Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

Đánh giá những thành tích và tồn tại trong hoạt động đầu tư nước ngoài tại việt nam nói chung và đối với ngành vận tải, kho bãi nói riêng trong thời gian qua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (313.89 KB, 41 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn hiện nay với xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa, hoạt động
của nền kinh tế thế giới ngày càng trở lên đa dạng và phức tạp của gần 200 quốc
gia (194 quốc gia chính thức được công nhận) với toàn bộ các hoạt động kinh tế
của khoảng 7 tỷ người dân đang sinh sống. Trong đó hoạt động đầu tư nước
ngoài được xem là nguồn lợi lớn đang được chú trọng đối với cả nước đầu tư và
nước nhận đầu tư. Đứng trước những chuyển biến ngày càng phức tạp này, để
hội nhập với nền kinh tế thế giới, một tất yếu khách quan là Việt Nam cũng phải
có những sự chuyển mình để theo kịp thời cuộc, để theo kịp nền kinh tế khu vực
và thế thới.
Với việc coi khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận
quan trọng của nền kinh tế, đóng góp lớn vào tăng trưởng GDP, sau gần 30 năm
thu hút đầu tư (1988-2014), Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành công. Một
trong những yếu tố cơ bản làm nên sức hút về đầu tư nước ngoài trong gần 30
năm qua của nước ta, đó là chủ trương nhất quán của Chính phủ trong việc coi
đầu tư nước ngoài là một bộ phận hữu quan của nền kinh tế. Đặc biệt, Luật Đầu
tư nước ngoài được ban hành năm 1987 và Luật Đầu tư chung hợp nhất Luật
Đầu tư nước ngoài và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước năm 2005 đã tạo ra
sự đồng nhất trong hệ thống pháp luật về đầu tư, tạo sân chơi bình đẳng giữa các
nhà đầu tư. Mặc dù đã đạt được những kết quả khả quan, song đầu tư nước
ngoài trong những năm qua cũng đã bộc lộ những tồn tại cần hoàn thiện để đạt
mục tiêu thu hút mạnh mẽ hơn nữa nguồn vốn này.
Để xây dựng Việt nam trở thành một trong những điểm hấp dẫn các
nhà đầu tư trong khu vực, cần phải nhận thức rõ thực trạng đầu tư nước
ngoài tại Việt nam, từ đó đưa ra những giải pháp hữu hiệu, khoa học nhằm
nâng cao hiệu quả của đầu tư nước ngoài để từ đó tìm ra các giải pháp
nhằm thúc đẩy việc thu hút đầu tư nước ngoài phù hợp với thực tiễn. Đó là
lý do thôi thúc tôi lựa chọn đề tài: “Đánh giá những thành tích và tồn tại



trong hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam nói chung và đối với ngành vận
tải, kho bãi nói riêng trong thời gian qua” .
Do thời gian và kiến thức có hạn, nên không thể tránh khỏi những sai sót,
hạn chế, vì vậy tôi rất mong nhận được sự góp ý chân thành của các thầy cô giáo.
2. Mục đích nghiên cứu
Hệ thống hóa cơ sở lý luận về đầu tư nước ngoài. Đánh giá thực trạng
hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và hoạt động đầu tư nước ngoài đối với
ngành vận tải, kho bãi trong thời gian qua. Trên cơ sở phân tích thực trạng đó, chỉ
ra những tồn tại và nguyên nhân, tác giả đề xuất một số biện pháp nhằm nâng
cao hiệu quả của hoạt động đầu tư nước ngoài đối với ngành vận tải, kho bãi tại
Việt Nam trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, hoạt
động đầu tư nước ngoài đối với ngành vận tải, kho bãi.
Phạm vi thời gian: 3 năm từ 2010 đến 2014
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Qua việc trình bày, phân tích và luận giải những nội dung đã được xác
định, đề tài có những đóng góp sau đây:
Ý nghĩa khoa học:
Tổng hợp những cơ sở có tính hệ thống, luận giải góp phần bổ
sung, phát triển những cơ sở lý luận về đầu tư nước ngoài.
Ý nghĩa thực tiễn:
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động đầu tư nước ngoài đối với
ngành vận tải, kho bãi tại Việt Nam; chỉ rõ những kết quả đạt được, nguyên
nhân của những hạn chế trong những năm gần đây.
- Đưa ra biện pháp có tính ứng dụng cao trong thực tiễn nhằm khắc phục
những mặt hạn chế, tăng cường điểm mạnh trong hoạt động đầu tư nước ngoài
đối với ngành vận tải, kho bãi tại Việt Nam trong thời gian tới.



CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ VÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
1.1. Đầu tư
Đầu tư là một hoạt động kinh tế, là một bộ phận của sản xuất – kinh
doanh của các doanh nghiệp. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến việc tăng tiềm lực của
nền kinh tế nói chung và của từng doanh nghiệp nói riêng, và là động lực để
thúc đẩy phát triển xã hội. Do đó, trước hết cần tìm hiểu khái niệm đầu tư.
Đầu tư là sự bỏ ra, sự hy sinh những nguồn lực hiện tại (tiền, sức lao
động, của cải vật chất, trí tuệ… ) nhằm đạt được những kết quả có lợi cho chủ
đầu tư trong tương lai. Về mặt địa lý có hai loại hoạt động đầu tư đó là: hoạt
động đầu tư trong nước và hoạt động đầu tư nước ngoài.
1.2. Đầu tư nước ngoài.
1.2.1. Khái niệm đầu tư nước ngoài
Đầu tư nước ngoài là một quá trình trong đó có sự di chuyển vốn từ quốc
gia này sang quốc gia khác, dưới hình thức bằng tiền, tài sản hữu hình hoặc vô
hình để thực hiện các dự án đầu tư nhằm đưa lại lợi ích cho các bên tham gia.
Nói một cách cụ thể, đầu tư nước ngoài là phương thức đầu tư vốn, tài sản ở
nước ngoài để tiến hành sản xuất kinh doanh, dịch vụ với mục đích kiếm lợi
nhuận và những mục tiêu kinh tế xã hội nhất định.
1.2.2. Bản chất của đầu tư nước ngoài
Về bản chất, đầu tư nước ngoài chính là một hình thức xuất khẩu tư bản,
thông qua hoạt động này, nhà tư bản tổ chức sản xuất ở nước ngoài và sản phẩm
được sản xuất ra tại nước ngoài đó sẽ thay thế một phần cho việc xuất khẩu hàng
hóa. Do đó có thể thấy, đầu tư nước ngoài là một hình thức cao hơn xuất khẩu
hàng hóa. Tuy nhiên, hai hình thức xuất khẩu này lại có mối quan hệ mật thiết
với nhau, hỗ trợ và bổ sung cho nhau trong chiến lược xâm nhập, chiếm lĩnh thị
trường của các nhà đầu tư nước ngoài. Hoạt động buôn bán hàng hóa ở nước sở
tại là bước đi tìm kiếm thị trường, tìm hiểu luật lệ để có cơ sở ra quyết định đầu
tư. Ngược lại, hoạt động đầu tư tại các nước sở tại là điều kiện để các nhà đầu tư



nước ngoài xuất khẩu máy móc, vật tư, nguyên liệu và khai thác tài nguyên thiên
nhiên của nước đó.
1.2.3. Tính tất yếu khách quan của đầu tư nước ngoài
Đầu tư nước ngoài là một tất yếu khách quan do sự phân bổ và sử dụng
các yếu tố sản xuất giữa các nước là khác nhau. Trong tiến trình phát triển của
nền kinh tế thế giới, nhiều quốc gia đã đạt được nhiều thành tựu to lớn vào sản
xuất và khai thác các dạng tài nguyên thiên nhiên. Khi trình độ phát triển kinh tế
đạt đến mức cao, nhu cầu về vốn ở trạng thái bão hòa, dư thừa, cơ hội đầu tư ít,
chi phí cao thì khi đó các quốc gia có nhu cầu đầu tư vào các quốc gia khác trên
thế giới nhằm tận dụng những lợi thế về lao động, tài nguyên thiên nhiên, thị
trường… của những nước đó.
Ngoài ra, đầu tư nước ngoài còn là một biện pháp hữu hiệu để thâm nhập vào thị
trường nước khác mà vẫn tránh được các rào cản về thuế và phi thuế của nước
nhận đầu tư.
Trong nền kinh tế mở ngày nay, các nước đang phát triển thường có nhu
cầu về vốn và công nghệ rất cao, trong khi các nước phát triển cũng cần chuyể
giao công nghệ cho các đối tác khác để chuẩn bị cho ra đời một sản phẩm mới
với công nghệ sản xuất mới, chính đầu tư nước ngoài là giải pháp tốt thỏa mãn
với quan hệ cung, cầu cho cả hai bên.
Đối với bên có vốn đầu tư: Họ cần tìm nơi đầu tư có lợi, cần tránh hàng
rào hải quan trong buôn bán quốc tế, cần khuyếch trương thị trường và mở rộng
phạm vi kinh doanh. Trong khi đó đối với bên tiếp nhận vốn: Do thiếu vốn tích
lũy, do nhu cầu tăng trưởng nhanh, nhu cầu đổi mới kỹ thuật, công nghệ và tiếp
nhận kinh nghiệm quản lý tiên tiến để khai thác tài nguyên và tạo thêm việc làm
cho dân cư. Đối với các nước đang phát triển, những nước này còn có yêu cầu
về dịch chuyển cơ cấu kinh tế xây dựng khu các công nghệ cao, thực hiện công
cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Chính vì những nguyên nhân trên, đầu tư nước ngoài là một tất yếu khách quan
đối với tất cả các nước trên toàn thế giới.



1.2.4. Vai trò của đầu tư nước ngoài
Đầu tư nước ngoài ngày càng có vai trò to lớn đối với việc thúc đẩy quá
trình phát triển kinh tế và thương mại ở các nước đi đầu tư và các nước tiếp nhận
vốn đầu tư.
Đối với quốc gia có vốn đầu tư ra nước ngoài:
Đứng trên góc độ quốc gia, đầu tư nước ngoài là cách để các quốc gia có thể mở
rộng và nâng cao quan hệ hợp tác về nhiều mặt đối với các quốc gia nhận đầu
tư. Khi một nước đầu tư sang nước khác một mặt hàng thì nước đó thường có
những ưu thế nhất định về mặt hàng đó như về chất lượng, năng suất, giá cả
cùng với chính sách hướng xuất khẩu của nước này, thêm vào đó là có sự sẵn
sàng hợp tác chấp nhận đầu tư của nước sở tại cùng với những nguồn lực thích
hợp cho sản phẩm đó. Mặt khác, khi đầu tư, quốc gia có vốn đầu tư nước ngoài
có rất nhiều lợi ích về kinh tế cũng như về chính trị đối với nước nhận đầu tư:
Thứ nhất, quan hệ hợp tác với nước sở tại được tăng cường và vị thế của nước đi
đầu tư được nâng lên trên trường quốc tế.
Thứ hai, mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm, khi trong nước sản phẩm
đang thừa mà nước sở tại lại thiếu.
Thứ ba, giải quyết công ăn việc làm cho một số lao động, vì khi đầu tư sang
nước khác, thì nước đó phải cần có những người hướng dẫn, hay còn gọi là các
chuyên gia trong lĩnh vực này. Đồng thời tránh được việc khai thác các nguồn
lực trong nước, như tài nguyên thiên nhiên hay ô nhiễm môi trường.
Thứ tư, đó là vấn đề chính trị. Các nhà đầu tư nước ngoài có thể lợi dụng những
kẽ hở của pháp luật, sự yếu kém về quản lý hay sự ưu đãi của Chính phủ nước
sở tại để có những mục đích khác như gây ảnh hưởng về chính trị, do thám...
Mặt khác, dưới góc độ của doanh nghiệp có vốn đầu tư ra nước ngoài. Mục đích
của doanh nghiệp cũng như mục đích của một quốc gia thường là lợi nhuận.
Ngoài ra, một lợi thế khác nữa là các nước đầu tư ra nước ngoài có thể bán được
những máy móc, thiết bị, công nghệ cũ kỹ lạc hậu hoặc đã bị hao mòn vô hình

qua thời gian với giá cao nhưng lại là mới đối với những nước nhận đầu tư.
Đối với nước nhận đầu tư nước ngoài:


Đầu tư từ nước ngoài đưa lại những lợi ích to lớn cho quốc gia nhận đầu tư, đặc
biệt nước nhận đầu tư là quốc gia chậm và đang phát triển.
Thứ nhất, là vấn đề chuyển giao vốn, công nghệ và năng lực quản lý (chuyển
giao nguồn lực). Đối với một nước lạc hậu, trình độ sản xuất kém, năng lực sản
xuất chưa được phát huy kèm với cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn thì việc tiếp
thu được một nguồn vốn lớn, công nghệ phù hợp để tăng năng suất và cải tiến
chất lượng sản phẩm, trình độ quản lý chặt chẽ là một điều hết sức cần thiết.
Trong nền sản xuất hiện đại ngày nay thì công nghệ chính là trung tâm
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với một đất nước đang phát
triển. Các quốc gia này cần phải có vốn và công nghệ để có thể thực hiện được
sự nghiệp đó. Những hoạt động chuyển giao công nghệ (bao gồm cả năng lực
quản lý và marketing) thường khó đo lường hơn và phần lớn chuyển giao chỉ
diễn ra thông qua các hợp đồng cấp giấy phép sản xuất khác nhau đã tăng lên
nhanh hơn so với sự chuyển giao công nghệ thông qua các dự án đầu tư nước
ngoài. Các nước nhận được vốn đầu tư nước ngoài với công nghệ mới tiên tiến
hơn sẽ làm tăng năng suất và thu nhập quốc dân, các ngành sản xuất cạnh tranh
hơn từ đó làm cho việc sử dụng các nguồn lực có hiệu quả kinh tế hơn. Không
những thế những công nghệ này còn cho ra những sản phẩm có chất lượng cao
hơn, tính năng đa dạng hơn, bền hơn và với những mẫu mã đa dạng, hàng hóa
lúc này sẽ nhiều và tất nhiên dẫn đến rẻ hơn so với trước, từ đó thúc đẩy tổng
cầu của nền kinh tế tăng kéo theo GDP tăng lên.
Ngoài ra, việc nhận đầu tư nước ngoài phát triển còn góp phần khuyến
khích năng lực kinh doanh trong nước. Do có các nhà đầu tư nước ngoài xuất
hiện vào các thị trường truyền thống mà các nhà đầu tư trong nước đang chiếm
giữ phần lớn, nhưng ưu thế này sẽ không kéo dài mãi, khi mà ưu thế về nguồn
lực của nhà đầu tư nước ngoài hơn hẳn. Đó chính là một trong những thử thách

tất yếu của nền kinh tế thị trường đối với các nhà sản xuất trong nước, không có
kẻ yếu nào có thể tồn tại nếu nó không tự mình mạnh lên để không bị tự đài thải
trong cơ chế này.


Tiếp cận với thị trường nước ngoài, các doanh nghiệp chắc chắn phải thiết
lập với giao dịch, các đối tác mới là các nhà đầu tư nước ngoài. Từ đó thúc đẩy
các công cuộc đầu tư giữa các nước. Như vậy, quá trình đầu tư nước ngoài và
thương mại quốc tế là một quá trình luôn luôn thúc đẩy nhau, hỗ trợ nhau và
cùng phát triển.
Đầu tư nước ngoài còn góp phần tích cực trong việc chuyển đổi cơ cấu
kinh tế của nước nhận đầu tư theo chiều hướng tích cực hơn. Nó thường tập
trung vào những ngành công nghệ cao, có sức cạnh tranh như công nghiệp hay
thông tin. Nếu là một nước nông nghiệp thì bây giờ trong cơ cấu kinh tế các
ngành đòi hỏi cao hơn như công nghiệp và dịch vụ đã tăng lên về tỷ trọng và sức
đóng góp cho ngân sách, GDP và cho xã hội nói chung. Ngoài ra, về cơ cấu lãnh
thổ, nó có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng
lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng nghèo đói, phát
huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, đưa những tiềm năng chưa được
khai thác vào quá trình sản xuất và dịch vụ, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng
khác cùng phát triển.
Bên cạnh những lợi ích trên, đầu tư nước ngoài cũng mang lại không ít
những bất lợi đối với nước nhận đầu tư:
Trước hết, vốn đầu tư nước ngoài thường rất hạn chế và tập trung vào những
lĩnh vực mang tính ngắn hạn nhằm sinh lợi nhuận nhanh do vậy nền kinh tế phát
triển thiếu tính bền vững. Hơn nữa, các nhà đầu tư trực tiếp thường thiếu sự
trung thành đối với thị trường đầu tư, mà chỉ quan tâm đến lợi nhuận, do vậy
luồng vốn đầu tư trực tiếp cũng rất bất ổn định, đặc biệt xảy ra hiện tượng khi
cần vốn đầu trực tiếp thì nó lại rất ít làm ảnh hưởng đến kế hoạch kinh tế chung
của đất nước nhận đầu tư.

Thứ hai là công nghệ không thích hợp, giá cao một cách giả tạo, không tương
xứng với chất lượng cũng như tính hiện đại của công nghệ, nhiều dây chuyền
công nghệ còn lạc hậu, tiêu thụ mất nhiều năng lượng và dễ gây ô nhiễm môi
trường. Nguyên nhân gây ra hiện tượng này là do các nước đang phát triển
thường ở vào vị trí thương lượng yếu hơn trong đàm phán, đặc biệt là khi các


nước đang phát triển thiếu lực lượng cán bộ chuyên môn cao để có thể xác định
được mức độ phù hợp của công nghệ.
Ngoài ra, đầu tư nước ngoài về phía nước nhận đầu tư còn gặp phải những
bất lợi khác như vấn đề về ô nhiễm môi trường cùng với tài nguyên bị cạn kiệt
và những lợi dụng về chính trị... Đây là những vấn đề tất yếu mà nước nhận đầu
tư phải hứng chịu khi quá trình đầu tư nước ngoài diễn ra.
1.2.5. Hình thức của hoạt động đầu tư nước ngoài
Hoạt động đầu tư nước ngoài được thực hiện dưới 3 hình thức, đó là: Đầu
tư trực tiếp (Foreign Direct Investment – FDI), đầu tư gián tiếp (Portfolio
Investment) và tín dụng thương mại.

Dòng vốn
ĐTNN

Dòng vốn
chính thức

Dòng vốn
tư nhân

Đầu tư
trực tiếp


Đầu tư
gián tiếp

Tín dụng
tư nhân

ODA

OA

OOFs

Mua lại
và sáp
nhập

Mua cổ
phiếu

Mua trái
phiếu

Trợ cấp

Trợ cấp

Công ty
100% NN

Mua trái

phiếu

Các
khoản
cho vay

Cho vay
ưu đãi

Cho vay
ưu đãi

Vay không
ưu đãi

Vay không
ưu đãi

Liên
doanh

Đầu tư trực tiếp (Foreign Direct Investment – FDI:


Đây là phương thức đầu tư mà trong đó chủ đầu tư trực tiếp tham gia quản
lý vốn đã bỏ ra. Thực chất trong đầu tư trực tiếp những người bỏ vốn ra và
những nhà quản lý sử dụng vốn là những chủ thể nên chính các chủ thể này hoàn
toàn chịu trách nhiệm về kết quả đầu tư của chính họ, và kết quả đầu tư có thể
lãi, có thể lỗ, có nghĩa là khi đầu tư trực tiếp, người bỏ vốn đồng thời là nhà
quản lý, sử dụng vốn chấp nhận nguyên tắc lời ăn lỗ chịu.

Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư nước ngoài được thực
hiện khi quyền sử dụng gắn liền với quyền sở hữu đối với tài sản đầu tư. Đầu tư
nước ngoài trực tiếp cũng có thể hiểu như là quá trình điều hành một công ty bởi
một công ty hoặc một tổ chức ở nước khác.
Trên cơ sở phân chia quyền sở hữu, đầu tư trực tiếp nước ngoài được chia
thành liên doanh (Joint venture) và sở hữu toàn bộ (Whole foreign ownership –
100% foreign capital). Khi có từ hai tổ chức, trong đó có ít nhất một bên là Việt
Nam phân chia quyền sở hữu tài sản đầu tư, hoạt động đầu tư đó gọi là liên
doanh. Khi chỉ có công ty nước ngoài nắm quyền sở hữu tài sản đầu tư thì hoạt
động đầu tư đó gọi là sở hữu tòa bộ của nước ngoài hay là công ty 100% vốn
nước ngoài.
Động lực thúc đẩy các nhà kinh doanh và Chính phủ thực hiện đầu tư
nước ngoài trực tiếp là nhu cầu mở rộng thị trường và tìm kiếm các nguồn
nguyên liệu và lao động nước ngoài của các nước xuất khẩu tư bản.
Tuy việc mở rộng thị trường và tìm kiếm nguồn nguyên liệu và lao động
nước ngoài có thể được thực hiện bởi nhiều hình thức kinh doanh quốc tế.
Nhưng tại sao nhiều nhà kinh doanh lại chọn hình thức đầu tư nước ngoài trực
tiếp, vì đầu tư nước ngoài trực tiếp có những thế mạnh rất riêng, rất thu hút.
Đầu tư nước ngoài trực tiếp mặc dù vẫn chịu sự chi phối của Chính phủ
nhưng có phần ít lệ thuộc vào mối quan hệ chính trị giữa hai bên hơn so với hình
thức tín dụng quốc tế.
Bên nước ngoài trực tiếp tham gia quá trình kinh doanh của xí nghiệp nên họ có
thể trực tiếp kiểm soát hoạt động và đưa ra những quyết định có lợi nhất cho


việc đầu tư. Do đó có thể thấy mức độ khả thi của dự án khá cao, đặc biệt trong
việc tiếp cận thị trường thế giới để mở rộng xuất khẩu.
Do quyền lợi của chủ đầu tư nước ngoài gắn chặt với dự án nên có thể lựa chọn
kỹ thuật, công nghệ thích hợp, nâng cao dần trình độ quản lý, tay nghề cho công
nhân ở nước tiếp nhận đầu tư.

Bên cạnh đó, đầu tư nước ngoài trực tiếp có những hạn chế đó là mọi hoạt
động đầu tư diễn ra theo cơ chế thị trường mà nhà đầu tư nước ngoài có nhiều
kinh nghiệm trong việc ký hợp đồng dẫn đến nhiều thua thiệt cho nước nhận đầu
tư, nước chủ nhà không chủ động được việc bố trí cơ cấu đầu tư theo ngành
cũng như theo vùng lãnh thổ.
Trên thực tiễn diễn ra ngày nay, có nhiều hình thức đầu tư trực tiếp nước
ngoài, trong đó các chủ đầu tư trực tiếp tham gia vào quá trình quản lý, sử dụng
vốn đầu tư và vận hành các kết quả đầu tư nhằm thu hồi đủ vốn đã bỏ ra và được
thực hiện dưới các dạng: hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng, doanh nghiệp
liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Đầu tư gián tiếp (Portfolio Investment):
Đây là phương thức đầu tư trong đó chủ đầu tư không trực tiếp tham gia
quản lý vốn bỏ ra. Thực chất của đầu tư gián tiếp là người bỏ vốn nước ngoài
không trực tiếp quản lý và sử dụng vốn. Ở đây quyền sở hữu và quyền sử dụng
vốn tách rời nhau, chủ nước ngoài chỉ được góp số vốn tối đa nào đó dưới hình
thức mua cổ phiếu sao cho họ không thể điều hành được dự án mà họ bỏ vốn.
Đặc điểm của hình thức này là người bỏ vốn (các tổ chức hoặc cá nhân) luôn có
lợi nhuận do thu lãi suất cho vay trong mọi tình huống về kết quả đầu tư (cả
trong trường hợp lãi và lỗ), và đều không có trách nhiệm pháp lý. Chỉ có nhà
quản trị và sử dụng vốn là người chịu trách nhiệm pháp lý về kết quả đầu tư.
Hình thức đầu tư này có ưu điểm là khi có sự cố trong kinh doanh xảy ra với
doanh nghiệp có vốn nước ngoài thì các chủ đầu tư ít bị thiệt hại vì vố đầu tư
được phân tán trong những người mua cổ phiếu, trái phiếu. Trong khi đó, bên
tiếp nhận vốn đầu tư hoàn toàn chủ động sử dụng vốn kinh doanh theo ý đồ của
mình.


Cũng như hình thức đầu tư trực tiếp, hình thức này cũng có hạn chế về khả năng
thu hút vốn kỹ thuật, công nghệ của chủ đầu tư nước ngoài vì họ bị khống chế
mức độ đóng góp vốn tối đa. Mặt khác, do bên nước ngoài không trực tiếp tham

gia điều hành dự án nên hiệu quả sử dụng vốn thường thấp.
Đầu tư gián tiếp nước ngoài hiện nay cũng rất đa dạng về hình thức: mua cổ
phiếu của doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp cổ phần có vốn đầu tư nước
ngoài ...
Tín dụng thương mại nước ngoài:
Là khoản tiền được các Tổ chức Quốc tế hoặc Chính phủ của các nước trợ
giúp (thường là các nước chậm và đang phát triển) nhằm thúc đẩy phát triển
kinh tế, văn hóa, giáo dục và bảo vệ môi trường. Các khoản hỗ trợ triển chính
thức, viện trợ chính thức và các khoản viện trợ khác. Trong đó có hỗ trợ phát
triển chính thức (ODA) là dòng tài chính được cung cấp bởi Chính phủ (trung
ương hoặc địa phương) của quốc gia này tới Chính phủ quốc gia khác nhằm mục
đích hỗ trợ và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phúc lợi của các nước. ODA
thường mag tính ưu đãi cao và có cả yếu tố không hoàn lại. Ngoài ra còn có viện
trợ chính thức OA, các dòng vốn chính thức khác OOFS, tín dụng quốc tế.
1.2.6. Đặc điểm cơ bản của đầu tư nước ngoài hiện nay.
Hoạt động đầu tư nước ngoài trực tiếp được nhận định có sự thay đổi theo
xu hướng như sau:
Thứ nhất, các dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu chảy vào các nước
công nghiệp phát triển, hay còn gọi là các nước công nghiệp phát triển đầu tư
lẫn nhau là chủ yếu. Từ đặc điểm này dẫn đến làn sóng hợp nhất, thôn tính các
công ty diễn ra chủ yếu ở các nước công nghiệp phát triển.
Thứ hai, có sự thay đổi lớn trong tương quan lực lượng các chủ đầu tư quốc tế.
Nếu trong giai đoạn đầu thế kỷ XX, Anh, Pháp, Đức, Hà Lan là những nước
đứng đầu xuất khẩu vốn trên thế giới thì đến giữa thế kỷ, Mỹ đã chiếm vị trí số 1
trên thế giới về đầu ra nước ngoài, và xếp sau Mỹ là Anh, Pháp, đặc biệt là
những năm 70 trở lại đây Nhật Bản đã trở thành một cường quốc về đầu tư.


Thứ ba, ngày càng có sự thay đổi sâu sắc trong lĩnh vực đầu tư. Khi đầu tư vào
các nước phát triển các chủ đầu tư thường chủ yếu đầu tư vào các lĩnh vực dịch

vụ, mà chủ yếu tập trung vào thương mại và tài chính và những ngành kỹ thuật
mới như công nghệ thông tin, thiết bị viễn thông sản xuất ô tô, công nghệ sinh
học… Hoạt động đầu tư quốc tế chủ yếu thông qua việc sát nhập, mua lại để
thành lập các siêu công ty độc quyền chi phối hoạt động kinh doanh toàn cầu.
Thứ tư, các nhà đầu tư giảm lòng tin vào thị trường chứng khoán. Trong 3 năm
lien tiếp hàng loạt sự bê bối về tài chính diễn ra ở các công ty Mỹ như Enron,
Global Crosing, Worldcom… khiến trên cả 3 thị trường chứng khoán lớn nhất
thế giới đó là Mỹ, EU, Nhật đều giảm mạnh. Theo tin của báo Economist ngày
16/11/2002 trong năm 2001 giá cổ phiếu bình quân giảm 2% ở thị trường Mỹ,
27% ở thị trường EU và 16% ở thị trường Nhật. Sự giảm sút của thị trường
chứng khoán này, đã tác động tiêu cực tới nỗ lực của các nhà đầu tư.
Thứ năm, ngày càng xuất hiện và phát triển nhiều các hình thức mới trong hoạt
động đầu tư nước ngoài, đó là: hợp đồng licencing, hợp đồng quản lý công trình
đầu tư do nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn, hợp đồng phân chia sản phẩm.


CHƯƠNG 2:
NHỮNG THÀNH TÍCH VÀ TỒN TẠI TRONG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ
NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM NÓI CHUNG VÀ ĐỐI VỚI LĨNH VỰC
VẬN TẢI, KHO BÃI NÓI RIÊNG TRONG THỜI GIAN QUA.
2.1. Tính tất yếu khách quan của đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
Trong giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế thế giới đang tiến dần đến một
chỉnh thể thống nhất. Nó tạo điều kiện cho các nước tham gia vào sân chơi
chung rộng lớn trên môi trường kinh tế, chính trị - xã hội thuận lợi cho sự phát
triển của mình. Quá trình toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ kéo theo sự gia tăng của
các hoạt động đầu tư nước ngoài. Các quốc gia ngày càng ưu tiên cho sự phát
triển kinh tế với sự gia tăng các hình thức hợp tác kinh tế quốc tế như trao đổi
thương mại, chuyển giao khoa học – công nghệ và đặc biệt là hợp tác đầu tư.
Các nước công nghiệp phát triển đang ra sức tiềm kiếm thị trường đầu tư thuận
lợi để đem lại lợi nhuận cao. Trong khi đó, các nước đang phát triển trong đó có

Việt Nam là một thị trường đáng chú ý đối với các nhà đầu tư vì đầu tư vào các
nước đang phát triển, các nhà đầu tư có thể giảm được chi phí do sử dụng lao
động và nguồn tài nguyên rẻ, ngoài ra các nhà đầu tư có thể giải quyết định tình
trạng thừa vốn và kéo dài tuổi thọ của các sản phẩm của doanh nghiệp ở thị
trường này. Trong khu vực Đông Á – Tây Thái Bình Dương, Việt Nam có vị trí
địa lý chính trị quan trọng với nhiều ưu thế hấp dẫn các nhà đầu tư. Như vậy, sự
phát triển mạnh mẽ của hoạt động đầu tư nước ngoài, nhu cầu đầu tư của các
nước công nghiệp phát triển và sự hấp dẫn của thị trường Việt Nam đã thúc đẩy
đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Mặt khác, từ năm 1986 Việt Nam đã nhận thức được một trong các giải pháp để
thoát khỏi khủng hoảng, thực hiện thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa – hiện
đại hóa đất nước, từng bước tham gia quá trình toàn cầu hóa đó là phát triển
kinh tế đối ngoại. Trong đó thu hút đầu tư là vấn đề quan trọng vì nó đáp ứng
được những đòi hỏi của tình hình thực tiễn Việt Nam.


Từ những lý luận trên, yêu cầu phát triển nội tại và thực tiễn khách quan
trong công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước đã và đang đòi hỏi
Việt Nam cần tới nguồn đầu tư nước ngoài để hội nhập cùng dòng chảy kinh tế xã hội trên thế giới. Do đó đầu tư nước ngoài là xu thế tất yếu, là con đường
hiệu quả nhất mà bất kỳ quốc gia nào cũng phải làm khi có đủ điều kiện, buộc
phải thực hiện bởi các sức ép bên trong, bên ngoài nước, và nước ta cũng không
phải ngoại lệ.
2.2. Những thành tích và tồn tại trong hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam trong những năm gần đây
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, hoạt động đầu tư
nước ngoài có vai trò hết sức quan trọng. Trong những năm qua hoạt động kinh
tế này đã đóng góp không nhỏ vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Thu
hút đầu tư nước ngoài như một tất yếu quan trọng đánh dấu quá trình mở cửa
trong đường lối đổi mới được khởi xướng từ năm 1986 với nội dung cốt lõi là

chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ nền kinh tế kín sang nền
kinh tế mở, chủ động hội nhập sâu vào nền kinh tế quốc tế, Việt Nam đã đạt
được những thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội.
Theo Báo cáo Tổng kết 25 năm đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI của Bộ
Kế hoạch và Đầu tư, tính đến hết tháng 2/2013, sau 25 năm Việt Nam đã thu hút
được 14.550 dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn
đăng ký đạt gần 211 tỷ USD, vốn thực hiện đạt gần 100 tỷ USD


(Bảng 1: Cột giá trị bên trái: vốn đăng ký; cột giá trị bên phải: vốn thực hiện)
TT

Chỉ tiêu

Đơn vị tính

1
2
2.1.
2.2.
3
3.1.
3.2.
4
4.1.

Vốn thực hiện
Vốn đăng ký
Đăng ký cấp mới

Đăng ký tăng thêm
Số dự án
Cấp mới
Tăng vốn
Xuất khẩu
Xuất khẩu (kể cả dầu thô)
Xuất khẩu (không kể dầu

4.2.

12

tháng 12

tháng

So cùng kỳ

triệu USD
triệu USD
triệu USD
triệu USD

năm 2011
11,000
15,356
12,101
3,255

năm 2012

10,460
13,013
7,854
5,159

dự án
lượt dự án

1,193
405

1,100
435

92.2%
107.4%

triệu USD

55,124

73,412

133.2%

triệu USD

47,883

63,903


133.5%

triệu USD

95.1%
84.7%
64.9%
158.5%

5

thô)
Nhập khẩu

TT

Chỉ tiêu

Đơn vị tính

1
2
2.1.
2.2.
3
3.1
3.2

Vốn thực hiện

Vốn đăng ký
Đăng ký cấp mới
Đăng ký tăng thêm
Số dự án
Cấp mới
Tăng vốn

triệu USD
triệu USD
triệu USD
triệu USD

48,837
60,338
123.5%
12 tháng 12 tháng
So cùng kỳ
năm 2012 năm 2013
10,460
11,500
109.9%
13,996.11 21,628.03 154.5%
8,371.66
14,272.36 170.5%
5,624.45
7,355.67
130.8%

dự án
lượt dự án


1,266
548

1,275
472

100.7%
86.1%


4
4.1

Xuất khẩu
Xuất khẩu (kể cả dầu thô)
triệu USD
72,252
88,423
122.4%
Xuất khẩu (không kể dầu
4.2
triệu USD
64,040
81,187
126.8%
thô)
5
Nhập khẩu
triệu USD

59,941
74,469
124.2%
(Bảng 2: Số liệu tính từ 16/12/2011 đến 15/12/2013, Cục Đầu tư nước ngoài Bộ Kế hoạch và Đầu tư).
TT

Chỉ tiêu

Đơn vị tính

1
2
2.1

Vốn thực hiện
Vốn đăng ký*

.
2.2
.
3
3.1
3.2
4
4.1

Qúy I năm Qúy I năm

So cùng kỳ


triệu USD
triệu USD

2013
2,700
6,608.85

2014
2,850
3,334.04

Đăng ký cấp mới

triệu USD

3,331.97

2,046.69

61.4%

Đăng ký tăng thêm

triệu USD

3,276.88

1,287.36

39.3%


105.6%
50.4%

Số dự án*
Cấp mới
dự án
268
252
94.0%
Tăng vốn
lượt dự án
135
82
60.7%
Xuất khẩu
Xuất khẩu (kể cả dầu thô) triệu USD
19,315
22,469
116.3%
Xuất khẩu (không kể dầu
4.2
triệu USD
17,470
20,778
118.9%
thô)
5
Nhập khẩu
triệu USD

16,189
18,553
114.6%
(Bảng 3: Số liệu Quý I/2014 tính từ 01/01/2014 đến 20/03/2014, Cục Đầu tư
nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư).
Trong Quý I năm 2014, ước tính các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã
giải ngân được 2,850 tỷ USD, tăng 5,6% so với cùng kỳ năm 2013. Tính đến
ngày 20 tháng 3 năm 2014 cả nước có 252 dự án mới được cấp GCNĐT với
tổng vốn đăng ký là 2,046 tỷ USD, bằng 61,4% so với cùng kỳ năm 2013, và có
82 lượt dự án đăng ký tăng vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng thêm là 1,287
tỷ USD, bằng 39,3% so với cùng kỳ năm 2013. Tổng vốn đăng ký cấp mới và
tăng thêm là 3,334 tỷ USD, bằng 50,4% so với cùng kỳ năm 2013.


Qua những số liệu thống kê trên có thể phần nào thấy được khu vực kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh
tế Việt Nam, là khu vực có tốc độ phát triển vô cùng năng động.
2.2.1. Về mặt kinh tế
Trước hết, đầu tư nước ngoài đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư
phát triển, góp phần khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong
nước, tạo ra thế và lực phát triển mới cho nền kinh tế:
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã kiên trì thực hiện đường
lối đổi mới, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế, tạo hình ảnh tích cực đối với các nhà đầu tư. Mặt khác
không ngừng hoàn thiện hệ thống chính sách luật pháp về đầu tư nước ngoài tạo
khuôn khổ pháp lý đầy đủ, rõ ràng và thông thoáng hơn cho hoạt động đầu tư
nước ngoài. Công tác chỉ đạo điều hành của Chính phủ, của các bộ, ngành và
chính quyền địa phương đã tích cực, chủ động hơn giúp đẩy nhanh lộ trình áp
dụng cơ chế một giá, hỗ trợ nhà đầu tư giảm chi phí sản xuất, tiếp tục thực hiện
việc cải cách hành chính, quan tâm hơn tới việc tháo gỡ khó khăn cho việc triển

khai dự án... Từ đó, đã phần nào phản ánh kết quả đáng khích lệ trong hoạt động
đầu tư nước ngoài tại nước ta.
Theo số liệu của Tổng cục thống kê, tốc độ tăng GDP của doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài so với cùng kỳ năm trước tăng dần như sau:

Tốc độ tăng GDP cả nước
Tỷ lệ đóng góp khối FDI vào

2010
6,78%

18,97%
GDP cả nước
(Bảng 4: Nguồn: Tổng cục thống kê)

2011
5,89%

2012
5,03%

2013
5,42%

25,9%

23,3%

22,0 %


Riêng quý I/2014 tổng sản phẩm trong nước (GDP) theo giá so sánh 2010 tăng
4,96% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn mức tăng cùng kỳ của 3 năm trở lại
đây.


Tác động của FDI đối với tăng trưởng kinh tế còn thể hiện thông qua bổ
sung vốn cho tổng đầu tư xã hội. Giai đoạn 2001-2012 khu vực FDI đã bổ sung
69,47 tỷ USD chiếm 22,75% tổng vốn đầu tư của cả nước. Riêng năm 2013 có
472 lượt dự án được cấp phép từ các năm 2012 đã điều chỉnh đăng ký bổ sung
thêm vốn với tổng mức tăng thêm đạt 7,3 tỉ đô la Mỹ, tăng 30,8% so với năm
2012 (Số liệu tổng cục thống kê).
Thứ hai, đầu tư nước ngoài góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ
cấu lao động, nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp ngày càng phù hợp với
quy luật và chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam theo hướng công
nghiệp hóa – hiện đại hóa, tạo ra sự cân đối mới trên phạm vi nền kinh tế quốc
dân và giữa các ngành, vùng, nhằm phát huy nội lực của nền kinh tế trong khi
vẫn coi trọng yếu tố ngoại lực.
Trong 25 năm qua, đầu tư nước ngoài đóng một vai trò quan trọng cho sự
tăng trưởng của nền kinh tế nói chung và cho ngành công nghiệp nói riêng.
Trong đó từng bước trở hành nguồn đầu tư quan trọng của Quốc gia, góp phần
phát triển các ngành côntg nghiệp và tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Khu vực FDI đã góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng Công
nghiệp hóa – Hiện đại hóa. Chuyển dịch cơ cấu của khu vực công nghiệp được
gắn liền với sự phát triển các ngành theo hướng đa dạng hóa, từng bước hình
thành một số ngành trọng điểm và mũi nhọn như điện, dầu khí, hóa chất, viễn
thong, công nghiệp nặng, công nghiệp phục vụ xuất khẩu… có tốc độ độ phát
triển cao, thuận lợi về thị trường, có khả năng xuất khẩu. Tỷ trọng của khu vực
công nghiệp trong GDP tăng dần trong các năm qua đã thực sự trở thành động
lực cho phát triển kinh tế quốc dân. Năm 2010, khu vực công nghiệp và xây
dựng chiếm 41,09% tổng sản phẩm trong nước theo giá thực tế năm 2010. Theo

giá so sánh của năm 2010, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước theo
ngành công nghiệp và xây dựng ngày càng được tăng theo như sau: năm 2012
tăng 5,75% và năm 2013 tăng 5,43%.
Như vậy đến nay, khu vực FDI này đã tạo ra hơn 45% giá trị sản xuất
công nghiệp, góp phần hình thành một số ngành chủ lực của nền kinh tế như


viễn thông, khai thác, chế biến dầu khí, điện tử, công nghệ thông tin, thép, xi
măng…
Ngoài những đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, khu vực FDI còn góp
phần vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế thông qua việc áp dụng khoa học kỹ thuật
vào sản xuất nông nghiệp, nhằm đẩy nhanh công nghiệp hóa hiện đại hóa nông
nghiệp nông thôn.
Khu vực FDI cũng được đánh giá là kênh chuyển giao công nghệ quan
trọng, góp phần nâng cao trình độ công nghệ của nền kinh tế. Theo thống kê, từ
năm 1993 đến nay, Việt Nam có 951 hợp đồng chuyển giao công nghệ được phê
duyệt/đăng ký, trong đó 605 hợp đồng là của khu vực doanh nghiệp FDI, chiếm
63,6% tổng số hợp đồng chuyển giao công nghệ được phê duyệt/đăng ký. Đó là
những tiền đề quan trọng làm cho tác động lan tỏa của khu vực FDI đối với nền
kinh tế tăng lên theo chiều hướng tích cực, được thực hiện thông qua mối lien
kết sản xuất giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước, qua đó tạo
điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp trong nước tiếp cận với chuyển giao công
nghệ.
Tác động lan tỏa của đầu tư nước ngoài đến các thành phần kinh tế khác trong
nền kinh tế: Qua các số liệu thống kê trên Bảng 1 và Bảng 2 có thể thấy hiệu quả
hoạt động của doanh nghiệp đầu tư nước ngoài được nâng cao một cách rõ rệt
trong những năm qua qua số lượng các doanh nghiệp tăng vốn đầu tư và mở
rộng quy mô sản xuất. Đầu tư nước ngoài có tác động lan tỏa đến các thành phần
khác của nền kinh tế, mà cụ thể là những tác động tích cực thông qua sự lien kết
giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với các doanh nghiệp trong nước.

Sự tác động này có thể theo chiều dọc trong ngành dọc hoặc theo chiều ngang
giữa các doanh nghiệp hoạt động cùng ngành. Trong một góc nhìn khác, các
doanh nghiệp đầu tư nước ngoài cũng tạo dộng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp trong nước nhằm thích ứng với bối cảnh toàn cầu hóa.
Đầu tư nước ngoài đóng góp không nhỏ vào việc cải thiện cán cân thanh
toán quốc tế, tăng cường xuất khẩu và tăng thu cho ngân sách Nhà nước


FDI cũng đã đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách (14,2 tỷ USD trong giai
đoạn 2001 – 2010 và riêng năm 2012 đóng góp khoảng 3,7 tỷ USD)
FDI cũng góp phần quan trọng vào xuất khẩu. Việc tăng cường thu hút
đầu tư nước ngoài hướng về xuất khẩu đã tạo thuận lợi cho việc tiếp cận và mở
rộng thị trường quốc tế, nâng cao năng lực xuất khẩu của Việt Nam:
Kim ngạch xuất khẩu của khu vực ĐTNN tăng nhanh: trong thời kỳ 1996-2000
đạt trên 10,6 tỷ USD (không tính xuất khẩu dầu thô), tăng hơn 8 lần so với 5
năm trước đó; trong 3 năm 2001-2003, xuất khẩu của khu vực ĐTNN đạt 14,6 tỷ
USD, riêng năm 2003 đạt 6,34 tỷ USD, chiếm 31,4% tổng giá trị xuất khẩu của
cả nước. Xuất khẩu của khu vực ĐTNN chiếm tới 84% giá trị xuất khẩu mặt
hàng điện tử, 42% đối với mặt hàng giày dép và 25% hàng may mặc. Tỷ trọng
xuất khẩu so với doanh thu của doanh nghiệp ĐTNN cũng đã tăng nhanh: bình
quân thời kỳ 1991-1995 đạt 30%; thời kỳ 1996-2000 đạt 48,7%; trong ba năm
2001-2003 đạt khoảng 50%. Xuất khẩu của khu vực ĐTNN (kể cả dầu khí)
trong năm 2010 dự kiến đạt 38,8 tỷ USD, tăng 27,8% so với cùng kỳ và chiếm
53,1% tổng xuất khẩu cả nước. Nếu không tính dầu thô, khu vực ĐTNN dự kiến
xuất khẩu 33,9 tỷ USD, chiếm 46% tổng xuất khẩu và tăng 40,1% so với cùng
kỳ 2009, Xuất khẩu của khu vực ĐTNN (kể cả dầu khí) trong 12 tháng đầu năm
2011 đạt 54,46 tỷ USD, tăng 39% so với cùng kỳ năm 2010 và chiếm 56,57%
kim ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu của khu vực ĐTNN (kể cả dầu khí) trong 12
tháng đầu năm 2012 dự kiến đạt 73,4 tỷ USD, tăng 33,2% so với cùng kỳ năm
2011 và chiếm 64% tổng kim ngạch xuất khẩu, Xuất khẩu của khu vực ĐTNN

(kể cả dầu thô) trong 12 tháng đầu năm 2013 dự kiến đạt 88,423 tỷ USD, tăng
22,4% so với cùng kỳ năm 2012 và chiếm 66,9% tổng kim ngạch xuất khẩu. Xuất
khẩu không kể dầu thô đạt 81,187 tỷ USD, tăng 26,8% so với cùng kỳ 2012 và
chiếm 61,42% tổng kim ngạch xuất khẩu. Từ đó, tổng nộp ngân sách nhà nước từ
khu vực này ngày càng tăng đáng kể.Ngoài ra, khu vực đầu tư nước ngoài đã góp
phần mở rộng thị trường trong nước; thúc đẩy các hoạt động dịch vụ phát triển
nhanh, đặc biệt là khách sạn, du lịch, các dịch vụ thu ngoại tệ, dịch vụ tư vấn


pháp lý, công nghệ; tạo cầu nối cho các doanh nghiệp trong nước tham gia xuất
khẩu tại chỗ hoặc tiếp cận với các thị trường quốc tế.
Ngoài các thành tích đã nêu trên, đầu tư nước ngoài còn tác động tích cực đến
các cân đối lớn của nền kinh tế như cân đối ngân sách, cải thiện cán cân vãng
lai, cán cân thanh toán quốc tế thông qua việc chuyển vốn vào Việt Nam và mở
rộng nguồn thu ngoại tệ gián tiếp qua khách quốc tế, tiền thuê đất, tiền mua máy
móc, nguyên vật liệu…
2.2.2. Về mặt xã hội.
Đầu tư nước ngoài góp phần quan trọng trong việc tạo ra một khối lượng
việc làm lớn cho người lao động, tham gia phát triển nguồn nhân lực.
Đến nay, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra việc làm cho trên 2 triệu
lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp khác nhau. Thông qua sự
tham gia trực tiếp hay gián tiếp vào hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài này, Việt Nam đã từng bước hình thành đội ngũ cán bộ, quản lý,
công nhân kỹ thuật có trình độ cao, có tay nghề, tiếp cận được với khoa học, kỹ
thuật, công nghệ cao, có tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động tốt, học tập
được phương thức quản lý tiên tiến.
Mặt khác, hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam cũng đã thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước không ngừng đổi mới
công nghệ, phương thức quản lý, chú trọng đến việc đào tạo cán bộ kỹ thuật, cán
bộ quản lý và công nhân lành nghề, thúc đẩy nền kinh tế vận hành theo cơ chế

thị trường, thúc đẩy việc phát triển các hoạt động văn hóa, y tế, thể dục thể thao
cũng như tác động tích cực đến tâm lý, tập quán của người dân Việt Nam. Trong
thời gian gần đây, một kết quả đáng mừng là một số chuyên gia Việt Nam làm
việc tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã dần thay thế các chuyên
gia nước ngoài trong việc đảm nhiệm các vị trí quản lý doanh nghiệp quan trọng
hay trong việc điểu khiển các quy trình công nghệ tiên tiến.
2.2.3. Về mặt môi trường.
Theo kết quả điều tra của Viện Quản lý Kinh tế Trung ương, hầu hết các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường Việt Nam


và có kết quả môi trường tốt hơn so với các doanh nghiệp trong nước. Đặc biệt
là trong lĩnh vực chế biến thực phẩm, các doanh nghiệp đều đã lắp đặt thiết bị xử
lý nước thải đúng tiêu chuẩn, không có vi phạm nào trong suốt những năm qua.
Qua đó một mặt góp phần xây dựng Việt Nam có môi trường tốt, mặt khác góp
phần thúc đẩy ý thức xây dựng môi trường Việt Nam đối với các doanh nghiệp
trong nước.
2.3. Hạn chế.
2.3.1. Những hạn chế của hệ thống pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam.
Luật đầu tư nước ngoài hiện hành của nước ta về cơ bản còn chưa được cụ
thể, nhiều trường hợp chưa có cơ sở pháp lý để vận dụng. Theo đánh giá của
nhiều quốc gia trên thế giới, cơ cấu luật pháp cho đầu tư nước ngoài của nước ta
vẫn chưa thực sự là môi trường thuận lợi, có khả năng hấp dẫn đối với các nhà
đầu tư. Vấn đề nằm ở chỗ còn tồn đọng nhiều trở ngại của cơ chế chính sách
quan liêu. Mặc dù các cấp quản lý có thẩm quyền trong thời gian qua đã nỗ lực
rất nhiều để giải quyết vấn đề này, song đến nay nhiều trở ngại vẫn chưa được
loại bỏ được thể hiện ở một số điểm như sau:
- Vấn đề về đất đai cho đầu tư nước ngoài: tình trạng pháp lý chưa rõ rang về
quyền sở hữu và sử dụng đất, những quy định về thuê nhượng mua bán đất và

mức giá đất.
- Thủ tục phê duyệt dự án trải qua nhiều công đoạn, nhiều cấp hành chính và cơ
quan chức năng. Ngoài ra cũng thể hiện việc thiếu chiến lược cơ cấu và quy
hoạch đầu tư tổng thể được luận chứng rõ ràng cũng làm chậm trễ hơn nữa
những quy trình phê duyệt và thẩm định tính hiệu quả của dự án đề xuất.
- Các tiêu chuẩn đối xử ưu đãi hoặc không ưu đãi cho các đối tượng nước ngoài
trong quan hệ với các nhà kinh doanh bản địa trong nhiều trường hợp không
tuân theo nguyên tắc thị trường.
Nhìn chung, thể chế pháp lý đối với đầu tư nước ngoài của Việt Nam chưa cấu
thành hệ thống đồng bộ, môi trường pháp lý chưa thuần nhất và thuận lợi, tạo ra
những trở ngại cho cả nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.


2.3.2. Hạn chế về quy mô và tốc độ thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Nhìn chung trong thời gian qua, lượng vốn đầu tư vào nước ta vẫn còn ít,
đặc biệt là tốc độ luân chuyển diễn ra chậm và kém hiệu quả, quy mô bình quân
mọi dự án còn nhỏ, các dự án dưới 5 triệu USD còn chiếm tỷ trọng lớn. Trong
khi đó một thực tế là tốc độ FDI vào nước ta đang có xu hướng chững lại so với
các nước khác do nhiều nguyên nhân như chính sách thu hút vốn FDI của nước
ta có sự định hướng đầu tư nghiêm ngặt hơn theo mục tiêu chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, phù hợp với công nghiệp hóa – hiện đại hóa nền kinh tế…
2.3.3. Sự mất cân đối về ngành nghề, vùng lãnh thổ
Mục đích cao nhất của các nhà đầu tư không gì khác chính là lợi nhuận.
Do đó những lĩnh vực, ngành, dự án có tỷ suất lợi nhuận cao đều được các nhà
đầu tư quan tâm, chú trọng còn đối với những lĩnh vực mặc dù cần thiết cho dân
sinh, nhưng không đưa lại lợi nhuận thỏa đáng thì không thu hút được các nhà
đầu tư. Trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp mặc dù đã có những chính sách
ưu đãi nhất định, nhưng đầu tư nước ngoài còn quá thấp và tỷ trọng vốn đầu tư
nước ngoài đăng ký liên tục giảm, một số ngành khác không thu hút được vốn
đầu tư thể hiện ở số liệu thống kê sau.

(Số liệu thống kê tính từ ngày 01/01 đến ngày 15/12 hàng năm)

Số liệu thống kê năm 2011 như sau:

TT

1

Ngành

Vốn đăng Số lượt
Số dự án ký cấp mới dự án
cấp mới
(triệu
tăng
USD)
vốn

CN chế biến,chế 435

5,220.95

283

Vốn đăng
ký tăng
thêm
(triệu
USD)
1,903.02


Vốn đăng
ký cấp
mới và
tăng thêm
(triệu
USD)
7,123.97


tạo
SX, pp điện,
2
khí,nước,điều
5
2,525.66
2
2.55
hòa
3
Xây dựng
140
1,033.18
16
219.12
4
KD bất động sản 22
741.63
7
103.98

Dịch vụ lưu trú
5
19
252.78
2
222.01
và ăn uống
Thông tin
6
70
495.75
10
390.15
và truyền thông
Bán buôn, bán
7
154
414.03
15
14.47
lẻ;sửa chữa
Cấp nước;
8
3
323.21
1
xử lý chất thải
HĐ chuyên
9
157

248.23
15
13.53
môn, KHCN
Nghệ thuật và
10
10
14.88
1
138.18
giải trí
Nông,lâm
11
20
61.93
10
68.83
nghiệp;thủy sản
12 Dịch vụ khác
11
45.59
5
34.35
13 Vận tải kho bãi 19
49.12
4
25.82
14 Khai khoáng
5
98.40

Y tế và trợ giúp
15
2
22.00
XH
Giáo dục và đào
16
14
7.67
1
0.10
tạo
Hành chính
17
5
3.55
2
1.30
và dịch vụ hỗ trợ
Tổng số
1,091
11,558.55 374
3,137.40
(Bảng 5: Thu hút đầu tư trực tiếp theo ngành năm 2011)

2,528.21
1,252.30
845.61
474.80
885.90

428.49
323.21
261.76
153.06
130.76
79.94
74.94
98.40
22.00
7.76
4.85
14,695.95

Số liệu thống kê năm 2012:

TT

Ngành

Vốn đăng
Vốn đăng
Số lượt
ký cấp
Số dự Vốn đăng
ký tăng
dự án
mới và
án cấp ký cấp mới
thêm
tăng

tăng thêm
mới (triệu USD)
(triệu
vốn
(triệu
USD)
USD)


1
2

CN chế biến,chế tạo
KD bất động sản
Bán buôn,bán lẻ;
3
sửa chữa
Thông tin và truyền
4
thông
5
Vận tải kho bãi
6
Xây dựng
Dvụ lưu trú và ăn
7
uống
8
Y tế và trợ giúp XH
HĐ chuyên môn,

9
KHCN
10 Giáo dục và đào tạo
Nông,lâm
11
nghiệp;thủy sản
Nghệ thuật và giải
12
trí
SX,ppđiện,khí,nước,
13
đ.hòa
14 Dịch vụ khác
15 Khai khoáng
Hành chính
16
và dịch vụ hỗ trợ
Cấp nước;
17
xử lý chất thải
Tài chính,Ngân
18
hàng,bảo hiểm
Tổng số

498
10

4,796.14
1,356.14


303
6

4,304.12
494.56

9,100.26
1,850.71

175

430.88

27

52.37

483.25

79

395.46

16

15.79

411.25


28
81

209.48
181.91

7
20

5.61
-1.09

215.09
180.82

15

33.51

4

74.73

108.23

5

136.81

146


63.49

27

19.28

82.77

6

14.09

4

72.38

86.47

16

33.19

10

54.70

87.89

5


44.00

2

45.05

89.05

13

89.36

4

4.02

93.38

8
6

2.93
61.93

4

16.71

19.65

61.93

6

4.16

1

1.00

5.16

2

0.51

0.51

1

0.10

0.10

1,100

7,854.10

136.81


435

5,159.24

13,013.34

Số lượt
dự án
tăng
vốn

Vốn đăng
Vốn đăng
ký cấp
ký tăng
mới và
thêm
tăng thêm
(triệu
(triệu
USD)
USD)

Số liệu thống kê năm 2013:

TT

Ngành

Số dự Vốn đăng

án cấp ký cấp mới
mới (triệu USD)


×