hội, nguyên liệu cho công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế
biến, sản xuất ra các sản phẩm hàng hoá phục vụ cho tiêu dùng sinh hoạt nâng
cao đời sống xã hội và xuất khẩu.
Ngoài nông nghiệp, kinh tế nông thôn có ngành công nghiệp như: công
nghiệp chế biến, công nghiệp cơ khí sửa chữa máy móc nông nghiệp, thuỷ lợi;
sản xuất các loại nguyên vật liệu phục vụ cho kinh tế nông thôn như sắt, thép,
xi măng, gạch ngói... Công nghiệp nông thôn còn bao gồm một bộ phận tiểu
thủ công nghiệp với nhiều trình độ công nghệ khác nhau, sản xuất hàng hoá
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước mà trước hết là thị trường nông thôn và


8
tham gia xuất khẩu như mộc, đúc, chạm khảm, sơn mài, thêu, làm giấy... Kinh
tế nông thôn còn bao gồm ngành dịch vụ như: thương nghiệp, tín dụng, khoa
học và công nghệ, tư vấn... Đó 1à những bộ phận hợp thành của kinh tế nông
thôn. Sự phát triển mạnh mẽ, cân đối, hợp lý của các bộ phận đó là biểu hiện
trình độ phát triển của kinh tế nông thôn và trình độ phát triển của phân công
lao động xã hội khu vực nông thôn.
Mỗi bộ phận kinh tế ngành có sự độc lập tương đối, song nó cũng có mối

quan hệ chặt chẽ với các bộ phận khác, thúc đẩy hoặc kìm hãm nhau trong quá
trình phát triển kinh tế. Chẳng hạn như trồng trọt phát triển sẽ thúc đẩy chăn
nuôi và ngược lại; hoặc thâm canh, đa canh sẽ thúc đẩy hình thành những vùng
kinh tế tập trung nuôi trồng những loại cây con có giá trị kinh tế; Ngành nghề
ở nông thôn phát triển sẽ tạo điều kiện phân bố lại lao động ở nông thôn, thúc
đẩy chuyên mô hoá chăn nuôi, trồng trọt...
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn tích cực phải thể hiện ở tỷ lệ
nông nghiệp giảm đi nhưng giá trị tuyệt đối tăng lên và tỷ trọng công nghiệp,
dịch vụ trong cơ cấu kinh tế phải tăng lên.
+ Về cơ cấu thành phần kinh tế.
Cơ cấu kinh tế nông thôn nước ta hiện nay là cơ cấu nhiều thành phần.
Các thành phần kinh tế tồn tại trong kinh tế nông thôn cũng là các thành phần
kinh tế tồn tại trong nền kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, có những đặc điểm riêng:
- Kinh tế Nhà nước trong kinh tế nông thôn được tổ chức dưới các hình
thức nông trường quốc doanh, các trạm, trại kỹ thuật nông nghiệp. Kinh tế Nhà
nước trong kinh tế nông thôn được mở rộng ra toàn bộ các ngành nghề cơ bản
như nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp, tín dụng, ngân hàng, dịch vụ.
Nhiều cơ sở của kinh tế Nhà nước trong kinh tế nông thôn chỉ là một bộ phận
đại diện của kinh tế Nhà nước chung như chi nhánh ngân hàng, các trạm, trại
nông nghiệp... nhưng lại gắn bó chặt chẽ với kinh tế nông thôn từng vùng, từng
địa phương như là bộ phận cấu thành bên trong của nó.
- Kinh tế tập thể (tổ hợp tác và HTX) trong kinh tế nông thôn có ở nhiều


9
ngành, nhiều lĩnh vực kinh tế như nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp,
tín dụng, tiểu thủ công nghiệp... Các hình thức kinh tế hợp tác được phát triển
từ thấp đến cao tuỳ thuộc vào trình độ sản xuất hàng hoá của người nông dân
theo từng vùng.
- Kinh tế cá thể, tiểu chủ trong kinh tế nông thôn còn ở nhiều ngành nghề

như nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ...
trong nông thôn, được biểu hiện cụ thể ở các mô hình kinh tế hộ gia đình, tiểu
thủ công nghiệp, ngành nghề truyền thống, trang trại nông nghiệp, kinh tế tiểu
chủ trong công nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ... Tỷ trọng của kinh tế cá thể,
tiểu chủ trong nông thôn nước ta hiện nay còn tương đối lớn.
Kinh tế nông thôn có thành phần kinh tế tư bản tư nhân, tư bản nhà nước
và vốn 100% nước ngoài là một tất yếu khách quan khi thực hiện phát triển
kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá và đưa kinh tế nông thôn từ
sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn. Tuy nhiên, do nhiều điều kiện khách quan và
chủ quan mà thành phần kinh tế này chậm phát triển ở nông thôn, nhất là trong
lĩnh vực sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp.
Các thành phần kinh tế tồn tại trong kinh tế nông thôn đều có tính hai mặt
là tích cực và hạn chế song trong quá trình phát triển kinh tế nông thôn các
thành phần kinh tế đều có khả năng giải phóng sức lao động ở nông thôn, tạo
việc làm và nâng cao thu nhập cho dân cư nông thôn. Do đó, chúng ta phải đẩy
nhanh sự phát triển các thành phần kinh tế, tạo ra môi trường hợp tác và cạnh
tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế.
+ Về cơ cấu kinh tế vùng sinh thái và lãnh thổ.
Nước ta là một quốc gia có điều kiện địa lý, khí hậu tự nhiên đa dạng,
phong phú, trình độ dân trí và KT - XH giữa các vùng rất khác nhau. Mỗi vùng
có một đặc điểm thế mạnh riêng. Chính vì vậy nó đã tạo ra sự đa dạng phong
phú về cơ cấu kinh tế nông thôn mỗi vùng mang một sắc thái riêng. Vùng đồng
bằng có thế mạnh về trồng trọt cây lương thực, rau quả, chăn nuôi gia cầm, gia
súc, phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp nông thôn, đặc
biệt là công nghiệp chế biến. Vùng trung du, miền núi có thế mạnh về cây công
nghiệp, cây ăn quả, lâm nghiệp, chăn nuôi đại gia súc, chế biến hàng lâm sản;
vùng ven biển có thế mạnh đánh bắt, nuôi trồng chế biến thuỷ hải sản, diêm


10

nghiệp; vùng Tây nguyên có thế mạnh trồng cây công nghiệp, lâm nghiệp, chế
biến hàng lâm, thổ sản...
Tuy nhiên cùng với thế mạnh của từng vùng kinh tế thì mỗi vùng lại có khó
khăn nhất định, như vùng đồng bằng đất chật, người đông, lao động dư thừa
nhiều; Trung du, miền núi và Tây Nguyên khó khăn về đường giao thông, điện,
đặc biệt là thiếu nghiêm trọng về lực luợng lao động... Chính vì vậy các vùng
kinh tế phải có sự liên kết hỗ trợ lẫn nhau nhằm phát huy thế mạnh, khắc phục
những hạn chế, khó khăn riêng của từng vùng để phát triển kinh tế nông thôn cho
từng địa phương nói riêng và nông thôn cả nước nói chung.
Nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH từ một nền kinh tế chậm phát
triển, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, thiếu
thốn, tình trạng lao động ở nông thôn thiếu việc làm còn quá lớn, nên phát triển
kinh tế nông thôn là một đòi hỏi cấp thiết trong chiến lược phát triển KT - XH
của nước ta hiện nay. Để nhanh chóng chuyển kinh tế nông thôn cổ truyền,
mang nặng dấu ấn tự nhiên sang kinh tế hàng hoá thì một trong những yếu tố
quan trọng là phải có sự nhận thức đầy đủ về những vai trò, nội dung của kinh
tế nông thôn trong quá trình phát triển kinh tế hàng hoá nhằm xác định những
hiện pháp, bước đi cụ thể, phù hợp.
1.1.2. Vai trò của kinh tế nông thôn trong quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
Ở nước ta để đi lên sản xuất hàng hoá lớn, xuất phát từ một nước nông
nghiệp lạc hậu, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP còn lớn, 73% dân số làm nghề
nông, thu nhập thấp, thiếu việc làm còn nhiều... thì vai trò của kinh tế nông
thôn đối với quá trình phát triển đất nước là rất to lớn.
1.1.2.1. Phát triển kinh tế nông thôn trực tiếp tăng thu nhập cho dân cư
nông thôn sẽ ổn định xã hội và là sự đảm bảo quan trọng cho phát triển bền
vững của nền kinh tế trong quá trình tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Mặc dù trên thực tế, nước ta đã trải qua một thời gian dài thực hiện CNH
- HĐH (được đề cập trong các Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ V,VI,VII,
VIII, IX, X), nhưng cho đến nay ở nông thôn kinh tế nông nghiệp vẫn là cơ

bản và hết sức quan trọng. Nông nghiệp không chỉ là ngành sản xuất vật chất
chủ yếu của nền kinh tế quốc dân nói chung, mà còn là cơ sở, điều kiện chuyển


11
nền kinh tế tự nhiên sang nền kinh tế hàng hoá. Nói đến vai trò của kinh tế
nông thôn, trước hết cần chú trọng tới vai trò kinh tế nông nghiệp.
Sự phát triển kinh tế trông nghiệp trong những năm gần đây đã cho thấy
tỷ trọng nông nghiệp đang giảm tương đối trong GDP từ 25,4% năm 2000
xuống còn 22,5% năm 2003 và 20,3% năm 2006. Trong khi đó giá trị tuyệt đối
lại tăng lên trong thời gian tương ứng. Sự đóng góp của nông nghiệp cho nền
kinh tế quốc dân được thể hiện ở biểu 1.1.
Biểu 1.1. Cơ cấu tổng sản phẩm trong nước của nền kinh tế quốc dân
Chỉ tiêu
1. Tổng số (giá hiện hành)
- Nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản.
- Công nghiệp (gồm cả xây dựng cơ bản)
- Dịch vụ
2. Giá trị sản xuất nông nghiệp
(giá so sánh 1994)

ĐVT
%
%
%
%
1000
tỷ đồng

1999

100
25,4
34,5
40,1

2003
100
22,5
39,5
38

2006
100
20,3
41,6
38,1

112,1

127,7

142

Nguồn: Niên giám Thống kê/ 2006.

Như vậy, xét trên phạm vi từ quốc gia đến ngành kinh tế cụ thể, nông
nghiệp hiện nay vẫn là ngành kinh tế có vị trí, vai trò quan trọng trong nền kinh
tế quốc dân: tạo ra phần lớn tổng sản phẩm xã hội (có nơi gần như toàn bộ thu
nhập chỉ dựa vào nông nghiệp). Điều đó được biểu hiện trên thực tiễn, trong
những năm qua mọi biến cố của nông nghiệp đều tác động trực tiếp đến đời

sống sinh hoạt và tự phát triển KT - XH không những ở nông thôn, mà còn ảnh
hưởng trên phạm vi quốc gia. Năm 1988 về trước, nông nghiệp chưa phát triển,
năng suất thấp, chỉ phục vụ cho tiêu dùng trong nước, do vậy đời sống nhân dân
thiếu thốn, đói nghèo còn nhiều, nền KT - XH bị trì trệ, thậm chí rơi vào khủng
hoảng. Từ năm l989 trở lại đây, nông nghiệp phát triển mạnh, năng suất cao, đã
tạo khả năng cho đời sống KT - XH dần dần được ổn định, xuất khẩu lương thực
ngày càng tăng lên, đất nước đã thoát khỏi khủng hoảng và từng bước phát triển.
Mặc dù đó cũng chỉ là một trong nhiều nguyên nhân góp vào sự phát triển đó
nhưng đã nói lên vai trò ổn định xã hội, tạo “nền” rất to lớn của kinh tế nông
nghiệp, nông thôn nước ta đối với sự phát triển của đất nước.


12
1.1.2.2. Phát triển kinh tế nông thôn sẽ thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu
kinh tế theo hướng tiến bộ, thực hiện được quá trình phân công lao động xã
hội tại chỗ.
Với một nền kinh tế nặng về tự cấp, tự túc thì thường kinh tế nông thôn bị
“trói buộc” hẹp trong 2 lĩnh vực truyền thống là trồng trọt và chăn nuôi. Thực tiễn
phát triển kinh tế nông thôn trong những năm thực hiện đổi mới ở nước ta đã
chứng minh một điều: chỉ khi nông nghiệp đảm bảo được lương thực, thực phẩm
mới có điều kiện để phát triển các ngành nghề khác và đặc biệt là phát triển công
nghiệp nông thôn, thực hiện phân công và phân công lại lao động trong nông
nghiệp, giải quyết việc làm tại chỗ cho số lao động dư thừa trong nông thôn, giảm
sức ép của sự chênh lệch kinh tế và đời sống giữa thành thị với nông thôn, giữa
vùng phát triển với vùng kém phát triển, các làng nghề truyền thống, ngành nghề
tiểu thủ công nghiệp mới được khôi phục, mở rộng và phát triển. Có thể thấy rõ
điều đó ở Từ Sơn, Yên Phong (Bắc Ninh); Dương Liễu (Hà Tây); Đa Tốn, Bát
Tràng (Gia Lâm); Thủ Đức (Thành phố Hồ Chí Minh); An Nhơn (Bình Định);
Mễ Sở (Hưng Yên)... ở những nơi này, tỷ trọng lao động trong nông nghiệp đã
giảm, lao động phi nông nghiệp đã tăng lên rõ rệt.

Như vậy, khi kinh tế nông nghiệp đã bảo đảm được về lương thực, thực phẩm
thì trở thành điều kiện để chuyển kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá đa
dạng (có công nghiệp, dịch vụ) đáp ứng yêu cầu của thị trường. Quá trình đó như là
qui luật phát triển nền KT - XH ở các nước xuất phát từ nông nghiệp như nước ta.
Bởi lẽ, kinh tế nông nghiệp dù có phát triển đến đâu đi chăng nữa cũng không phải là
ngành kinh tế đặc trưng của một nền KT - XH phát triển cao.
1.1.2.3. Phát triển kinh tế nông thôn sẽ tạo cơ sở vật chất cho phát triển
văn hoá ở nông thôn, xây dựng nông thôn mới.
Trong quá trình phát triển của nền KT - XH, hai lĩnh vực kinh tế và văn
hoá có mối quan hệ biện chứng tác động thúc đẩy lẫn nhau, trong đó kinh tế
giữ vai trò quyết định, văn hoá có vị trí quan trọng và tác động trở lại đối với
quá trình phát triển kinh tế theo hai chiều: thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển
của nền kinh tế.
Theo số liệu thống kê, khi bước vào thời kỳ đổi mới, tỷ lệ đói nghèo ở
nước ta còn cao, trong đó số hộ đói nghèo ở nông thôn chiếm phần lớn, đặc


13
biệt là ở vùng núi tỷ lệ nghèo đói rất cao (vùng núi thấp từ 25 đến 30%, ở vùng
núi cao có từ 40 đến 50%). Do đời sống kinh tế khó khăn, nên văn hoá, tinh
thần cũng còn nhiều thiếu thốn. Vùng núi, Tây Nguyên, vùng xa hẻo lánh
không có điện, ti vi, phim ảnh, sách báo.... nên họ bị mù chữ, lại bị mù cả văn
hoá, tinh thần. Và hơn nữa, do kinh tế kém phát triển đã dẫn đến các loại bệnh
tật, tệ nạn xã hội có xu hướng gia tăng như tệ nạn cúng bái, mê tín dị đoan, cờ
bạc, sinh đẻ không kế hoạch, hội hè kéo dài... và chính những vấn đề này lại
trở thành những yếu tố kìm hãm quá trình phát triển kinh tế ở các vùng này.
Những thành tựu KT - XH trong những năm qua đã chứng tỏ rằng, ở địa
phương nào, vùng nào kinh tế nông thôn và các ngành khác, nhất là ngành
nghề truyền thống được phát triển và giải quyết tốt việc làm, thu nhập thì ở đó
nhà truyền thống, nhà văn hoá, thư viện, bưu điện, trường học... sẽ được quan

tâm phát triển và người dân được tiếp cận nhiều hơn với nền văn hoá hiện đại,
văn minh; những hủ tục lạc hậu, tệ nạn, tập quán xấu sẽ được khắc phục và
xuất hiện nhiều phong trào thể hiện bản chất tốt đẹp của nền văn hoá xã hội
mới, văn minh, lành mạnh như phong trào đền ơn đáp nghĩa, phong trào uống
nước nhớ nguồn, phong trào "lá lành đùm lá rách”... đồng thời người dân quan
tâm tôn tạo đình, chùa, khôi phục lễ hội truyền thống, sửa sang nơi thờ cúng
người có công với nước và các danh nhân văn hoá; tu tạo nhà thờ họ, chăm lo
việc học hành… giáo dục lòng nhân ái, bồi dưỡng đạo đức và lối sống với
truyền thống tốt đẹp của dân tộc... những yếu tố đó lại thúc đẩy phát triển kinh
tế, người dân thi đua làm giàu, xoá đói giảm nghèo đạt kết quả tốt.
Như vậy, kinh tế nông thôn phát triển đã quyết định đến phát triển văn
hoá ở nông thôn. Đồng thời khi đời sống văn hoá tinh thần của người lao động
được bảo đảm đã trở thành động lực mạnh mẽ tác động trở lại đối với quá trình
phát triển kinh tế nông thôn nói riêng, KT - XH nói chung. Mối quan hệ đó đã
được Nghị Quyết Trung ương 5 (khoá VIII) Đảng ta đã nhấn mạnh: Văn hoá là
nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát
triển KT- XH. Các nhân tố văn hoá phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt
động xã hội trên mọi phương diện: Chính trị, kinh tế, xã hội, pháp luật… biến
thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển.
1.1.2.4. Phát triển kinh tế nông thôn tạo tích luỹ và nh?ng điều kiện


14
cần thiết cho CNH, HĐH đất nước.
ở một nước có xuất phát điểm thấp như nước ta (đại bộ phận cư dân làm
nông nghiệp, thu nhập thấp, tích luỹ của cư dân còn ít) thì để tạo nguồn lực ban
đầu cho CNH - HĐH không có con đường nào khác là phải tích luỹ từ nông
nghiệp và kinh tế nông thôn, bởi vì:
Thứ nhất, KTNT phát triển sẽ tăng thu nhập cho cư dân nông thôn, từ đó
mới có điều kiện tăng nguồn tích luỹ trong dân cư để đầu tư phát triển các hoạt

động công nghiệp nông thôn.
Thứ hai, Thu nhập nông dân tăng với lượng dân cư đông đảo sẽ dẫn tới
CầU tăng nhanh, mở ra thị trường tiêu thụ sản phẩm của công nghiệp, qua đó
sẽ tích luỹ cho công nghiệp.
Thứ ba, đó là nguồn cung cấp các nguyên liệu cho công nghiệp nông
thôn, nhất là công nghiệp chế biến nông sản.
Thứ tư, đó cũng là khu vực tạo ra sản phẩm xuất khẩu để tích luỹ cho nền
kinh tế, tạo nguồn lực đầu tư cho phát triển công nghiệp, dịch vụ....
Về vấn đề này, thực tế quá trình phát triển nền KT - XH nước ta đã
chứng minh. Trước Đại hội Đảng lần thứ VI, kinh tế nông thôn chậm phát
triển và bó hẹp trong sản xuất lương thực, thực phẩm, số lao động không có
việc làm tăng lên, đời sống nhân dân lao động, khó khăn ngày càng nhiều,
thị trường cung ứng và tiêu thụ sản phẩm công nghiệp ngày một thu hẹp,
công nghiệp không có cơ hội phát triển... nhưng từ khi thực hiện "đổi mới"
đến nay người dân đã chuyển mạnh sang làm các nghề tiểu thủ công nghiệp,
sản xuất nông nghiệp chuyên canh. Theo số liệu thống kê, riêng các làng
nghề, các trang trại ở nước ta hiện nay đã giải quyết việc làm thường xuyên
cho hàng triệu lao động, hàng năm kinh tế nông thôn đã tạo ra một khoản
ngoại tệ không nhỏ thông qua xuất khẩu nông sản hàng hoá như gạo, cà phê,
cao su, hồ tiêu, hoa quả tươi, rau xanh, thịt, cá, tôm... (năm 2007 là 12,5
triệu USD) đóng góp không nhỏ cho CNH, HĐH.
Như vậy, phát triển kinh tế nông thôn sẽ trực tiếp nâng cao thu nhập cho
bộ phận đông đảo dân cư nước ta. Phát triển kinh tế nông thôn chính là việc
chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiệu quả - từ đó thúc đẩy quá trình phân
công và phân công lại lao động nông thôn, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập


15
và tích luỹ cho CNH, HĐH, tạo ra những điều kiện vật chất xây dựng một nền
văn hoá mới, con người mới XHCN. Xây dựng nông thôn mới có kinh tế, văn

hoá phát triển, đời sống đầy đủ về vật chất, thoả mãn về tinh thần sẽ trở thành
nhân tố quyết định sự vững chắc của chế độ chính trị.
Vì lẽ đó, phát triển kinh tế nông thôn ở nước ta hiện nay là chiến lược tất
yếu để đảm bảo cho sự thành công của CNH - HĐH đất nước không chỉ trong
trước mắt mà còn có tính chất lâu dài.
1.2. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG CHỦ YẾU VÀ NHỮNG NỘI
DUNG CƠ BẢN PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG THÔN Ở VIỆT NAM THEO
HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ.

1.2.1. Những nhân tố ảnh hưởng chủ yếu đến phát triển kinh tế nông
thôn nước ta.
1.2.1.1. Điều kiện tự nhiên.
Theo kiến tạo địa hình, nước ta có thể chia thành 3 vùng lớn: Miền núi và
Trung du; đồng bằng; ven biển và hải đảo. Mỗi vùng có điều kiện tự nhiên
(địa hình, thổ nhưỡng, tiểu khí hậu…) khác nhau - điều đó đã quyết định không nhỏ
tới khả năng phát triển kinh tế nói chung và kinh tế nông thôn mỗi vùng nói riêng.
Miền núi và Trung du có lợi thế đất rộng, khí hậu đa dạng … có thế mạnh về
phát triển kinh tế rừng, các vùng chuyên canh cây công nghiệp, cây ăn quả, phát
triển chăn nuôi đại gia súc, các nghề thủ công truyền thống… nhưng bất lợi là hạ
tầng kém phát triển, trình độ dân trí thấp, dân cư phân bố thưa…
Trái lại, vùng đồng bằng tuy đất hẹp nhưng có lợi thế là hạ tầng phát
triển, lao động có trình độ cao, tương đối dồi dào nên thuận lợi cho thâm canh
các loại cây có trình độ canh tác cao như: rau, hoa, lúa gạo, nuôi thuỷ sản và
phát triển các loại nghề công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp.
Vấn đề của các nhà hoạch định chính sách là phải xác định đúng lợi thế
của mỗi vùng để bố trí sản xuất phù hợp và tạo các điều kiện để khai thác hiệu
quả tiềm năng lao động, đất đai, khí hậu…
1.2.1.2. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội.
Lịch sử phát triển kinh tế hàng hoá đã chứng minh rằng hạ tầng kinh tế- xã
hội đóng vai trò đặc biệt quan trọng (nếu không nói là quyết định) đến sự phát

triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Nó đóng vai trò to lớn trong việc tạo sự


16
liên kết giữa nông thôn với thành thị, giữa các vùng xa xôi với các trung tâm, tạo
cơ hội cho phát triển các vùng khó khăn và điều kiện để khai thác được nguồn lực
từ các vùng sâu, vùng xa, nó tác động đến sự phát triển đồng đều trong cả nước và
làm giảm bớt sự cách biệt giữa đô thị và nông thôn. Vì vậy, tốc độ phát triển kết
cấu hạ tầng được coi là tiêu chí đánh giá sự phát triển của một quốc gia.
Hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn có nhiều loại nhưng quan trọng nhất là
giao thông, điện, thuỷ lợi, thông tin liên lạc, trạm y tế, trường học… ở các
nước thành công trong CNH nông thôn đều đã tập trung đầu tư hạ tầng trước
để làm môi trường hấp dẫn cho lôi kéo đầu tư về nông thôn.
Trung quốc đã tổng kết: “đường to thì phát triển lớn”. Thực tế ở nước ta
đã chứng minh: Nơi khó khăn đều là nơi yếu kém về cơ sở hạ tầng nhất là giao
thông và ngược lại giao thông đi đến đâu thì phát triển kinh tế - xã hội đến đó,
điện đi đến đâu văn minh đến đó. Hạ tầng kinh tế - xã hôi nước ta trong giai
đoạn vừa qua tuy đã được quan tâm đầu tư nhưng chất lượng còn thấp và thiếu,
đặc biệt là vùng ĐBSCL và miền núi. Nói chung hạ tầng kinh tế - xã hội ở
nước ta chưa đáp ứng được yêu cầu về CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn.
1.2.1.3. Việc ứng dụng thành tựu của khoa học - công nghệ vào sản
xuất và dịch vụ.
Bài học của các nước phát triển đã cho thấy họ đều thành công trong việc
đầu tư mạnh để tiếp thu và ứng dụng thành tựu mới nhất của khoa học, công
nghệ. Ngày nay họ có điều kiện để ra sức sử dụng các thành quả trí thức, thông
tin, công nghệ mới để tiÕp tục củng cố vị thế của mình, lũng đoạn kinh tế và áp
đặt trật tự cho kinh tế thế giới.
Do đó với điều kiện chậm phát triển như nước ta, muốn không bị tụt hậu,
không có cách nào khác là phải ra sức tiếp thu ứng dụng khoa học công nghệ vào
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội trong đó có kinh tế nông thôn. Chuyển

dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng CNH - HĐH là một cuộc
cách mạng, trong đó khoa học công nghệ giữ vai trò chủ yếu. Nhiệm vụ hàng đầu
đặt ra là phải tận dụng được lao động, đất đai để phát triển sản xuất, nhưng nếu
không có tri thức mới, không đổi mới công nghệ và cách tổ chức sản xuất kinh
doanh thì lao động và đất đai cũng sẽ không được khai thác và sử dụng tốt kéo
theo hình thức sản xuất và đời sống nông dân sẽ không nâng lên được.


17
Nước ta lại có bình quân đất nông nghiệp trên đầu người ở mức thấp
nhất thế giới (0,13 ha/người) như vậy chỉ có cách tốt nhất để nâng cao thu
nhập cho nông dân bằng cách tăng giá trị sản xuất/ha. Trong điều kiện năng
suất lao động, năng suất đất đai, năng suất sinh học trong nông nghiệp của ta
đều còn thấp thì việc ứng dụng khoa học, công nghệ cần tập trung vào một số
vấn đề như: áp dụng công nghệ sinh học để tạo giống tốt; đưa nhanh công nghệ
mới vào tất cả các khâu sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến, vận chuyển và
tiêu thụ nông phẩm; ứng dụng công nghệ sạch trong nuôi trồng và chế biến rau
quả thực phẩm; xây dựng các khu nông nghiệp công nghệ cao dựa vào công
nghệ sinh học, công nghệ thông tin, để tạo ra những hình mẫu thúc đẩy ứng
dụng tiến bộ kỹ thuật cao vào sản xuất nông nghiệp.
Cùng với việc tập trung cao cho ứng dụng khoa học công nghệ vào sản
xuất nông nghiệp và chế biến nông sản, cần phải đầu tư ứng dụng khoa học
công nghệ vào các ngành nghề công nghiệp, thủ công nghiệp nông thôn trước
hết là các làng nghề truyền thống. Thực tế cho thấy nhiều làng nghề bị suy yếu,
mai một chính là do không đứng vững trước sự cạnh tranh của công nghệ mới.
Những làng nghề phát triển được là do biết đầu tư, tiếp thu, ứng dụng công
nghệ mới vào sản xuất. Làng gốm Bát Tràng (Hà Nội) là một trong những hình
mẫu thành công từ việc chuyển sử dụng than sang khí đốt nên chất lượng sản
phẩm được nâng cao, giảm thiểu được ô nhiễm môi trường và sản lượng đã
tăng lên nhiều lần. Ngoài ra, các hộ làm gốm ở Bát Tràng cũng sớm sử dụng

Internet để tiếp thị với thị trường thế giới và trong nước nên làng nghề ngày
càng phát triển, mỗi ngày thu hút hàng ngàn lao động từ nơi khác về làm thuê
mà vẫn chưa đáp ứng đủ yêu cầu.
1.2.2.4. ChÊt lîng nguån nh©n lùc n«ng th«n.
Quá trình đẩy mạnh CNH - HĐH, chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ tạo ra
nhiều cơ hội có việc làm cho người lao động nhưng đồng thời cũng đòi hỏi một
lực lượng lao động có trình độ kỹ thuật và tay nghề cao. Ngược lại khi có đông
đảo lực lượng lao động trình độ cao sẽ thúc đẩy mạnh hơn quá trình và hiệu
quả CHH - HĐH. Đã có kết quả nghiên cứu trong nông nghiệp ở nước ta
chứng minh rằng: Năng suất tăng 7% khi nhóm hộ sản xuất có trình độ học vấn
dưới phổ thông trung học; Nhưng tăng 11% đối với nhóm có trình độ tốt


18
nghiệp phổ thông trung học. Có thể thấy ảnh hưởng của trình độ lao động với
hiệu quả sản xuất ở các vùng qua biểu 1.2.
Biểu 1.2. Ảnh hưởng của chất lượng lao động đến NS đất đai các vùng
Giá trị SX nông
Tỷ lệ LĐ đã qua
nghiệp 2006/ha
TT
KHU VỰC
đào tạo/2006
canh tác
(%)
(Triệu đồng/ha)
1 Đồng bằng sông Hồng
12,80
38,90
2 Đông Nam Bộ

11,24
36,00
3 Bắc Trung Bộ
9,67
26,40
4 Duyên hải Nam Trung Bộ
9,16
23,50
5 Đồng bằng Sông Cửu Long
7,50
27,10
6 Tây Nguyên
5,77
25,10
7 Tây Bắc
2,76
10,90
Nguồn: Kinh tế tri thức và phát triển/Báo NNVN/2006
Khoảng cách về trí thức và thông tin giữa nông thôn và thành thị ở các
nước đang phát triển và chậm phát triển như nước ta thường rất lớn. Đó là
nguyên nhân của sự cách biệt về phát triển giữa thành thị và nông thôn. Do đó
để thúc đẩy phát triển nông thôn nói chung và kinh tế nông thôn nói riêng thì
yếu tố hàng đầu là phải có chiến lược phát triển tri thức và sử dụng tri thức cho
phát triển. Nhân tố quan trọng trong hàng đầu để thực hiện chiến lược là phát
triển con người, phát triển việc giáo dục đào tạo, nâng cao năng lực khoa học và
công nghệ, không chỉ cho lao động nông nghiệp mà còn chuẩn bị cho lực lượng
lao động trẻ, khoẻ cung cấp cho các ngành công nghiệp, dịch vụ khác.
1.2.2.5. Sự phát triển các chủ thể sản xuất hàng hoá ở nông thôn
Thực hiện phát triển kinh tế nông thôn trong quá trình hình thành nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN tất yếu xuất hiện những chủ thể sản xuất hàng

hoá. Đó là: Hộ Nông dân, trang trại, tổ hợp tác, HTX, doanh nghiệp nông thôn.
Các chủ thể sản xuất đó là cơ sở, tiền đề mang tính khách quan đảm bảo cho
kinh tế hàng hoá nông thôn ra đời, phát triển. Nói cách khác, thiếu những chủ
thể đó tất không thể xây dựng, phát triển kinh tế hàng hoá ở nông thôn được.
+ Về hộ nông dân.
Lịch sử của quá trình hình thành, phát triển sản xuất hàng hoá đã chứng
minh, bước khởi đầu của sự phát triển sản xuất hàng hoá được xuất phát từ


19
kinh tế hộ nông dân.
Thực tiễn phát triển kinh tế hàng hoá nông thôn trên thế giới đã chứng
minh vai trò to lớn, không thể thiếu được của kinh tế hộ nông dân - nông trại
gia đình. Trong các nước khối thị trường chung châu Âu, từ giữa thế kỷ XIX
đến nay trong nông nghiệp tồn tại hình thức nông trại gia đình là phổ biến, đại
đa số các nông trại có qui mô vừa và nhỏ. Thí dụ, ở Pháp năm 1996 đã có
khoảng 2,5 triệu nông trại; ở Hà Lan toàn bộ nền sản xuất nông nghiệp được tổ
chức theo nông trại gia đình; ở châu Mỹ, nông trại gia đình là lực lượng chủ
yếu cung cấp nông sản cho xã hội. Các nước ở Châu Á như Malaysia,
Philippin, ThaiLand... cho rằng “mô hình hộ" là đơn vị kinh tế cơ sở dễ dàng
"xoay xở" để tìm kiếm phương thức khai thác các nguồn lực để tái sản xuất
trong những điều kiện của nền kinh tế lâm vào tình trạng khó khăn.
Đối với nước ta, việc thừa nhận hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, cùng
với các Chính sách đổi mới của Đảng, Nhà nước về ruộng đất, tín dụng, giá cả...
đã thực sự giải phóng người nông dân, giải phóng sức sản xuất ở nông thôn, tạo ra
động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn phát triển.
Vai trò của kinh tế hộ đã thể hiện rõ lợi thế ở các mặt sau:
Một là, ở trình độ sản xuất nông nghiệp còn chưa cao như nước ta thì tổ
chức sản xuất theo qui mô hộ gia đình trước mắt và lâu dài thích hợp với quá
trình sản xuất nông nghiệp. Bởi lẽ, quá trình nông nghiệp chia thành các giai

đoạn chủ yếu như sản xuất, thu hoạch, bảo quản, lưu thông. Đặc tính sinh học
đã chi phối toàn bộ các giai đoạn đó. Quá trình sinh trưởng, chuyển hoá của
cây trồng, vật nuôi chịu ảnh hưởng của quy luật tự nhiên và điều kiện môi
trường, thời tiết, khí hậu. Quá trình này đòi hỏi người chủ của nó phải thực sự
quan tâm, với ý thức làm chủ cao. Trong nông nghiệp, người nông dân không
thể làm công đơn thuần với số giờ trong ngày nhất định, mà phải có sự gắn bó
máu thịt với các tư liệu sản xuất ruộng đất, cây trồng, vật nuôi.
Hai là, trong điều kiện sản xuất hiện nay và trong một số năm tới, kinh tế
hộ gia đình là mô hình khá thuận lợi cho việc áp dụng những thành tựu khoa học
- kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất. Với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất còn hạn chế thì quá trình chuyển giao công nghệ do hộ gia đình thực
hiện sẽ diễn ra nhanh, gọn, có hiệu quả, đảm bảo một cách chặt chẽ giữa kỹ


20
thuật, công nghệ thủ công với kỹ thuật, công nghệ hiện đại; giữa sản xuất với
tiêu dùng của xã hội, nhằm tạo ra số lượng sản phẩm ngày càng nhiều, chủng
loại ngày càng phong phú, đa dạng, chất lượng ngày càng tăng lên.
+ Về kinh tế trang trại gia đình:
Kinh tế trang trại được hình thành và phát triển từ cơ sở kinh tế hộ gia
đình trong quá trình phát triển kinh tế hàng hoá nông thôn là tất yếu. Trong nền
kinh tế hàng hoá, các hộ nông dân nhằm mục đích thu lãi cao nhất, họ đã bằng
mọi cách đáp ứng nhu cầu thị trường. Do sự tác động của các quy luật kinh tế
khách quan, tất yếu dẫn đến xu hướng: Những hộ nông dân có năng lực tổ
chức sản xuất, có kinh nghiệm, vốn, đất đai, có trình độ khoa học, công nghệ...
từng bước phát triển qui mô sản xuất và hình thành kinh tế trang trại. Kinh tế
trang trại ra đời từ cơ sở các hộ nông dân sau khi phá vỡ cái "vỏ bọc" sản xuất
tự cấp, tự túc, khép kín, vươn lên sản xuất hàng hoá, tiếp cận thị trường, từng
bước thích nghi với môi trường cạnh tranh.
Kinh tế trang trại khác với kinh tế tiểu nông tự cấp, tự túc. Các Mác đã

từng đề cập đến vấn đề này: Người chủ trại bán ra thị trường đại bộ phận sản
phẩm làm ra, còn người tiểu nông thì tiêu dùng đại bộ sản phẩm làm ra, mua
bán càng ít càng tốt. Kinh tế trang trại ra đời đã thực sự tạo cơ sở, tiền đề cho
hộ nông dân bứt ra khỏi hoàn toàn quỹ đạo tiểu nông, tiến lên sản xuất nông
sản hàng hoá. Cụ thể:
- Phá bỏ kiểu sản xuất tự cấp, tự túc, khép kín của nền kinh tế tự nhiên,
thúc đẩy sự phát triển kinh tế hàng hoá theo hướng sản xuất lớn, hình thành các
vùng chuyên canh cung cấp nguyên liệu phong phú, đa dạng phục vụ cho quá
trình CNH, HĐH, đặc biệt là ngành công nghiệp chế biến nông sản.
- Cung ứng nông sản hàng hoá với số lượng lớn, nhiều chủng loại cho thị
trường, góp phần đáp ứng nhu cầu đa dạng về nông sản của thị trường.
- Kích thích cải tiến kỹ thuật, áp dụng kỹ thuật, công nghệ tiên tiến trong
sản xuất kinh doanh nông nghiệp, từ đó năng suất lao động tăng, giá thành hạ.
- Khai thác, phát huy được tiềm năng đất đai (khai hoang, phục hoá, thâm
canh, tăng vụ...), vốn nhàn dỗi và lao động dư thừa ở nông thôn, kích thích tích
tụ đất đai, thúc đẩy quá trình chuyên môn hoá lao động trong nông nghiệp.


21
- Trong thực tế phát triển và điều kiện hiện nay - có thể thấy kinh tế trang
trại là mô hình kinh tế thích hợp, là hình thức quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển lực lượng sản xuất ở nông nghiệp và nông thôn trong quá
trình xây dựng, phát triển kinh tế hàng hoá. Theo số liệu thống kê, ở nước ta
hiện nay kinh tế trang trại đang phát triển cả chiều rộng và chiều sâu. Tính đến
đầu năm 2006, cả nước đã có khoảng 13,7 nghìn trang trại, các trang trại hoạt
động có hiệu quả, tỷ trọng hàng hoá ngày càng nâng lên.
+ Các tổ chức kinh tế hợp tác
Kinh tế hộ là cơ sở, tiền đề phát triển kinh tế hàng hoá nông thôn, đó là
một tất yếu đã được lịch sử chứng minh. Song, không phải vì thế mà chúng ta
tuyệt đối hoá vai trò kinh tế hộ trong quá trình phát triển kinh tế hàng hoá

nông thôn. Ngoài ưu điểm lợi thế của kinh tế hộ nó còn có những giới hạn
nhất định ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế hàng hoá nông thôn. Quá
trình phát triển kinh tế hàng hoá nông thôn là quá trình phát triển các ngành
nghề, hình thành nhiều lĩnh vực đảm bảo cho quá trình phát triển sản xuất cho
nên có những lĩnh vực mà kinh tế hộ không đảm bảo được, hoặc có thực hiện
thì hiệu quả vẫn thấp như lĩnh vực lưu thông, dịch vụ kỹ thuật, tín dụng, chế
biến nông, lâm, thuỷ sản... Đồng thời quá trình phát triển kinh tế hàng hoá
buộc các hộ phải quan tâm đến năng suất lao động, cốt lõi là phải đổi mới
trang bị kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, đòi hỏi phải có lượng tiền vốn lớn, điều
đó đã vượt quá khả năng của từng hộ gia đình. Trong tình hình đó, các hộ gia
đình không còn cách nào khác là phải hợp tác với nhau mới có khả năng phát
triển nền kinh tế hàng hoá. Vậy là phát triển kinh tế hàng hoá nông thôn đã
đến lúc phải gắn liền với xây dựng và phát triển kinh tế hợp tác (bao gồm
trình đô thấp là tổ hợp tác, trình độ cao hơn là HTX không chỉ trong các lĩnh
vực sản xuất nông nghiệp mà còn cả ngành nghề, dịch vụ ở nông thôn). Đó là
xu hướng có tính quy luật từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn trong nông nghiệp,
nông thôn, là quá trình xã hội hoá sản xuất từ thấp đến cao ở nông thôn.
Theo đánh giá của Liên hợp quốc, Hợp tác xã là công cụ hữu hiệu để tạo
việc làm, nâng cao thu nhập, xoá đói giảm nghèo, nâng cao vị thế kinh tế - xã
hội của người nghèo và các nhóm yếu thế.


22
Ở nước ta hiện nay, kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX được coi là một
trong các thành phần kinh tế có vai trò quan trọng, cùng với kinh tế Nhà nước
ngày càng trở thành nền tảng nền kinh tế quốc dân. Và đó cũng là nền tảng
chính trị - xã hội của đất nước, nhằm đạt mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh".
+ Doanh nghiệp nông thôn
Là những doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hoạt động trên địa bàn nông

thôn, trực tiếp hoặc gián tiếp sản xuất nông sản, hàng hoá tiêu dùng khác, sử
dụng nguyên vật liệu từ nông thôn, dịch vụ cho kinh tế nông thôn, lao động
chủ yếu từ nông thôn.
Kinh nghiệm của các quốc gia thành công trong CNH - HĐH và thực tế
đổi mới ở nước ta đã khảng định những đóng góp quan trọng của doanh nghiệp
nông thôn là:
- Nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp thông qua chế biến, bảo quản…
- Đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, tăng nhanh việc làm
cho người lao động nông thôn vốn rất dư thừa, làm cho người lao động “ly
nông bất ly hương”, có việc làm và được cải thiện nâng cao đời sống ngay ở
quê hương mình.
- Nâng cao nhanh thu nhập cho một bộ phận lớn dân cư nông thôn và đó
là cơ hội thuận lợi tăng sức mua để tiêu thụ ngay sản phẩm của chính công
nghiệp - dịch vụ.
- Không chỉ đóng góp hữu hiệu vào xoá đói, giảm nghèo ở các địa
phương mà còn đóng góp quan trọng vào tăng GDP, là nguồn xuất khẩu thu
ngoại tệ chô đât nước…
Vì vậy một trong những yếu tố có tính chất quyết định hiện nay đối với
phát triển kinh tế nông thôn là phải có chính sách lôi kéo mạnh doanh nghiệp
đầu tư vào nông nghiệp - nông thôn coi đó như “đột phá khẩu” cho phát triển
kinh tế nông thôn hiện nay.
1.2.2.6. Sự phát triển của thị trường nông thôn
Thị trường là lĩnh vực trao đổi, trên đó các chủ thể kinh tế tác động với
nhau nhằm xác định sản lượng và giá cả hàng hoá.


×