Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường mỹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (657.11 KB, 82 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay trước xu hướng vận động của nền kinh tế thế giới là toàn cầu
hoá và tự do hoá thương mại. Thì các nước đang phát triển trong quá trình
thực hiện Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước, luôn gặp phải những khó
khăn lớn về vốn, công nghệ, kỹ thuật... Và Việt Nam cũng là một trong những
nước đang phát triển đó. Do đó để thực hiện mục tiêu của mình, Đảng và Nhà
nước đã chuyển nền kinh tế nước ta từ tập trung, ưu tiên phát triển tư liệu sản
xuất (công nghiệp nặng) sang thực hiện đồng thời cả ba chương trình kinh tế:
Lương thực; xuất khẩu; hàng tiêu dùng (Công nghiệp nhẹ) và thực hiện chính
sách mở cửa nền kinh tế. Trước hết là phát triển ngành công nghiệp nhẹ có
khả năng cạnh tranh cao, đặc biệt là phát triển các ngành công nghiệp sử dụng
ít vốn, thu hút nhiều lao động, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho
xuất khẩu, trên cơ sở phát huy nội lực, thực hiện nhất quán, lâu dài thu hút các
nguồn lực bên ngoài, tích cực chủ động, mở rộng thâm nhập thị trường quốc
tế. Vì vậy, mà ngành dệt may đã có điều kiện phát triển nhanh chóng. Đến
nay ngành công nghiệp này là một trong những ngành công nghiệp xuất khẩu
mũi nhọn của nước ta, có vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Sản xuất tăng
trưởng nhanh, thị trường luôn được mở rộng, kim ngạch xuất khẩu không
ngừng tăng và có ảnh hưởng lớn đến kim ngạch xuất khẩu của cả nước; góp
phần cân bằng cán cân xuất nhập khẩu, thu hút nhiều lao động và đóng góp
ngày càng nhiều vào ngân sách nhà nước.
Trong nhiều năm qua, đối với xuất khẩu của Việt nam nói chung, Mỹ
vẫn là một thị trường lớn, đặc biệt đối với ngành dệt may, đó là thị trường số
1. Với một nền kinh tế có thể nói là mạnh nhất thế giới, có tốc độ tăng trưởng
kinh tế cao và tương đối ổn định, thị trường Mỹ có vai trò quan trọng trong
thương mại Quốc tế. Vì vậy, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may vào
1


thị trường Mỹ là vấn đề cần thiết và lâu dài trong chiến lược phát triển kinh tế


của nước ta. Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu dệt may thời gian qua chưa thực
sự có hiệu quả cao. Để góp phần giải quyết khó khăn này đề tài “ giải pháp
thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ” được chọn làm đề
tài nghiên cứu.
2. Mục đích ngiên cứu của đề tài: Tìm hiểu về thực trạng xuất khẩu
của ngành dệt may sang thị trường Mỹ trong những năm gần đây. Từ đó, đưa
ra giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu.
3. Đối tượng nghiên cứu: Là hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt
Nam.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Hoạt động xuất khẩu dệt may của
Việt Nam, thị trường xuất khẩu Mỹ.
5. Nội dung nghiên cứu:
- Phân tích thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường
Mỹ.
- Đưa ra các giải pháp đối với doanh nghiệp và kiến nghị đối với nhà
nước.
6. Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên
cứu: thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh...
7. Kết cấu đề tài:
- Chương 1: Lý thuyết tổng quan.
- Chương 2: Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ.
- Chương 3: Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường
Mỹ.

2


CHƯƠNG 1: LÝ THUYẾT TỔNG QUAN
1.1. Khái niệm và đặc điểm của xuất khẩu
1.1.1. Khái niệm

Xuất khẩu là hoạt động bán hàng hoặc cung cấp dịch vụ cho người
nước ngoài trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương thức thanh toán. Trong xuất
khẩu luồng tiền tệ dịch chuyển từ nước nhập khẩu sang nước xuất khẩu và có
một luồng hàng hóa dịch chuyển theo hướng ngược lại từ nước xuất khẩu
sang nước nhập khẩu. Xuất khẩu là sự mở rộng của hoạt động buôn bán trong
nước là một bộ phận của thương mại quốc tế.
Một hoạt động giao dịch hàng hóa và dịch vụ được gọi là xuất khẩu khi
phải thỏa mãn một số điều kiện nhất định:
- Trụ sở kinh doanh của bên mua và bên bán của hai nước khác nhau.
- Đồng tiền thanh toán thường là ngoại tệ đối với một trong hai bên
hoặc cả hai bên.
- Hàng hóa – đối tượng của giao dịch phải di chuyển ra khỏi biên giới
của một nước.
1.1.2. Đặc điểm
- Hoạt động kinh doanh xuất khẩu là một hoạt động diễn ra trên phạm
vi lớn cả về không gian và thời gian, hoạt động này được thực hiện không chỉ
giữa các quốc gia láng giềng mà còn diễn ra giữa các nước tạo ra một thị
trường rộng lớn và nhiều tiềm năng khai thác. Kinh doanh xuất nhập khẩu có
thể diễn ra nhanh chóng trong vài giờ hoặc có thể kéo dài lâu hơn thậm chí
kéo dài hàng năm.
- Kinh doanh xuất khẩu là hoạt động chủ yếu là hoạt động ngoại thương
do đó mà nó chịu tác động mạnh mẽ của các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô
như chế độ chính sách, luật pháp, kinh tế, văn hoá, đặc biệt là chịu ảnh hưởng
của tỷ giá hối đoái và tỷ suất ngoại tệ hàng xuất khẩu. Ngoài ra các yếu tố
3


thuộc môi trường vi mô như sự cạnh tranh của các đối thủ, tiềm năng tài
chính, chiến lược kinh doanh của công ty cũng ảnh hưởng đáng kể đến hoạt
động xuất khẩu. Do chịu sự chi phối của các nhân tố trên mà hoạt động hoạt

động kinh doanh xuất khẩu mặc dù lợi nhuận cao nhưng lại có tính rủi ro
tương đối lớn.
- Hoạt động xuất khẩu xét về mặt bản chất chính là hợp đồng mua bán
quốc tế được ký kết trên cơ sở tự nguyện của các bên, do đó mà nó chịu sự
điều chỉnh bởi nhiều hệ thống luật như luật quốc gia, luật quốc tế. Khi hoạt
động này diễn ra đồng nghĩa với việc ký kết hoạt đồng mua bán quốc tế, khi
đó người bán sẽ chuyển giao chứng từ có liên quan đến hàng hoá và chuyển
giao quyền sở hữu hàng hoá ấy cho người mua, người mua phải có trách
nhiệm thanh toán và nhận hàng. Quá trình này diễn ra kèm theo với nó là các
thủ tục hải quan và thủ tục hành chính khác. Nhưng đồng tiền thanh toán phải
là ngoại tệ đối với một trong hai đối tác, thông thường đó là các ngoại tệ
mạnh như USD, JPY, EURO...
- Hoạt động xuất khẩu là hoạt động mua bán hàng hoá vượt ra khỏi
biên giới quốc gia nên phải sử dụng các phương tiện vận tải chuyên dụng như:
Vận tải đường biển, đường sắt, máy bay hoặc đường bộ. Vận chuyển hàng
hoá từ nơi người bán đến tận tay người mua thường là phải qua quãng đường
dài đó là hàng hoá phải được đóng gói trong bao bì đảm bảo phù hợp với
phương tiện vận tải, điều kiện khí hậu, tránh hao mòn, mất mát và hư hỏng.
- Bản chất của xuất khẩu là hợp đồng mua bán quốc tế nên phải thống
nhất ngôn ngữ soạn thảo, phải là hình thức văn bản có chũ ký pháp lý, các
điều kiện và điều khoản phải rõ ràng, súc tích và phải thống nhất và chỉ rõ
luật điều chỉnh.

4


1.2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu.
Trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, không một quốc gia nào
có thể tự sản xuất tất cả các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đáp ứng nhu cầu
trong nước. Vì vậy, tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế là điều kiện

cần thiết cho mỗi quốc gia. Mối quốc gia phải thông qua trao đổi, mua bán
với các quốc gia nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình. Như vậy, hoạt động xuất
khẩu góp phần quan trọng vào sự phát triển hay suy thoái, lạc hậu của quốc
gia so với thế giới, ích lợi của hoạt động xuất khẩu được thể hiện như sau:
1.2.1. Đối với nền kinh tế
Xuất khẩu hàng hóa nằm trong khâu phân phối và lưu thông hàng hóa
trong quá trình tái sản xuất mở rộng, nhằm mục đích liên kết giữa sản xuất và
tiêu dùng.
+ Xuất khẩu đã tạo nguồn vốn chính cho nhập khẩu, phục vụ công
nghiệp hoá đất nước
Công nghiệp hoá với những bước đi phù hợp là con đường tất yếu để
khắc phục tình trạng nghèo nàn lạc hậu. Tuy nhiên, công nghiệp hoá đòi hỏi
phải có số lưng lớn vốn để nhập khẩu những máy móc thiết bị, công nghệ tiên
tiến. Nguồn vốn nhập khẩu có thể tập trung từ các hình thức như: Đầu tư nước
ngoài, vay nợ, viện trợ, thu từ xuất khẩu…Các nguồn này tuy quan trọng
nhưng sẽ phải trả dù bằng cách này hay cách khác. Như vậy, nguồn vốn quan
trọng cho nhập khẩu phần lớn trông chờ vào xuất khẩu. Xuất khẩu quyết định
quy mô và tốc độ tăng trưởng của nhập khẩu.
+ Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy
sản xuất phát triển
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa phù hợp
với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới và là tất yếu đối với Việt Nam.
Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
5


Một là: xuất khẩu chỉ tiêu thụ những sản phẩm thừa so với nhu cầu nội
địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển, sản xuất về
cơ bản còn chưa đủ tiêu dùng, nếu chỉ thụ động chờ “thừa” của sản xuất thì

xuất khẩu chỉ ở quy mô nhỏ và tăng trưởng chậm, thậm chí thụt lùi.
Hai là: trên cơ sở lợi thế so sánh của đất nước mình, coi thị trường là
điểm xuất phát và đặc biệt thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức
sản xuất, chỉ sản xuất cái gì thị trường cần. Quan điểm này xuất phát từ nhu
cầu thị trường thế giới kết hợp với tài năng, thực lực của đất nước để tổ chức
sản xuất, hình thành các ngành kinh tế hướng về xuất khẩu. Những ngành
kinh tế đó phải có kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để hàng hóa khi tham gia
thị trường thế giới có đủ sức cạnh tranh và mang lại lợi ích cho quốc gia. Điều
đó, tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy sản xuất
phát triển. Đó là:
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận
lợi.
- Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần thúc
đẩy sản xuất phát triển.
- Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản
xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
- Thông qua xuất khẩu, hàng hóa của ta sẽ tham gia vào cuộc cạnh
tranh trên thị trường thế giới. Các cuộc cạnh tranh này đòi hỏi chúng ta phải
tổ chức lại sản xuất, hính thành cơ cấu sản xuất thích nghi được với thị
trường.
Như vậy, hiểu theo cách này, xuất khẩu được coi là giải pháp làm
chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách mạnh mẽ theo chiều hướng có lợi hơn,
hiệu quả kinh tế cao hơn.
+ Xuất khẩu tác động tích cực tới giải quyết công ăn việc làm và cải
thiện đời sống nhân dân
6


Tác động của xuất khẩu ảnh hưởng đến rất nhiều lĩnh vực của cuộc
sống. Sản xuất hàng hóa xuất khẩu sẽ thu hút hàng triệu lao động vào làm

việc, tao ra thu nhập ổn định, đồng thời tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu vật phẩm
tiêu dùng đáp ững nhu cầu ngày càng cao của người dân.
+ Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các hoạt động kinh tế dối
ngoại của nước ta
Quan hệ kinh tế đối ngoại là tổng thể các quan hệ về thương mại, kinh
tế khoa học kỹ thuật giữa một quốc gia này với một quốc gia khác. Các hình
thức của quan hệ kinh tế quốc tế là xuất nhập khẩu hàng hóa hữu hình, đầu tư
quốc tế, du lịch dịch vụ, xuất khẩu lao động, hợp tác khoa học kỹ thuật, hợp
tác sản xuất, hợp tác tài chính.
Xuất khẩu là một hoạt động rất cơ bản của kinh tế đối ngoại, là phương
tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề
có ý nghĩa chiến lược để thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Hiện nay, Nhà nước đã và đang thực hiện các biện pháp thúc đẩy các ngành
kinh tế hướng về xuất khẩu (tất nhiên không coi nhẹ sản xuất trong nước và
thị trường trong nước), khuyến khích tư nhân mở rộng xuất khẩu để giải quyết
công ăn việc làm và tăng thu ngoại tệ.
+ Xuất khẩu góp phần quan trọng vào việc giải quyết các vấn đề sử
dụng có hiệu quả hơn các nguồn tài nguyên thiên nhiên
Việc đưa các nguồn tài nguyên thiên nhiên tham gia vào sự phân công
lao động quốc tế, thông qua việc phát triển các ngành chế biến, xuất khẩu đã
góp phần nâng cao giá trị hàng hoá, giảm bớt những thiên tai do điều kiện
thiên nhiên ngày càng trở nên bất lợi cho hàng hoá và nguyên liệu cho xuất
khẩu.
Như vậy, có thể nói đẩy mạnh xuất khẩu sẽ tạo ra động lực cần thiết
giải quyết những vấn đề thiết yếu của nền kinh tế. Điều này nói lên tính khách
quan của việc tăng cường xuất khẩu trong quá trình phát triển kinh tế.
7


1.2.2. Đối với doanh nghiệp

Thông qua xuất khẩu, các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia
và tiếp cận vào thị trường thế giới. Nếu thành công đây sẽ là cơ sở để các
doanh nghiệp mở rộng thị trường và khả năng cũng như quy mô sản xuất của
mình.
Xuất khẩu kết hợp với nhập khẩu trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần sẽ góp phần đẩy mạnh liên doanh liên kết giữa các doanh
nghiệp trong và ngoài nước một cách tự giác, mở rộng quan hệ kinh doanh
khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực hiện có, giải quyết công ăn
việc làm cho người lao động.
Sản xuất hàng hóa xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều lao
động vào làm việc tạo ra thu nhập ổn định, tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu
nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất hàng hóa, đáp ứng nhu cầu thị trường.
Khi tham gia vào kinh doanh quốc tế tất yếu sẽ đặt các doanh nghiệp
vào một môi trường cạnh tranh khốc liệt mà ở đó nếu muốn tồn tại và phát
triển được thì đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao chất
lượng, cải tiến mẫu mã, hạ giá thành sản phẩm. Đây sẽ là một nhân tố thúc
đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.3. Các hình thức của xuất khẩu
Căn cứ vào đặc điểm sở hữu hàng hoá trước khi xuất khẩu, nguồn hàng
nhập khẩu của doanh nghiệp người ta chia ra các hình thức sau:
* Xuất khẩu trực tiếp: Là hình thức doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá,
dịch vụ do mình tự sản xuất, kinh doanh hoặc thu mua từ các đối tác nội địa
đến các khách hàng nước ngoài hoặc thông qua kênh phân phối và đại diện
bán hàng của tổ chức mình ở thị trường mục tiêu.
Ưu điểm:

8


- Doanh nghiệp trực tiếp tiếp xúc với khách hàng, với thị trường nên

nắm bắt được sự thay đổi của thị trường, dễ điều chỉnh khi thị trường biến
đổi.
- Hình thức này diễn ra nhanh chóng, bí mật, thuận tiện, giữ được
khách hàng đảm bảo được nguồn hàng của doanh nghiệp dù tự sản xuất hoặc
thu gom.
Nhược điểm:
- Chi phí tốn kém, yêu cầu cả 2 đối tác phải có nghiệp vụ chuyên môn
sâu.
- Tính rủi ro cao do khách hàng bất ngờ thay đổi.
* Xuất khẩu gián tiếp: Là hình thức mà doanh nghiệp xuất khẩu hàng
hoá, dịch vụ của mình thông qua dịch vụ của đơn vị độc lập có trụ sở ở thị
trường mục tiêu.
Ưu điểm:
- Tận dụng được năng lực kinh doanh của đơn vị, tổ chức đó mà không
cần phải điều tra, nghiên cứu thị trường.
- Hạn chế được rủi ro, tính an toàn cao.
Nhược điểm:
- Doanh nghiệp sẽ bị phụ thuộc vào các tổ chức tiêu thụ do không nắm
bắt được xu hướng thay đổi của thị trường.
- Dễ bị mất khách vì các tổ chức tiêu thụ có cơ hội lựa chọn người cung
cấp với chi phí rẻ nhất.
- Phải chia sẻ lợi nhuận cho các tổ chức này.
*Buôn bán đối lưu: Đây là hình thức giao dịch trao đổi hàng hoá, dịch
vụ mà xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu. Nghĩa là bên mua vừa là bên
bán, bên bán vừa là bên mua theo phương thức hàng đổi hàng theo giá trị
tương đương. Buôn bán đối lưu còn được gọi là phương thức đổi hàng hay
xuất nhập khẩu liên kết. Tuy nhiên, hình thức này không chỉ cân bằng về mặt
9



giá trị hàng hoá xuất nhập khẩu mà phải cân bằng về chủng loại hàng hoá, về
giá cả, điều kiện giao nhận hàng.
Ưu điểm:
- Phù hợp với quốc gia thiếu ngoại tệ vì phương thức này ít dùng đến
ngoại tệ.
- Chi phí thấp, tính rủi ro thấp.
Nhược điểm:
- Do hình thức này là hình thức xuất nhập khẩu liên kết nên người xuất
khẩu có thể trở thành đối tượng để khai thác thị trường cho bên kia.
- Không thuận lợi khi bên xuất khẩu mua lại chủng loại hàng hoá mà
mình không am hiểu.
* Tái xuất: Là hình thức xuất bán đi những hàng hoá đã nhập khẩu
trước đây mà không qua chế biến cho đối tác nước ngoài. Đôi khi hàng không
nhận về trong nước mà nhận ngay ở nước ngoài và giao ngay cho đối tác ở
nước khác. Mục đích của hình thức này là thu được một lượng ngoại tệ lớn
hơn lượng ngoại tệ đã bỏ ra lúc đầu.
Tuy nhiên ở nước ta thì quan niệm rằng tái xuất là loại hình tái xuất
theo đúng nghĩa của nó nghĩa là hàng hoá dịch vụ phải được nhập khẩu về
trong nước sau đó mới xuất khẩu sang nước thứ ba.
* Xuất khẩu tại chỗ: Là hình thức bán hàng hoá dịch vụ của mình cho
đối tác nước ngoài ngay tại nước mình, phương tiện thanh toán phải là ngoại
tệ, đối tác nước ngoài có thể là khách du lịch, các đoàn ngoại giao...
Ưu điểm:
- Chi phí thấp, ít rủi ro vì kinh doanh tại nước nhà.
- Thuận lợi với các quốc gia có ngành kinh tế dịch vụ du lịch phát triển.
* Gia công xuất khẩu: Là hoạt động mà một bên nhập khẩu nguyên
liệu, thiết bị kỹ thuật, hoặc bán thành phẩm sau đó chế biến sản xuất ra sản
phẩm và giao cho bên đặt làm theo mẫu mã, tiêu chuẩn thoả thuận giữa 2 bên.
10



Như vậy trong hình thức này thì hoạt động thương mại gắn liền với hoạt động
sản xuất. Hoạt động này có ưu điểm là đạt được hiệu quả kinh tế cao vì tận
dụng và khai thác được khả năng chuyên môn hoá trong sản xuất. Bên sản
xuất sẽ nhận được tiền công hoặc nguyên vật liệu khác do bên đặt làm tri trả
theo thoả thuận tự nguyện của cả hai bên.
* Xuất khẩu theo nghị định thư: Là hình hình thức xuất khẩu loại
hàng hoá được quy định trong Nghị định thư được ký kết giữa các chính phủ
theo chỉ tiêu mà Nhà nước giao cho.
Ưu điểm:
- Không cần chi phí nghiên cứu thị trường
- Không có rủi ro khi thanh toán.
1.4. Nội dung của hoạt động xuất khẩu
1.4.1. Công tác nghiên cứu thị trường xuất khẩu và lựa chọn mặt
hàng.
* Nghiên cứu thị trường xuất khẩu
- Đây là công việc quan trong đầu tiên cần được tiến hành cẩn thận khi
một doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu. Vai trò của công tác nghiên
cứu thị trường là giúp các doanh nghiệp nhận thức được quy luật, vận động
của thị trường xuất khẩu vì thị trường là không đồng nhất ở mọi nơi, qua đó
tìm hiểu triển vọng bán hàng cho một sản phẩm cụ thể hay một nhóm mặt
hàng nhất định, thông qua nghiên cứu thị trường xuất khẩu giúp doanh nghiệp
các thông tin về quy mô, dung lượng thị trường, các ngành hàng mới khả
năng cạnh tranh hàng hoá của doanh nghiệp, chu kỳ sống của sản phẩm, các
biện pháp và hình thức để thâm nhập vào đoạn thị trường mục tiêu đó.
Nghiên cứu thị trường là quá trình tiến hành điều tra thu thập thông tin
và số liệu về thị trờng mục tiêu từ đó so sanh sức tiêu thụ tiềm năng, phân tích
số liệu để thấy được hiệu quả kinh tế và rút ra kết luận. Kết thúc quá trình này

11



các nhà quản trị phải có kế hoạch lập ra các biện pháp Marketing giúp doanh
nghiệp nhanh chóng chiếm thị phần ở đoạn thị trường có hiệu quả ấy.
Khi thu thập thông tin, cần phân biệt đâu là thông tin sơ cấp (Frimary
information) và đâu là thông tin thứ cấp (Secondary Information). Dựa vào
hai loại thị trường trên, người ta thường sử dụng hai phương pháp nghiên cứu
thị trường sau:
+ Nghiên cứu tại hiện trường: là cách thu thập thông tin về thị trường
trực tiếp từ khách hàng thông qua các cuộc phỏng vấn, điều tra nhưng chi phí
cao và mất thời gian.
+ Nghiên cứu tại bàn: là cách thu thập thông tin thị trường thông qua
các phương tiện thông tin đại chúng, các ấn phẩm (Báo, tạp chí, chuyên đề
định kỳ, thống kê của các ngành và tổng cục), các tài liệu ở nước ngoài, thông
tin từ các cơ quan liên quan, uỷ ban kinh tế trung ương, các tổ chức quốc tế
như quỹ tiền tệ thế giới (IMF), tổ chức thương mại quốc tế WTO, ngân hàng
quốc tế (WB), các tài liệu thống kê của liên hợp quốc...
Khi nghiên cứu thị trường xuất khẩu thì doanh nghiệp phải tiến hành
các công việc sau:
- Nghiên cứu tình hình cung cầu của hàng hoá trên thị trường: Doanh
nghiệp phải xác định được tổng cung, tổng cầu dự báo của thế giới, của khu
vực hay quốc gia, xác định được quy mô, dung lượng của thị trường thị hiếu
tiêu dùng sản phẩm, chu kỳ sống của sản phẩm, vấn đề nguyên vật liệu sản
xuất sản phẩm ... Ngoài ra cần phải xác định xem nhân tố nào có ý nghĩa quan
trọng quyết định đến triển vọng bán hàng tại thời điểm nghiên cứu và trong
tương lai.
- Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng: Xem xét các yếu tố thuộc môi
trường vĩ mô (kinh tế, chính trị, văn hoá...) các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô
(cạnh tranh, giá cả cung cầu, khả năng tài chính ....). Lợi ích thu được từ
nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng là giúp cho doanh nghiệp tránh được rủi ro

12


và thua lỗ khi thâm nhập thị trường. Vấn đề giá cả có thể được nghiên cứu kỹ
lưỡng hơn vì nó quyết định đến lợi nhuận của doanh nghiệp. ảnh hưởng đến
sức tiêu thụ của sản phẩm, đây là vấn đề chiến lược vì nó là điều kiện để đảm
bảo hiệu quả kinh tế trong kinh doanh xuất khẩu.
- Xác định đối tác kinh doanh: Mục tiêu của công việc này để tìm cho
doanh nghiệp người cộng tác tin cậy, an toàn và kinh doanh có lãi. Khi đó cần
xem xét xem đối tác kinh doanh trong lĩnh vực gì, quan điểm kinh doanh, khả
năng tài chính, mức độ uy tín của họ trên thị trường và phạm vi trách nhiệm
của họ để công tác. Nên chọn những đối tác trực tiếp, tránh đối tác trung gian.
- Nghiên cứu chính sách ngoại thương của các quốc gia, xem xét chính
sách thị trường, chính sách ưu đãi, chính sách mặt hàng... Các chính sách này
quyết định đến việc doanh nghiệp lựa chọn mặt hàng và phương thức thâm
nhập thị trường đó.
* Lựa chọn mặt hàng xuất khẩu
- Lựa chọn mặt hàng xuất khẩu phụ thuộc rất nhiều vào chính sách thị
trường, chính sách ưu đãi và chính sách mặt hàng của quốc gia nhập khẩu. Nó
qui định mặt hàng được phép kinh doanh, được phép nhập khẩu, mặt hàng
nào còn hạn ngạch...
- Lựa chọn mặt hàng dựa vào thị hiếu tiêu dùng sản phẩm, quan trọng
nhất là yếu tố văn hoá. Ngoài ra còn phải tính đến thương hiệu của sản phẩm,
quy cách phẩm chất bao bì... tính thời vụ của sản phẩm, khả năng cung cấp
nguyên vật liệu đầu vào, nhân công, kỹ thuật...
- Xem xét sản phẩm định xuất khẩu đang ở giai đoạn nào của chu kỳ
sống trên thị trường. Nếu sản phẩm đang ở giai đoạn thâm nhập và phát triển
thì việc xuất khẩu là thuận lợi. Nhưng có những sản phẩm ở giai đoạn thoái
trào của chu kỳ sống nhờ vào các biện pháp khuyếch trương cải tiến sản phẩm
làm cho sản phẩm có thể kéo dài được chu kỳ sống và từ đó có thể đẩy mạnh

xuất khẩu.
13


- Một căn cứ nữa cũng được xét tới là tỷ suất ngoại tệ của hàng hoá. Tỷ
suất ngoại tệ của hàng hoá xuất khẩu là tổng số nội tệ chi phí ra để thu được
một đơn vị ngoại tệ. Nếu tỷ suất này lớn hơn tỷ giá hối đoái hối đoái hiện tại
thì không nên xuất khẩu.
1.4.2. Lập phương án kinh doanh và tạo nguồn hàng xuất khẩu.
* Lập phương án kinh doanh: Dựa vào kết quả của quá trình nghiên
cứu thị trường, doanh nghiệp đưa ra phương án kinh doanh của mình bao
gồm các công việc sau:
- Lựa chọn thị trường kinh doanh
- Lựa chọn mặt hàng kinh doanh
- Lựa chọn phương thức giao dịch, phương thức thanh toán
- Đề ra mục tiêu cụ thể
- Các biện pháp thực hiện
- Đánh giá kết quả và hiệu quả của phương án kinh doanh qua một số
các chỉ tiêu.
* Công tác tạo nguồn hàng xuất khẩu.
Nguồn hàng là toàn bộ khối lượng và cơ cấu hàng hoá thích hợp với
nhu cầu khách hàng có khả năng huy động trong kỳ kế hoạch. Muốn khai thác
nguồn hàng thì doanh nghiệp phải nghiên cứu nguồn hàng. Công việc này có
ý nghĩa chiến lược đối với uy tín, ổn định tính linh động và chi phí sản xuất
của doanh nghiệp.
Có 2 phương pháp nghiên cứu nguồn hàng là:
- Phương pháp lấy mặt hàng làm đơn vị nghiên cứu: Nghiên cứu tình
hình khả năng và tiêu thụ của từng mặt hàng.
- Phương pháp lấy cơ sở sản xuất làm đơn vị nghiên cứu: Theo dõi
nguồn lực sản xuất và cung ứng sản phẩm của từng cơ sở sản xuất.

Sau đó doanh nghiệp tổ chức đàm phán và thực hiện hợp đồng, đánh
giá kết quả của công ty tạo nguồn hàng.
14


1.4.3. Giao dịch đàm phán kinh doanh và ký hợp đồng xuất khẩu.
* Giao dịch đàm phán kinh doanh
Đàm phán là hoạt động bên mua và bên bán tiến hành trao đổi, thoả
thuận các điều kiện mua bán, quy định quyền và nghĩa vụ đối với nhau để đi
đến thống nhất ký kết hợp đồng.
Đàm phán được chia thành 2 phương thức chính như sau:
- Đàm phán trực tiếp: là hoạt động giao dịch mà người mua và người
bán trực tiếp gặp gỡ để qui định các điều kiện trong mua bán, giao dịch hàng
hoá, giá cả, điều kiện thanh toán mỗi khi thoả thuận xong một điều kiện nào
đó, hai bên sẽ ghi lại bằng văn bản để làm bằng chứng. Hiện nay phương thức
này được sử dụng khá phổ biến đòi hỏi người thực hiện công tác này phải
thường xuyên có sự nâng cao kinh nghiệm, trình độ đàm phán, trao đổi kiến
thức chuyên môn để tránh bị động trước đối tác giao dịch.
Đàm phán gián tiếp: Là phương thức giao dịch mà người bán và người
mua không trực tiếp gặp nhau mà tiến hành trao đổi các yêu cầu, quy định và
các quyền và nghĩa vụ của nhau thông qua thư từ, điện tín. Phương thức này
bao gồm các hoạt động: Hỏi giá, báo giá, chào hàng, hoàn giá, chấp nhận và
xác nhận.
* Ký kết hợp đồng
Sau khi kết thúc đàm phán, các bên mua - bán tiến hành ký kết hợp
đồng. Do có yếu tố nước ngoài nên hợp đồng xuất nhập khẩu có nguồn luật
điều chỉnh phức tạp hơn so với hợp đồng mua bán trong nước. Mặc dù vậy
một hợp đồng có hiệu lực thì trước hết nó phải tuân theo luật pháp quốc gia
mà chủ thể mang quốc tịch. Các bên có thể lựa chọn công ước quốc tế, pháp
luật nước ngoài, các tập quán thương mại quốc tế để điều chỉnh hợp đồng

ngoại thương. Việc lựa chọn nguồn luật điều chỉnh do 2 bên tự thoả thuận,
các hợp đồng được sử dụng thường căn cứ vào mẫu để xây dựng, đối với
những trường hợp phức tạp, nhiều mặt hàng, thì kèm theo hợp đồng phải có
15


các bên phụ kiện, có thể bổ sung, lược bỏ đi những điều kiện không cần thiết
cho phù hợp với thực tiễn.
Trong kinh doanh quốc tế, tuỳ thuộc vào hình thức kinh doanh mà có
các loại hợp đồng cụ thể: hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hoá, hợp đồng gia
công, hợp đồng uỷ thác xuất khẩu, hợp đồng chuyển giao công nghệ... Các
hợp đồng này bên cạnh các điều khoản thông thường còn có các điều khoản
riêng biệt cho từng loại.
1.4.4. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu
Sau khi kí kết hợp đồng hai bên thực hiện những gì mình đã cam kết
trong hợp đồng. Với tư cách là nhà xuất khẩu, doanh nghiệp sẽ thực hiện
những công việc sau:
* Giục mở L/C và kiểm tra L/C đó
Trong hoạt động buôn bán quốc tế hiện nay việc sử dụng L/C đã trở
thành phổ biến hơn cả, do lợi ích của nó mang lại. Sau khi người nhập khẩu
mở L/C, người xuất khẩu phải kiểm tra cẩn thận, chi tiết các điều kiện trong
L/C xem có phù hợp với điều kiện của hợp đồng hay không. Nếu không phù
hợp hoặc có sai sót thì cần phải thông báo cho người nhập khẩu biết để sửa
chữa cho kịp thời còn nếu không thấy thì thông báo cho bên nhập khẩu biết và
tiến hành chuẩn bị giao hàng.
* Xin giấy phép xuất khẩu
Trong một số trường hợp, mặt hàng xuất khẩu thuộc danh mục Nhà
nước quản lý, doanh nghiệp cần phải tiến hành xin giấy phép xuất khẩu do
phòng cấp phép giấy xuất khẩu của Bộ Thương Mại quản lý.
* Chuẩn bị hàng xuất khẩu

Đối với những doanh nghiệp sau khi thu mua nguyên phụ liệu sản xuất
ra sản phẩm, cần phải lựa chọn kiểm tra, đóng gói bao bì hàng hóa xuất khẩu,
kẻ ký mã hiệu sao cho phù hợp với hợp đồng đã ký kết và luật pháp của nước
nhập khẩu.
16


* Kiểm định hàng hóa
Trước khi xuất khẩu, các nhà sản xuất phải có nghĩ vụ kiểm tra số
lượng, trọng lượng hàng hóa. Việc kiểm tra phải được tiến hành hai cấp cơ sở
và ở cửa khẩu nhằm đảm bảo quyền lợi cho khách hàng và uy tín của nhà sản
xuất.
* Thuê phương tiện vận chuyển
Doanh nghiệp xuất khẩu có thể tự thuê phương tiện vận chuyển hoặc ủy
thác cho một công ty ủy thác thuê tàu với bên nhận ủy thác là hợp đồng ủy
thác thuê tàu. Có hai loại hợp đồng thuê tàu: hợp đồng thuê tàu định hạn và
hợp đồng thuê tàu chuyến. Nhà xuất khẩu căn cứ vào đặc điểm của hàng hóa,
đặc điểm của tuyến đường vận chuyển và thời hạn giao hàng ký kết trong hợp
đồng để lựa chọn hợp đồng thuê tàu cho thích hợp, giảm thiểu tối đa chi phí.
* Mua bảo hiểm hàng hóa
Hàng hóa trong buôn bán quốc tế thường xuyên được chuyên chở bằng
đường biển, điều này thường gặp rất nhiều rủi ro, do đó cần phải mua bảo
hiểm cho hàng hóa. Công việc cần phải thực hiện thể hiện qua hợp đồng bảo
hiểm. Có hai loại hợp đồng bảo hiểm: hợp đồng bảo hiểm bao và hợp đồng
bảo hiểm chuyến. Khi mua bảo hiểm cần phải lựa chọn công ty bảo hiểm có
uy tín và lựa chọn các điều kiện bảo hiểm phù hợp với đặc điểm của hàng hóa
vận chuyển để đảm bảo an toàn cho hàng hóa mà số tiền bảo hiểm bỏ ra vẫn
là thấp nhất.
* Làm thủ tục hải quan
Hàng hóa khi vượt qua biên giới quốc gia để xuất khẩu đều phải làm

thủ tục hải quan. Việc làm thủ tục hải quan bao gồm ba bước chủ yếu sau:
- Khai báo hải quan: Doanh nghiệp thông qua phần mềm khai báo điện
tử của hải quan để khai báo tất cả những gì liên quan đến hàng hóa xuất khẩu
được yêu cầu như là: tên hàng, số lượng, chất lượng, giá trị, tên phương tiện
vận chuyển, nước nhập khẩu…Sau đó, chuẩn bị các chững từ càn thiết kèm
17


theo: Hợp đồng thương mại, hóa đơn thương mại, phiếu đóng gói, giấy phép
xuất khẩu…
- Xuất trình hàng hóa.
- Thực hiện các quyết định của hải quan.
* Giao hàng lên tàu
Trong bước này doanh nghiệp cần tiến hành các công việc sau:
- Lập bản đăng ký hàng chuyên chở.
- Xuất trình bản đăng ký cho người vận tải để lấy hồ sơ xếp hàng.
- Trao đổi với cơ quan điều độ cảng để nắm vững ngày giờ làm hàng.
- Bố trí phương tiện vận tải đưa hàng vào cảng, xếp hàng lên tàu.
- Ly biên lai thuyền phó, sau đó đổi biên lai lấy vận đơn đường biển
hoàn hảo. Sau đó, lập bộ chững từ thanh toán.
* Thanh toán
Thanh toán là bước cuối cùng của việc thực hiện hưpj đồng nếu không
có sự tranh chấp khiếu nại. Trong buôn bán quốc tế, có rất nhiều phương thức
thanh toán khác nhau:
- Phương thức chuyển tiền.
- Phương thức thanh toán mở tài khoản.
- Phương thức thanh toán nhờ thu.
- phương thức thanh toán tín dụng chứng từ.
Đối với nhà sản xuất về phương tiện thanh toán cần phải xem xét
những vấn đề sau:

- Người bán muốn đảm bảo rằng người mua có các phương tiện tài
chính để trả tiền mua hàng theo đúng hợp đồng đã ký.
- Người bán muốn việc thanh toán được thực hiện đúng hạn.
Trên bình diện quốc tế, hai phương tiện thanh toán là nhờ thu (D/P và
D/A) và thư tín dụng (chủ yếu là L/C không hủy ngang) được áp dụng phổ
biến hơn cả.
18


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY SANG
THỊ TRƯỜNG MỸ
2.1. Khái quát chung về thị trường Mỹ
2.1.1. Quan hệ Việt - Mỹ
Sau hơn 20 năm Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh chia cắt đất nước Việt
Nam và bị thất bại hoàn toàn vào ngày 30/4/1975 và để lại cho đất nước Mỹ
nhiều thệt hại nặng nề. Cuộc cấm vận kinh tế của Mỹ đối với Việt Nam kéo
dài trên 15 năm và những sự kiện đáng chú ý sau đây- đánh dấu sự phát triển
kinh tế giữa Việt Nam và Mỹ:
- 3/2/1994: Chính phủ Mỹ tuyên bố bỏ cấm vận buôn bán với Việt
Nam.
- 11/7/1995: Tổng thống Mỹ tuyên bố công nhận ngoại giao và bình
thường hoá quan hệ với Việt Nam.
- 5/8/1995: Bộ trưởng ngoại giao Mỹ sang thăm Việt Nam.
- Tháng 10/1995: Chủ tịch nước Việt Nam dự lễ kỷ niệm 50 năm thành
lập liên hợp quốc và lần đầu tiên thăm Mỹ, tiếp xúc với nhiều quan chức cao
cấp của chính quyền Mỹ. Hội đồng Thương Mại Mỹ tổ chức "Hội nghị về
bình thường hoá quan hệ, bước tiếp theo trong quan hệ Mỹ- Việt".
- Tháng 11/1995: Đoàn liên bộ Mỹ thăm Việt Nam tìm hiểu hệ thống
luật lệ Thương Mại đầu tư của Việt Nam.
- Tháng 4/1996: Mỹ trao cho Việt Nam văn bản "Những yếu tố bình

thường hoá quan hệ kinh tế Thương Mại với Việt Nam".
- Tháng 7/1996: Việt Nam trao cho Mỹ văn bản "Năm nguyên tắc bình
thường hoá quan hệ kinh tế Thương Mại và đàm phán hiệp định Thương Mại
Việt-Mỹ".
- Tháng 9/1996: Bắt đầu quá trình đàm phán hiệp định Thương Mại
song phương. Cuộc đàm phán này kéo dài 4 năm, thực hiện qua 11 vòng:
19


Vòng 1: Từ ngày 21/9/1996 đến ngày 26/9/1996 tại Hà Nội. Trong
vòng này chủ yếu đôi bên trao đổi các thông tin, tìm hiểu cơ chế Thương Mại
của nhau.
Vòng 2: Từ 9/12/1996 đến 11/12/1996 tại Hà Nội.
Vòng 3: Từ 12/4/1997 đến ngày 17/4/197 tai Hà Nội. Tại vòng đàm
phán thứ 2 và thứ 3, phía Mỹ đã soạn thảo và trao cho phía Việt Nam bản dự
thảo tổng thể hiệp định thương mại Việt-Mỹ gồm 4 chương: thương mại, sở
hữu trí tuệ, đầu tư và dịch vụ theo quan điểm mở cửa tự do hoàn toàn. Bản dự
thảo này áp dụng các quy định của WTO giành cho các nước đã phát triển,
phía Mỹ cho rằng: "Bản dự thảo chính là nội dung hiệp định thương mại mà
Mỹ đã ký với các nước cộng hoà thuộc Liên Xô (cũ), với các nước Đông Âu,
Mông Cổ, Lào và Campuchia các nước có cùng hoàn cảnh với Việt Nam, nên
Việt Nam không cần phải thảo luận và xem xét nhiều trước khi ký và thông
qua nó", nhưng sau khi nghiên cứu rất kỹ các khái niệm, đọc lại tất cả các
hiệp định thương mại mà Mỹ đã ký với các nước có hoàn cảnh tương tự như
Việt Nam và xin ý kiến lãnh đạo chúng ta đi đến quyết định" Việt Nam chỉ ký
kết hiệp định thương mại với Mỹ trên cơ sở các quy định của WTO áp dụng
với nước đang phát triển ở trình độ thấp". Với quan điểm đó chúng ta xây
dựng bản thảo của mình.
Vòng 4: Từ 6/10/1997 đến 11/10/1997 tại Washington. Tại vòng đàm
phán này, phía Việt Nam đưa ra bản dự thảo với cam kết sẽ mở cửa thị

trường, theo đó thời hạn bảo hộ dài nhất cho một số chủng loại hàng hóa và
dịch vụ là năm 2020.
Vòng 5: Từ 16/5/1998 đến 22/5/1998 tại Washington. Trước vòng đàm
phán này, các nhà đàm phán Việt Nam đã thiết kế lại bản dự thảo hiệp định
mới theo nguyên tắc Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) áp dụng cho các
nước có trình độ phát triển thấp.
Vòng 6: Từ 15/9/1998 đến 22/9/1998 tại Hà Nội.
20


Vòng 7: Từ 15/3/1999 đến 19/5/1999 tại Hà Nội. Tại hai vòng đàm
phán 6 và 7, các bên tiếp tục trao đổi về các vấn đề quan trọng chưa đi đến
nhất trí trong các vòng đàm phán trước như: phát triển quan hệ đầu tư, thương
mại dịch vụ, thương mại hàng hoá và sở hữu trí tuệ.
Vòng 8: Từ 14/6/1999 đến 18/6/1999 tại Washington.
Vòng 9: Từ 23/7/1999 đên 25/7/1999 tại Hà Nội, trong cuộc họp cấp
bộ trưởng, hai nước đã thông báo thoả thuận trên nguyên tắc những nội dung
mà hiệp định thương mại đã đạt được.
Vòng 10: Từ 28/8/1999 đến 2/9/1999 tại Washington.
Vòng 11: 3/7/2000 tại Washington. Sau khi đàm phán nốt những vấn
đề cuối cùng trong lĩnh vực viễn thông và rà soát lại một lần nữa toàn văn bản
hiệp định, ngày 13/7/2000, Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ đã được ký kết
tại Washington. Đại diện cho phía Việt Nam là bộ trưởng Vũ Khoan, đại diện
cho phía Mỹ là bà Charlene Barsefsky. Tham dự lễ ký kết có đại sứ hai nước
(đại sứ Lê Văn Bàng và đại sứ Peterson), trưởng hai đoàn đàm phán (ông
Trần Đình Lương và ông Joseph Diamond) và nhiều quan chức khác.
* Trong quá trình đàm phán, quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Mỹ
được củng cố bằng những sự kiện:
10/3/1998: Tổng thống Mỹ tuyên bố bãi bỏ việc áp dụng điều luật bổ
sung Jackson - Vanic đối với Việt Nam, góp phần bình thường hoá quan hệ

thương mại. Từ đây hàng năm quyết định này đều được tiếp tục ra hạn.
1999: Việt Nam dành cho Mỹ quy chế Tối Huệ Quốc trong buôn bán,
được ra hạn hàng năm.
16/11/2000 - 19/11/2000 : Tổng thống Mỹ Bill Clinton tới thăm Việt
Nam.
Cuối tháng 1/2001: Gần 200 doanh nghiệp Mỹ đang có hoạt động kinh
doanh tại Việt Nam ký tên gửi kiến nghị lên chính quyền mới của Mỹ - chính

21


quyền của tổng thống Bush - đề nghị đưa Hiệp định Thương Mại Việt - Mỹ
thông qua ở Quốc hội Mỹ, họp tháng 3/2001.
Tóm lại, trong nửa cuối thế kỷ 20 lịch sử giữa hai nước Việt Nam và
Mỹ đã có rất nhiều sự kiện ghi lại bằng máu và nước mắt của hàng triệu
người, nhưng năm năm qua nhờ sự nỗ lực của cả hai phía mà mối quan hệ
kinh tế - xã hội được cải thiện theo hướng hợp tác để phát triển trên cơ sở
bình đẳng cùng có lợi, tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau.
2.1.2. Tình hình ngoại thương Việt – Mỹ
Vào năm 2007, khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO thì thương
mại hàng hóa song phương Việt Nam – Mỹ trong giai đoạn từ năm 2007 đến
năm 2012 tiếp tục có những bước khởi sắc đáng kể. Cho đến nay, Mỹ là đối
tác lớn thứ hai của Việt Nam trên toàn thế giới, đứng sau Trung Quốc và là
đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam trong khu vực châu Mỹ.
Số liệu thống kê hải quan cho thấy, nếu như trong năm 2005 và 2006,
tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Hoa
Kỳ chỉ đạt tương ứng là 6,77 tỷ USD và 8,81 tỷ USD thì đến năm 2007, con
số này đã là 11,79 tỷ USD. Tuy chịu ảnh hưởng từ cuộc suy thoái kinh tế thế
giới nặng nề trong các năm tiếp theo, nhưng tổng kim ngạch xuất nhập khẩu
giữa Việt Nam – Mỹ vẫn duy trì ở mức cao. Đến năm 2012, tổng kim ngạch

xuất nhập khẩu hàng hóa giữa 2 quốc gia đã đạt đến con số 24,49 tỷ USD,
tăng 12,3% so với năm 2011 và gấp 3,6 lần kết quả thực hiện của năm 2005.
Trong đó, xuất khẩu đạt 19,66 tỷ USD và nhập khẩu đạt 4,83 tỷ USD.
Cán cân thương mại hàng hóa của Việt Nam trong trao đổi thương
mại với Mỹ luôn duy trì mức thặng dư lớn.
Cụ thể trong năm 2010, mức thặng dư hàng hóa của Việt Nam trong
buôn bán trao đổi thương mại với Mỹ đã vượt qua con số 10 tỷ USD, cao
gấp 26,5% so với năm trước. Đến năm 2012, nhờ kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam sang Mỹ cao gấp 4 lần so với kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của cả
22


nước từ thị trường này, mức xuất siêu của Việt Nam sang Mỹ đã lên tới 14,8
tỷ USD.
Biểu đồ 2.1: Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – Mỹ giai đoạn
năm 2007 – 2013 (tỷ USD)

(Nguồn: Tổng Cục Hải Quan, 2013)
* Ghi chú: từ năm 2008 trở về trước, nhập khẩu được thống kê theo
nước/vùng lãnh thổ gửi hàng, từ năm 2009 đến nay nhập khẩu được thống kê
theo nước/vùng lãnh thổ xuất xứ hàng hóa.
2.1.3. Đặc điểm thị trường dệt may Mỹ
Với dân số khoảng 350 triệu người, ít hơn các nước EU nhưng mức tiêu
thụ hàng dệt may gấp rưỡi EU (27kg/người/năm) nên tổng nhu cầu sử dụng
của thị trường này là rất lớn. Thêm nữa, Mỹ với đặc điểm là một hợp chủng
quốc nên nhu cầu tiêu dùng mang tính đa dạng phong phú. Nhu cầu lớn này
lại được đáp ứng bằng nhu cầu nhập khẩu nên đây được xem là một thị trường
tiềm năng lớn đối với mọi nhà sản xuất và xuất khẩu dệt may trên thế giới
cũng như các doanh nghiệp Việt Nam.


23


2.1.3.1. Thị hiếu tiêu dùng hàng dệt may ở Mỹ
Đối với mặt hàng dệt may, thị hiếu của người tiêu dùng Mỹ có những
đặc điểm sau:
- Có nhu cầu mua sắm định kỳ vào các dịp lễ hoặc cuối năm ở những
đợt bán giảm giá.
- Thích chủng loại đa dạng.
- Kiểu mẫu phù hợp thị hiếu thẩm Mỹ, thay đổi theo thời gian và khí
hậu.
- Sản phẩm độc đáo và nhạy bén với thời trang.
- Mặt hàng được tiêu thụ mạnh ở Mỹ là quần tây, bộ complet, áo Tshirt.
2.1.3.2. Tổ chức hệ thống phân phối hàng dệt may của Mỹ
Có thể chia các công ty kinh doanh bán lẻ hàng dệt may ở Mỹ thành 7
nhóm theo thứ tự giá cả mặt hàng từ cao đến thấp như sau:
- Công ty chuyên doanh (Special store) gồm hệ thống các cửa hàng
chuyên kinh doanh một nhóm sản phẩm dệt may có chất lượng cao, nhãn hiệu
nổi tiếng, giá bán một đơn vị sản phẩm có thể rất cao.
- Cửa hàng siêu thị (Departememt store) là hệ thống bán lẻ tổng hợp
hàng tiêu dùng, trong đó hàng quần áo và dụng cụ tiêu dùng gia đình là chủ
yếu.
- Công ty bán lẻ quốc gia (Chain store hoặc National Account) gồm các
cửa hàng chuyên bán hàng dệt may được tổ chức thành một mạng lưới rộng
khắp toàn quốc.
- Cửa hàng siêu thị bình dân (Discount store) được tổ chức tương tự
như cửa hàng siêu thị nhưng quy mô rất rộng và doanh số rất lớn vì bán hàng
theo giá đại chúng.
- Các công ty bán hàng giảm giá (Off-Price store) được tổ chức như cửa
hàng siêu thị bình dân nhưng giá bán hàng rẻ hơn rất nhiều.

24


- Công ty bán hàng qua bưu điện, tivi, catalogue (Mail order) là các
công ty tổ chức giới thiệu sản phẩm qua catalogue, tờ quảng cáo rời…nhận
đơn đặt hàng và giao hàng tận nhà qua đường bưu điện, điện thoại… đây là
hình thức bán hàng ngày càng phát triển tại Mỹ vì tính tiện lợi và nhanh
chóng của nó.
- Các cửa hàng bán lẻ khác thường bán hàng với giá rẻ chỉ bằng 1520% so với giá hàng bán ở các siêu thị, có các đặc điểm về nguồn hàng như
sau:
+ Hàng không có nhãn hiệu nổi tiếng.
+ Hàng được nhập thẳng từ các nguồn giá rẻ từ các nước thuộc Châu Á,
Nam Mỹ ở dạng không có bao bì và có thể được trang trí thêm tại Mỹ.
2.1.3.3. Các quy định về hệ thống rào cản kỹ thuật thương mại của Mỹ
áp dụng với hàng dệt may nhập khẩu.
a. Yêu cầu có tính rào cản liên quan đến trách nhiệm đối với xã hội.
Tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội (Social Accountability 8000 – SA
8000).
Hệ thống SA 8000 đề cập đến các vấn đề: Lao động trẻ em; Lao động
cưỡng bức; An toàn và sức khỏe tại nơi làm việc; Quyền tham gia các hiệp
hội của người lao động; Vấn đề phân biệt đối xử giữa những người lao động;
Kỷ luật lao động; Thời gian sử dụng lao động; Lương và các phúc lợi xã hội
cho người lao động; Quản lý doanh nghiệp, quan hệ cộng đồng bao gồm quan
hệ với cộng đồng khu vực, giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp khác hoặc
dân cư trong khu vực.
Việc đưa vào áp dụng SA 8000 sẽ mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho
các tổ chức mà cụ thể là: Lợi ích đứng trên quan điểm của khách hàng; Lợi
ích đứng trên quan điểm của nhà cung cấp.
Chương trình chứng nhận về trách nhiệm trong sản xuất hàng may
mặc trên quy mô toàn cầu (Chương trình chứng nhận WRAP – Worldwide

25


×